Tải bản đầy đủ (.docx) (41 trang)

Tiểu luận cao học triết CUỘC đấu TRANH GIỮA CHỦ NGHĨA DUY vật và CHỦ NGHĨA DUY tâm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.81 KB, 41 trang )

MỞ ĐẦU
Để tồn tại, loài người phải thích nghi với giới tự nhiên. Nhưng con người
không thích nghi với thế giới bên ngoài một cách thụ động mà luôn tìm cách biến
đổi thế giới đó theo những yêu cầu cuộc sống của mình. Muốn vậy, con người cần
hiểu biết thế giới xung quanh cũng như về chính bản thân mình. Thế giới quanh ta
là gì? Nó có bắt đầu và kết thúc hay không? Sức mạnh nào chi phối sự tồn tại và
biến đổi của nó? Con người là gì? Nó được sinh ra như thế nào? Quan hệ của nó
với thế giới bên ngoài ra sao? Nó có thể biết gì và làm gì với thế giới đó? Vì sao có
người tốt, kẻ xấu? Cuộc sống con người có ý nghĩa gì?... Những câu hỏi như vậy
được đặt ra với mức độ khác nhau đối với con người từ thời nguyên thủy cho đến
ngày nay và cả mai sau.
Toàn bộ những quan niệm về thế giới, về vị trí của con người trong thế giới
đó, về chính bản thân và cuộc sống của con người và loài người hợp thành thế giới
quan của một con người, một công đồng người trong mỗi thời đại nhất định.
Chính vì vậy triết học ra đời nhằm xây dựng thế giới quan cho con người để
giải đáp những quan niệm về thế giới, về vị trí của con người trong thế giới và về
chính bản thân, cuộc sống của con người. Triết học hiểu theo nghĩa chung nhất đó
là môn khoa học nghiên cứu những quy luật chung nhất của thế giới. Triết học ra
đời thời cổ đại và trải qua một quá trình lịch sử lâu dài, vì vầy lịch sử triết học là
một vấn đề quan trọng của triết học.
Tùy vào điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội của mỗi giai đoạn mỗi khu vực
mà thế giới quan triết học xây dựng cho con người lại có sự khác nhau thậm chí là
đối nghịch nhau. Khi nghiên cứu triết học nói chung và lịch sử triết học nói riêng
thì vấn đề cơ bản nhất của lịch sử triết học đó là cuộc đấu tranh giữ chủ nghĩa duy
vật và chủ nghĩa duy tâm.


Những người cho rằng vật chất, giới tự nhiên là cái có trước quyết định ý
thức của con người là những nhà duy vật, học thuyết cả họ hợp thành các môn phái
khác nhau của chủ nghĩa duy vật. Ngược lại, những người cho rằng ý thức, tinh
thần có trước giới tự nhiên được gọi là các nhà duy tâm, họ hợp thành các môn


phái khác nhau của chủ nghĩa duy tâm.
Được hình thành và phát triển qua nhiều hình thái khác nhau nhưng do khác
nhau về cơ bản nên chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm luôn đối đầu và đấu
tranh bản vệ quan điểm của mình và phủ nhận quan điểm của đối phương. Cuộc
đấu tranh ở mỗi giai đoạn có sự khác nhau với những hình thức khác nhau. Cuộc
đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm được coi là sợi chỉ đỏ
xuyên suốt chiều dài lịch sử triết học. Cuộc đấu tranh này cũng chính là sự phản
ánh cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội đã phân chia thành các giai cấp đối kháng.
Tính đến trước khi triết học Mác ra đời thì cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa
duy vật và chủ nghĩa duy tâm đã trải qua các giai đoạn: Cuộc đấu tranh giữa đường
lối Đêmôcrít và đường lối Platon trong triết học Hy Lạp cổ đại; Cuộc đấu tranh
giữa chủ nghĩa duy danh và chủ nghĩa duy thực thời kỳ trung cổ; Cuộc đấu tranh
giữa tư tưởng duy vật và triết học kinh viện thời kỳ Phục hưng; Cuộc đấu tranh
giữa chủ nghĩa duy vật Anh – Pháp và triết học kinh viện trong triết học cận đại;
Cuộc đấu tranh giữa triết học Phoiơbắc và triết học Hê ghen trong triết học cổ điển
Đức.


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CUỘC ĐẤU TRANH GIỮA
CHỦ NGHĨA DUY VẬT VÀ CHỦ NGHĨA DUY TÂM
TRONG LỊCH SỬ TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY TRƯỚC MÁC
1.1. Một số vấn đề lý luận về chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm
trước Mác
1.1.1. Nhận thức về chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trước Mác
Vấn đề mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại hay ý thức và vật chất được gọi là
vấn đề cơ bản hay vấn đề tối cao của triết học vì việc giải quyết vấn đề này là cơ sở
và điểm xuất phát để giải quyết các vấn đề khác của triết học.
Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt:

Mặt thứ nhất: Giữa vật chất và ý thức, cái nào có trước, cái nào có sau và cái
nào quyết định.
Mặt thứ hai: Ý thức của chúng ta có thể phản ánh trung thực thế giới khách
quan không? Nói cách khác, con người có khả năng nhận thức được thế giới hay
không?
Việc giải quyết mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học đã chia các nhà triết
học thành hai trường phái lớn. Những người cho rằng vật chất, giới tự nhiên là cái
có trước và quyết định ý thức của con người được gọi là các nhà duy vật; học
thuyết của họ hợp thành các môn phái khác nhau của chủ nghĩa duy vật. Ngược lại,
những người cho rằng ý thức, tinh thần có trước và giới tự nhiên được gọi là các
nhà duy tâm; họ hợp thành các môn phái khác nhau của chủ nghĩa duy tâm.
Chủ nghĩa duy vật đã xuất hiện từ thời cổ đại, khi triết học mới bắt đầu hình
thành. Từ đó đến nay lịch sử phát triển của chủ nghĩa duy vật luôn gắn liền với
khoa học và thực tiễn. Nó đã trải qua nhiều hình thức khác nhau, nhưng đều thống


nhất với nhau ở chỗ coi vật chất là cái có trước và quyết định ý thức, đều xuất phát
từ bản thân thế giới để giải thích thế giới.
Chủ nghĩa duy tâm cũng xuất hiện ngay từ thời cổ đại và cho rằng ý thức,
tinh thần là cái có trước sản sinh ra giới tự nhiên, do đó xét đến cùng đã thừa nhận
bằng cách này hay cách khác sự sáng tạo ra thế giới. Vì vậy, tôn giáo thường sử
dụng các học thuyết duy tâm làm cơ sở lý luận, luận chứng cho các quan điểm của
mình. Chủ nghĩa duy tâm là sản phẩm của tư duy lý tính dựa trên cơ sở tri thức và
lý trí của con người. Điều này cắt nghĩa vì sao có những học thuyết triết học duy
tâm nhưng lại có những đóng góp quan trọng với sự phát triển tư tưởng triết học
của nhân loại.
1.1.2. Các hình thái phát triển của chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy
tâm trước Mác
Chủ nghĩa duy vật trước Mác phát triển qua hai hình thức cơ bản là chủ
nghĩa duy vật chất pác, ngây thơ và chủ nghĩa duy vật máy móc, siêu hình. Ngoài

ra còn có một số hình thái nhỏ khác. Cụ thể như sau:
Chủ nghĩa duy vật chất phác, ngây thơ: là hình thái lịch sử đầu tiên của chủ
nghĩa duy vật xuất hiện từ thời cổ đại ở nhiều dân tộc trên thế giới, nhất là ở các
nước Ấn Độ, Trung Quốc và Hy Lạp. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật thời kỳ
này nói chung là cho rằng thế giới có nguồn gốc vật chất như từ các nguyên tố, các
hạt nguyên tử… nhưng đều mang tính ngây thơ, chất phác vì chủ yếu dựa trên các
quan sát trực tiếp, chưa dựa vào thành tự của các bộ phận khoa học chuyên ngành
vì các bộ môn khoa học chuyên ngành lúc đó chưa phát triển.
Chủ nghĩa duy vật là chủ nghĩa duy vật máy móc: là hình thái lịch sử thứ hai
của chủ nghĩa duy vật xuất hiện từ thế kỷ XVII – XVIII. Đây là thời kỳ phát triển
rực rỡ của cơ học khiến cho quan điểm xem xét thế giới thiêu kiểu máy móc chiếm
địa vị thống trị và tác động mạnh mẽ đến các nhà duy vật. Những nhà duy vật máy
móc xem xét giới tự nhiên và con người chỉ như hệ thống máy móc phức tạp khác


nhau. Đồng thời chỉ thấy sự vật trong trạng thái biệt lập, ngưng đọng, không vận
động, không phát triển.
Ngoài hai hình thái cơ bản trên, trong lịch sử phát triển của chủ nghĩa duy
vật còn phải kể đến một vài dạng khác nữa như: Chủ nghĩa duy vật tầm thường
không thấy sự khác biệt giữa vật chất và ý thức, xem ý thức cũng là một dạng vật
chất, coi tư tưởng đối với óc gần giống như mật đối với gan hay nước tiểu đối với
thận; Chủ nghĩa duy vật kinh tế coi kinh tế là cái quyết định duy nhất sự phát triển
xã hội, trong khi đó thực ra kinh tế chỉ quyết định sự phát triển của xã hội khi xét
đến cùng và cũng không phải là nhân tố quyết định duy nhất.
Chủ nghĩa duy tâm tồn tại dưới hai dạng chủ yếu là chủ nghĩa duy tâm khách
quan và chủ nghĩa duy tâm chủ quan. Tuy có sự khác nhau trong quan điểm cụ thể
về cái có trước và về sự có trước, nhưng cả hai dạng đều thống nhất với nhau ở chỗ
coi ý thức, tinh thần là cái có trước, là cái sản sinh ra vật chất và quyết định vật
chất. Cụ thể như sau:
Chủ nghĩa duy tâm chủ quan: cho rằng có một thực thể tinh thần không

những tồn tại trước, tồn tại ở bên ngoài, độc lập với con người và với thế giới vật
chất mà còn sản sinh ra và quyết định tất cả các quá trình của thế giới vật chất.
Chủ nghĩa duy tâm chủ quan: lại cho rằng cảm giá, ý thức là cái có trước và
tồn tại sẵn trong con người, trong chủ thể nhận thức, còn các sự vật bên ngoài chỉ
là phức hợp của các cảm giác ấy mà thội.
1.2. Lịch sử triết học phương Tây trước Mác
1.2.1. Triết học Hy Lạp - La Mã cổ đại
Điều kiện ra đời triết học Hy Lạp - La Mã cổ đại
Triết học Hy Lạp hình thành vào khoảng thế kỷ thứ VI trước công nguyên
dựa trên cơ sở kinh tế là quyền sở hữu của chủ nô đối với tư liệu sản xuất và người
nô lệ. Xã hội có sự phân chia giai cấp, có sự phân công lao động trí óc và lao động


chân tay dẫn đến việc hình thành một bộ phận các tri thức triết học và khoa học,
phá vỡ ý thức thần thoại và tôn giáo nguyên thủy.
Những nhu cầu thực tiễn của nền sản xuất thủ công nghiệp, nông nghiệp,
thương nghiệp, hằng hải ở đây đã quyết định sự hình thành và phát triển những tri
thức về khoa học thiên văn, toán học, khí tượng, vật lý. Do thời kỳ này khoa học
chưa phân nghành, cho nên các tri thức khoa học trên được trình bày trong các hệ
thống triết học, triết học gắn liền với thực tiễn khoa học.
Vị trí địa lý thuận lợi, giao lưu mật thiết với các nền văn hóa Ai Cập, Lưỡng
Hà cổ đại nên sự phát triển của triết học Hy Lạp cổ đại có liên quan chặt chẽ và
chịu ảnh hưởng của tư tưởng triết học phương Đông cổ đại.
Đặc điểm của triết học Hy Lạp - La Mã cổ đại:
Thứ nhất: Khoa học tự nhiên và và triết học gắn bó chặt chẽ với nhau, các
nhà khoa học tự nhiên đồng thời là các nhà triết học. Các khái quát triết học thường
tập trung hướng về các vấn đề tự nhiên.
Thứ hai: Triết học Hy Lạp cổ đại còn ở trình độ trực quan, chất phác, đặc
biệt với các hệ thống triết học duy vật biện chứng. Tuy nhiên nó đã đặt ra hầu hết
các vấn đề căn bản của triết học, bao chứa tất cả thế giới quan về sau.

Thứ ba: sự phân chia và đối lập giữa các trường phái triết học duy vật và duy
tâm, biện chứng và diêu hình, vô thần và hữu thần là nét nổi bật của quá trình phát
sinh triết học Hy Lạp cổ đại.
1.2.2. Triết học Tây Âu thời kỳ trung cổ
Điều kiện ra đời triết học Tây Âu thời kỳ trung cổ:
Từ thế kỷ thứ II, ở Tây Âu có sự tan rã của chế độ nô lệ, chế độ phong kiến
từng bước hình thành. Từ thế kỷ IV - XIV được xem là thời kỳ trung cổ và là thời
kỳ xuất hiện và phát triển của phương thức sản xuất phong kiến.
Song hành với hình thức sản xuất phong kiến là quá trình hình thành những
giai cấp cơ bản trong xã hội: chúa đất và nông nô. Sự hinh thành những điền trang,


thái ấp phong kiến ở các quốc gia phong kiến Tây Âu đã tạo ra chế độ phong kiến
cát cứ phân quyền.
Về mặt tinh thần, thời kỳ trung cổ Tây Âu cũng là thời kỳ thống trị của tôn
giáo và nhà thờ. Nhà thờ và tu viện đồng thời là những tên đại địa chủ, chiếm hữu
nhiều ruộng đất. Nhà thờ còn nắm trong tay quyền lực chính trị, luật pháp… nhằm
thống trị giai cấp nông dân hết sức đông đảo nhưng "tối tăm về trí tuệ" và thống
nhất hoạt động của các vương quốc.
đặc điểm triết học Tây Âu thời trung cổ:
Thứ nhất: tồn tại triết học kinh viện và triết học kinh viện giữ vai trò quan
trọng, chủ đạo. Đây là triết học thuần túy sách vở, tách rời cuộc sống, xa rời thực
tiễn với nội dung là đi giải thích kinh thánh chứng minh cho các tín đồ tôn giáo.
Thứ hai: Trong triết học hình thành mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng
lẻ. Xuất hiện hai xu hướng: duy thực cho rằng không có sự vât riêng lẻ chỉ có cái
chung, có cái chung rồi mới có cái riêng lẻ; duy danh cho rằng chỉ có cái riêng lẻ,
cái chung chỉ do người ta thỏa hiệp mà thành.
Thứ ba: trục trung tâm của triết học trung cổ là mối quan hệ giữa đức tin và
lí tính được thể hiện thông qua mối quan hệ giữa khoa học và tri thức với tôn giáo
và niềm tin.

1.2.3. Triết học Tây Âu thời kỳ Phục hưng
Điều kiện ra đời của triết học Tây Âu thời Phục hưng:
Về mặt kinh tế - xã hội là thời kỳ quá độ từ xã hội phong kiến sang xã hội tư
bản. Lúc này, sự phát triển của khoa học đã dần dần thoát ly khỏi thần học và tôn
giáo thời kỳ trung cổ, bước lên con đường phát triển độc lập. Sự phát triển của
khoa học kỹ thuật đã trở thành vũ khí mạnh mẽ chống thế giới quan duy tâm tôn
giáo.


Giai cấp tư sản mới hình thành đang giữu vai trò tích cực thúc đẩy tiến bộ xã
hội, có nhu cầu phát triển khoa học tự nhiên để tạo cơ sở cho sự phát triển khoa
học kỹ thuật và sản xuất.
Đặc điểm triết học Tây Âu thời kỳ Phục hưng
Thứ nhất: triết học Tây Âu thời kỳ phụ hưng là vũ khí lí luận của giai cấp tư
sản trong cuộc đấu tranh chống phong kiến và giáo hội. Áp dụng các tri thức khoa
học tự nhiên để bác bỏ luận điểm hoang đường phi lí của triết học kinh viện.
Thứ hai: tư tưởng của các nhà triết học duy vật thời kì Phục hưng có tính hai
mặt. Bên cạnh những yếu tố tiến bộ thì trong hệ thống triết học của họ vẫn chứ
nhiều yếu tố duy tâm, có tư tưởng thỏa hiệp và luẩn quẩn với hình thức “phiếm
thần luận” hay “tự nhiên thần luận”
Thứ ba: Triết học thời kì Phục hưng gắn liền với vấn đề nâng cao giá trị,
khát vọng giải phóng con người. Con người của thời kì Phục hưng là thước đo với
vẻ đẹp cường tráng của thân thể, sự tinh anh của trí tuệ và khát vọng cháy bỏng về
tự do.
Thứ tư: triết học Tây Âu thời kỳ Phục hưng là những tư tưởng xã hội thấm
nhuần chủ nghĩa nhân văn, mơ ước một cuộc sống tốt đẹp cho người lao động, một
xã hội bình đẳn không có chế độ tư hữu.
1.2.4. Triết học Tây Âu cận đại
Điều kiện ra đời triết học Tây Âu cận đại
Từ cuối thế kỉ XVI đến thế kỉ XVII, sự phát triển của lực lượng sản xuất làm

cho quan hệ sản xuất phong kiến trở nên lỗi thời, mâu thuẫn giữa lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất trở nên gay gắt. Điều này làm cho những cuộc cách mạng
tư sản bắt đầu diễn ra.
Khoa học kỹ thuật phát triển mạnh do nhu cầu của sự phát triển sản xuất.
Điều này làm tiền đề cho sự phát triển tực rỡ của triết học với khuynh hướng duy
vật chiếm vai trò chủ đạo, phát triển trong mối liên hệ với khoa học tự nhiên.


Đặc điển triết học Tây Âu cận đại
Thứ nhất: triết học thế kỉ XVII – XVIII là sự nối tiếp của triết học thời kỳ
Phục hưng, tiếp tục là ngọn cờ của giai cấp tư sản trong cuộc đấu trnah để thiết lập
trật tự tư bản chủ nghĩa và giải phóng con người.
Thứ hai: triết học phương Tây cận đại phát triển trong điều kiện gắn bó chặt
chẽ với khoa học, dựa trên các phát minh khoa học. Quan điểm về tự nhiên, về vai
trò cảu con người gián triếp hay trực tiếp đều xuất phát từ nhận định khoa học.
Thứ ba: triết học duy vật thế kỉ XVII – XVIII chị ảnh hưởng nặng nề sự
thống trị của phương pháp siêu hình. Xem xét trong trạng thái chia cắt, không thấy
được mối liên hệ, máy móc khi xét đoán các hiện tượng, các biến đổi lịch sử.
Thứ tư: triết học duy vật thế kỉ XVII – XVIII là triết học duy vật không triệt
để. Duy vật trong các hiện tượng tự nhiên nhưng duy tâm khi giải quyết các vấn đề
xã hội.
Thứ năm: triết học Tây Âu cận đại đặc biệt quan tâm đến những vấn đề nhậ
thức luận và phương pháp luận. Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính, phương
pháp diễn dịch và quy nạp.
1.2.5. Triết học cổ điển Đức
Điều kiện ra đời triết học cổ điển Đức
Nước Đức cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX vẫn còn là một nước quân chủ
phong kiến với tình trạng cát cứ phân quyền, lạc hậu về kinh tế và chính trị. Trong
khi đó ở nước Anh cuộc cách mạng công nghiệp, ở nước Pháp cuộc cách mạng tư
sản đã nổ ra. Giai cấp chúa đất phong kiến Đức vốn đã phản động, thấy tình hình

cách mạng châu Âu lại càng trở nên phản động hơn.
Chính thực tại của nước Đức và tấm gương của các nước Tây Âu đã thức
tỉnh tinh thần phản kháng cách mạng của giai cấp tư sản Đức, nhưng giai cấp này
tách rời nhau, nhỏ bé về số lượng, yếu kém về kinh tế và chính trị, họ vừa muốn
làm cách mạng vừa muốn thỏa hiệp với tầng lớp phong kiến quý tộc Phổ đang


thống trị thời đó, giữ lập trường cải lương trong việc giải quyết những vấn đề phát
triển đất nước.
Triết học cổ điển Đức ra đời và phát triển trong những điều kiện của chế độ
chuyên chế nhà nước Phổ và nó là sự bảo vệ về mặt tư tưởng của chế độ đó. Chính
điều này đã quy định nét đặc thù của triết học cổ điển Đức: Nội dung cách mạng
dưới một hình thức duy tâm, bảo thủ; đề cao vai trò tích cực của tư duy con người,
coi con người là một thực thể hoạt động, là nền tảng và điển xuất phát của mọi vấn
đề triết học
Đặc điểm của triết học cổ điển Đức
Thứ nhất: Triết học cổ điển Đức là thế giới quan và ý thức hệ của giai cấp tư
sản Đức cuối thế kỷ XVIII, nữa đầu thế kỷ XIX, thể hiện nguyện vọng đấu tranh
cho một trật tự xã hội mới nhưng mâu thuẫn với sự bảo thủ, cải lương về lập
trường chính trị - xã hội.
Thứ hai: Triết học cổ điển Đức đặc biệt đề cao vai trò vị trí tích cực của con
người, của hoạt động con người, coi con người là nền tảng và điểm xuất phát của
mọi vấn đề triết học.
Thứ ba: Triết học cổ điển Đức tiếp thu những tư tưởng biện chứng trong các
di sản triết học truyền thống, mặt khác, thành tự trong các khoa học tư nhiên gợi ý
về sự vận động, phát triển của thế giới, sự liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng…
Thứ tư: Triết học cổ điển Đức có tham vọng hệ thống hóa toàn bộ tri thức và
thành tự của nhân loại để xây dựng một hệ thống triết học vạn năng, làm nền tảng
cho toàn bộ thế giới quan, khôi phục lại quan niệm coi triết học là khoa học của các
khoa học.



CHƯƠNG 2
NỘI DUNG CUỘC ĐẤU TRANH GIỮA
CHỦ NGHĨA DUY VẬT VÀ CHỦ NGHĨA DUY TÂM TRONG
LỊCH SỬ TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY TRƯỚC MÁC
2.1. Cuộc đấu tranh giữa đường lối Đêmôcrít và đường lối Platon trong
triết học Hy Lạp cổ đại
Đêmôcrít (460 – 370 tr.CN) sinh trưởng trong một gia đình chủ nô dân chủ ở
Hy Lạp. Ông am hiểu toán học, vật lý học, sinh vật học cũng như mỹ học, ngôn
ngữ học và âm nhạc... Đêmôcrít là đại biểu xuất sắc của chủ nghĩa duy vật cổ đại.
Thuyết nguyên tử là cống hiến nổi bật của ông đối với chủ nghĩa duy vật. Ngoài ra
ông còn có nhiều đóng góp quý giá về lý luận nhận thức. Triết học của ông thể hiện
tinh thần của giới chủ nô dân chủ có tư tưởng cấp tiến trong triết học Hy Lạp cổ
đại.
Platôn (427 – 347 tr.CN) xuất thân trong một gia đình chủ nô quý tộc ở Aten,
là một trong những nhà triết học, nhà tư tưởng kiệt xuất nhất thời cổ đại, người có
ảnh hưởng to lớn đến tiến trình phát triển tư tưởng, tới văn hóa tinh thần của nhân
loại. Triết học của ông mang mầu sắc duy tâm thần bí bảo vệ giới chủ nô quý tộc.
Cuộc đấu tranh giữa đường lối triết học duy vật vô thần của Đêmôcít với
đường lối duy tâm khách quan của Platôn là sự phản ánh cuộc đấu tranh kiên quyết
giữa tầng lớp chủ nô dân chủ tiến bộ mà Đêmôcrít là người đại diện với tầng lớp
chủ nô quý tộc, phản dân chủ mà Platôn là người đại diện. Đêmôcít ca ngợi chế độ
dân chủ chủ nô, bảo vệ tự do, tình thân ái và lợi ích của công dân. Còn Platôn lại
bảo vệ chế độ quân chủ chủ nô, bảo vệ lợi ích của tầng lớp quý tộc, chống lại dân
chủ.
Cuộc đấu tranh giữa hai đường lối triết học duy vật của Đêmôcrít với đường
lối triết học duy tâm thần bí của Platôn là cuộc đấu tranh điển hình trong lịch sử



triết học, thể hiện ở nhiều lĩnh vực khác nhau như: bản thể luận, nhận thức luận,
lôgic học, đạo đức học và chính trị - xã hội.
2.1.1. Về bản thể luận
Quan niệm về thế giới
Đêmôcrít kiên định lập trường duy vật vô thần. Ông cho rằng, cội nguồn của
thế giới là nguyên tử , là vật chất. Ông đã phát triển thuyết nguyên tử của Lơxíp –
người thầy của ông – lên trình độ mới.
- Nguyên tử là hạt vật chất cực nhỏ, không phân chia được, không nhìn thấy
được, không màu, không mùi, không vị, không âm thanh và tồn tại vĩnh viễn.
- Các nguyên tử đồng nhất về chất, chỉ khác nhau về lượng, hình thức (cấu
tạo), về tư thế (xoay trở) và về trật tự (kế tiếp).
- Sự hình thành, tan rã và sự khác nhau của các sự vật, hiện tượng là do sự
kết hợp hay tách ra của các nguyên tử theo những cách thức khác nhau và phụ
thuộc vào sự khác nhau của các nguyên tử.
Trong quan niệm về vũ trụ của ông cũng không có chỗ cho thần thánh.
Trong đó chỉ có những nguyên tử vận động theo những cơn lốc xoáy. Các nguyên
tử cùng loại cố kết với nhau làm thành những vòng lớp nguyên tử, càng nặng càng
ở gần tâm, càng nhẹ càng ở xa tâm. Đất, nước, lửa, không khí là những vòng ở
trung tâm cơn lốc. Từ đó hình thành các hành tinh và trái đất.
Platôn đứng trên lập trường duy tâm thần bí, Ông khẳng định rằng, bản
nguyên của thế giới là “thế giới ý niệm”, mà ông gọi là “những ý tưởng có trước”,
một thế giới trừu tượng, bất biến, tĩnh tại, đông lạnh, không có sự sống. Chỉ có
chúng mới tồn tại chân thực.
Linh hồn là do thánh tạo ra, có động cơ và mục đích rõ ràng. Động cơ và
mục đích đã khuyến khích các ý niệm vận động rồi in dấu ấn vào “không tồn tại”,
“hư vô” – cái mà ông gọi là “vật chất” – theo những “tương quan toán học”, những


“hòa điệu” khác nhau mà sinh ra giới tự nhiên – “thế giới các sự vật cảm tính”
muôn hình, muôn vẻ, xấu, đẹp khác nhau.

Thế giới thứ hai, theo Platôn, thế giới các sự vật cảm tính chỉ là sản phẩm
của “thế giới ý niệm”, chỉ là “cái bóng” của chúng nên nó là “tồn tại không chân
thực”. Vì mọi cái trong nó luôn biến đổi, có sinh ra, có mất đi, nó chỉ là cái bóng
của thế giới ý niệm, do thế giới ý niệm quyết định. Ý niệm của Platôn như là khuôn
mẫu để thế giới các sự vật cảm tính mô phỏng theo.
Ông cho rằng vũ trụ này có hai thế giới là thế giới ý niệm và thế giới của các
sự vật cảm tính (hay cảm biết được bằng giác quan).
Quan niệm về sự sống và con người
Đêmôcrít cho rằng: Sự sống và con người, theo ông, là kết quả tất yếu của tự
nhiên phát triển từ thấp đến cao: từ sự vật tới sinh vật, từ sinh vật tới con người.
Con người có linh hồn, còn sự vật không có linh hồn. Linh hồn của con người
được cấu tạo từ những nguyên tử hình cầu, giống như nguyên tử lửa vận động với
tốc độ lớn. Linh hồn mất đi cùng với sự chết của con người. Như vậy ông đã bác
bỏ thuyết linh hồn bất tử của tôn giáo, chủ nghĩa duy tâm khách quan của Platôn.
Platôn đưa ra thuyết linh hồn bất tử. Cơ thể con người do nước, lửa, không
khí và đất tạo ra, còn linh hồn do thần thánh ban nên bất tử. Nô lệ, theo ông không
phải là con người, chỉ là công cụ biết nói, không có linh hồn. Tuy trong học thuyết
của Platôn chứa đựng ít nhiều yếu tố biện chứng chủ quan, nhưng toàn bộ học
thuyết của ông vẫn là hệ thống duy tâm khách quan, thần bí, phản khoa học, phản
tiến bộ.
Quan niệm về vận động
Tuy Đêmôcrít chưa tìm ra nguyên nhân của sự vận động và ông còn tách
không gian ra khỏi sự vật, nhưng ông đã cố gắng giải thích sự vận động gắn với vật
chất, vận động có động cơ tự thân của nguyên tử, còn không kian là điều kiện của


vận động. Kết luận của ông cho rằng thế giới là sự thống nhất giữa tồn tại của
nguyên tử với không tồn tại là một kết luận duy vật.
Dựa trên sự vận động của nguyên tử, Đêmôcrít đã khái quát được quy luật
nhân quả. Ông nói rằng: “tìm được cách giải thích hiện tượng theo nguyên nhân

của nó còn thích hơn chiếm được ngôi vua Ba tư”. Nhược điểm của ông là phủ
nhận tính ngẫu nhiên. Theo ông mọi cái đều là tất yếu, đều được quyết định sẵn
theo nguyên nhân của nó. Đó là bản chất quyết định luận mang màu sắc “định
mệnh” của ông.
Platôn đi tìm nguyên nhân của sự vận động ở lực lượng tinh thần, ở “thần
tình ái”, ở linh hồn: linh hồn thế giới làm cho vũ trụ vận động, còn linh hồn riêng
biệt làm cho sự vật vận động. Platôn đưa ra thuyết mục đích luận, cho rằng mọi sự
vật được tạo ra phụ thuộc vào mục đích của thần thánh.
2.1.2. Về nhận thức luận
Nếu Platôn vẫn đứng trên quan điểm duy tâm thì Đêmôcrít lại phát triển
nhận thức luận duy vật.
Đối tượng, mục tiêu của nhận thức:
Theo Đêmôcrít: đối tượng nhận thức là giới tự nhiên, mục tiêu của nhận thức
là đạt tới bản chất của sự vật.
Theo Platôn: đối tượng và mục tiêu của nhận thức là “thế giới ý niệm”.
Mối quan hệ giữa hai giai đoạn của quá trình nhận thức (cảm tính và lý
tính):
Theo Đêmôcrít, trình độ nhận thức cảm tính (mờ tối) tuy chỉ theo “dư luận”
nhưng là cơ sở của trình độ nhận thức lý tính (nhận thức chân thực) qua các
“Iđôlơ” là hình tượng của sự vật được cảm giác. Nó cung cấp tài liệu để lý tính
nhận thức chân lý.
Theo Platôn, tuyệt đối hóa nhận thức lý tính. Ông cho rằng, nhận thức cảm
tính chỉ là những “tưởng tượng”, những “kiến giải” về “cái bóng của ý niệm” nên


nó không chân thực. Chỉ có lý tính ở trình động “trực giác trí tuệ” mới thấy được
“ý niệm”, đó mới là chân thực. “Trực giác trí tuệ” chính là quá trình hồi tưởng của
linh hồn. Linh hồn nhớ lại những gì nó đã thấy rõ khi tồn tại ở “thế giới ý niệm”,
cái mà nó đã quên đi khi gia nhập vào thể xác con người. Để hồi tưởng tốt, phải
đoạn tuyệt với thế giới cảm tính bằng cách nhắm mắt, bịt tai và bằng phương pháp

biện chứng (đialéctíc). Chỉ có những người có linh hồn ưu tú mới thực hiện
được. Đialéctíc là phương pháp đàm thoại trực tiếp (đặt ra và trả lời các câu hỏi)
nhằm phát hiện ra mâu thuẫn của đối phương trên cơ sở đối chiếu những khái niệm
đối lập nhau. Phương pháp đàm thoại của Platôn tuy có một số yếu tố biện chứng,
nhưng nó là phương pháp biện chứng duy tâm, nó tách rời khỏi sự vật, chỉ hoàn
toàn sử dụng khái niệm với tư duy tư biện.
2.1.3. Về các vấn đề khác
Về lôgic học:
Hai ông đều có công phát triển lôgic học, nhưng trong đó có sự đối lập về
quan điểm rất rõ.
Đêmôcrít: coi lôgic là công cụ của nhận thức, nhấn mạnh phương pháp quy
nạp nhằm vạch ra bản chất của giới tự nhiên.
Platôn: xem xét lôgic xen kẽ với phép biện chứng duy tâm nhằm đạt tới “ý
niệm”, coi trọng phương pháp diễn dịch.
Về chính trị - xã hội
Đêmôcrít là nhà triết học bảo vệ chế độ chiếm hữu nô lệ, nhưng đứng trên
lập trường của chủ nô dân chủ, có tiến bộ, chẳng hạn, ông đòi hỏi phải có luật
thành văn để quản lý xã hội. Ông kêu gọi các chủ nô phải đối xử với các nô lệ như
các bộ phận trên cơ thể con người. Ông cũng đã phỏng đoán được nhu cầu là động
lực phát triển của xã hội, tuy nhiên, luận điểm này chưa được ông phát triển đầy
đủ. Ông là người vô thần, cho rằng thần thánh là do nỗi sợ hãi của con người tạo
ra. Ông cho rằng, trong xã hội, con người phải biết sống vừa đủ, đúng mực, phải


biết tu dưỡng để tâm linh trở nên thuần khiết, hành động được như vậy là có đạo
đức. Ông đề cao tự do, cho rằng nghèo mà có tự do còn hơn giàu có mà không có
tự do.
Tóm lại, những tư tưởng của ông về chính trị - xã hội là tiến bộ, duy vật so
với các nhà tư tưởng đương thời. Nhìn chung triết học của ông đã góp phần không
nhỏ vào cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo.

Platôn đứng trên lập trường của phái chủ nô quý tộc bảo vệ chế độ nô lệ
bằng mọi giá. Chẳng hạn, ông đề xuất nhiều ý tưởng như: Thông qua một bộ luật
cho nô lệ ăn no hơn và bắt phải lao động nhiều hơn. Chủ nô nào thấy nô lệ ốm,
chữa cho nô lệ khỏi mà đem bán thì bị phạt gấp nhiều lần. Platôn kiên quyết chống
lại nền dân chủ Aten và chống lại các nhà triết học duy vật vô thần. Do thất bại
trong hiện thực chính trị, ông đã đề ra biện pháp là xây dựng một nhà nước mang
tính không tưởng, nhà nước mà ở đó có nhiều tính chất mang tính quân phiệt.
Chẳng hạn như: ông đòi xóa bỏ sở hữu gia đình; trẻ em khi sinh ra phải đưa vào
các trường công để từ đó lựa chọn ra các nhà triết học, thông thái, các vệ binh,
những con người phục thuộc vào nhà nước, phải phục vụ nhà nước. Trong nhà
nước không tưởng này theo ông có ba lớp người: 1) Các nhà triết học, nhà thông
thái làm nhiệm vụ quản lý, điều hành xã hội; 2) Các vệ binh làm công tác chiến
tranh; 3) Những người lao động chân tay. Nô lệ không được coi là người nên
không thuộc lớp người nào. Như vậy, quan điểm về chính trị - xã hội của Platôn
vừa mang tính duy tâm, vừa bảo thủ và phản tiến bộ.
Về đạo đức học:
Đêmôcrít: hướng đạo đức vào đời sống hiện thực. Hạt nhân của nó là lương
tâm trong sáng, tinh thần lành mạnh của từng cá nhân. Tư tưởng về đời sống kinh
tế - xã hội là cơ sở của đời sống đạo đức. Đây là những tư tưởng có giá trị của ông.
Một người có đạo đức, theo ông, là một người sống đúng mực, không gây hại cho
người khác.


Platôn: hướng đạo đức vào đời sống của thế giới ý niệm, trong sự tha hóa
của nó thành thiện và ác, thành sự thông thái và sự dũng cảm. Ông cho rằng, chỉ có
tầng lớp các nhà triết học và quý tộc mới đạt đạo đức thanh cao. Còn đạo đức của
thường dân chỉ là sự kìm chế dục vọng thấp hèn. Nô lệ không có đạo đức. Như vậy,
đạo đức học của Platôn là thứ đạo đức duy tâm, tôn giáo, phân biệt đẳng cấp, hoàn
toàn đối lập với đạo đức tiến bộ của Đêmôcrít.
2.2. Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy danh và chủ nghĩa duy thực

thời kỳ trung cổ
Một trong những mối bận tâm của các nhà thần học và triết học thời trung cổ
là sự bất đồng giữa thuyết duy thực và thuyết duy danh được lịch sử biết đến là
cuộc tranh cãi về những cái phổ biến. Cuộc đấu tranh giữa hai quan điểm này đã
xuyên suốt toàn bộ lịch sử triết học trung cổ.
Thuyết duy thực và duy danh liên quan đến nhận thức luận. Cả hai lập
trường đề gắn chặt với quan niệm về những cái phổ biến. Nhìn chung, trong những
năm 1200 - 1350 là thời kỳ phát triển của thuyết duy thực, những năm 1350 - 1500
là thời kỳ thuyết duy danh thống trị.
Thuyết duy thực là quan điểm cho rằng những cái phổ biến tồn tại bên ngoài
tưu tưởng và sự vật cụ thể trong thế giơi chúng ta. Thuyết duy thực được chia
thành: thuyết duy thực cực đoan, cho rằng nhưng cái phổ biến tồn tại độc lập với cả
tư duy của con người và sự vật cụ thể; thuyết duy thực ôn hòa, cho rằng những cái
phổ biến chỉ tồn tại trong tri tuệ của Thượng đế như là những kiểu mẫu qua đó
Ngài sáng tạo ra sự vật cụ thể.
Thuyết duy danh khẳng định rằng thực tại chỉ có trong những sự vật riêng
biệt. Cái phổ biến vì thế không có sự tồn tại thực sự tách rời sự vật, chúng chỉ là
những cái tên. Những cái phổ biến có nguồn gốc từ việc người ta quan sát những
sự vật cá biệt, và cá khái niện về giống, loài chỉ đơn thuần là những sự trừ tượng.
Sự giống nhau giữ hai cái riêng không nhất thiết phải có một thuộc tính chung.


Những khái niệm phổ biến được một người nào đó hình thành trong đầu óc của
mình có lẽ chỉ phản ánh những mục đích riêng của cá nhân, chứ không phải phản
ánh tính chất của hiện thực.
2.2.1. Giai đoạn đầu của chủ nghĩa kinh viện (từ thế kỷ IX đến thế kỷ XII)
Thể hiện qua cuộc đấu tranh giữa hai triết gia theo hai trường phái duy thực
Giăngxicôt Ơrigiennơ và duy danh Pie Abơla
Quan niệm về mối quan hệ giữa lý trí và niềm tin tôn giáo
Ơrigiennơ thể hiện rõ quan niệm duy tâm thần học. Tuy cho rằng lý trí và

lòng tin hoàn toàn dung hợp với nhau, phủ nhận lý trí để đề cao tôn giáo hoặc phủ
nhận tôn giáo để đề cao lý trí đều nguy hiểm cho nhà thờ, song mục đích cuối cùng
vẫn là củng cố lòng tin của tôn giáo, đề cao uy tín của nhà thờ.
Abơla đề cao vai trò của lý trí. Cho rằng lòng tin phụ thuộc một cách rõ rệt
vào những cơ sở của lý trí, chính lý trí là tiêu chuẩn và là sự đảm bảo cho tính chân
lý của lòng tin tôn giáo; phê phán nhiều đại biểu của nhà thờ và chỉ ra tính chất
không chuẩn xác của các học thuyết thần học.
Quan niệm về mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng
Ơrigiennơ cho rằng cái chung có trước cái riêng và là cơ sở của cái riêng; cái
chung là cái bản chất của sự vật vì các sự vật đều bắt nguồn từ cái chung và cái
chung chứa đựng các sự vật bên trong. Mục đích là chứng minh cho sự tồn tại và
vai trò tối cao của Thượng đế đối với đời sống của con người và giới tự nhiên.
Abơla khẳng định khái niệm chung không tồn tại bên ngoài các sự vật cụ
thể, không có đời sống độc lập, nhưng nó cũng không tồn tại trong bản thân các sự
vật; ý nghĩa của khái niệm chung không nằm trong bản thân từ ngữ chỉ khái niệm
mà nằm trong ý nghĩa của từ ngữ. Có phần nào xa lìa tín điều chính thống của nhà
thờ.
2.2.2. Giai đoạn hưng thịnh của chủ nghĩa kinh viện (thế kỷ XIII)


Thể hiện qua cuộc đấu tranh giữa phái duy thực của Tômát Đacanh và duy
danh của Đơn Xcốt
Quan niệm về mối quan hệ giữa lý trí và niềm tin tôn giáo
Tômát Đacanh tuy phân định rõ ranh giới nhưng không đối lập giữa triết học
và thần học, giữa lý trí và lòng tin. Ông cho rằng, đối tượng của triết học là nghiên
cứu “chân lý của lý trí”, đối tượng của thần học là nghiên cứu “chân lý của lòng tin
tôn giáo”. Thượng đế là khách thể cuối cùng của cả triết học và thần học, là nguồn
gốc của mọi chân lý. Do đó, giữa triết học và thần học không mâu thuẫn; trong đó,
triết học thấp hơn thần học và phụ thuộc vào thần học, giống như lý trí của con
người thấp hơn lý trí của “Thần”. Như vậy là lý trí của con người thấp hơn niềm tin

tôn giáo.
Đơn Xcốt cho rằng, đối tượng của thần học là nghiên cứu Thượng đế, đối
tượng của triết học (siêu hình học) là tồn tại (hiện thực khách quan - vật chất - giới
tự nhiên). Với quan niệm này, Đơn Xcốt có ý tưởng cắt đứt mối liên hệ giữa triết
học và thần học, muốn giải phóng triết học khỏi ách áp bức của Giáo hội. Tuy
nhiên, ông vẫn đề cao vai trò của lòng tin nhưng cũng không hạ thấp quá đáng vai
trò của lý trí khi cho rằng, lý trí chỉ nhận thức được ở tồn tại những gì mà nó không
thể tách khỏi các tài liệu cảm tính, cho nên con người không thể có được một khái
niệm nào về bản chất phi vật chất như Chúa trời, Thượng đế.
Quan niệm về mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng
Khi giải quyết vấn đề bản chất của cái chung, Tômát đã đứng trên lập trường
của nhà duy thực ôn hoà (phần nào dung hoà với chủ nghĩa duy danh để có lợi cho
tôn giáo). Ông cho rằng, cái chung tồn tại trên ba phương diện: Một là, nó tồn tại
trước sự vật trong trí tuệ của Thượng đế như là mẫu mực lý tưởng của các sự vật
riêng lẻ. Hai là, cái chung được tìm thấy trong các sự vật, cái chung chỉ tồn tại
khách quan khi nó chứa đựng các sự vật riêng lẻ. Ba là, cái chung được tạo ra sau
khi các sự vật trong trí tuệ con người bằng con đường trừu tượng hoá tách ra khỏi


các sự vật riêng lẻ. Xét đến cùng, quan niệm trên hoàn toàn thiên về chủ nghĩa duy
tâm. Mục đích là chứng minh cho sự tồn tại và vai trò tối cao của Thượng đế.
Là nhà duy danh luận, Đơn Xcốt cho rằng cái chung không chỉ là sản phẩm
của lý trí, nó có cơ sở trong bản thân các sự vật. Cái chung vừa tồn tại trong các sự
vật với tính cách là bản chất của chúng, vừa tồn tại sau sự vật với tính cách là
những khái niệm được con người trừu tượng hoá khỏi bản chất của sự vật. Xét đến
cùng, quan điểm trên của Đơn Xcốt tuy là sự hạn chế lớn của chủ nghĩa duy linh
nhưng cũng chưa hẳn là nghiêng về chủ nghĩa duy vật.
2.2.3. Giai đoạn suy thoái của chủ nghĩa kinh viện (thế kỷ XIV - XV)
Cuộc đấu tranh giữa thuyết duy thực của Giáo hội và những người theo học
thuyết của Tômát Đacanh và thuyết duy danh Guyôm Ốccam

Quan niệm về mối quan hệ giữa lý trí và niềm tin tôn giáo
Giáo hội và những người theo học thuyết của Tômát Đacanh vẫn tiếp tục sử
dụng những quan điểm về mối quan hệ giữa lý trí và niềm tin tốn giáo của Tômát
Đacanh
Ốccam đã làm sâu sắc thêm các quan điểm của ĐơnXcốt. Ông khẳng định,
cũng như quyền lực của nhà thờ chỉ giới hạn ở công việc tôn giáo, thần học chỉ
thống trị trong các vấn đề về lòng tin và dựa trên sự “linh cảm”. Những chứng
minh có tính chất lý trí về lòng tin là không có khả năng và vô giá trị; cũng không
thể chứng minh được sự tồn tại của Thượng đế và bản chất của Ngài, đối với
những tín điều tôn giáo thì chỉ có tin mà thôi. Tuy là người tích cực bảo vệ lòng tin
tôn giáo nhưng với việc phân chia ranh giới giữa phạm vi ảnh hưởng của Giáo hội
và của nhà nước gắn với việc phân chia ranh giới giữa lĩnh vực tri thức và lĩnh vực
tín ngưỡng của Ốccam đã chứng tỏ sự suy thoái của chính triết học kinh viện thời
kỳ này và sự từng bước mất tác dụng của nó.
Quan niệm về mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng


Giáo hội và những người theo học thuyết của Tômát Đacanh vẫn tiếp tục sử
dụng những quan điểm về mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng của Tômát
Đacanh
Ốccam cho rằng, chỉ có những sự vật riêng lẻ, đơn nhất là tồn tại thực; cái
phổ biến (cái chung) chỉ tìm thấy trong “tinh thần” và trong “từ ngữ”. Nếu thừa
nhận hiện thực khách quan của cái phổ biến sẽ dẫn đến sự vô lý vì cái phổ biến
không phải là những hình ảnh tư duy đơn giản. Cái phổ biến (cái chung) chỉ diễn
đạt, mô tả cái giống nhau trong trong các đối tượng riêng lẻ mà thôi. Như vậy,
thông qua lý giải về mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng như đã nêu trên,
chứng tỏ rằng triết học của ông có khuynh hướng duy vật.
2.3. Cuộc đấu tranh giữa tư tưởng duy vật và triết học kinh viện thời kỳ
phục hưng
Trong thời kỳ phục hưng, chủ nghĩa duy vật trong triết học đã được khôi

phục và khẳng định chỗ đứng của minh trong đời sống tinh thần của xã hội. Tinh
thần duy vật trong triết học Hy Lạp cổ đại được vận dụng vào cuộc đấu tranh
chống những quan niệm duy tâm và tôn giáo. Nhiều nhà duy vật đồng thời là
những người tiên phong trong khoa học tự nhiên.
2.3.1. Triết học duy tâm kinh viện của Nicolai Kuzan (1401 - 1464)
Nicôlai Kazan xây dựng một hệ thống thần học mới thay thế thần học cũ của
các triết học gia trung cổ mang nặng tinh thần luận. Ông đưa ra quan điểm tự nhiên
thần luận cho rẳng sự tồn tại của Thượng đế không gì khác mà chính là sự tồn tại
của thế giới trong Thượng đế. Điểm mới của Kuzan là ở chỗ: ông không coi
Thượng đế như một vật hay cá nhân cụ thể nào mà là bản chất vô hạn của thế giới.
Qúa trình phát triển ngày càng hoàn thiện của thế giới cũng chính là quá trình
Thượng đế ngày càng biểu hiện ra thành giới tự nhiên. Mối quan hệ giữa Thượng
đế và giới tự nhiên tựa như mối quan hệ giữa bản chất vô cùng tận với những hiện
tượng mà nó dần dần thể hiện ra. Vì sự phát triển của Thượng đế dài vô cùng tận


nên không một phạm trù nào, thậm chí toàn bộ các phạm trù của con người cũng
không thể biểu hiện được bản chất vô hạn của Thượng đế. Ở đây, Kuzan đã đi đến
tư tưởng biện chứng về tính tương đối của nhận thức con người. Hơn nữa, ông còn
nhận thấy Thượng đế là sự thống nhất giữa các mặt đối lập. Thượng đế là cực đại
tuyệt đối, nhưng "bởi vì cực đại tuyệt đối đồng thời chứa đựng thực sự tất cả mọi
vật... cho nên cực đại đồng nhất với cực tiểu". Mối quan hệ giữa Thượng đế với
các sự vật ở ông được thể hiện rõ nhất qua luận điểm biện chứng sâu sắc: "Thượng
đế là tất cả trong mọi cái, nhưng đồng thời cũng không là gì cả (hư vô) trong mọi
cái".
Nicôlai Kuzan coi con người là sản phẩm tối cao và tinh tuý nhất trong sự
sáng tạo của Thượng đế, vì con người như Thượng đế - con người (deus - human),
ông là một trong số ít nhà triết học từ trước tới giờ ý thức được con người không
chỉ là một sinh vật cấp cao bằng xương bằng thịt như hàng ngày chúng ta vẫn thấy,
mà là một Thượng đế - con người đang thường xuyên tác động vào cáo sự vật tự

nhiên. Vì vậy, "con người chính là Ihê giới con người bao quát dưới dạng tiềm tàng
toàn bộ Thượng đế và thế giới.... nội tâm triển vọng của con người đó là tất cả.
Quan niệm này của Kuzan đánh dấu một bước tiến mới của triết học thời Phục
hưng và cận đại so với triết học trước đây trong quan niệm về vấn đề con người.
Xuất phát từ quan niệm biện chứng về bản chất của Thượng đế và thế giới,
Nicôlai Kuzan khẳng định tính tương đối của nhận thức con người. "Bởi chân lý
tồn tại không hơn không kém... là giới hạn vô cùng tận của lý tính chúng ta... Hiểu
biết của chúng ta càng rộng và sâu bao nhiêu thì chúng ta càng tiến tới chân lý bấy
nhiêu". Quan niệm này mặc dù có hạn chế ở chỗ coi chân lý như sự trọn vẹn tuyệt
đối và cứng nhắc, nhưng nó đặt nền móng cho tư tưởng biện chứng về quá trình
nhận thức trong triết học sau này.


2.3.2. Chủ nghĩa duy vật dưới dạng khoa học và phiếm thần
Tư tưởng duy vật của các nhà khoa học
Côpécnic đã chứng minh rằng trái đất không phải là trung tâm của vũ trụ,
trái đất không phải là đứng im mà luôn vận động xung quanh mặt trời và tự quya
xung quanh trục của nó. Sự tự quay của trái đất xung quanh trục của mình được
ông lý giải bằng sự thay đổi ngày và đem. Mặt trăng là một vệ tinh của trái đất,
quay xung quanh trái đất. Thuyết nhật tâm của ông có ý nghĩa hết sức to lớn, nó đã
vượt ra khỏi khuôn khổ của thiên văn học và góp phần cũng cố thế giới quan duy
vật.
Galilê thể hiện mình như một nhà duy vật cơ học máy móc. Vật chất được
ông hình dung như một thực thể có hình thể hiện thực, có cấu trúc thẳng đứng.
Điều này là ông gặp khó khăn trong việc giải sự đa dạng, phong phú của thế giới.
Nhận thức theo ông gồm các giai đoạn cảm giác, thực nghiệm và lý tính. Quan
điểm duy vật cơ học, máy móc không triệt để của ông có vai trò nhất định trong
cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa kinh viện, tôn giáo và phát triển triết học tự nhiên.
Tư tưởng duy vật dưới dạng phím thần của Brunô
Brunô đưa ra phạm trù cái duy nhất, đó là thượng đế tồn tại dưới dạng tự

nhiên. Nhưng ông đồng nhất thượng đế với tự nhiên. Mọi sự vật là biểu hiện của
cái duy nhất (thượng đế), tự nhiên là thượng đế trong các sự vật.
Ông kế tực quan niệm của Côpécnic và bổ sung thêm rằng có vô số thế giới,
các thế giới vật chất ấy vận động không ngừng, chứng minh sự thống nhất của về
vật chất cảu vũ trụ, bác bỏ quan điểm cơ bản của tôn giáo về sự tồn tại của thế giới
bên kia, thế giới thần linh.


Về nhận thức luận, ông cho rằng mục đích cao nhất của tư duy là nắm bắt
quy luật của tự nhiên, đề cao vai trò của thực nghiệm và kinh nghiệm. Ông hết sức
coi trọng tư duy lý tính trong quá trình nhận thức. Chỉ có chân lý duy nhất do triết
học và khoa học đem lại, đấu tranh chống chủ nghĩa kinh viện bảo vệ khoa học và
chủ nghĩa duy vật.
2.4. Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật Anh thế kỷ XVII – Pháp thế
kỷ XVIII và triết học duy tâm Anh thế kỷ XVIII trong triết học cận đại
Triết học Tây Âu cận đại (thế kỷ XVII - XVIII) có xu hướng phát triển rực
rỡ và thể hiện ra là thế giới quan, ý thức hệ của giai cấp tư sản đang lên, đang con
tiến bộ, đang còn cách mạng chống lại giai cấp phong kiến lỗi thời lạc hậu. Do đó
triết học thời kỳ này nhìn chung là chống lại chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo.
2.4.1. Chủ nghĩa duy vật Anh thế kỷ XVII
Phranxis Bêcơn (1561 - 1622)
Trên góc độ vật lý (thực nghiệm), ông cho rằng vật chất là toàn bộ những vật
thể có hình dạng, có thuộc tính luôn luôn vận động. Vận động không chỉ với tính
cách máy móc mà còn với tính cánh là bản năng, là sinh khí của vật chất. Nhưng
ông còn hiểu vận động theo kiểu siêu hình, chỉ mang tính cơ học.
Ông chống lại các nhà kinh viện xa rời cuộc sống và đánh giá các nhà tư
tưởng trung cổ chỉ biết rút ra sự thống thái của mình từ chính bản thân mình. Ông
muốn thay thế việc nghiên cứu giới tự nhiên và những quy luật của nó bằng những
luận điểm trừ tượng, bằng việc rút ra kết quả riêng từ những kết luận chung, không
tính đến sự tồn tại của thực tế của chúng.

Ông là nhà tư tưởng của giai cấp tư sản và tâng lớp quý tộc mới, quan tâm
đến sự phát triển công nghiệp và thương nghiệp. Ông là người đặt nền móng cho
chủ nghĩa duy vật máy móc siêu hình.
Tômát Hốpxơ (1588 - 1679)


Phê phán các quan niệm triết học duy tâm, Hốpxơ phủ nhận ngay cả thuật
ngữ "siêu hình học" được nhiều người coi là bộ phận cơ bản nhất của triết học.
Theo ông, đây chỉ là danh từ được Arixtốt dùng làm tên gọi một tác phẩm triết học
lớn của ông, về sau nó được phái kinh viện thời trung cổ coi là thứ triết học siêu tự
nhiên.
Thừa nhận sự tồn tại khách quan của thế giới có trước con người và không
phải do chúa trời tạo ra, đồng thời Hốpxơ thể hiện như một nhà duy danh khi
khẳng định rằng trong thế giới chúng ta chỉ tồn tại các sự vật đơn lẻ. Mọi khái
niệm như "thực thể", "vật chất"... đều chỉ là những tên gọi. Ông nói: "Trong thế
giới chẳng có gì chung cả, ngoài các tên gọi ". Nhưng ông là người duy đanh ôn
hoà, không phủ nhận cái chung trong trí tuệ con người, mặc đù quy nó thành các
ngôn từ, tên gọi.
Con người, theo Hốpxơ, là một thể thống nhất giữa tính tự nhiên và tính xã
hội. Về bản tính tự nhiên thì mọi người khi sinh ra đều như nhau, ông viết: "Giới tự
nhiên đã tạo ra mọi người như nhau cả về thể xác và tinh thần. Nhưng sự khác
nhau nhất định về thể xác và tinh thần giữa họ không lớn tới mức để cho bất kỳ
người nào dựa trên điều đó để có thể kỳ vọng kiếm lợi được điều gì cho bản thân
mình mà những người khác lại không thể làm được”
Giôn Lốccơ (1632 - 1704)
Ông là đại biểu duy cảm điển hình của chủ nghĩa duy vật Anh, triết học của
ông chủ yếu đề cập đến vấn đề nhận thức luận
Ông chia tính chất cảu sự vật thành chất thứ nhất và chất thứ hai: chất thứ
nhất là những thuộc tính không tách rời vật thể trong bất kỳ điều kiện hoàn cảnh
nào, đó là quảng tính, hình thức, vận động hoặc đứng im…; chất thứ hai là những

thuôc tính luôn luôn xuất hiện và mất đi, luôn luôn được thể hiện thông qua các cơ
quan cảm giác của con người, đó là màu sắc, âm thanh, mùi, vị…Ông có quan


×