Tải bản đầy đủ (.docx) (54 trang)

Pháp luật về hợp đồng dịch vụ thực tiễn thực hiện tại công ty cổ phần dịch vụ bảo vệ ánh dương việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (378.18 KB, 54 trang )

TÓM LƯỢC
Đối với lĩnh vực kinh tế nói chung và hoạt động thương mại nói
riêng, sự chi phối của pháp luật vô cùng quan trọng, là công cụ bảo
vệ quyền và lợi ích của các chủ thể. Có thể thấy, ngành dịch vụ ngày
càng phát triển, cụ thể là sự gia tăng nhanh chóng của các hoạt
động cung ứng dịch vụ. Mặt khác, hợp đồng là cơ sở quan trọng về
mặt pháp lý, đảm bảo cho việc giao kết và thực hiện các hoạt động
của ngành dịch vụ.Vì vậy, vấn đề pháp luật về hợp đồng dịch vụ
ngày càng được chú trọng hơn, đáp ứng được sự phát triển nhanh
chóng của các doanh nghiệp trong những năm gần đây.
Tuy nhiên, hệ thống pháp luật điều chỉnh về hợp đồng dịch vụ
vẫn còn nhiều hạn chế, một số quy định còn mâu thuẫn và thiếu tính
thực tế, chưa thực sự phù hợp với tình hình hiện nay. Vì vậy, các quy
định pháp luật về hợp đồng dịch vụ cần phải được sửa đổi và hoàn
thiện hơn nữa.
Qua quá trình thực tập tại Công ty Cổ phần dịch vụ bảo vệ Ánh
Dương Việt Nam, em nhận thấy hoạt động cung ứng dịch vụ bảo vệ
là một trong những hoạt động mang lại nguồn lợi ích lớn cho công ty.
Do đó, em muốn đi sâu vào nghiên cứu vấn đề pháp luật về hợp
đồng dịch vụ tại công ty để hiểu rõ hơn thực tiễn thực hiện hợp đồng
tại công ty cũng như trải nghiệm những kiến thức đã được học tại
giảng đường trong chuyên ngành Luật Thương mại.
Trước hết bài khóa luận đưa ra một số vấn đề lý luận chung về
hợp đồng dịch vụ như khái niệm, đặc điểm, cơ sở ban hành, và nội
dung của pháp luật điều chỉnh, nhằm khái quát những vấn đề chung
của hợp đồng dịch vụ, làm tiền đề để nghiên cứu.
Đồng thời bài viết cũng chỉ ra thực trạng pháp luật điều chỉnh
hợp đồng dịch vụ và thực tiễn thực hiện tại Công ty Cổ phần dịch vụ
bảo vệ Ánh Dương Việt Nam. Phân tích những nhân tố ảnh hưởng tới
việc thực hiện pháp luật của công ty. Từ đó nhận xét, rút ra đánh giá
ưu điểm và nhược điểm của pháp luật điều chỉnh hợp đồng dịch vụ.


Cuối cùng, từ những lý luận, phân tích, đánh giá, nhận xét thực
trạng ở trên, đề ra những phướng hướng hoàn thiện và nâng cao
pháp luật điều chỉnh về hợp đồng dịch vụ, các kiến nghị đối với cơ
1

1


quan có thẩm quyền, với Công ty Cổ phần dịch vụ bảo vệ Ánh Dương
Việt Nam để nghiên cứu sửa đổi bổ sung quy định của pháp luật sao
cho phù hợp với thực trạng ngày nay.

LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập và rèn luyện tại Trường Đại học
Thương mại, em đã nhận được sự hướng dẫn, giúp đỡ và giảng dạy
nhiệt tình của các thầy cô giáo trong trường và đã tích lũy được một
phần kiến thức để vận dụng vào công việc của mình trong tương lai.
Với đề tài khóa luận “Pháp luật về hợp đồng dịch vụ - Thực tiễn thực
hiện tại Công ty Cổ phần dịch vụ bảo vệ Ánh Dương Việt Nam”, em
đã có cơ hội vận dụng những kiến thức của mình đã học tại trường
vào thực tế để củng cố thêm vốn kiến thức và hiểu biết của mình.
Sau thời gian thực tập tại Công ty đến nay em đã hoàn thành
khóa luận tốt nghiệp của mình. Em xin gửi lời cảm ơn đến các thầy
cô giáo trong Trường Đại học Thương mại, đặc biệt em xin gửi lời cảm
ơn sâu sắc đến ThS.Tạ Thị Thùy Trang – Giảng viên Bộ môn
LuậtChuyên ngành, Khoa Kinh tế - Luật, Trường Đại học Thương Mại
đã hết lòng hướng dẫn em nghiên cứu, hoàn thành khóa luận của
mình.
Ngoài ra, em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Giám đốc công ty
Nguyễn Thế Lâm cùng toàn thể nhân viên trong Công ty Cổ phần

dịch vụ bảo vệ Ánh Dương Việt Nam đã giúp đỡ và tạo điều kiện để
em có thể hoàn thành khóa luận tốt nghiệp.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng do còn hạn chế về lý luận và
kinh nghiệm thực tế nên khóa luận của em còn có nhiều thiếu sót,
em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô và anh chị trong
công ty để khóa luận của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên thực hiện

2

2


MỤC LỤC

3

3


DANH MỤC VIẾT TẮT
ST
T
1.
2.
3.
4.
5.


4

Tên đầy đủ

Tên viết tắt

Bộ luật dân sự

BLDS

Luật thương mại
Bộ luật lao động
Hợp đồng dịch vụ
Công ty cổ phần dịch vụ bảo vệ Ánh Dương
Việt Nam

LTM
BLLĐ
HĐDV
SSC

4


LỜI MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết nghiên cứu của đề tài khóa luận.
Trong bối cảnh nền kinh tế hội nhập và phát triển như hiện nay, vấn đề toàn cầu
hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành xu thế khách quan chi phối sự phát triển
kinh tế - xã hội của mọi quốc gia, trong đó có Việt Nam. Thời gian qua, nhà nước ta đã
từng bước tham gia ngày càng sâu rộng hơn vào tiến trình toàn cầu hóa nền kinh tế thế

giới bằng việc gia nhập ASEAN năm 1995, APEC năm 1998, ký kết Hiệp định
Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ năm 2000, đặc biệt khi gia nhập và trở thành thành
viên chính thức của Tổ chức thương mại thế giới WTO vào ngày 11/07/2007, và gần
đây nhất là Hiệp định hợp tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương TPP vào ngày
05/10/2015, Việt Nam đã đạt được bước tiến dài trong ngành dịch vụ. Hiệp định về
thương mại dịch vụ GATS ra đời đã tạo cơ hội phát triển ngành dịch vụ cho các doanh
nghiệp Việt Nam. Dịch vụ đã trở thành hàng hóa và việc trao đổi, mua bán dịch vụ
ngày càng trở nên sôi động, phổ biến trên thị trường, tạo sự cạnh tranh mạnh mẽ
không chỉ giữa các doanh nghiệp Việt Nam với nhau mà còn giữa các doanh nghiệp
cung cấp dịch vụ Việt Nam với các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ nước ngoài.
Chính vì thế, hợp đồng dịch vụ đã được các doanh nghiệp sử dụng như một công
cụ pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi tham gia thị trường
thương mại dịch vụ, đồng thời tạo ra một môi trường kinh doanh lành mạnh và bình
đẳng giữa các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ với nhau. Trên thực tế thì vai trò của hợp
đồng trong hoạt động kinh doanh dịch vụ là không thể phủ nhận nhưng bên cạnh đó
vẫn còn tồn tại một số khuyết điểm nhất định gây kìm hãm sự phát triển của các hoạt
động dịch vụ trong thương mại.
Hiện nay pháp luật về hợp đồng của nước ta nói chung đang trong quá trình phát
triển và hoàn thiện đồng thời cũng dần điều chỉnh theo xu hướng phù hợp với pháp
luật thế giới nhằm đảm bảo khả năng có thể hội nhập với thế giới trong bối cảnh hiện
nay. Hơn nữa, các hợp đồng về dịch vụ chiếm tỷ trọng không nhỏ trong số các hợp
đồng mà doanh nghiệp thực hiện mang lại những doanh thu đáng kể.. Hợp đồng dịch
vụ như một công cụ pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên khi tham
gia thị trường thương mại dịch vụ, nhằm tạo ra một cơ sở pháp lý giúp các chủ thể
kinh doanh có một môi trường kinh doanh bình đẳng và lạnh mạnh. Mặc dù đã có các
quy định về vấn đề giao kết hợp đồng dịch vụ nhưng trên thực tế khi thực hiện vẫn còn
tồn tại nhiều bất cập, khó khăn, chưa có tính thống nhất giữa các văn bản luật, văn bản
dưới luật. Do đó vẫn không thể tránh khỏi những tranh chấp, rủi ro liên quan đến hợp
đồng cung ứng dịch vụ thương mại. Vì vậy, việc nghiên cứu và hoàn thiện hành lang
5


5


pháp lý về hợp đồng thương mại nói chung và hợp đồng dịch vụ trong thương mại nói
riêng là việc làm vô cùng cấp bách và cần thiết đối với sự phát triển kinh tế của một
đất nước đang trên đà phát triển, hội nhập với thế giới như nước ta.
Xuất phát từ thực tế nêu trên và từ thực tiễn tìm hiểu tại Công ty Cổ phần dịch vụ
bảo vệ Ánh Dương Việt Nam. Nhận thấy tầm quan trọng cũng như những khó khăn mà
công ty có thể gặp phải trong hoạt động kinh doanh dịch vụ thương mại, em đã lựa
chọn đề tài ‘Pháp luật về hợp đồng dịch vụ - Thực tiễn thực hiện tại Công ty cổ phần
dịch vụ bảo vệ Ánh Dương Việt Nam ’’ để làm đề tài khóa luận của mình. Em hy vọng
đề tài sẽ nêu được cái nhìn toàn diện về pháp luật hợp đồng dịch vụ trong thương mại
cũng như góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật này.
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan.
Thời gian qua có nhiều bài báo, bài tham luận, luận văn, luận án, chuyên đề đề
cập đến pháp luật về hợp đồng dịch vụ. Đó là những tác phẩm nghiên cứu nội dung, bất
cập của các quy định pháp luật về hợp đồng dịch vụ hiện hành, thực trạng và đề xuất các
kiến nghị giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật về hợp
đồng dịch vụ nói riêng. Cùng với các tác phẩm này là các nghiên cứu về pháp luật hợp
đồng dịch vụ. Trên thế giới và trong nước đã có nhiều công trình nghiên cứu chất lượng
liên quan đến đề tài này. Trong đó có những nghiên cứu đã có những thành công nhất
định, góp phần làm rõ thêm vấn đề lý luận và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về hợp
đồng dịch vụ. Một số tác phẩm đề cập đến đề tài cần được quan tâm như:
• ‘‘Báo cáo chiến lược tổng thể phát triển ngành dịch vụ tới năm 2020 và tầm
nhìn tới năm 2025’’ - Dự án hỗ trợ thương mại đa biên (MUTRAP 3), (2011) dự án đã
đóng góp đáng kể vào một số thành quả tích cực liên quan đến thương mại của Việt
Nam trong 4 năm qua, Việt Nam đã tăng cường sự hiện hiện của mình trong các tổ
chức thương mại quốc tế. Thí dụ, chỉ sau 3 năm đã trở thành thành viên WTO, Việt
Nam đã tự tin đệ đơn kiện Hoa Kỳ lên Cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO, cải

thiện năng lực thực hiện các cam kết quốc tế, tham gia tích cực và ký kết một số Hiệp
định thương mại tự do mới và xây dựng chiến lược để đối phó với tác động tiêu cực
của cuộc khủng hoảng toàn cầu cũng như thúc đẩy hội nhập từ trung đến dài hạn.
• ‘‘Tổng quan các vấn đề về tự do hóa thương mại dịch vụ’’ - UBQG về hợp tác
kinh tế quốc tế (2005), cuốn sách là tập hợp nghiên cứu tổng quan về các lĩnh vực dịch
vụ quan trọng nhằm tăng cường sự hiểu biết trong lĩnh vực công nghiệp và nhiều lĩnh
vực khác trong quá trình thực hiện Hiệp định chung về thương mại dịch vụ.
6

6


• ‘‘Cẩm nang hợp đồng thương mại’’ - VCCI, DANIDA. (2010), cuốn sách này
cố gắng trình bày một số loại hợp đồng mới phát triển tại Việt Nam trong kinh tế thị
trường hiện đại.
• Th.S Hà Công Anh Bảo (2013), “Hợp đồng thương mại dịch vụ và vai trò của
nó đối với doanh nghiệp”, Tạp chí Kinh tế đối ngoại. Bài viết đưa ra một
khái niệm mới về thương mại dịch vụ, từ đó phân tích vai trò và tầm quan trọng
của loại hợp đồng này đối với các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay.
• Nguyễn Thị Mơ (2004). “ Lựa chọn bước đi và giải pháp để Việt Nam mở cửa
về dịch vụ thương mại ’’, NXB lý luận chính trị. Bài viết tập chung phân tích nghành
dịch vụ thương mại ở Việt Nam, từ đó nêu những giải pháp để Việt Nam mở cửa, hội
nhập ngành dịch vụ với thế giới. Cuốn sách đã cung cấp cho người đọc một cái nhìn
tổng quan về thương mại dịch vụ và sự cần thiết để Việt Nam mở cửa về thị trường
dịch vụ thương mại, chuẩn bị điều kiện cần thiết để gia nhập WTO.
Ngoài các tác phẩm nêu trên, còn có nhiều bài luận văn, công trình nghiên cứu về
hợp đồng dịch vụ và pháp luật về hợp đồng dịch vụ. Tuy nhiên, ở những công trình đó
tác giả chỉ xem xét một hoặc một số khía cạnh riêng biệt của pháp luật về hợp đồng
dịch vụ mà chưa phân tích đầy đủ, toàn diện để giải quyết được căn bản những hạn
chế, vướng mắc. Nhìn chung, các nghiên cứu liên quan đến đề tài này đều có mục tiêu

tập trung vào hoàn thiện pháp luật về hợp đồng dịch vụ sao cho phù hợp với nền kinh
tế thị trường trong nước cũng như quốc tế nhưng chỉ trên phương diện lý luận, thiếu
tính áp dụng trên thực tế. Do vậy, pháp luật về hợp đồng dịch vụ cần được quan tâm,
nghiên cứu sâu hơn nữa về cả lý luận và thực tiễn áp dụng. Trên hết, tình hình kinh tế xã hội hiện nay đòi hỏi một cơ sở pháp lý vững chắc hơn nữa cho các doanh nghiệp tự
tin trong giao kết và thực hiện các hợp đồng cung ứng dịch vụ; qua đó tạo dựng môi
trường kinh doanh lành mạnh, hiệu quả, bắt kịp xu thế thời đại. Vì thế đề tài nghiên
cứu và nội dung bài nghiên cứu mang tính cập nhật và đầy đủ sâu sắc về cả lý luận và
thực tiễn áp dụng của pháp luật về hợp đồng dịch vụ.
3. Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu.
Có thể thấy, với tình hình hội nhập kinh tế quốc tế phát triển cùng với những biến
động phức tạp như hiện nay của nước ta, thì việc đi sâu vào nghiên cứu, tìm hiểu cũng
như xây dựng một nền tảng pháp luật hoàn thiện về HĐDV là một nhu cầu tất yếu.
Đây cũng là giải pháp góp phần bảo vệ quyền lợi cho các doanh nghiệp khi thực hiện
7

7


HĐDV, giảm thiểu các vi phạm hợp đồng cũng như các tranh chấp trong quá trình thực
hiện hợp đồng, tạo nên môi trường kinh doanh thuận lợi thu hút các doanh nghiệp
nước ngoài.
Bên cạnh đó, qua quá trình tìm hiểu các công trình nghiên cứu liên quan cũng
như nhận thức được rõ mức độ cấp thiết của đề tài, có thể thấy đề tài nghiên cứu đưa
ra không hoàn toàn mới mẻ, nhưng vẫn cần được quan tâm, nghiên cứu một cách đúng
đắn, sâu sắc. Bởi các công trình nghiên cứu trước đây chưa đi sâu vào thực tiễn tình
hình áp dụng pháp luật về HĐDV tại các doanh nghiệp, và cũng chưa nói riêng về một
lĩnh vực cụ thể nào, đồng thời chưa khái quát chung được tất cả các vấn đề liên quan
đến pháp luật về HĐDV, mà chỉ nghiên cứu các vấn đề riêng lẻ của pháp luật về
HĐDV. Do đó, việc nghiên cứu pháp luật về hợp đồng dịch vụ và thực tiễn áp dụng tại
dooanh nghiệp hiện nay là vô cùng cần thiết.

Bằng việc tham khảo các tài liệu, công trình nghiên cứu đi trước khác, và qua
quá trình thực tập tại công ty Cổ phần dịch vụ bảo vệ Ánh Dương Việt Nam, đề tài
nghiên cứu này tập trung vào phân tích một số nội dung pháp luật về hợp đồng dịch vụ
(HĐDV), tìm hiểu về chủ thể, nội dung, hình thức, cũng như quyền, nghĩa vụ của các
bên, các phương thức giải quyết tranh chấp, chế tài trong HĐDV. Đồng thời, đưa ra
thực tiễn áp dụng pháp luật về hợp đồng dịch vụ tại Công ty Cổ phần dịch vụ bảo vệ
Ánh Dương Việt Nam, làm rõ những bất cập, hiện hành và nêu lên một số kiến nghị
nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về hợp đồng dịch vụ.
4. Đối tượng, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu.
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là một số các tình huống trong thực tế về pháp
luật hợp đồng dịch vụ và những quy định của pháp luật điều chỉnh HĐDV trong đó
trọng tâm là các quy định của Luật thương mại 2005, bộ luật dân sự 2015 đồng thời,
kết hợp nghiên cứu, phân tích và đánh giá thực tiễn thực hiện quy định của pháp luật
về hợp đồng dịch vụ nói chung và thực tiễn tại Công ty Cổ phần Dịch vụ bảo vệ Ánh
Dương Việt Nam nói riêng.
4.2. Mục tiêu nghiên cứu:
- Thứ nhất, nghiên cứu những vấn đề lý luận về hợp đồng dịch vụ trong hoạt động
thương mại và nội dung pháp luật về hợp đồng dịch vụ, hợp đồng cung ứng dịch vụ.
- Thứ hai, phân tích thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật về hợp đồng dịch
vụ, thực trạng thực hiện tại Công ty cổ phần dịch vụ bảo vệ Ánh Dương Việt Nam. Từ đó
đánh giá những bất cập, hạn chế trong quy định của pháp luật, của Công ty.
- Thứ ba, trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn, khóa luận đưa ra
một số giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả áp dụng các quy định của pháp luật về hợp
8

8


-


-

-

-

đồng dịch vụ, hợp đồng cung ứng dịch vụ trong hoạt động thương mại của Công ty
dịch vụ bảo vệ Ánh Dương Việt Nam.
4.3. Phạm vi nghiên cứu:
Do kiến thức còn hạn hẹp và thời gian nghiên cứu không nhiều nên khóa luận chỉ
tập chung nghiên cứu:
- Những quy định hiện hành của pháp luật trong lĩnh vực cung ứng dịch vụ trong
hoạt động thương mại, như LTM 2005, BLDS 2015, … và một số văn bản luật chuyên
ngành khác.
- Việc thực hiện pháp luật về hợp đồng dịch vụ tại Công ty cổ phần dịch vụ bảo
vệ Ánh Dương Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Nhằm nâng cao hiệu quả của việc nghiên cứu, đề tài tập trung sử dụng một số
phương pháp chủ yếu : phương pháp phân tích, phương pháp thu thập dữ liệu, phương
pháp tổng hợp, thống kê, chọn lọc, diễn giải, quy nạp…Các phương pháp này được
vận dụng trong nhiều thành phần khác nhau của đề tài.
Phương pháp thu thập dữ liệu, thu nhập thông tin: Xuất phát từ mục tiêu, phạm vi
nghiên cứu, bài khóa luận được thu thập nguồn dữ liệu thứ cấp qua các thông tin, số
liệu đã được công bố từ các bài báo, tạp chí, tài liệu pháp luật và các trang web có tin
cậy liên quan đến vấn đề hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Thông tin sơ cấp được
thu thập bằng cách hỏi ý kiến của lãnh đạo, các nhân viên có kinh nghiệm lâu năm
trong lĩnh vực hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, thảo luận nhóm với các sinh viên
có chung vấn đề nghiên cứu. Từ các dữ liệu thu thập được, đề tài nghiên cứu có sự
đánh giá tính cụ thể, tính thời sự và tính chính xác của thông tin để sử dụng một cách

hợp lí cho các mục tiêu nghiên cứu.
Phương pháp thống kê, chọn lọc, tổng hợp dữ liệu: Từ những dữ liệu đã thu thập
được, bài viết sẽ tổng hợp dữ liệu, chọn lọc những dữ liệu cần thiết để tiến hành phân
tích, đưa vào bài.
Phương pháp phân tích, so sánh dữ liệu: Dựa vào các dữ liệu đã thu thập và tổng hợp
có chọn lọc, tiến hành phân tích dữ liệu, so sánh với những thông tin, dữ liệu, văn bản
quy phạm pháp luật đã được ban hành để tìm ra những ưu, khuyết điểm của vấn dề
nghiên cứu, đồng thời đưa ra những giải pháp hoàn thiện cho đề tài khóa luận của
mình.
Phương pháp điều tra, khảo sát thực tiễn: nhằm nắm bắt được những khó khăn, vướng
mắc của cơ quan quản lý trong quá trình thực tiễn áp dụng pháp luật về hợp đồng dịch
vụ tại Công ty Cổ phần dịch vụ bảo vệ Ánh Dương Việt Nam.
6. Kết cấu khóa luận tốt nghiệp.
9

9


Ngoài phần Lời cảm ơn, Lời mở đầu, Kết luận, danh mục bảng biểu và tài liệu
tham khảo, kết cấu của khóa luận gồm có 3 chương:
Chương 1: Những lý luận cơ bản về pháp luật điều chỉnh hợp đồng dịch vụ .
Chương 2: Thực trạng pháp luật điều chỉnh hợp đồng dịch vụ và thực tiễn thực
hiện tại Công ty Cổ phần dịch vụ bảo vệ Ánh Dương Việt Nam.
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
thực thi về pháp luật hợp đồng dịch vụ.
CHƯƠNG 1
NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HỢP ĐỒNG
DỊCH VỤ
1.1. Khái quát về hợp đồng dịch vụ
a. Khái niệm về hợp đồng dịch vụ

Để có thể tồn tại và phát triển, các chủ thể trong xã hội tham gia vào các giao
dịch nhất định thông qua việc trao đổi, dịch chuyển các lợi ích do mình tạo ra và nhận
lại những lợi ích vật chất cần thiết từ các chủ thể khác nhằm thỏa mãn các nhu cầu
chính đáng của mình. Một trong những phương thức cơ bản để thực hiện việc trao đổi
lợi ích trong xã hội chính là sự thỏa thuận giữa các bên dựa trên các nguyên tắc tự do,
tự nguyện, bình đẳng và được đặt dưới sự bao trợ của luật pháp. Sự thỏa thuận đó
được định danh trong luật bằng thuật ngữ pháp lý: “ Hợp đồng”. Hợp đồng là một khái
niệm xuất hiện từ lâu và hiện tại có khá nhiều khái niệm về hợp đồng.
Thuật ngữ “hợp đồng” (contractus) có nghĩa là ràng buộc, xuất hiện đầu tiên ở La
Mã vào khoảng thế kỷ V – IV trước công nguyên. Ở Việt Nam, trong thời kỳ phong
kiến thuật ngữ này có thể gọi là “khế ước” và đến ngày nay từ “hợp đồng” đã trở nên
gần gũi hơn sau quá trình phát triển của hệ thống pháp luật nước ta.
Hợp đồng nói chung là một hành vi pháp lý, là sự thể hiện ý chí của các bên để
làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ. Hợp đồng là loại hành vi pháp lý cơ bản và thông
dụng nhất. Ý chí của cá nhân đóng vai trò quan trọng trong hợp đồng, khi sự thống
nhất của các ý chí là thực chất và không trái pháp luật thì nó sẽ làm phát sinh các nghĩa
vụ ràng buộc các bên.
Về khái niệm hợp đồng, cũng có nhiều quan điểm khác nhau theo thời gian. Theo
Bộ luật dân sự đầu tiên trên thế giới (Bộ luật dân sự Pháp năm 1804) thì: “Hợp đồng
là sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều bên về việc chuyển giao một vật, làm hay không
làm một công việc” hoặc theo Bộ luật dân sự Liên bang Nga năm 1994: “Hợp đồng là
sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền,
nghĩa vụ dân sự” hay chẳng hạn, Điều 1, Bộ luật Thương mại thống nhất của Hoa Kỳ
10
10


(Uniform Commerce Code – UCC) quy định ‘‘hợp đồng là sự tổng hợp các nghĩa vụ
pháp lý phát sinh từ sự thỏa thuận của các bên”, Luật Hợp đồng năm 1999 của Trung
Quốc quy định “Hợp đồng là sự thỏa thuận về việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền,

nghĩa vụ dân sự giữa các chủ thể bình đẳng, tự nhiên của các tổ chức”
Như vậy, hiểu một cách đơn giản hợp đồng là một thỏa thuận ràng buộc về mặt
pháp lý giữa hai hay nhiều bên, những người đồng ý thực hiện hoặc không thực hiện
một số hoạt động trong hiện tại hoặc trong tương lai. Điều 385 Bộ luật Dân sự năm
2015 quy định “hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay
đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Theo đánh giá của giới nghiên cứu trong
nước và nước ngoài, khái niệm hợp đồng dân sự trong Bộ luật Dân sự 2015 có tầm
khái quát và tương xứng với một khái niệm chung, áp dụng cho mọi loại hợp đồng chứ
không chỉ dừng lại áp dụng cho hợp đồng dân sự. Từ việc phân tích khái niệm về hợp
đồng theo quy định của pháp luật một số nước, có thể đưa ra định nghĩa về hợp đồng
như sau: “hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên, căn cứ vào quy định của pháp luật,
nhằm quy định quyền và nghĩa vụ đối với nhau khi thực hiện một công việc, một hoạt
động hoặc một hành vi nhất định nào đó”.
Dịch vụ là một khái niệm rất rộng. Về bản chất, dịch vụ là toàn bộ các hoạt động
nhằm đáp ứng nhu cầu nào đó của con người mà sản phẩm của nó tồn tại dưới hình
thái phi vật thể. Khi sử dụng dịch vụ, nhất là dịch vụ thương mại, người sử dụng
dịch vụ thương mại phải trả một khoản tiền nhất định, tức là dịch vụ cũng có giá trị
và giá trị sử dụng như là hàng hóa. Do vậy, dịch vụ cũng là hàng hóa nhưng là
hàng hóa vô hình.
Theo Điều 513 Bộ luật dân sự 2015 có quy định về hợp đồng dịch vụ: “Hợp
đồng dịch vụ là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cung ứng dịch vụ thực hiện
công việc cho bên sử dụng dịch vụ, bên sử dụng dịch vụ phải trả tiền dịch vụ cho bên
cung ứng dịch vụ.”
Hợp đồng dịch vụ còn được gọi là hợp đồng mua bán dịch vụ, hợp đồng cung
cấp dịch vụ. Luật Thương mại Việt Nam 2005 không gọi hợp đồng này là hợp đồng
mua bán dịch vụ mà gọi là hợp đồng cung ứng dịch vụ, để giải thích sử dụng từ cung
ứng ở đây thay vì từ cung cấp hoặc mua bán dịch vụ thì xuất phát từ lịch sử của Việt
Nam, khi các ngành dịch vụ trong thời kỳ bao cấp đều do Nhà nước quản lý và cung
ứng cho người dân, do đó Luật vẫn sử dụng từ cung ứng dịch vụ ở đây. Tuy nhiên, với
cách hiểu về cung ứng dịch vụ như điều 3 khoản 9 của Luật Thương mại năm 2005 thì

có thể thấy hợp đồng cung ứng dịch vụ là sự thỏa thuận, theo đó một bên (gọi là bên
11

11


cung ứng dịch vụ) có nghĩa vụ thực hiện dịch vụ cho bên khác và nhận thanh toán.
Bên sử dụng dịch vụ (gọi là khách hàng) có nghĩa vụ thanh toán cho bên cung ứng
dịch vụ và sử dụng dịch vụ theo thỏa thuận. Khái niệm này nhìn nhận cung ứng dịch
vụ dưới góc độ là một hoạt động thương mại: có ít nhất hai bên tham gia và nhằm mục
đích sinh lợi.
Như vậy, từ những quan điểm trên, có thể thấy rằng hợp đồng dịch vụ là cơ sở
pháp lý để doanh nghiệp thực hiện việc cung ứng dịch vụ cho khách hàng. Thương mại
dịch vụ phát triển là cơ hội để cho các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ phát triển, đa
dạng hóa sản phẩm dịch vụ của mình. Thông qua hợp đồng dịch vụ, các doanh nghiệp
bước vào một thỏa thuận với những đối tác của mình thông qua niềm tin mà chúng ta
gọi là luật để đảm bảo rằng những thỏa thuận cung cấp dịch vụ đó sẽ được thực hiện.
Không những thế, hợp đồng dịch vụ là cơ sở để doanh nghiệp xác định quyền và nghĩa
vụ của mình. Trong một chừng mực nào đó, hợp đồng dịch vụ cho phép các doanh
nghiệp tạo ra một luật lệ riêng – thông qua những điều khoản của thỏa thuận mà các
bên đã giao kết – điều chỉnh mối quan hệ giữa doanh nghiệp và đối tác. Bên cạnh
quyền và nghĩa vụ cơ bản mà pháp luật quy định về hợp đồng cung ứng dịch vụ thì các
bên sẽ quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ như cung cấp dịch vụ trong bao lâu, mức
độ hài lòng được đánh giá như thế nào, tiến độ thanh toán, trách nhiệm của các bên
nếu không thực hiện cam kết của mình.
b. Đặc điểm hợp đồng dịch vụ
Về đặc điểm của hợp đồng dịch vụ, trước hết đó là một hợp đồng dân sự, vì vậy
nó mang đầy đủ bản chất và đặc trưng của tất cả các loại hợp đồng nói chung. Bên
cạnh đó nó cũng mang những đặc điểm pháp lý cơ bản của hợp đồng dịch vụ trong dân
sự, đó là:

Hợp đồng dịch vụ là hợp đồng song vụ: Cả bên cung ứng dịch vụ và bênthuê dịch
vụ đều có nghĩa vụ đối với nhau. Bên cung ứng dịch vụ phải thực hiện hành vi pháp lý
theo yêu cầu của bên thuê dịch vụ, bên thuê dịch vụ có nghĩa vụ tiếp nhận kết quả
công việc và trả tiền công cho bên cung ứng dịch vụ.
Bên cung ứng dịch vụ phải thực hiện các hành vi pháp lý nhất định và giao kết
quả cho bên thuê dịch vụ. Tức là bên cung ứng dịch vụ phải thực hiện các nghĩa vụ mà
được bên thuê dịch vụ yêu cầu nhưng phải đảm bảo đúng quy định của pháp luật, và
khi thực hiện xong thì phải thông báo cho bên thuê dịch vụ đến nhận hoặc giao trực
tiếp cho bên thuê dịch vụ.

12

12


Hợp đồng dịch vụ là hợp đồng có đền bù. Bên thuê dịch vụ phải trả tiền công cho
bên cung ứng dịch vụ, khi bên cung ứng dịch vụ đã thực hiện công việc và mang lại
kết quả như đã thoả thuận. Bên cạnh đó, hợp đồng dịch vụ còn có một số đặc điểm
riêng sau:
Thứ nhất, đặc điểm về đối tượng của hợp đồng. Đối tượng của hợp đồng dịch vụ
là dịch vụ, là hành hóa vô hình. Như ở trên đã phân tích, dịch vụ- sản phẩm vô hình
không tồn tại dưới dạng vật chất - vì vậy, khi ký kết hợp đồng dịch vụ, các bên không
cần quan tâm đến nơi chứa dịch vụ, không quan tâm tới việc cất giữ, tồn kho hay dự
trữ dịch vụ. Điều quan trọng nhất là các bên mua bán dịch vụ phải mô tả rất kỹ về dịch
vụ, đặt ra những yêu cầu cụ thể mà theo đó, khách hàng- người mua dịch vụ sẽ hài
lòng về dịch vụ mà mình muốn có, còn người bán – tức là người cung cấp dịch vụ thì
không chỉ phải cố gắng đáp ứng và làm cho khách hàng hài lòng về dịch vụ do mình
cung cấp mà còn phải bảo đảm có các điều kiện cần thiết liên quan đến việc cung cấp
dịch vụ. Nói cách khác, trong nền kinh tế thị trường, khi hàng hóa vô hình được đem
ra mua và bán thì yếu tố sự hài lòng của khách hàng là tiêu chí quan trọng để xem xét

về chất lượng của dịch vụ. Điều này đòi hỏi các bên phải có sự am hiểu về tính chất
của dịch vụ đó. Nói cách khác, vì dịch vụ khó có thể xác định bằng trọng lượng, mùi
vị, màu sắc, do đó trong hợp đồng dịch vụ, các bên phải tự đưa ra các yêu cầu, điều
kiện mà mình mong muốn liên quan đến dịch vụ được cung cấp, và do đó, giá cả của
dịch vụ cũng sẽ được xác định dựa trên các yêu cầu đó.
Thứ hai, trong hợp đồng dịch vụ không có vấn đề chuyển giao quyền sở hữu về
đối tượng. Các bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa thường được gọi là bên bán và
bên mua. Cách gọi này thể hiện được sự chuyển giao quyền sở hữu hàng hóa trong
quan hệ mua bán hàng hóa giữa 2 bên, khi nghĩa vụ của người bán không chỉ đơn
thuần là giao hàng mà còn gắn liền với nghĩa vụ chuyển giao quyền sở hữu hàng hóa
đó cho người mua. Còn trong hợp đồng dịch vụ bên cung cấp dịch vụ không có nghĩa
vụ chuyển giao quyền sở hữu dịch vụ đó, mà chỉ có nghĩa vụ làm hoặc không được
làm một công việc, một hành vi nhằm đem lại lợi ích cho người sử dụng ( người mua)
dịch vụ. Điều mà các doanh nghiệp trong hợp đồng dịch vụ quan tâm không phải là
vấn đề chuyển quyền sở hữu mà là kết quả dịch vụ được cung cấp sẽ đem lại cho họ.
Thứ ba, hình thức của hợp đồng dịch vụ. Về nguyên tắc, hình thức của hợp đồng
dịch vụ có thể được lập bằng lời nói, văn bản hoặc xác lập bằng hành vi cụ thể. Tuy
nhiên, trong thực tế, vì việc xác lập quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng
dịch vụ thường phải được quy định rất cụ thể, do đó pháp luật thường quy định nhiều
loại hợp đồng dich vụ phải được xác lập bằng văn bản.
13

13


Thứ tư, về tính chất của các loại nghĩa vụ của các bên cung ứng dịch vụ trong
hợp đồng dịch vụ. Để xác định nghĩa vụ của bên cung ứng dịch vụ, pháp luật thường
chia nghĩa vụ này thành 2 loại là nghĩa vụ theo kết quả công việc và nghĩa vụ theo nỗ
lực và khả năng cao nhất, cụ thể:
Nghĩa vụ theo kết quả công việc: Theo điều 79 LTM 2005, trừ khi có thỏa thuận

khác trong hợp đồng, nếu tính chất của loại dịch vụ được cung ứng yêu cầu bên cung
ứng dịch vụ phải đạt được một kết quả nhất định thì bên cung ứng dịch vụ phải thực
hiện việc cung ứng dịch vụ với kết quả phù hợp với các điều khoản và mục đích của
hợp đồng. Quy định này nhấn mạnh nghĩa vụ của người cung cấp dịch vụ là phải cung
cấp dịch vụ theo kết quả công việc. Nếu người cung cấp dịch vụ cam kết cung cấp dịch
vụ theo kết quả cụ thể thì việc vi phạm nghĩa vụ sẽ dẫn đến trách nhiệm nặng nề rất
khó bác bỏ.
Nghĩa vụ theo nỗ lực và khả năng cao nhất: Theo điều 80 LTM 2005, nếu tính
chất của loại dịch vụ được cung ứng yêu cầu bên cung ứng dịch vụ phải nỗ lực cao
nhất để đạt được kết quả mong muốn thì bên cung ứng dịch vụ phải thực hiện nghĩa vụ
cung ứng dịch vụ đó vơi sự nỗ lực và khả năng cao nhất. Theo quy định của điều 80,
nghĩa vụ của bên cung cấp dịch vụ không căn cứ vào kết quả của dịch vụ mà căn cứ
vào sự nỗ lực cao nhất của họ để cung cấp dịch vụ cho người sử dụng dịch vụ.
Thứ năm, hợp đồng dịch vụ chịu sự điều chỉnh của luật chuyên ngành. Do hợp
đồng dịch vụ có những đặc điểm nêu trên do đó, bên cạnh các quy đinh của LTM
2005, hợp đồng dịch vụ còn chịu sự điều chỉnh của các văn bản pháp luật chuyên
ngành, ví dụ Bộ luật Hàng hải năm 2005 điều chỉnh hợp đồng chuyên chở hàng hóa
bằng đường biển; của Luật Kinh doanh bảo hiểm 2010 quy định về hợp đồng kinh
doanh bảo hiểm; Luật xây dựng năm 2003 điều chỉnh hợp đồng xây dựng; Luật Các tổ
chức Tín dụng năm 2010 quy định về hợp đồng tín dụng,…
c. Phân loại hợp đồng dịch vụ
Có nhiều cách phân loại hợp đồng thương mại dịch vụ dựa trên tiêu chí khác
nhau để phân loại:
Căn cứ vào tính chất quốc tế của hợp đồng có thể chia hợp đồng thương mại dịch
vụ quốc tế và hợp đồng thương mại dịch vụ nội địa. Theo WTO và Luật Thương mại
Việt Nam 2005 thì tính chất quốc tế của hợp đồng thương mại dịch vụ sẽ dựa vào sự di
chuyển của bên cung cấp dịch vụ và bên nhận dịch vụ hoặc sự di chuyển của dịch vụ
được cung cấp.
Căn cứ vào phân ngành của WTO thì có thể chia thành 12 nhóm hợp đồng
thương mại dịch vụ như sau: Hợp đồng thương mại dịch vụ kinh doanh; Hợp đồng

thương mại dịch vụ truyền thông; Hợp đồng thương mại dịch vụ dịch vụ xây dựng và
14

14


kỹ sư công trình; Hợp đồng thương mại dịch vụ phân phối; Hợp đồng thương mại dịch
vụ giáo dục; Hợp đồng thương mại các dịch vụ môi trường; Hợp đồng thương mại các
dịch vụ tài chính; Hợp đồng thương mại dịch vụ xã hội và liên quan đến sức khỏe;
Hợp đồng thương mại dịch vụ du lịch và lữ hành; Hợp đồng thương mại các dịch vụ
văn hoá và giải trí; Hợp đồng thương mại các dịch vụ vận tải; Hợp đồng thương mại
dịch vụ khác.
Căn cứ vào mục tiêu của dịch vụ, thì có thể chia hợp đồng thương mại dịch vụ
được chia làm 4 nhóm như sau: nhóm 1: Hợp đồng thương mại dịch vụ phân phối: vận
chuyển, lưu kho, bán buôn, bán lẻ, quảng cáo, môi giới...; nhóm 2: Hợp đồng thương
mại dịch vụ sản xuất: ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, các dịch vụ về kỹ sư và kiến trúc
công trình, dịch vụ kế toán kiểm toán, dịch vụ pháp lý... nhóm 3: Hợp đồng thương
mại dịch vụ xã hội: dịch vụ sức khỏe, y tế, giáo dục, dịch vụ vệ sinh, dịch vụ bưu điện,
viễn thông, các dịch vụ nghe nhìn và các dịch vụ xã hội khác… Nhóm 4: Hợp đồng
thương mại dịch vụ cá nhân: dịch vụ sửa chữa, dịch vụ khách sạn, nhà hàng, các dịch
vụ giải trí, dịch vụ văn hoá, du lịch...
Căn cứ vào dịch vụ quy định trong Luật Thương mại 2005 thì có những loại hợp
đồng thương mại dịch vụ sau: Hợp đồng dịch vụ khuyến mại; Hợp đồng dịch vụ quảng
cáo thương mại; Hợp đồng dịch vụ trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ; Hợp đồng
đại diện cho thương nhân; Hợp đồng ủy thác; Hợp đồng đại lý; Hợp đồng gia công;
Hợp đồng dịch vụ tổ chức đấu giá hàng hóa; Hợp đồng dịch vụ quá cảnh; Hợp đồng
nhượng quyền thương mại.
Căn cứ vào Bộ luật dân sự Việt Nam 2005, mặc dù đây là các hợp đồng dân sự,
tuy nhiên nếu mục đích của hợp đồng gắn với mục đích là sinh lợi thì các hợp đồng
này sẽ là hợp đồng thương mại dịch vụ như đã phân tích ở phần trên, do đó chúng ta

có thể có những loại hợp đồng thương mại dịch vụ sau: Hợp đồng bảo hiểm; Hợp đồng
vận chuyển gồm vận chuyển hành khách và vận chuyển tài sản; Hợp đồng gia công;
Hợp đồng gửi giữ tài sản; Hợp đồng ủy quyền; Hợp đồng dịch vụ.
1.2. Cơ sở ban hành và nội dung pháp luật điều chỉnh đồng dịch vụ
1.2.1. Cơ sở ban hành pháp luật hợp đồng dịch vụ
Như đã biết thì hợp đồng dịch vụ là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cung
ứng dịch vụ thực hiện công việc cho bên thuê dịch vụ, còn bên thuê dịch vụ phải trả
tiền dịch vụ cho bên cung ứng dịch vụ. Trong quá trình thực hiện ký kết hợp đồng dịch
vụ thì các bên không thể tránh khỏi những mâu thuẫn, bất đồng, xung đột về quyền và
lợi ích liên quan đến quá trình từ khi ký kết cho đến khi thực hiện hợp đồng dịch vụ.
15
15


Chính bởi vậy, pháp luật về hợp đồng dịch vụ ra đời để điều hòa xung đột giữa các bên
tham gia vào hợp đồng dịch vụ.
Pháp luật về hợp đồng dịch vụ là tổng hợp các quy phạm pháp luật do nhà nước
ban hành hoặc thừa nhận nhằm điều chỉnh các vấn đề liên quan đến hợp đồng dịch vụ.
Hệ thống pháp luật với các chế tài liên quan đến việc xử lý các hành vi vi phạm nghĩa
vụ hợp đồng giúp các bên tham gia giao kết hợp đồng thực hiện hợp đồng một cách
nghiêm túc và tự giác. Trong trường hợp các bên thực hiện không đúng quy định của
pháp luật về hợp đồng dịch vụ thì hệ thống pháp luật là cơ sở hữu hiệu để bảo vệ
quyền lợi của các bện tham gia quan hệ. Pháp luật về hợp đồng dịch vụ giúp cho việc
thực hiện hợp đồng trở nên dễ dàng hơn, hạn chế được rủi ro cho các bên tham gia vào
quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ.
Để xác định được cơ sở ban hành pháp luật về hợp đồng dịch vụ thì cần đi sâu
tìm hiểu về quá trình phát triển của xã hội, kinh tế, cũng như chính trị pháp luật. Trong
bối cảnh đó, thì những khía cạnh trên đã biến đổi như thế nào để trở thành “bàn đạp”,
là nền móng xây dựng nên hệ thống pháp luật về hợp đồng dịch vụ trong phạm vi cả
trong nước và nước ngoài.

*Cơ sở chính trị
Đất nước ta đang trong giai đoạn xây dựng nền kinh tế mới, hội nhập với khu
vực. So với các nước trong khu vực và trên thế giới thì Việt Nam có nền kinh tế chính
trị ổn định. Điều này đã tạo điều kiện thuận lợi để nước ta hội nhập với các quốc gia
trên thế giới. Kinh tế và sự giao lưu quốc tế ngày càng phát triển kéo theo cho sự phát
triển của các quan hệ xã hội, các quan hệ dân sự và thương mại. Hoạt động thương mại
dịch vụ ngày càng phát triển, việc giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ thương mại
ngày càng trở nên phức tạp hơn. Trước tình hình đó, Nhà nước cần ban hành các văn
bản pháp luật điều chỉnh về hợp đồng cung ứng dịch vụ thương mại nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia hoạt động này.g nền kinh tế mới,
*Cơ sở kinh tế:
Nền kinh tế thị trường có tác động lớn đến sự tồn tại và phát triển của từng quốc
gia, từng dân tộc, thực tiễn những năm đổi mới chỉ ra rằng, việc chuyển sang mô hình
kinh tế thị trường của Đảng là hoàn toàn đúng đắn. Nhờ mô hình kinh tế đó, nước ta đã
bước đầu khai thác được tiềm năng trong nước đi đôi với thu hút vốn và kỹ thuật nước
ngoài, mở rộng quan hệ kinh tế với nhiều quốc gia trên thế giới. Với tình hình đó, yêu
16

16


cầu hệ thống pháp luật Việt Nam cũng như nước ngoài luôn luôn thay đổi sao cho phù
hợp khi có sự hợp tác với nước ngoài và sự đa dạng trong hoạt động thương mại, đặc
biệt là hoạt động cung ứng dịch vụ. Việc xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh đối
với nước ta là cả một quá trình lâu dài, vì thị trường luôn biến động nên hệ thống pháp
luật cũng phải được bổ sung hoàn chỉnh kịp thời cho phù hợp với tình hình thực tế.
Bên cạnh đó, để theo kịp tình hình phát triển của kinh tế thì pháp luật quốc tế cũng
không ngừng điều chỉnh, hoàn thiện nhằm ổn định các hoạt động thương mại của các
nước. Nhiều hiệp định quốc tế, điều ước quốc tế song phương cũng như đa phương đã
được kí kết và đã mang lại hiệu quả kinh tế rất cao cho các nước thành viên.

*Cơ sở xã hội:
Mọi quan hệ xã hội đều cần được điều chỉnh bởi pháp luật. Quan hệ mua bán trao
đổi hàng hóa, dịch vụ là một phần của quan hệ xã hội. Việc ban hành các quy định của
pháp luật về HĐDV sẽ đảm bảo quyền và lợi ích của các bên tham gia, từ đó các mối
quan hệ giữa mọi cá nhân và tổ chức trong xã hội sẽ được xây dựng, duy trì và phát
triển. Ngoài ra pháp luật về thương mại dịch vụ còn dựa trên cơ sở đạo đức, văn hóa,
thuần phong mỹ tục của Việt Nam. Các quy định pháp luật về thương mại dịch vụ và
hợp ứng dịch vụ còn phải tuân thủ nguyên tắc: không trái đạo đức xã hội, thuần phong
mỹ tục của nước ta. Muốn quy định pháp luật tồn tại lâu dài và được áp dụng trong
thực tế thì phải được xã hội chấp nhận, ủng hộ và phù hợp với xã hội.
1.2.2. Nội dung pháp luật điều chỉnh hợp đồng dịch vụ
a. Nguồn luật điều chỉnh hợp đồng dịch vụ ở nước ta hiện nay
Theo khoản 1 Điều 3 của LTM 2005 thì hoạt động thương mại là hoạt động nhằm
mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến
thương mại và và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác. Trong đó cung ứng dịch
vụ là một hoạt động thương mại mà một bên có nghĩa vụ thực hiện dịch vụ cho một
bên khác và nhận thanh toán cho bên cung ứng dịch vụ và sử dụng dịch vụ theo thỏa
thuận.
Hoạt động cung ứng dịch vụ là một hoạt động thương mại do đó chịu sự điều
chỉnh của LTM 2005 và pháp luật có liên quan. Tùy từng lĩnh vực cụ thể như dịch vụ
tư vấn, dịch vụ thiết kế, dịch vụ giám định,... chịu sự điều chỉnh của các quy định cụ
thể khác nhau. Các hợp đồng dịch vụ trong hoạt động thương mại cụ thể chịu sự điều
chỉnh của LTM 2005 và BLDS 2015. Trường hợp điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa
xã hội chủ nghiã Việt Nam là thành viên có quy định áp dụng pháp luật nước ngoài,
17
17


tập quán thương mại quốc tế hoặc có quy định khác với quy định của LTM, BLDS thì áp
dụng quy định của Điều ước quốc tế. Các bên trong giao dịch nước ngoài được thỏa thuận

áp dụng pháp luật nước ngoài, tập quán quốc tế nếu pháp luật nước ngoài, tập quán
thương mại quốc tế đó không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
Như vậy, hợp đồng dịch vụ trong hoạt động thương mại chịu sự điều chỉnh của LTM
2005, BLDS 2015, Điều ước quốc tế và tập quán thương mại quốc tế có liên quan.
b. Nội dung pháp luật điều chỉnh hợp đồng dịch vụ
Nội dung của pháp luật về hợp đồng dịch vụ được pháp luật Việt Nam cũng như
pháp luật quốc tế quy định rất đầy đủ từ các vấn đề: chủ thể giao kết hợp đồng, nội
dung hợp đồng, trình tự giao kết, điều kiện thanh toán, quyền và nghĩa vụ của các bên
trong hợp đồng, các phương thức giải quyết tranh chấp, hay phạt vi phạm hợp đồng,…
Tất cả những vấn đề này đều được đề cập đến một cách chi tiết và rõ ràng trong các
quy phạm pháp luật trong nước bao gồm: Bộ Luật Dân sự 2015, Luật Thương mại
2005,…Tuy nhiên, với phạm vi nghiên cứu nhỏ hẹp của một khóa luận nên bài viết
này chỉ đi sâu tìm hiểu nội dung pháp luật điều chỉnh hợp đồng dịch vụ về các vấn đề
sau:
• Trình tự giao kết hợp đồng dịch vụ.
Trình tự giao kết hợp đồng dịch vụ là quá trình mà trong đó cung ứng dịch vụ và
thuê dịch vụ bày tỏ ý chí với nhau bằng cách trao đổi ý kiến để đi đến thỏa thuận cùng
nhau xác lập quyền và nghĩa vụ mỗi bên. Giống với hợp đồng dân sự nói chung, trình
tự giao kết hợp đồng dịch vụ cũng bao gồm quá trình đề nghị giao kết và chấp nhận đề
nghị giao kết hợp đồng. Trong đó, đề nghị giao kết hợp đồng dịch vụ thể hiện rõ ý định
giao kết hợp đồng với bên đã được xác định cụ thể. Đề nghị giao kết hợp đồng dịch vụ
có thể do bên cung ứng dịch vụ và bên thuê dịch vụ. Đề nghị giao kết hợp đồng phải
đảm bảo được những tiêu chuẩn pháp lý nhất định theo quy định của pháp luật như
điều kiện có hiệu lực, thời gian có hiệu lực, điều kiện hủy bỏ… với nội dung rõ ràng
về tên dịch vụ, số lượng, phẩm chất, giá cả dịch vụ. Chấp nhận đề nghị giao kết là sự
trả lời của bên được đề nghị về việc chấp nhận toàn bộ nội dung của đề nghị; hoặc bên
được đề nghị có thể im lặng nhưng vẫn được xem là chấp nhận đề nghị giao kết nếu có
thỏa thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết.
Qua đó, có thể thấy trình tự giao kết hợp đồng tuy là một khâu cơ bản nhưng lại
có vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện hoạt động cung ứng dịch vụ. Đây chính là

bước nền tảng để xây dựng nên một hợp đồng dịch vụ, có đầy đủ căn cứ pháp lý, cũng
như sự logic, chặt chẽ khi giao kết hợp đồng dịch vụ giữa các chủ thể kinh doanh. Vì
vậy, việc đi sâu tìm hiểu về trình tự giao kết hợp đồng dịch vụ là rất cần thiết.
• Phạt vi phạm trong hợp đồng dịch vụ.
18

18


Khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng mà người có nghĩa vụ không
thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ thì sẽ phát sinh trách nhiệm
dân sự với người có quyền theo quy định trong hợp đồng. Tuy nhiên, nếu sự vi phạm
này chưa gây thiệt hại, thì người vi phạm chỉ có trách nhiệm thực hiện đúng nghĩa vụ.
Mặt khác, nếu vi phạm nghĩa vụ đã gây ra một thiệt hại cho người bị vi phạm, thì
người vi phạm phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Vì vậy, tùy thuộc vào tính
chất, hậu quả của sự vi phạm mà trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng sẽ là trách
nhiệm buộc phải thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng, trách nhiệm bồi thường thiệt hại (
nếu đã gây thiệt hại), và có thể là trách nhiệm phạt vi phạm nếu các bên có thỏa thuận.
Ngoài ra, bồi thường thiệt hại vẫn phát sinh dù không có thỏa thuận giữa các bên
và khi hội tụ đủ các yếu tố như: có hành vi vi phạm hợp đồng, có thiệt hại thực tế và
có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại xảy ra. Tuy
nhiên, vấn đề về phạt vi phạm hợp đồng lại được quy định khác nhau trong Luật
thương mại 2005 và trong Bộ luật dân sự 2015.
• Quy phạm pháp luật về quy định cho phép thỏa thuận ấn định giá dịch vụ trong
hợp đồng dịch vụ.
Nếu một thị trường mà ở đó, người tiêu dùng có thể hưởng nhờ lợi ích từ cạnh
tranh thì chắc chắn sẽ tồn tại sự tranh đua hạ giá bán hoặc tăng cao giá mua giữa các
doanh nghiệp đối thủ cạnh tranh của nhau. Quyền lựa chọn của khách hàng được tôn
trọng sẽ sinh ra một cách tự nhiên cơ chế hình thành giá cạnh tranh của hàng hoá và
dịch vụ, các doanh nghiệp đua nhau mua chuộc khách hàng bằng những mức giá hấp

dẫn. Tính chất tự nhiên của cơ chế giá cạnh tranh đòi hỏi sự trung thực và thái độ tích
cực của các nhà kinh doanh khi đối diện với sức ép của cạnh tranh trong đời sống thị
trường. Sự giục giã của lợi nhuận cũng làm xuất hiện những toan tính loại bỏ sức ép
của cạnh tranh qua giá bằng cách liên kết các đối thủ cạnh tranh với một chiến lược
kinh doanh thống nhất.
Thỏa thuận ấn định giá dịch vụ là việc các doanh nghiệp thống nhất áp dụng một
mức giá hoặc một cách thức tính giá chung khi cung ứng dịch vụ với các khách hàng
hoặc trao đổi thông tin về giá để tạo nên những phản ứng thống nhất về giá dịch vụ khi
đàm phán với khách hàng.


Trách nhiệm pháp lý của các bên khi có vi phạm hợp đồng dịch vụ.
Trong hoạt động thực tiễn, việc một trong các bên không thực hiện hoặc thực
hiện không đúng nghĩa vụ của hợp đồng có thể xảy ra. Tình trạng này được coi là một
19

19


sự vi phạm hợp đồng. Vi phạm hợp đồng dịch vụ là việc một bên không thực hiện,
thực hiện không đúng hoặc không đầy đủ nghĩa vụ các bên thỏa thuận trong hợp đồng.
Khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng mà người có nghĩa vụ không thực
hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ thì sẽ phát sinh TNDS với người
có quyền theo quy định trong hợp đồng. Tuy nhiên, nếu sự vi phạm này chưa gây thiệt
hại, thì người vi phạm chỉ có trách nhiệm thực hiện đúng nghĩa vụ. Mặt khác, nếu vi
phạm nghĩa vụ đã gây ra một thiệt hại cho người bị vi phạm, thì người vi phạm phải
chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Vì vậy, tùy thuộc vào tính chất, hậu quả của sự
vi phạm mà TNDS do vi phạm hợp đồng sẽ là trách nhiệm buộc phải thực hiện nghĩa
vụ trong hợp đồng, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ( nếu đã gây thiệt hại), và có thể là
trách nhiệm phạt vi phạm nếu các bên có thỏa thuận.

• Pháp luật về giải quyết tranh chấp phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng



dịch vụ.
Trong phần lớn các quan hệ kinh tế luôn tồn tại mâu thuẫn về lợi ích. Các mối
quan hệ đó được ghi nhận trong hợp đồng chính là để có một cách thức điều hòa quyền
và lợi ích của các bên, cũng như là để giải quyết tranh chấp khi nó xẩy ra. Tranh chấp
hợp đồng kinh tế không những thường xảy ra ở các doanh nghiệp lớn mà các công ty
nhỏ cũng thường xuyên gặp phải.
Tranh chấp hợp đồng được hiểu là mâu thuẫn giữa các chủ thể tham gia quan hệ
hợp đồng về việc thực hiện hoặc không thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo hợp
đồng cũng như ý kiến bất đồng của các bên về việc đánh giá hành vi vi phạm hoặc là
cách thức giải quyết hậu quả từ vi phạm đó. Tranh chấp hợp đồng thường phát sinh từ
quan hệ hợp đồng và thuộc quyền tự quyết của các bên tranh chấp, tranh chấp hợp
đồng luôn có yếu tố vật chất hoặc tinh thần và gắn với lợi ích các bên tranh chấp.
Khi xảy ra tranh chấp hợp đồng, nhiều người nghĩ ngay tới kiện tụng tại tòa,
nhưng đó không phải là phương thức duy nhất. Bên cạnh đó, có rất nhiều những
phương thức giải quyết tranh chấp hợp đồng trước khi quyết định lựa chọn một
phương thức phù hợp nhất.
Giải quyết tranh chấp hợp đồng thông qua thương lượng: Hai bên trong hợp



đồng tự đàm phán để đưa ra phương án xử lý tranh chấp mà không cần đến sự trợ giúp
của bên thứ ba. Phương thức giải quyết tranh chấp này giúp các bên tiết kiệm thời
gian, chi phí nhưng trong nhiều trường hợp không hiệu quả vì phụ thuộc vào thiện chí
của các bên trong hợp đồng.
Giải quyết tranh chấp hợp đồng thông qua hòa giải: Có thêm sự tham gia của bên
thứ ba. Hòa giải viên với vai trò trung gian sẽ giúp các bên đưa ra cách giải quyết mâu

20

20




thuẫn, quyết định cuối cùng vẫn phụ thuộc vào hai bên tranh chấp. Cũng giống như
thương lượng, phương thức hòa giải chỉ phát huy tác dụng khi các bên có thiện chí.
Giải quyết tranh chấp hợp đồng thông qua trọng tài: Các bên đưa mâu thuẫn,



bất đồng nhờ bên thứ ba là các trọng tài viên hoặc các trung tâm trọng tài giải quyết.
Phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài chỉ được áp dụng khi hai bên tranh
chấp có thỏa thuận trọng tài. Trọng tài có nhiều ưu điểm nổi trội như thời gian giải
quyết nhanh, các trọng tài viên thường có chuyên môn cao, đảm bảo bí mật, tính chung
thẩm… Tuy nhiên, chi phí để giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thường khá cao, hiệu
lực phán quyết của trọng tài thường không cao bằng tòa án.
Giải quyết tranh chấp hợp đồng thông qua tòa án: Tòa án là cơ quan nhân danh
quyền lực nhà nước. Khi có tranh chấp, một bên có quyền khởi kiện bên kia ra tòa án
có thẩm quyền. Đây là phương thức giải quyết tranh chấp thường được các doanh
nghiệp Việt Nam sử dụng. Ưu điểm của Tòa Án là chi phí thấp hơn trọng tài, hiệu lực
phán quyết cao…nhưng thủ tục rườm rà, tốn nhiều thời gian…
1.3. Nguyên tắc về pháp luật điều chỉnh hợp đồng dịch vụ.
1.3.1. Nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng nhưng không trái pháp luật, đạo
đức xã hội.
Dựa trên nguyên tắc này, mọi cá nhân, tổ chức khi có đủ các điều kiện tư cách
chủ thể đều có thể tham gia giao kết bất kỳ một giao dịch hoặc hợp đồng dịch vụ nào
nếu muốn. Các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng có sự tự do ý chí trong việc lựa

chọn hợp đồng mà mình giao kết, tự do lựa chọn chủ thể giao kết, tự do lựa chọn các
quyền và nghĩa vụ trong quá trình giao kết. Không một chủ thể nào được phép can
thiệp trái pháp luật vào sự tự do giao kết hợp đồng của các chủ thể tham gia hợp đồng.
Tuy nhiên, mặc dù pháp luật Việt Nam thừa nhận sự tự do giao kết hợp đồng là một
nguyên tắc nhưng trên tinh thần: “Quyền tự do cam kết, thỏa thuận trong việc xác lập
quyền, nghĩa vụ dân sự được pháp luật bảo đảm, nếu cam kết, thỏa thuận đó không vi
phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Điều này có nghĩa là các chủ
thể tham gia giao kết hợp đồng dịch vụ có sự tự do, nhưng sự tự do đó phải trong một
khuôn khổ nhất định. Hợp đồng dịch vụ chỉ được pháp luật công nhận và bảo vệ khi ý
chí của các bên giao kết hợp đồng phù hợp với ý chí của Nhà nước. Hay nói cách
khác, sự tự do ý chí giao kết hợp đồng của các chủ thể phải nằm trong khuôn khổ, giới
hạn nhất định dựa trên lợi ích của cá nhân khác, lợi ích chung của xã hội và trật tự
công cộng.
1.3.2. Nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực, ngay thẳng.
Nguyên tắc này được quy định nhằm đảm bảo trong quá trình giao kết hợp đồng
dịch vụ không ai bị cưỡng ép hoặc bị buộc giao kết trái với ý chí của mình. Ý chí tự
21

21


nguyện của các bên chủ thể tham gia hợp đồng chỉ được bảo đảm khi các bên bình
đẳng với nhau trên mọi phương diện. Nguyên tắc bình đẳng là một trong những
nguyên tắc được ghi nhận trong Hiến pháp Việt Nam năm 2013. Trong quan hệ hợp
đồng dịch vụ, sự bình đẳng luôn luôn được pháp luật của các quốc gia thừa nhận. Pháp
luật các nước nói chung và pháp luật Việt Nam nói riêng không thừa nhận những hợp
đồng dịch vụ được giao kết thiếu sự bình đẳng và ý chí tự nguyện của một trong các
bên chủ thể. Mà việc giao kết hợp đồng được coi là tự nguyện chỉ khi hợp đồng phản
ánh một cách khách quan, trung thực mong muốn, nguyện vọng của các bên tham gia
hợp đồng.

1.3.3. Nguyên tắc đảm bảo việc thực hiện đúng, đầy đủ hợp đồng.
Pháp luật về hợp đồng dịch vụ phải được xây dựng trên cơ sở đảm bảo các bên
tuân thủ cam kết của hợp đồng, một khi hợp đồng được xác lập và có hiệu lực, hợp
đồng sẽ là luật giữa các bên, các bên có nghĩa vụ thực hiện đúng, đầy đủ các cam kết
này. Pháp luật quy định những chế tài nhằm đảm bảo việc thực hiện đúng, đầy đủ này.
Chấp hành thực hiện đúng hợp đồng là không được tự ý thay đối tượng này bằng
một đối tượng khác hoặc không được thay thế việc thực hiện nó bằng cách trả một số tiền
nhất định hoặc không thực hiện nó. Nguyên tắc này đòi hỏi thỏa thuận cái gì thì thực hiện
đúng cái đó. Việc thực hiện không đúng hợp đồng sẽ bị coi là vi phạm hợp đồng, là
nguyên nhân dẫn đến tranh chấp và có thể gây ra thiệt hại cho các bên tham gia.
1.3.4. Nguyên tắc không được xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích
công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng dịch vụ các bên tham gia phải đảm bảo
không xâm phạm tới lợi ích của Nhà nước hay quyền và lợi ích của người khác. Có
như thế, hợp đồng dịch vụ được ký kết mới đảm bảo được vai trò của nó trong việc
góp phần phát triển kinh tế và xã hội của đất nước.
1.3.5. Nguyên tắc chịu trách nhiệm dân sự.
Cá nhân, pháp nhân phải tự chịu trách nhiệm về việc không thực hiện hoặc thực
hiện không đúng nghĩa vụ dân sự. Đây là một trong những quy định bắt buộc làm cơ
sở để giải quyết tranh chấp nếu có, đồng thời là một trong những biện pháp buộc các
bên phải thực hiện nghiêm túc những thỏa thuận, cam kết trong mối quan hệ dân sự để
bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các chủ thể pháp luật dân sự.
Bộ luật Dân sự 2015 bãi bỏ quy định “Nếu không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ
dân sự thì có thể bị cưỡng chế thực hiện theo quy định pháp luật”.

22

22



23

23


CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ VÀ THỰC
TIỄN THỰC HIỆN TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN DỊCH VỤ BẢO VỆ ÁNH
DƯƠNG VIỆT NAM
2.1. Tổng quan tình hình và các nhân tố ảnh hưởng đến thực hiện hợp đồng
dịch vụ.
2.1.1. Tổng quan tình hình pháp luật về hợp đồng dịch vụ
* Tổng quan tình hình phát triển của hệ thống pháp luật về hợp đồng dịch vụ.
Các hoạt động thương mại đã có mặt và xuất hiện rất lâu. Việt Nam là một đất
nước đang phát triển, đang trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới cho nên các hoạt
động thương mại đang trên đà phát triển mạnh mẽ, đa dạng và phức tạp. Bởi vậy, cần
có pháp luật điều chỉnh các hoạt động này nhằm thúc đẩy quản lý của nhà nước và sự
hội nhập diễn ra tốt hơn. Tùy thuộc vào mục tiêu, chính sách phát triển của mỗi thời kỳ
lại có pháp luật điều chỉnh các hoạt động thương mại nói chung khác nhau. Trong các
văn bản quy phạm pháp luật chứa đựng các quy định điều chỉnh về nguyên tắc giao
kết, đề nghị giao kết, chấp nhận giao kết, thời điểm có hiệu lực, điều kiện có hiệu lực
của hợp đồng cung ứng dịch vụ trong thương mại. Khi các quy định này hình thành và
có hiệu lực đã tạo cơ sở pháp lý cho mọi chủ thể tham gia quan hệ giao kết hợp đồng
cung ứng dịch vụ trong thương mại.
Hợp đồng dịch vụ là cơ sở pháp lý để doanh nghiệp thực hiện việc cung ứng
dịch vụ thương mại cho khách hàng. Các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ sẽ không
cung cấp dịch vụ cho khách hàng của mình nếu không dựa trên một cam kết cụ thể
nào, và hợp đồng dịch vụ chính là công cụ, là cơ sở pháp lý để các doanh nghiệp
này thực hiện việc cung cấp dịch vụ này. Thông qua hợp đồng dịch vụ thương mại,
các doanh nghiệp bước vào một thỏa thuận với những đối tác của mình thông qua

niềm tin mà chúng ta gọi là luật để đảm bảo rằng những thỏa thuận cung cấp dịch
vụ đó sẽ được thực hiện.
Hợp đồng dịch vụ là cơ sở để doanh nghiệp xác định quyền và nghĩa vụ của
mình. Trong một khuôn khổ, hợp đồng dịch vụ cho phép các doanh nghiệp tạo ra một
luật lệ thông qua những điều khoản của thỏa thuận mà các bên đã giao kết – điều chỉnh
mối quan hệ giữa doanh nghiệp và đối tác. Bên cạnh những quyền và nghĩa vụ cơ bản
mà pháp luật quy định về hợp đồng dịch vụ thì các bên sẽ quy định cụ thể về quyền
và nghĩa vụ như cung cấp dịch vụ trong bao lâu, mức độ hài lòng được đánh giá
như thế nào, tiến độ thanh toán, trách nhiệm của các bên nếu không thực hiện cam
kết của mình.
24

24


Trước đây khi Pháp lệnh hợp đồng kinh tế 1989 còn hiệu lực, việc giao kết hợp
đồng dịch vụ chưa được thực hiện đúng và đủ do đây là thời điểm trình độ dân trí cũng
như mức độ tiếp cận đến các văn bản pháp luật ở nước ta chưa cao, kỹ thuật lập pháp
của Việt Nam còn những hạn chế nhất định. Thông thường, các bên giao kết với nhau
chủ yếu theo thói quen và tập quán, ít sử dụng hình thức văn bản. Khi Luật Thương
mại 1997 ra đời và đồng thời trong khoảng thời điểm đó vào năm 1995 đã có BLDS ra
đời điều chỉnh vấn đề giao kết về hợp đồng. Hai văn bản này là bước tiến trong việc
điều chỉnh các vấn đề liên quan đến giao kết hợp đồng dịch vụ trong thương mại.
Trước sự đổi mới cũng như sự phát triển của ngành dịch vụ, con người đã chú trọng
hơn đến việc xây dựng hành lang pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình. Giai đoạn này việc thực hiện pháp luật đã có phần quy củ hơn, tuy vẫn còn
những vướng mắc do những quy định của luật chưa được rõ ràng, cụ thể. Sau này,
BLDS 2005 và LTM 2005 ra đời thay thế cho hai văn bản cũ và hiện nay là BLDS
2015 có hiệu lực, là căn cứ giúp cho các chủ thể xác định được nghĩa vụ, quyền hạn,
thể thức giao kết hợp lý.

Những năm gần đây tỷ trọng ngành dịch vụ chiếm tỷ trọng khá lớn trong cơ cấu
GDP, mua bán dịch vụ ngày càng trở nên sôi động, phổ biến khi thị trường thương mại
dịch vụ được mở cửa, tạo sự cạnh tranh mạnh mẽ giữa các doanh nghiệp Việt nam với
nhau cũng như giữa các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Việt Nam với các doanh
nghiệp cung cấp dịch vụ nước ngoài. Và cùng với đó, hợp đồng dịch vụ trở thành một
công cụ pháp lý vô cùng cần thiết để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của doanh
nghiệp khi tham gia thị trường thương mại dịch vụ.
* Tổng quan tình hình áp dụng pháp luật về hợp đồng dịch vụ tại Công ty
Cổ phần dịch vụ bảo vệ Ánh Dương Việt Nam.
Trong bối cảnh có nhiều biến động như hiện nay, nhu cầu an ninh, an toàn luôn
được đặt lên hàng đầu ở mỗi quốc gia. Tại Việt Nam, chưa bao giờ vấn đề an toàn và
tự bảo vệ lại được chú trọng biệt như hiện nay. Có thể nói, sự ra đời và hoạt động của
các Công ty bảo vệ chuyên nghiệp mang lại nhiều giá trị cho cộng đồng, xã hội.
Cùng với nó là các quy phạm pháp luật điều chỉnh pháp luật về hợp đồng dịch vụ
đang dần thay đổi và hoàn thiện để theo kịp xu hướng của thế giới, Công ty Cổ phần
dịch vụ bảo vệ Ánh Dương Việt Nam cũng đang tích cực nghiên cứu, tìm hiểu các quy
định của pháp luật về hợp đồng cung ứng dịch vụ để áp dụng vào hợp đồng cung ứng
dịch vụ bảo vệ công ty.
Công ty được thành lập từ năm 2006, và duy trì hoạt động kinh doanh cho đến
nay. Trong thời gian đó, trình độ cùng các kĩ năng vận dụng pháp luật vào hợp đồng
dịch vụ của nhân viên trong công ty dần được cải thiện và nâng cao. Những năm trước
25

25


×