Tải bản đầy đủ (.docx) (44 trang)

Pháp luật về hợp đồng đại lý thương mại cho thương nhân nước ngoài – thực tiễn thực hiện tại Công ty Cổ phần Phòng cháy chữa cháy Thăng Long

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (274.18 KB, 44 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC......................................................................................................................... i
DANH MỤC BẢNG BIỂU.............................................................................................iv
LỜI MỞ ĐẦU...................................................................................................................1
1. Tính cấp thiết nghiên cứu của đề tài..........................................................................1
2. Tổng quan công trình nghiên cứu liên quan..............................................................2
3. Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu......................................................................3
4. Đối tượng, mục tiêu, phạm vi nghiên cứu..................................................................3
5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................................4
6. Kết cấu khóa luận tốt nghiệp......................................................................................5
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HỢP
ĐỒNG ĐẠI LÝ THƯƠNG MẠI CHO THƯƠNG NHÂN NƯỚC NGOÀI................6
1.1. Khái quát về hợp đồng đại lý thương mại cho thương nhân nước ngoài............6
1.1.1. Khái niệm hợp đồng đại lý thương mại cho thương nhân nước ngoài................6
1.1.2. Đặc điểm của hợp đồng đại lý thương mại cho thương nhân nước ngoài...........7
1.2. Cơ sở ban hành và nội dung pháp luật điều chỉnh hợp đồng đại lý thương mại
cho thương nhân nước ngoài...........................................................................................8
1.2.1.Cơ sở ban hành pháp luật điều chỉnh hợp đồng đại lý thương mại cho thương nhân
nước ngoài.......................................................................................................................... 8
1.2.2. Quy định pháp luật Việt Nam về hợp đồng đại lý thương mại cho thương nhân
nước ngoài......................................................................................................................... 9
1.3. Một số nguyên tắc điều chỉnh hợp đồng đại lý thương mại cho thương nhân
nước ngoài......................................................................................................................15
1.3.1. Nguyên tắc tự do, tự nguyện, bình đẳng..............................................................15
1.3.2. Nguyên tắc thiện chí, trung thực.........................................................................15
1.3.3. Nguyên tắc về hiệu lực ràng buộc của hợp đồng................................................16
1.3.4. Nguyên tắc không xâm phạm lợi ích hợp pháp khác..........................................16
1.4. Kết luận..................................................................................................................16
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HỢP ĐỒNG ĐẠI LÝ
THƯƠNG MẠI CHO THƯƠNG NHÂN NƯỚC NGOÀI TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN
PHÒNG CHÁY CHỮA CHÁY THĂNG LONG.........................................................17


2.1. Tổng quan tình hình và các nhân tố ảnh hưởng tới pháp luật điều chỉnh hợp
đồng đại lý cho thương nhân nước ngoài.....................................................................17
2.1.1. Tổng quan tình hình pháp luật điều chỉnh hợp đồng đại lý thương mại cho
thương nhân nước ngoài................................................................................................17
1


2.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng tới pháp luật điều chỉnh hợp đồng đại lý thương mại
cho thương nhân nước ngoài.........................................................................................18
2.2. Phân tích thực trạng các quy định pháp luật về hợp đồng đại lý thương mại cho
thương nhân nước ngoài................................................................................................19
2.2.1. Quy định liên quan đến bản chất pháp lý của hoạt động đại lý thương mại cho
thương nhân nước ngoài................................................................................................19
2.2.2. Quy định liên quan đến chủ thể tham gia hợp đồng đại lý thương mại cho
thương nhân nước ngoài................................................................................................19
2.2.3. Quy định về hình thức của hợp đồng đại lý thương mại cho thương nhân nước
ngoài................................................................................................................................ 20
2.2.4. Quy định liên quan đến quyền và nghĩa vụ các bên trong hợp đồng đại lý
thương mại cho thương nhân nước ngoài.....................................................................20
2.2.5. Quy định pháp luật về chấm dứt hợp đồng đại lý thương mại cho thương nhân
nước ngoài....................................................................................................................... 21
2.2.6. Quy định về trách nhiệm của bên đại lý, bên giao đại lý với bên thứ ba.............22
2.2.7. Quy định về quản lý Nhà nước với hoạt động đại lý thương mại cho thương
nhân nước ngoài.............................................................................................................22
2.3. Thực tiễn áp dụng pháp luật về hợp đồng đại lý thương mại cho thương nhân
nước ngoài tại Công ty Cổ phần Phòng cháy chữa cháy Thăng Long.......................24
2.3.1. Khái quát về hoạt động đại lý thương mại cho thương nhân nước ngoài tại
Công ty Cổ phần Phòng cháy chữa cháy Thăng Long..................................................24
2.3.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật điều chỉnh hợp đồng đại lý thương mại cho thương
nhân nước ngoài tại Công ty Cổ phần Phòng cháy chữa cháy Thăng Long................25

2.4. Các kết luận và phát hiện qua nghiên cứu............................................................28
2.4.1. Thành tựu đạt được...............................................................................................28
2.4.2. Hạn chế, bất cập....................................................................................................29
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ
THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG ĐẠI LÝ THƯƠNG MẠI CHO
THƯƠNG NHÂN NƯỚC NGOÀI................................................................................31
3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam về hợp đồng đại lý thương mại
cho thương nhân nước ngoài.........................................................................................31
3.1.1. Hoàn thiện pháp luật về hợp đồng đại lý thương mại cho thương nhân nước
ngoài phải thể chế hóa đầy đủ, kịp thời đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước
về kinh tế.........................................................................................................................31

2


3.1.2. Hoàn thiện pháp luật về hợp đồng đại lý thương mại cho thương nhân nước
ngoài phải đảm bảo tính minh bạch, đồng bộ, thống nhất và khả thi, phù hợp với đặc
điểm nền kinh tế Việt Nam..............................................................................................31
3.1.3. Hoàn thiện pháp luật về hợp đồng đại lý thương mại cho thương nhân nước
ngoài phải đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, đảm bảo phù hợp với pháp luật,
thông lệ quốc tế...............................................................................................................32
3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về hợp đồng đại lý thương mại cho
thương nhân nước ngoài................................................................................................32
3.2.1. Một số kiến nghị hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về hợp đồng đại lý
thương mại cho thương nhân nước ngoài.....................................................................32
3.2.2. Một số kiến nghị đối với cơ quan Nhà nước trong thực thi pháp luật về hợp
đồng đại lý thương mại cho thương nhân nước ngoài..................................................35
3.2.3. Một số kiến nghị với Công ty Cổ phần Phòng cháy chữa cháy Thăng Long......35
3.3. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu.......................................................36
KẾT LUẬN.....................................................................................................................38

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................1

3


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Tên bảng
Bảng 2.1

Nội dung
Thống kê doanh thu từ hoạt động đại lý cho thương nhân
nước ngoài của Công ty Cổ phần Phòng cháy chữa cháy
Thăng Long.

4


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết nghiên cứu của đề tài
Những năm vừa qua, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn 170 quốc gia
trên thế giới, mở rộng quan hệ thương mại, xuất khẩu hàng hoá tới trên 230 thị trường
của các nước và vùng lãnh thổ, ký kết trên 90 Hiệp định thương mại song phương, gần 60
Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư 1. Trong điều kiện mở cửa thị trường, hội nhập
kinh tế quốc tế, các doanh nghiệp nước ngoài có xu hướng mở kênh phân phối tại Việt
Nam ngày càng nhiều và mua bán hàng hàng hóa, cung ứng dịch vụ thông qua hình thức
đại lý thương mại được rất nhiều nhà đầu tư nước ngoài lựa chọn. Dịch vụ đại lý giúp các
nhà đầu tư nước ngoài hình thành mạng lưới buôn bán, tiêu thụ, cung ứng dịch vụ trên
phạm vi rộng, tạo điều kiện chiếm lĩnh, mở rộng thị trường mà không cần có sự hiện diện
thương mại tại Việt Nam.
Trên thế giới, pháp luật về đại lý thương mại hình thành từ rất sớm và lần đầu xuất

hiện trong Bộ luật thương mại 1897 của Đức và Bộ luật thương mại 1899 của Nhật Bản 2.
Ở Việt Nam, khái niệm đại lý thương mại được pháp luật ghi nhận kể từ thời điểm Luật
Thương mại 1997 ra đời và có hiệu thi hành ngày 1/1/1998. Tuy nhiên, phạm vi hoạt
động của đại lý thương mại trong Luật này chỉ giới hạn ở hàng hóa, do đó, nhiều dịch vụ
đại lý như đại lý bảo hiểm, đại lý chứng khoán, đại lý lữ hành,…không thuộc phạm vi
điều chỉnh của Luật. Ngày 14/06/2005, Quốc hội khóa XI thông qua Luật Thương mại
2005 với nhiều sửa đổi, bổ sung và là nguồn luật trực tiếp điều chỉnh trực tiếp hoạt động
đại lý thương mại cho đến nay. Sau gần 13 năm thi hành, Luật Thương mại 2005 và các
văn bản pháp luật liên quan bộc lộ một số hạn chế, bất cập, chưa phù hợp với thông lệ
quốc tế, nhất là trong bối cảnh thương mại toàn cầu.
Qua quá trình thực tập tại Công ty Cổ phần Phòng cháy chữa cháy Thăng Long, em
nhận thấy đại lý thương mại cho thương nhân nước ngoài là kênh phân phối chiếm tỷ
trọng doanh thu lớn trong quá trình kinh doanh của công ty. Song vì hợp đồng đại lý
thương mại cho thương nhân nước ngoài là hợp đồng thương mại quốc tế nên việc áp
dụng pháp luật trong giao kết và thực hiện hợp đồng gặp rất nhiều khó khăn, khúc mắc,
tiềm ẩn tính rủi ro.
Trước yêu cầu hoàn thiện pháp luật đáp ứng quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, em
đã lựa chọn đề tài “Pháp luật về hợp đồng đại lý thương mại cho thương nhân nước
ngoài – thực tiễn thực hiện tại Công ty Cổ phần Phòng cháy chữa cháy Thăng Long” cho
1 Theo các “Báo cáo của các Bộ/ngành của Uỷ ban quốc gia về Hợp tác kinh tế quốc tế”, Ban Chỉ đạo liên ngành
hội nhập quốc tế về kinh tế, 2018.
2 Nguyễn Mai Chi, Luận văn “Pháp luật Việt Nam về hợp đồng đại lý”, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội,
2012.


khóa luận tốt nghiệp. Em hi vọng kết quả của nghiên cứu này sẽ góp phần đánh giá, hoàn
thiện pháp luật về hợp đồng đại lý thương mại cho thương nhân nước ngoài và áp dụng
hiệu quả trong thực tiễn tại Công ty.
2. Tổng quan công trình nghiên cứu liên quan
Kể từ khi Luật Thương mại 2005 có hiệu lực thi hành đến nay, các công trình

nghiên cứu về hợp đại lý thương mại có số lượng lớn, được thể hiện dưới nhiều hình thức
khác nhau như Luận văn, Luận án, các đề tài nghiên cứu khoa học, sách chuyên khảo,
sách tham khảo, bài viết tạp chí. Có thể liệt kê một số tài liệu tiêu biểu sau:
 Nhóm các luận văn, luận án
Luận văn Thạc sĩ “Pháp luật Việt Nam về hợp đồng đại lý”, Khoa Luật Trường Đại
học Quốc gia Hà Nội của tác giả Nguyễn Mai Chi (2011); Luận văn Thạc sĩ “Đại lý
thương mại theo Luật Thương mại 2005”, Khoa Luật Trường Đại học Quốc gia Hà Nội
của tác giả Ngô Thị Minh Hải (2011); Luận văn Thạc sĩ “Hợp đồng đại lý mua bán hàng
hóa theo pháp luật thương mại Việt Nam”, Viện Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
của tác giả Vũ Hồng Nam (2017); Luận án Tiến sỹ “Pháp luật điều chỉnh các hoạt động
trung gian thương mại ở Việt Nam”, Trường Đại học Luật Hà Nội của tác giả Nguyễn Thị
Vân Anh (2007).
 Nhóm sách tham khảo
Sách tham khảo “Cẩm nang hợp đồng thương mại” của Phòng Thương mại và Công
nghiệp Việt Nam VCCI (2007); “Những nguyên tắc hợp đồng thương mại quốc tế” của
Viện thống nhất Tư pháp quốc tế Italia do Lê Nết dịch năm 1999; “Pháp luật thương mại
dịch vụ Việt Nam và hội nhập kinh tế quốc tế” của nhóm tác giả PGS.TS Nguyễn Như
Phát, TS.Phan Thảo Nguyên (2006).
 Nhóm các công trình chuyên khảo
“Báo cáo hỗ trợ Bộ Công thương xây dựng Nghị định về Đại lý thương mại trong
lĩnh vực phân phối” của EU -Việt Nam MUTRAP III Dự án Hỗ trợ thương mại đa biên
Giai đoạn III tiến hành từ 8/2008 đến 6/2012; Sách chuyên khảo “Bước đầu tìm hiểu
pháp luật thương mại Mỹ” của Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Viện
nghiên cứu nhà nước và pháp luật (2002), NXB Khoa học xã hội; Sách chuyên khảo “Bộ
luật Thương mại và những ngoại lệ đặc biệt về kiểm soát của Nhật Bản” của NXB. Chính
trị quốc gia (1994).
 Nhóm các bài báo nghiên cứu
Các bài viết của tác giả Nguyễn Thị Vân Anh “Khái niệm, bản chất pháp lý của
hoạt động trung gian thương mại” số 1/2006, “Một số ý kiến về đại lý thương mại” số
5/2006, “Vấn đề pháp lý về quan hệ hợp đồng phát sinh trong hoạt động trung gian



thương mại” số 11/2008 trên Tạp chí Luật học; Bài báo “Tăng cường quản lý nhà nước
đối với hoạt động đại lý thương mại” trên Tạp chí Công thương của tác giả Kim Liên
(03/08/2011); Bài báo “Quản lý hoạt động đại lý thương mại: “Áo đã quá chật” trên Báo
Diễn đàn doanh nghiệp của tác giả Mai Thanh (09/08/2011).
Có thể thấy hầu hết các nghiên cứu đã đề cập tới những khía cạnh của hợp đồng đại
lý thương mại, cụ thể là làm rõ khái niệm, bản chất, phân tích các quy phạm pháp luật và
thực trạng áp dụng hợp đồng đại lý thương mại tại Việt Nam kể từ khi Luật Thương mại
2005 có hiệu lực thi hành. Song, không có nhiều công trình nghiên cứu về hợp đồng đại
lý thương mại cho thương nhân nước ngoài. Trong bối cảnh Việt Nam đã là thành viên
của Công ước Viên 1980, đồng thời cũng tích cực ký kết các điều ước quốc tế như Hiệp định
thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA), Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên
Thái Bình Dương (CPTPP), các nhà đầu tư nước ngoài mở kênh phân phối tại Việt Nam
thông qua hình thức đại lý ngày càng nhiều. Vì vậy, pháp luật về hợp đồng đại lý thương mại
cho thương nhân nước ngoài cần được nghiên cứu nhiều hơn, sâu sắc và toàn diện hơn để
đưa ra những phương hướng, giải pháp hoàn thiện đáp ứng nhu cầu hiện nay.
3. Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu
Căn cứ vào tính cấp thiết cần nghiên cứu của đề tài, em mong muốn được tiếp cận
và làm rõ một số khía cạnh của pháp luật về hợp đồng đại lý thương mại cho thương nhân
nước ngoài, phát hiện những ưu, nhược điểm, đặt ra các vấn đề cần giải quyết, từ đó kiến
nghị giải pháp hoàn thiện pháp luật nói chung và thực tiễn áp dụng tại Công ty Cổ phần
Phòng cháy chữa cháy Thăng Long nói riêng.
Do đó, em đã lựa chọn đề tài: “Pháp luật về hợp đồng đại lý thương mại cho
thương nhân nước ngoài – thực tiễn thực hiện tại Công ty Cổ phần Phòng cháy chữa
cháy Thăng Long” cho khóa luận tốt nghiệp của mình.
4. Đối tượng, mục tiêu, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Khóa luận tốt nghiệp tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và pháp luật điều
chỉnh hợp đồng đại lý thương mại cho thương nhân nước ngoài, thực tiễn áp dụng tại

Công ty Cổ phần Phòng cháy chữa cháy Thăng Long.
4.2. Mục tiêu nghiên cứu
4.2.1. Mục tiêu tổng quát
Mục đích của khóa luận nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về hợp đồng đại lý
thương mại cho thương nhân nước ngoài, phân tích các quy phạm pháp luật điều chỉnh về
hợp đồng đại lý thương mại cho thương nhân nước ngoài, đánh giá tình hình thực thi tại
Công ty Cổ phần Phòng cháy chữa cháy Thăng Long, từ đó, đưa ra kiến nghị hoàn thiện
đối với hệ thống pháp luật và đối với quá trình áp dụng của Công ty.


4.2.2. Mục tiêu cụ thể
 Hiểu rõ hơn những vấn đề lý luận về pháp luật điều chỉnh hợp đồng đại lý thương
mại cho thương nhân nước ngoài: Khái niệm, đặc điểm, cơ sở ban hành và nội dung pháp
luật, nguyên tắc điều chỉnh hợp đồng đại lý thương mại cho thương nhân nước ngoài.
 Tìm hiểu, phân tích, đưa ra đánh giá tổng quan về những quy định của pháp luật
Việt Nam điều chỉnh hợp đồng đại lý thương mại cho thương nhân nước ngoài.
 Nghiên cứu thực trạng áp dụng pháp luật về hợp đồng đại lý thương mại cho
thương nhân nước ngoài tại Công ty Cổ phần Phòng cháy chữa cháy Thăng Long.
 Đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi tại
Công ty.
4.3. Phạm vi nghiên cứu
 Giới hạn phạm vi nghiên cứu: Khóa luận nghiên cứu các quy định về hợp đồng
đại lý thương mại cho thương nhân nước ngoài trong Luật Thương mại 2005, Bộ luật
Dân sự 2015, Luật quản lý ngoại thương 2017 và các điều ước, văn kiện quốc tế mà Việt
Nam gia nhập, ký kết. Bên cạnh đó, khóa luận cũng tìm hiểu quan điểm về đại lý thương
mại của hai hệ thống luật trên thế giới: hệ thống luật châu Âu lục địa và hệ thống luật
Anh – Mỹ.
 Phạm vi nghiên cứu về mặt thời gian: Khóa luận nghiên cứu tình hình pháp luật
Việt Nam về hợp đồng đại lý thương mại cho thương nhân nước ngoài kể từ khi Luật
Thương mại 2005 chính thức có hiệu lực thi hành vào ngày 01/01/2006. Tuy nhiên, tập

trung vào giai đoạn từ năm 2013 đến nay, khi Công ty Cổ phần Phòng cháy chữa cháy
Thăng Long chính thức ký kết hợp đồng đại lý với các nhà đầu tư nước ngoài để phân
phối các sản phẩm phòng cháy chữa cháy tại Việt Nam.
 Phạm vi nghiên cứu về mặt không gian: Khóa luận nghiên cứu trong phạm vi
hoạt động kinh doanh của Công ty Cổ phần Phòng cháy chữa cháy Thăng Long.
5. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận tốt nghiệp được thực hiện trên cơ sở lý luận khoa học và các phương
pháp của Chủ nghĩa Mác – Lênin và các quan điểm, đường lối về chính trị, kinh tế, văn
hóa – xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Khóa luận sử dụng rất nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học khác nhau nhằm
làm rõ các nội dung nghiên cứu như: phương pháp thu thập dữ liệu thứ cấp từ các tài liệu
như luận văn, luận án, các công trình chuyên khảo, các bài báo cáo nghiên cứu; phương
pháp tổng hợp; phương pháp phân tích; phương pháp so sánh; phương pháp chứng minh;
phương pháp quy nạp;… Trong đó:


 Chương 1: sử dụng phương pháp tổng hợp, phân tích nhằm làm rõ một số vấn đề
lý luận về hợp đồng đại lý thương mại cho thương nhân nước ngoài, kết hợp phương
pháp so sánh với hợp đồng thương mại trong nước.
 Chương 2: phương pháp thu thập dữ liệu thứ cấp, phương pháp tổng hợp,
phương pháp phân tích, phương pháp thống kê sử dụng để cung cấp các thông tin, số liệu
cần thiết về tình hình hoạt động tại Công ty Cổ phần Phòng cháy chữa cháy Thăng Long;
phân tích các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành điều chỉnh hợp đồng đại lý thương
mại cho thương nhân nước ngoài; đánh giá thành tựu, hạn chế trong thực tiễn áp dụng
pháp luật.
 Chương 3: phương pháp tổng hợp, phân tích, chứng minh, quy nạp được sử dụng
chủ yếu để làm cơ sở chứng minh, luận giải cho các kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả
thực thi pháp luật điều chỉnh hợp đồng đại lý thương mại cho thương nhân nước ngoài.
6. Kết cấu khóa luận tốt nghiệp
Ngoài phần lời mở đầu, kết luận, danh mục bảng biểu và danh mục tài liệu tham

khảo, khóa luận gồm có 03 chương:
CHƯƠNG 1: Những vấn đề cơ bản về pháp luật điều chỉnh hợp đồng đại lý thương
mại cho thương nhân nước ngoài.
CHƯƠNG 2: Thực trạng pháp luật điều chỉnh hợp đồng đại lý thương mại cho
thương nhân nước ngoài tại Công ty Cổ phần Phòng cháy chữa cháy Thăng Long.
CHƯƠNG 3: Một số kiến nghị hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật
về hợp đồng đại lý thương mại cho thương nhân nước ngoài.


CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HỢP
ĐỒNG ĐẠI LÝ THƯƠNG MẠI CHO THƯƠNG NHÂN NƯỚC NGOÀI
1.1. Khái quát về hợp đồng đại lý thương mại cho thương nhân nước ngoài
1.1.1. Khái niệm hợp đồng đại lý thương mại cho thương nhân nước ngoài
Đại lý thương mại là kết quả của quá trình phân công lao động và trao đổi hàng hóa
từ lâu trong lịch sử. Ban đầu việc mua bán, tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ thương mại được
tiến hành trực tiếp giữa người mua và người bán, người cung ứng dịch vụ và người sử
dụng dịch vụ. Dần dần, khi quy mô kinh doanh mở rộng, nhu cầu tiêu thụ lớn trong khi
điều kiện địa lý xa và thời gian có hạn khiến thương nhân nhận ra cần có sự hỗ trợ của
bên trung gian. Dưới phương diện kinh tế, đại lý là một cách thức kinh doanh hay một
phương thức giao dịch mà trong đó, mọi việc thiết lập quan hệ giữa người mua và người
bán hàng hóa (người cung ứng dịch vụ và người sử dụng dịch vụ), việc xác định các điều
kiện giao dịch phải thông qua một người trung gian. 3 Dưới góc độ pháp lý, đại lý là một
hình thức của dịch vụ trung gian thương mại. Ở Việt Nam, trung gian thương mại được
hiểu “là hoạt động của thương nhân để thực hiện các giao dịch thương mại cho một hoặc
một số thương nhân được xác định, bao gồm hoạt động đại diện cho thương nhân, môi
giới thương mại, uỷ thác mua bán hàng hoá và đại lý thương mại.”4 Như vậy, với đặc thù
là loại hình trung gian thương mại, khái niệm “đại lý thương mại” được định nghĩa tại
Điều 166 Luật Thương mại 2005 “là hoạt động thương mại, theo đó bên giao đại lý và
bên đại lý thoả thuận việc bên đại lý nhân danh chính mình mua, bán hàng hoá cho bên
giao đại lý hoặc cung ứng dịch vụ của bên giao đại lý cho khách hàng để hưởng thù

lao.”
Điểm khác biệt cần lưu ý giữa hợp đồng đại lý trong nước và hợp đồng đại lý cho
thương nhân nước ngoài nằm ở khía cạnh chủ thể. Cả bên giao đại lý và bên đại lý trong
quan hệ hợp đồng đại lý trong nước đều là thương nhân Việt Nam, còn hợp đồng đại lý
cho thương nhân nước ngoài được giao kết giữa bên đại lý là thương nhân Việt Nam và
bên giao đại lý là thương nhân nước ngoài. Về vấn đề thương nhân nước ngoài, nhìn
chung, pháp luật các nước trên thế giới có những cách tiếp cận khác nhau. Theo pháp luật
Nhật Bản, một công ty nước ngoài đặt trụ sở của mình tại Nhật Bản hoặc có mục đích
chính và thực hiện công việc kinh doanh tại Nhật Bản, dù được thành lập ở nước ngoài,
vẫn phải tuân theo các quy định như một công ty được thành lập tại Nhật Bản 5. Bộ luật
các quy tắc của Liên bang Hoa Kỳ xác định thương nhân nước ngoài là bất kỳ thương
3 Trường Đại học Thương mại, “Giáo trình kỹ thuật thương mại quốc tế”, NXB. Thống kê, 2003, tr.17.
4 Khoản 11 Điều 3 Luật Thương mại 2005.
5 Điều 482 Bộ luật Thương mại và Luật những ngoại lệ đặc biệt về kiểm soát của Nhật Bản (1994).


nhân nào cư trú hoặc sinh sống bên ngoài lãnh thổ Hoa Kỳ 6. Pháp luật Việt Nam cũng có
quan niệm tương tự với pháp luật Hoa Kỳ: “Thương nhân nước ngoài là thương nhân
được thành lập, đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật nước ngoài hoặc được pháp
luật nước ngoài công nhận”7.
Mặc dù pháp luật Việt Nam không đưa ra khái niệm cụ thể, tuy nhiên, dựa vào các
quy định trong Bộ luật dân sự 2015 và Luật Thương mại 2005, có thể định nghĩa hợp
đồng đại lý thương mại cho thương nhân nước ngoài là sự thỏa thuận giữa bên giao đại lý
và bên đại lý về việc bên đại lý nhân danh chính mình mua, bán hàng hóa cho bên giao
đại lý hoặc cung ứng dịch vụ của bên giao đại lý cho khách hàng để hưởng thù lao, trong
quan hệ hợp đồng này, bên giao đại lý là thương nhân nước ngoài.
1.1.2. Đặc điểm của hợp đồng đại lý thương mại cho thương nhân nước ngoài
Thứ nhất, bản chất của hợp đồng đại lý thương mại cho thương nhân nước ngoài là
hợp đồng dịch vụ. Điều 513 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: “Hợp đồng dịch vụ là sự thỏa
thuận giữa các bên, theo đó bên cung ứng dịch vụ thực hiện công việc cho bên sử dụng

dịch vụ, bên sử dụng dịch vụ phải trả tiền dịch vụ cho bên cung ứng dịch vụ ”. Đối tượng
của hợp đồng dịch vụ là công việc có thể thực hiện được, không bị pháp luật cấm, không
trái đạo đức xã hội, cụ thể, trong trường hợp này là việc mua bán hàng hóa hoặc việc
cung ứng dịch vụ của bên đại lý cho bên giao đại lý.
Thứ hai, về chủ thể, như đã đề cập, các bên tham gia quan hệ hợp đồng đại lý cho
thương nhân nước ngoài đều phải là thương nhân 8, trong đó, bên giao đại lý là thương
nhân nước ngoài. Thương nhân nước ngoài bên cạnh việc chịu sự điều chỉnh pháp luật
nước nơi thương nhân đăng ký thành lập, hoạt động còn chịu sự điều chỉnh của pháp luật
nước khác nếu thương nhân muốn tiến hành hoạt động kinh doanh trên lãnh thổ nước
này.
Thứ ba, hợp đồng đại lý cho thương nhân nước ngoài phải được lập thành văn bản
hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương 9. Theo Khoản 15 Điều 3 Luật
Thương mại 2005, các hình thức có giá trị pháp lý tương đương văn bản bao gồm: điện
báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu và các hình thức khác theo quy định pháp luật.
Thứ tư, nội dung của hợp đồng đại lý cho thương nhân nước ngoài bao gồm các
điều điều khoản do các bên thỏa thuận: hàng hóa hoặc dịch vụ đại lý; hình thức đại lý;
thù lao đại lý; thời hạn của hợp đồng đại lý; quyền và nghĩa vụ các bên. Ngoài ra, các bên
có thể thỏa thuận và ghi vào hợp đồng các nội dung khác như biện pháp bảo đảm hợp
đồng, chế độ bảo hành đối với hàng hóa đại lý, nghĩa vụ thanh toán các chi phí liên quan
6 Title 17 Commodity and Security Exchanges of Code of Federal Regulations
7 Khoản 1 Điều 16 Luật Thương mại 2005
8 Điều 167 Luật Thương mại 2005
9 Điều 168 Luật Thương mại 2005


đến hoạt động đại lý, hỗ trợ kỹ thuật, cơ sở vật chất cho đại lý tổ chức quảng cáo và tiếp
thị, thưởng phạt vật chất, bồi thường thiệt hại,…Bộ luật Dân sự 2015 và Luật Thương
mại 2005 không quy định trong hợp đồng đại lý mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ bắt
buộc phải có những nội dung cụ thể nào. Tuy nhiên, một số luật chuyên ngành đưa ra
điều khoản chủ yếu mà hợp đồng đại lý cần đảm bảo như Luật kinh doanh bảo hiểm 2000

(Điều 87).
1.2. Cơ sở ban hành và nội dung pháp luật điều chỉnh hợp đồng đại lý thương
mại cho thương nhân nước ngoài
1.2.1. Cơ sở ban hành pháp luật điều chỉnh hợp đồng đại lý thương mại cho
thương nhân nước ngoài
Như đã trình bày ở trên, hợp đồng đại lý thương mại cho thương nhân nước ngoài
được giao kết giữa một bên là thương nhân Việt Nam (bên đại lý) và một bên là thương
nhân nước ngoài (bên giao đại lý). Vì vậy, quan hệ đại lý thương mại cho thương nhân
nước ngoài chịu sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam và pháp luật nước ngoài. Mà mỗi
quốc gia lại có những quy định riêng về hợp đồng đại lý thương mại. Do đó, việc làm rõ
luật điều chỉnh trong giao kết và thực hiện hợp đồng là yếu tố đặc biệt quan trọng.
1.2.1.1. Pháp luật nước ngoài
Sự ra đời của các điều ước và văn kiện quốc tế đã góp phần thống nhất, hài hòa hóa
pháp luật điều chỉnh hoạt động thương mại quốc tế nói chung và hoạt động đại lý thương
mại cho thương nhân nước ngoài nói riêng, có thể kể đến một số điều ước quốc tế quan
trọng như: Công ước Rome 2008 về Luật áp dụng đối với các nghĩa vụ theo hợp đồng;
Bộ nguyên tắc về Luật hợp đồng châu Âu (Principles of European Contract Law – viết
tắt: PECL); Công ước Liên Mỹ về luật áp dụng cho hợp đồng quốc tế 1994; Nguyên tắc
Hợp đồng thương mại quốc tế (PICC).
Với bản chất là dịch vụ trung gian thương mại, pháp luật điều chỉnh hợp đồng đại lý
thương mại ở các nước không giống nhau. Các nước theo truyền thống luật châu Âu lục
địa như Pháp, Đức, Bỉ, Nhật Bản bên cạnh bộ luật dân sự có ban hành bộ luật thương
mại, trong đó quy định rất cụ thể về hoạt động đại lý. Các nước theo truyền thống pháp
luật Anh – Mỹ không có quy định riêng điều chỉnh hoạt động đại lý thương mại, tất cả
các giao dịch qua trung gian bất kể mục đích gì cũng được gọi chung trong “Law of
agency” (luật đại diện). Luật đại diện của Anh – Mỹ cũng dùng thuật ngữ người đại diện
(agent) để chỉ những người thực hiện một hoặc một số hành vi trên danh nghĩa của bên
ủy quyền hay danh nghĩa chính mình theo yêu cầu của bên ủy quyền 10. Tuy cách thức quy
định khác nhau nhưng pháp luật các nước đều tập trung đề cập một số vấn đề của hợp


10 Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Thương mại Tập 2, NXB. Công an Nhân dân, Hà Nội 2010, tr.82.


đồng đại lý thương mại: quyền và nghĩa vụ các bên; hình thức hợp đồng; trả tiền thù lao;
chấm dứt hợp đồng; bồi thường thiệt hại.
Hiện tại chưa có điều ước quốc tế nào mà Việt Nam tham gia đề cập cụ thể đến hợp
đồng đại lý song Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và Công
ước Hague 1964 về mua bán quốc tế có thể áp dụng liên quan đến một số lĩnh vực của
mua bán hàng hóa quốc tế theo hợp đồng đại diện.
1.2.1.2. Pháp luật Việt Nam
Các văn bản pháp luật chủ yếu điều chỉnh hoạt động đại lý thương mại nói chung và
đại lý thương mại cho thương nhân nước ngoài nói riêng của Việt Nam bao gồm:
 Bộ luật Dân sự 2015: được coi là luật “gốc” điều chỉnh các quan hệ dân sự, bao
gồm những nội dung cơ bản trong lĩnh vực hợp đồng như nguyên tắc, giao kết, thực hiện,
sửa đổi chấm dứt hợp đồng.
 Luật Thương mại 2005: là nguồn luật trực tiếp, quan trọng nhất điều chỉnh hoạt
động đại lý thương mại. Luật Thương mại 2005 quy định cụ thể khái niệm đại lý thương
mại, quyền và nghĩa vụ các bên, hình thức, thù lao, thanh toán, quyền sở hữu, thời hạn
trong hợp đồng đại lý.
 Luật Quản lý ngoại thương 2017: Luật này quy định cụ thể các biện pháp quản lý
Nhà nước đối với hoạt động ngoại thương, trong đó có hình thức đại lý mua bán hàng hóa
cho thương nhân nước ngoài.
 Các luật chuyên ngành: Ứng với mỗi loại hình dịch vụ hay hàng hóa, luật chuyên
ngành quy định khác nhau về cách thức thực hiện hoạt động đại lý như: Đại lý bảo hiểm
(Luật kinh doanh bảo hiểm 2000); Đại lý tàu biển (Bộ luật Hàng hải 2015); Đại lý lữ
hành (Luật Du lịch 2017); Đại lý kinh doanh xăng dầu (Thông tư 36/2009/TT-BTC ban
hành quy chế đại lý kinh doanh xăng dầu);…
 Các văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành Luật Thương mại và các luật khác:
Nghị định 69/2018/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Quản lý ngoại thương;
Nghị định 09/2018/NĐ-CP Quy định chi tiết Luật thương mại và Luật Quản lý ngoại

thương về hoạt động mua bán hàng hóa và các hoạt động liên quan trực tiếp đến mua bán
hàng hóa của nhà đầu tư nước ngoài, tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam;….
1.2.2. Quy định pháp luật Việt Nam về hợp đồng đại lý thương mại cho thương
nhân nước ngoài
1.2.2.1. Giao kết hợp đồng đại lý thương mại cho thương nhân nước ngoài


Về bản chất, hợp đồng đại lý thương mại cho thương nhân nước ngoài là một hợp
đồng dân sự nên quá trình giao kết hợp đồng này dựa trên sự thỏa thuận giữa các bên căn
cứ vào các quy định của Bộ luật Dân sự 2015. Cụ thể như sau:
 Đề nghị giao kết hợp đồng
Điều 386 Bộ luật Dân sự 2015: “Đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý
định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên
đã được xác định hoặc tới công chúng”. Quy định trên đã bám sát với Công ước Viên
1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, cụ thể, theo Điều 14 Công ước này: “Một
đề nghị ký kết hợp đồng gửi cho một hay nhiều người xác định được coi là một chào
hàng nếu có đủ chính xác và nếu nó chỉ rõ ý chí của người chào hàng muốn tự ràng buộc
mình trong trường hợp có sự chấp nhận chào hàng đó.”
Nội dung của đề nghị giao kết hợp đồng phải rõ ràng để bên được đề nghị hiểu rõ
mong muốn của bên đề nghị. Công ước Viên 1980 xác định, một đề nghị được coi là đủ
rõ ràng khi “nó nêu rõ hàng hóa và ấn định số lượng về giá cả một cách trực tiếp hoặc
gián tiếp hoặc quy định thể thức xác định những yếu tố này”. Nếu bên đề nghị đã chấp
nhận giao kết hợp đồng nhưng có nêu điều kiện hoặc sửa đổi thì coi như người này đã
đưa ra đề nghị mới.11
 Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng
Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là sự trả lời của bên được đề nghị về việc
chấp nhận toàn bộ nội dung của bên đề nghị. Sự im lặng của bên đề nghị không được coi
là chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc theo thói quen
đã được xác lập giữa các bên12.

 Thời điểm giao kết hợp đồng phát sinh hiệu lực
Về nguyên tắc chung, hợp đồng được giao kết vào thời điểm bên đề nghị nhận được
chấp nhận giao kết. Theo quy định của Luật Thương mại 2005 và các luật chuyên ngành,
hợp đồng đại lý thương mại cho thương nhân nước ngoài phải được lập thành văn bản
hoặc hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương, căn cứ cách xác định của Bộ luật
Dân sự 2015, thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản hay
bằng hình thức chấp nhận khác được thể hiện trên văn bản.
1.2.2.2. Quyền và nghĩa vụ các chủ thể trong hợp đồng đại lý thương mại cho
thương nhân nước ngoài
Về cơ bản, hợp đồng đại lý thương mại cho thương nhân nước ngoài được nghiên
cứu trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam. Do vậy, các quy định đối với hợp đồng này sẽ chịu

11 Điều 392 Bộ luật Dân sự 2015
12 Điều 393 Bộ luật Dân sự 2015


sự điều chỉnh của hệ thống pháp luật trong nước. Trong đó, liên quan tới trách nhiệm của
các bên cần tuân thủ một số quy định sau:
Quyền và nghĩa vụ của bên đại lý
 Nghĩa vụ của bên đại lý
Nghĩa vụ quan trọng nhất của bên đại lý là thực hiện mua, bán hàng hóa, cung ứng
dịch vụ cho khách hàng theo giá hàng hóa, giá cung ứng dịch vụ mà bên giao đại lý ấn
định. Nếu bên giao đại lý đã ấn định giá bán hàng hóa, giá cung ứng dịch vụ cho khách
hàng thì bên đại lý phải bán đúng giá, không được tự ý nâng giá bán hoặc giảm giá mua.
Đối với hình thức đại lý bao tiêu, bên đại lý phải mua hoặc bán theo đúng giá tối đa hoặc
giá tối thiểu đã thỏa thuận với bên giao đại lý.
Sau khi thực hiện hoạt động đại lý, bên đại lý có nghĩa vụ thanh toán cho bên giao
đại lý tiền bán hàng (đối với đại lý bán); nhận tiền và giao hàng cho bên giao đại lý (đối
với đại lý mua).
Trong quá trình thực hiện hợp đồng, bên đại lý có sự phụ thuộc chặt chẽ vào bên

giao đại lý, chịu sự kiểm tra, giám sát của bên giao đại lý, thực hiện chế độ báo cáo tình
hình hoạt động, bảo quản hàng hóa, chịu trách nhiệm hoặc liên đới chịu trách nhiệm về
chất lượng hàng hóa, chất lượng dịch vụ trong trường hợp có lỗi do mình gây ra, thực
hiện các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.
 Quyền của bên đại lý
Bên cạnh nghĩa vụ phải thực hiện, bên đại lý có quyền cơ bản là quyền hưởng thù
lao và các lợi ích hợp pháp khác do hoạt động đại lý mang lại. Điều 171 Luật Thương
mại 2005: “Trừ trường hợp có thỏa thuận khác thù lao đại lý được trả cho bên đại lý
dưới hình thức hoa hồng hoặc chênh lệch giá”. Ngoài ra, bên đại lý còn có các quyền
sau: giao kết hợp đồng đại lý với một hoặc nhiều bên giao đại lý; yêu cầu bên giao đại lý
giao hàng hoặc tiền theo hợp đồng đại lý; yêu cầu bên giao đại lý hướng dẫn, cung cấp
thông tin để thực hiện hợp đồng; quyết định giá bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ cho
khách hàng với đại lý bao tiêu.
Quyền và nghĩa vụ của bên giao đại lý
 Nghĩa vụ của bên giao đại lý
Tương ứng với quyền quan trọng nhất của bên đại lý là hưởng thù lao thì nghĩa vụ
cơ bản nhất của bên giao đại lý là trả thù lao và chi phí hợp lý khác cho bên đại lý. Bên
giao đại lý cũng có các nghĩa vụ khác như: Hướng dẫn, cung cấp thông tin, tạo điều kiện
cho bên đại lý thực hiện hợp đồng; Hoàn trả cho bên đại lý tài sản của bên đại lý dùng để
bảo đảm (nếu có) khi kết thúc hợp đồng đại lý; Chịu trách nhiệm về chất lượng hàng hóa,
dịch vụ hoặc liên đới chịu trách nhiệm về hành vi vi phạm pháp luật của bên đại lý nếu có
một phần do lỗi của mình gây ra.


 Quyền của bên giao đại lý
Điều 172 Luật Thương mại 2005 quy định bên giao đại lý có các quyền sau: Ấn
định giá mua, giá bán hàng hoá, giá cung ứng dịch vụ đại lý cho khách hàng; Ấn định giá
giao đại lý; Yêu cầu bên đại lý thực hiện biện pháp bảo đảm theo quy định của pháp luật;
Yêu cầu bên đại lý thanh toán tiền hoặc giao hàng theo hợp đồng đại lý; Kiểm tra, giám
sát việc thực hiện hợp đồng của bên đại lý.

1.2.2.3. Chấm dứt hợp đồng đại lý thương mại cho thương nhân nước ngoài
Pháp luật Việt Nam không quy định cụ thể về trường hợp chấm dứt hợp đồng đại lý
thương mại cho thương nhân nước ngoài. Tuy nhiên, căn cứ vào quy định chấm dứt hợp
đồng trong Bộ luật dân sự 2015, hợp đồng đại lý thương mại cho thương nhân nước
ngoài chấm dứt theo sự thỏa thuận của các bên và trong các trường hợp sau: (i) hợp đồng
đã được thực hiện xong, hết thời hạn hiệu lực; (ii) một trong các bên tham gia hợp đồng
chết, mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, mất tư cách thương nhân; (iii) hợp
đồng bị hủy bỏ, bị đơn phương chấm dứt thực hiện.
Bản chất của hợp đồng đại lý thương mại cho thương nhân nước ngoài là một loại
hợp đồng dịch vụ nên các bên tham gia hợp đồng đại lý có quyền đơn phương chấm dứt
hợp đồng đại lý trong những trường hợp sau: (i) việc tiếp tục thực hiện hợp đồng không
có lợi cho bên giao đại lý thì bên giao đại lý có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng;
(ii) bên giao đại lý không thực hiện nghĩa vụ của mình hoặc thực hiện không đúng theo
thỏa thuận thì bên đại lý có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng.
Tuy nhiên, theo Điều 177 Luật Thương mại 2005, hợp đồng đại lý chỉ chấm dứt sau
một thời gian hợp lý nhưng không sớm hơn 60 ngày, kể từ ngày một trong hai bên thông
báo bằng văn bản cho bên kia về việc chấm dứt hợp đồng đại lý. Điều này đồng nghĩa với
việc các bên có quyền tự do chấm dứt hợp đồng và như vậy sẽ ảnh hưởng quyền lợi bên
kia.
1.2.2.4. Giải quyết tranh chấp về hợp đồng đại lý thương mại cho thương nhân
nước ngoài
Tranh chấp kinh doanh thương mại có yếu tố nước ngoài là mâu thuẫn, bất đồng về
quyền và lợi ích phát sinh hoặc liên quan đến hoạt động kinh doanh thương mại (i) được
thực hiện giữa ít nhất một bên là cá nhân, pháp nhân nước ngoài, hoặc (ii) các bên tham
gia là công dân, pháp nhân Việt Nam nhưng việc xác lập, thay đổi, thực hiện hoặc chấm
dứt quan hệ đó diễn ra ở nước ngoài, hoặc (iii) các bên tham gia đều là công dân, pháp
nhân Việt Nam nhưng đối tượng của quan hệ đó ở nước ngoài 13. Dựa theo định nghĩa
trên, tranh chấp về hợp đồng đại lý thương mại cho thương nhân nước ngoài là tranh chấp
13 Phan Hoài Nam (2018), Luận văn “Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại có yếu tố nước ngoài tại Tòa
án Việt Nam”, TP. Hồ Chí Minh, tr.49.



kinh doanh thương mại có yếu tố nước ngoài. Các phương thức giải quyết tranh chấp về
quyền và lợi ích của hợp đồng này bao gồm:
 Thương lượng: là việc các bên trực tiếp gặp nhau để bàn bạc, thỏa thuận giải
quyết tranh chấp. Thương lượng thường được các bên ưu tiên sử dụng vì giữ bí mật thông
tin, ít mất thời gian và tiền bạc nhưng không có tính bắt buộc thi hành.
 Hòa giải: là phương thức giải quyết tranh chấp có sự tham gia của bên thứ ba
đóng vai trò là người trung gian giúp các bên đạt được thỏa thuận. Tương tự như thương
lượng, thỏa thuận giải quyết bằng hòa giải không được bắt buộc thi hành như phán quyết
của trọng tài hay tòa án.
 Trọng tài: là phương thức giải quyết tranh chấp mà các bên tự nguyện lựa chọn
người thứ ba (trọng tài) để giải quyết tranh chấp cho mình. Tranh chấp được giải quyết
bằng trọng tài, nếu trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp, các bên có thỏa thuận trọng tài.
Đối với tranh chấp có yếu tố nước ngoài, Hội đồng trọng tài áp dụng pháp luật do các bên
lựa chọn; nếu các bên không có thỏa thuận về luật áp dụng thì Hội đồng trọng tài quyết
định áp dụng pháp luật mà Hội đồng trọng tài cho là phù hợp nhất. Trường hợp pháp luật
Việt Nam, pháp luật do các bên lựa chọn không có quy định cụ thể liên quan đến nội
dung tranh chấp thì Hội đồng trọng tài được áp dụng tập quán quốc tế để giải quyết tranh
chấp nếu việc áp dụng hoặc hậu quả của việc áp dụng đó không trái với các nguyên tắc
cơ bản của pháp luật Việt Nam14.
 Tòa án: Giải quyết các tranh chấp thương mại quốc tế tại Toà án là một trong
những phương thức giải quyết được quy định trong pháp luật của nhiều nước trên thế giới
cũng như pháp luật Việt Nam. Giải quyết tranh chấp bằng tòa án là quyền đương nhiên,
các bên tranh chấp không cần phải thỏa thuận.
Các bên có thể lựa chọn Tòa án nước ngoài hoặc Tòa án Việt Nam để giải quyết
tranh chấp. Tuy nhiên, bản án, quyết định của Tòa án nước ngoài muốn được thi hành tại
Việt Nam phải được Tòa án Việt Nam xem xét, công nhận. Tòa án Việt Nam có thẩm
quyền chung và thẩm quyền riêng biệt giải quyết tranh chấp thương mại có yếu tố nước
ngoài theo quy định tại Điều 469, 470 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.

1.2.2.5. Quản lý Nhà nước về hoạt động đại lý thương mại cho thương nhân nước
ngoài
Bên cạnh việc các bên được quyền thoả thuận những nội dung của hợp đồng đại lý
thương mại cho thương nhân nước ngoài thì hợp đồng này cũng có điểm khác biệt so với
hợp đồng đại lý trong nước. Cụ thể Nhà nước Việt Nam sẽ quản lý hoạt động đại lý
thương mại cho thương nhân nước ngoài trên các khía cạnh điều kiện cấp phép; hình thức
14 Điều 14 Luật Trọng tài thương mại 2010.


thanh toán; thủ tục xuất, nhập khẩu hàng hoá; nghĩa vụ thuế và các nghĩa vụ tài chính
khác.
 Điều kiện cấp phép
Điều 50 Nghị định 69/2018/NĐ-CP quy định cho phép thương nhân Việt Nam được
làm đại lý mua, bán các loại hàng hóa cho thương nhân nước ngoài, trừ hàng hóa thuộc
Danh mục cấm xuất khẩu, tạm ngừng xuất khẩu, hàng hóa thuộc Danh mục hàng hóa cấm
nhập khẩu, tạm ngừng nhập khẩu. Đối với hàng hóa thuộc Danh mục hàng hóa xuất khẩu,
nhập khẩu theo giấy phép, thương nhân chỉ được ký hợp đồng đại lý sau khi được cơ
quan có thẩm quyền cấp phép. Nghĩa rằng với hợp đồng đại lý thương mại cho thương
nhân nước ngoài chỉ được các bên xác lập sau khi được Nhà nước cấp giấy phép hàng
hoá dịch vụ đó được phép kinh doanh tại Việt Nam.
 Hình thức thanh toán
Nếu là đại lý bán hàng, bên đại lý được thanh toán tiền bán hàng đại lý theo 02
phương thức: (i) thanh toán bằng tiền theo quy định pháp luật về ngoại hối; (ii) thanh
toán bằng hàng hóa không thuộc Danh mục hàng hóa cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu
hoặc không phải là hàng hóa tạm ngừng xuất khẩu, tạm ngừng nhập khẩu. Trường hợp
hàng hóa thuộc Danh mục hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu theo giấy phép thì phải được
cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép.15
Nếu là đại lý mua hàng, bên đại lý phải yêu cầu thương nhân nước ngoài chuyển
tiền bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi qua ngân hàng để mua hàng theo hợp đồng đại lý. 16
Quá trình thanh toán phải đảm bảo tuân thủ đúng theo quy định về quản lý ngoại hối và

hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
 Nghĩa vụ thuế
Điều 51 Nghị định 69/2018/NĐ-CP quy định, nghĩa vụ thuế và các nghĩa vụ tài
chính khác đối với hoạt động đại lý thương mại cho thương nhân nước ngoài thuộc về
thương nhân Việt Nam (bên đại lý). Bên đại lý có trách nhiệm đăng ký, kê khai, nộp các
loại thuế và các nghĩa vụ tài chính khác liên quan đến hàng hóa thuộc hợp đồng đại lý
mua, bán hàng hóa và hoạt động kinh doanh của mình theo quy định của pháp luật.
 Thủ tục xuất, nhập khẩu
Điều 52 Nghị định 69/2018/NĐ-CP quy định hàng hóa thuộc hợp đồng đại lý mua,
bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài khi xuất khẩu, nhập khẩu phải được làm thủ
tục theo đúng quy định pháp luật.
Nếu hàng hóa thuộc Danh mục hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu theo giấy phép,
thương nhân phải có giấy phép của Bộ, ngành liên quan, chịu sự kiểm soát chặt chẽ trước
15 Điều 48 Luật Quản lý ngoại thương 2017.
16 Điều 20 Nghị định 69/2018/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều Luật Quản lý ngoại thương.


khi thông quan. Nếu hàng hóa không thuộc Danh mục hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu
theo giấy phép và Danh mục hàng hóa cấm xuất khẩu, tạm ngừng xuất khẩu, thương nhân
chỉ phải làm thủ tục xuất khẩu, nhập khẩu tại Chi cục Hải quan cửa khẩu.
 Trả lại hàng
Hàng hóa thuộc hợp đồng đại lý bán hàng tại Việt Nam cho thương nhân nước
ngoài được tái xuất khẩu nếu không tiêu thụ được tại Việt Nam. Việc hoàn thuế đối với
hàng hóa nhập khẩu phải tái xuất được thực hiện theo Nghị định số 134/2016/NĐ-CP
Quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
1.3. Một số nguyên tắc điều chỉnh hợp đồng đại lý thương mại cho thương nhân
nước ngoài
“Nguyên tắc Hợp đồng thương mại quốc tế” (PICC) được xây dựng trên cơ sở hài
hòa các quy phạm pháp luật khác nhau của nhiều hệ thống pháp luật trên thế giới, được
sử dụng để giải thích hoặc bổ sung các văn bản pháp lý quốc tế nhằm thống nhất luật.

Việt Nam trong những nỗ lực mở cửa hội nhập quốc tế đã thừa nhận, nội luật hóa các
nguyên tắc của PICC trong Bộ luật Dân sự 2015. PICC ghi nhận các nguyên tắc điều
chỉnh hợp đồng thương mại quốc tế nói chung và hợp đồng đại lý thương mại cho thương
nhân nước ngoài nói riêng. Chương I của PICC 2004 đề cập một số nội dung cơ bản sau:
1.3.1. Nguyên tắc tự do, tự nguyện, bình đẳng
Tự do, tự nguyện và bình đẳng được coi là tư tưởng chủ đạo, có tính bắt buộc chung
đối với các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng. Trong hợp đồng đại lý thương mại cho
thương nhân nước ngoài, nguyên tắc này thể hiện ở sự tự do lựa chọn đối tác và tự do
thỏa thuận, thống nhất nội dung hợp đồng. Những sự áp đặt hay tác động làm mất đi tự
do ý chí của các bên như sự ép buộc, cưỡng bức đều ảnh hưởng tới hiệu lực của hợp đồng
và dẫn tới hợp đồng vô hiệu. Nguyên tắc tự do, tự nguyện, bình đẳng là nền tảng của trật
tự kinh tế quốc tế mang tính cạnh tranh và theo định hướng mở cửa thị trường.
Theo nguyên tắc tự do hợp đồng, các bên có quyền tự chủ trong lĩnh vực hoạt động
của mình nhưng trong một số trường hợp ngoại lệ, nguyên tắc này bị hạn chế vì lợi ích
chung, Nhà nước can thiệp vào quan hệ hợp đồng bằng các hình thức như: kiểm soát
hàng hóa, kiểm soát giá cảm kiểm soát độc quyền,…17
1.3.2. Nguyên tắc thiện chí, trung thực
Điều 1.7 của PICC 2004 nhấn mạnh: “Các bên trong hợp đồng phải hành động phù
hợp với tinh thần thiện chí và trung thực trong các giao dịch thương mại quốc tế”.
Nguyên tắc trên cũng được pháp luật Việt Nam ghi nhận tại Khoản 3 Điều 3 Bộ luật Dân
sự 2015: “Cá nhân, pháp nhân phải xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự
của mình một cách thiện chí, trung thực”. Nguyên tắc này đòi hỏi các bên trong quan hợp
17 Lê Nết, “Những nguyên tắc hợp đồng thương mại quốc tế”, NXB. Thành phố Hồ Chí Minh, 1999, tr.13


đồng đại lý thương mại phải cung cấp đầy đủ, chính xác thông tin, không có dấu hiệu lừa
dối ở bất cứ giai đoạn nào của hợp đồng. Các bên giao kết và thực hiện hiện hợp đồng
trên tinh thần hợp tác, tương trợ, đôi bên cùng có lợi, cùng tồn tại, phát triển.
1.3.3. Nguyên tắc về hiệu lực ràng buộc của hợp đồng
Theo quy định tại Điều 1.3 của PICC 2004, hợp đồng được ký kết có giá trị ràng

buộc các bên của quan hệ hợp đồng. Các bên phải tuân thủ và thực hiện nghiêm chỉnh
các điều khoản đã thỏa thuận. Hợp đồng chỉ có thể thay đổi hoặc chấm dứt trên cơ sở các
điều khoản của hợp đồng hoặc bằng sự thỏa thuận hoặc những phương thức khác đề cập
trong PICC 2004.18
1.3.4. Nguyên tắc không xâm phạm lợi ích hợp pháp khác
Nội dung nguyên tắc nhấn mạnh, việc giao kết và thực hiện hợp đồng đại lý thương
mại cho thương nhân nước ngoài không được xâm phạm lợi ích cá nhân, lợi ích xã hội và
lợi ích Nhà nước. Đây là nguyên tắc quan trọng nhằm bảo vệ lợi ích công cộng khi các
bên giao kết và thực hiện hợp đồng.
1.4. Kết luận
Trong bối cảnh Việt Nam mở cửa thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế, các doanh
nghiệp nước ngoài có xu hướng mở kênh phân phối tại Việt Nam ngày càng nhiều, hợp
đồng đại lý thương mại cho thương nhân nước ngoài cũng ngày càng phổ biến. Điểm
riêng biệt của hợp đồng đại lý thương mại cho thương nhân nước ngoài so với hợp đồng
đại lý nói chung nằm ở bên chủ thể giao đại lý là thương nhân nước ngoài có hàng hóa
muốn mua, bán hoặc dịch vụ muốn cung ứng tại thị trường Việt Nam. Chính vì điều này,
ngoài việc quan tâm tới các quy phạm pháp luật điều chỉnh hợp đồng đại lý, chúng ta cần
nghiên cứu, tìm hiểu pháp luật thương mại quốc tế và vấn đề quản lý Nhà nước về hoạt
động ngoại thương đối với hợp đồng đại lý thương mại cho thương nhân nước ngoài.
Xuất phát từ bản chất là một hình thức của dịch vụ trung gian thương mại, pháp luật các
nước trên thế giới có quan điểm về đại lý thương mại khác nhau đòi hỏi các chủ thể tham
gia quan hệ hợp đồng cần nắm bắt để đảm bảo quyền và lợi ích của mình. Đồng thời, tìm
ra những điểm tương đồng và khác biệt, những chuẩn mực và kinh nghiệm pháp lý trong
tương quan so sánh với pháp luật Việt Nam để phát hiện và đề xuất các giải pháp bổ
sung, hoàn chỉnh chế định pháp luật về hợp đồng đại lý ở Việt Nam.

18 Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Thương mại quốc tế, NXB. Công an Nhân dân, 2017, tr.217.


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HỢP ĐỒNG ĐẠI LÝ

THƯƠNG MẠI CHO THƯƠNG NHÂN NƯỚC NGOÀI TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN
PHÒNG CHÁY CHỮA CHÁY THĂNG LONG
2.1. Tổng quan tình hình và các nhân tố ảnh hưởng tới pháp luật điều chỉnh
hợp đồng đại lý cho thương nhân nước ngoài
2.1.1. Tổng quan tình hình pháp luật điều chỉnh hợp đồng đại lý thương mại cho
thương nhân nước ngoài
Như đã trình bày trong Chương 1, hoạt động đại lý thương mại đã xuất hiện từ rất
lâu trên thế giới và lần đầu tiên được ghi nhận trong Bộ luật thương mại 1897 của Đức và
Bộ luật thương mại 1899 của Nhật Bản19. Tại Việt Nam, khi chuyển sang nền kinh tế thị
trường, các lĩnh vực, ngành nghề ngày càng trở nên phong phú đa dạng, sự xuất hiện của
hoạt động trung gian thương mại nói chung và đại lý thương mại nói riêng đặt ra yêu cầu
cần có các quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động này. Ngày 10/5/1997, Quốc hội nước
ta thông qua Luật Thương mại 1997 có hiệu lực thi hành từ 01/01/1998. Hoạt động đại lý
được quy định từ Điều 111 đến 127 nhưng bị bó hẹp trong phạm vi đại lý mua bán hàng
hóa. Luật Thương mại 2005 ban hành, kế thừa nhiều nội dung của Luật Thương mại 1997
và bổ sung một số điểm phù hợp với thông lệ quốc tế như: mở rộng khái niệm đại lý
trong thương mại bao gồm đại lý mua bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ, bổ sung các nội
dung thể hiện quyền tự do thỏa thuận giữa các bên,…
Riêng đối với hoạt động đại lý thương mại cho thương nhân nước ngoài, Luật
Thương mại 2005 không có những quy định cụ thể về nội dung của hợp đồng. Luật Quản
lý ngoại thương 2017 và các văn bản hướng dẫn thi hành như Nghị định 69/2018/NĐ-CP
quy định chi tiết một số điều của Luật Quản lý ngoại thương; Nghị định 09/2018/NĐ-CP
quy định chi tiết Luật thương mại và Luật Quản lý ngoại thương về hoạt động mua bán
hàng hóa và các hoạt động liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hóa của nhà đầu tư nước
ngoài, tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam có đề cập tới nhưng lại tập
trung khía cạnh quản lý Nhà nước như thủ tục xuất, nhập khẩu, thủ tục thành lập hoạt
động, nghĩa vụ thuế, thanh toán ngoại hối,…Do vậy, phần lớn căn cứ của hợp đồng đại lý
thương mại cho thương nhân nước ngoài vẫn dựa trên Bộ luật Dân sự 2015, Luật Thương
mại 2005 và một số văn kiện quốc tế.
Bên cạnh đó, do đặc điểm hoạt động thương mại rất phong phú gồm nhiều lĩnh vực,

ngành nghề khác nhau, vì vậy, một số văn bản luật chuyên ngành đưa ra những quy định
riêng về hợp đồng đại lý ứng với mỗi loại hình kinh doanh hàng hóa, dịch vụ như: Luật
Kinh doanh bảo hiểm 2000, Bộ luật Hàng hải 2015, Luật Du lịch 2017;…
19 Nguyễn Mai Chi, Luận văn “Pháp luật Việt Nam về hợp đồng đại lý”, Hà Nội, 2012.


Trong bối cảnh Việt Nam trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO), Luật Thương mại 2005 và các văn bản luật liên quan tạo cơ sở pháp lý để đại lý
thương mại “cởi trói” với những quy định mang tính mở rộng. Tuy vậy, thực tiễn thực
hiện hợp đồng đại lý thương mại trong thời gian qua đã và đang phát sinh nhiều vướng
mắc, sai sót, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên cũng như của người
tiêu dùng.
2.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng tới pháp luật điều chỉnh hợp đồng đại lý thương
mại cho thương nhân nước ngoài
Thứ nhất, chính sách định hướng của Đảng và Nhà nước được coi là nhân tố cơ bản
ảnh hưởng tới quá trình xây dựng và ban hành pháp luật điều chỉnh hợp đồng đại lý
thương mại cho thương nhân nước ngoài. Trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hóa tập trung,
hoạt động đại lý thương mại nói chung chưa phát triển, một trong những văn bản quy
phạm sớm nhất trực tiếp điều chỉnh hoạt động đại lý là Thông tư số 04-BNg/XNK ngày
11/4/1984 về việc đặt đại lý mua bán hàng hóa ở nước ngoài. Kể từ khi Nhà nước ta
chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa như hiện nay, hoạt
động đại lý liên tục được mở rộng, đa dạng cả về cách thức, đối tượng và phạm vi, đòi
hỏi Đảng và Nhà nước cần có định hướng và chính sách phát triển phù hợp, đáp ứng yêu
cầu của quá trình vận động thực tiễn.
Thứ hai, hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành nhu cầu tất yếu cho sự phát triển kinh
tế các nước trên thế giới và được coi là nhân tố quan trọng chi phối pháp luật thương mại
của mỗi quốc gia. Bên cạnh việc ký kết các hiệp định song phương và đa phương, tham
gia các thỏa thuận ưu đãi thương mại, liên minh thuế quan, thị trường chung,...thì Việt
Nam đang từng bước hoàn thiện, bổ sung hệ thống pháp luật phù hợp với các quy định
quốc tế và cam kết hội nhập. Giữ vai trò là một trong những kênh phân phối của nhiều

nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, hoạt động đại lý thương mại cho thương nhân nước
ngoài chịu ảnh hưởng bởi tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta.
Thứ ba, xuất phát từ nhu cầu các bên của quan hệ hợp đồng đại lý thương mại cho
thương nhân nước ngoài, họ luôn mong muốn thực hiện hoạt động kinh doanh trong hành
lang pháp lý an toàn, hạn chế tối đa rủi ro. Hệ thống quy định pháp luật là căn cứ bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của các bên khi xác lập, thực hiện, thay đổi, chấm dứt quan hệ
hợp đồng. Điều này đòi hỏi pháp luật cần có tính ổn định, không ngừng hoàn thiện và
nâng cao hiệu quả thực thi, đáp ứng nhu cầu của các chủ thể trong nền kinh tế quốc dân.


2.2. Phân tích thực trạng các quy định pháp luật về hợp đồng đại lý thương
mại cho thương nhân nước ngoài
2.2.1. Quy định liên quan đến bản chất pháp lý của hoạt động đại lý thương mại
cho thương nhân nước ngoài
Điều 166 Luật Thương mại 2005 quy định bản chất của đại lý thương mại là việc
bên đại lý nhân danh chính mình mua, bán hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ cho bên giao
đại lý để được hưởng thù lao. Tuy nhiên, tại một số văn bản luật chuyên ngành, bản chất
của đại lý không đồng nhất với khái niệm trong Luật Thương mại 2005. Chẳng hạn,
người đại lý tàu biển nhân danh chủ tàu hoặc người khai thác tàu tiến hành các dịch vụ
liên quan đến tàu biển hoạt động tại cảng20 hay đại lý bảo hiểm được hiểu là tổ chức, cá
nhân được doanh nghiệp bảo hiểm ủy quyền để thực hiện hoạt động đại lý bảo hiểm 21.
Như vậy, trong hai trường hợp trên, bên đại lý không nhân danh chính mình mà nhân
danh bên giao đại lý thực hiện hợp đồng với bên thứ ba. Những quy định trong luật
chuyên ngành mâu thuẫn với Luật Thương mại 2005 gây khó khăn, vướng mắc cho quá
trình thực thi.
Trong khi đó, pháp luật một số nước chỉ khái quát tất cả các hiện tượng trung gian
thương mại dưới khái niệm “agency” (Anh – Mỹ) hoặc “Agent commercial” (Pháp) 22
cùng chỉ những người thực hiện một hoặc một số hành vi trên danh nghĩa của bên ủy
quyền hay danh nghĩa chính mình theo yêu cầu của bên ủy quyền. So với pháp luật Việt
Nam, cách hiểu của pháp luật nước ngoài có tính thống nhất, bao quát về bản chất của đại

lý thương mại hơn.
2.2.2. Quy định liên quan đến chủ thể tham gia hợp đồng đại lý thương mại cho
thương nhân nước ngoài
Đại lý thương mại được thực hiện trên cơ sở hợp đồng giao kết giữa bên đại lý và
bên giao đại lý. Trong đó, bên giao đại lý giao hàng hóa cho đại lý bán, giao tiền hàng
cho đại lý mua hoặc ủy quyền thực hiện dịch vụ cho đại lý cung ứng dịch vụ. Bên đại lý
nhận hàng hóa để làm đại lý bán, nhận tiền mua hàng để làm đại lý mua hoặc nhận ủy
quyền cung ứng dịch vụ. Có thể thấy, điều kiện về chủ thể của hợp đồng đại lý thương
mại khắt khe hơn so với hợp đồng mua bán hàng hóa, bắt buộc các bên phải là thương
nhân. Về thương nhân nước ngoài, quy định của Luật Thương mại 2005 tiệm cận với
pháp luật của nhiều nước trên thế giới, từ đó mở rộng chủ thể tham gia quan hệ đại lý
thương mại. Theo pháp luật Việt Nam, thương nhân nước ngoài có thể giao cho thương
nhân Việt Nam làm đại lý mua bán hàng hóa, trừ hàng hóa thuộc Danh mục cấm xuất
khẩu, tạm ngừng xuất khẩu, hàng hóa thuộc Danh mục hàng hóa cấm nhập khẩu, tạm
20 Điều 158 Bộ luật Hàng hải 2017.
21 Điều 84 Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000.
22 Giáo trình Luật Thương mại Tập 2, NXB. Công an Nhân dân, Hà Nội 2010, tr.77.


ngừng nhập khẩu. Đối với hàng hóa thuộc Danh mục hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu theo
giấy phép, thương nhân chỉ được ký hợp đồng đại lý sau khi được cơ quan có thẩm quyền
cấp phép. Luật Thương mại 2005 cũng không đề cập tới việc bên giao đại lý và bên đại lý
có cần ngành nghề kinh doanh phù hợp với hàng hóa đại lý hay không. Đây là quy định
tiến bộ nhằm đảm bảo quyền tự do kinh doanh của các chủ thể.
2.2.3. Quy định về hình thức của hợp đồng đại lý thương mại cho thương nhân
nước ngoài
Quan hệ đại lý thương mại cho thương nhân nước ngoài được xác lập trên cơ sở hợp
đồng, Điều 168 Luật Thương mại quy định rõ: “Hợp đồng đại lý phải được lập thành văn
bản hoặc hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương”. Mọi thỏa thuận miệng hoặc
thông qua hành vi thực tế đều không có giá trị pháp lý. Quy định này tương đối khắt khe

so với pháp luật thương mại một số nước, quan hệ đại lý có thể xác lập bằng văn bản
hoặc các hình thức khác. Điều 1.2 Những nguyên tắc của hợp đồng thương mại quốc tế
(UNIDROIT) quy định: “Không một chi tiết nào của PICC yêu cầu một hợp đồng phải
được ký kết bằng văn bản hoặc phải được chứng minh có sự thỏa thuận bằng văn bản.
Sự tồn tại của hợp đồng có thể được chứng minh bằng bất kỳ hình thức nào, kể cả bằng
nhân chứng”. Tuy nhiên, trong mối quan hệ hợp đồng đại lý thương mại cho thương nhân
nước ngoài, thời gian hợp tác lâu dài, quyền sở hữu và chuyển rủi ro có tính chất phức
tạp, dễ nảy sinh tranh chấp, vì vậy, hợp đồng giữa các bên nên được lập thành văn bản
hoặc các hình thức khác có giá trị tương đương để giảm thiểu tính rủi ro.
2.2.4. Quy định liên quan đến quyền và nghĩa vụ các bên trong hợp đồng đại lý
thương mại cho thương nhân nước ngoài
Quyền và nghĩa vụ của các bên là nội dung quan trọng trong hợp đồng đại lý thương
mại cho thương nhân nước ngoài. Để tạo cơ sở pháp lý cho các bên thỏa thuận cũng như
đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên nếu hợp đồng chưa có thỏa thuận rõ ràng,
Luật Thương mại 2005 đã xây dựng các quy định về quyền và nghĩa vụ của bên giao đại
lý và bên đại lý. Một số vấn đề cần lưu ý về quyền và nghĩa vụ các bên trong hợp đồng
đại lý theo quy định của Luật Thương mại 2005 như sau:
Về sở hữu đối với hàng hóa, Điều 170 Luật Thương mại 2005 quy định, bên giao
đại lý là chủ sở hữu đối với hàng hóa dù hàng hóa đã chuyển giao cho bên đại lý để bán
cho khách hàng. Tuy nhiên, trên thực tế, người ta thường ký kết hợp đồng đại lý dưới hai
dạng: hợp đồng đại lý “mua đứt bán đoạn” (tức là bên giao đại lý bán lại hàng hóa của
mình cho bên đại lý, bên đại lý tiếp tục bán cho khách hàng với giá ấn định) và hợp đồng
đại lý ký gửi. Điều 221 Bộ luật Dân sự 2015 đưa ra cách xác lập quyền sở hữu đối với tài
sản dựa theo sự thỏa thuận thay vì ấn định quyền sở hữu là quyền riêng của bên giao đại


lý. Như vậy, đối với hợp đồng đại lý “mua đứt bán đoạn”, quy định trên của Luật Thương
mại không linh hoạt, mâu thuẫn với luật chung và bị hạn chế về phạm vi áp dụng.
Về bảo mật thông tin, rất nhiều trường hợp các bên trong quan hệ đại lý thương mại
có nhu cầu bảo mật thông tin với bên thứ ba. Việc một bên tiết lộ thông tin có thể ảnh

hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của bên còn lại. Chẳng hạn, đối với bên đại lý, danh
sách khách hàng đặc biệt quan trọng trong tạo lập mạng lưới phân phối, tìm kiếm chỗ
đứng trên thị trường. Quyền sở hữu danh sách khách hàng cần được pháp luật bảo vệ
trong thời gian làm đại lý và ngay cả một khoảng thời gian nhất định khi hợp đồng đại lý
hết hiệu lực. Tuy nhiên, từ Điều 172 đến Điều 175 Luật Thương mại 2005 không đề cập
tới vấn đề bảo mật thông tin dẫn tới quyền lợi các bên, đặc biệt bên đại lý không được
đảm bảo.
Về các dịch vụ hỗ trợ và hậu mãi, khi bán hàng hóa cho người tiêu dùng, bên đại
lý có thể được yêu cầu cung cấp các dịch vụ hỗ trợ (tư vấn, lắp ráp, chạy thử,…) và các
dịch vụ hậu mãi (bảo hành, bảo dưỡng,…). Song quyền và nghĩa vụ các bên liên quan
đến những dịch vụ trên không được pháp luật quy định cụ thể. Các bên có thể gặp khó
khăn, lúng túng trong quá trình thực hiện hợp đồng và dễ nảy sinh tranh chấp.
Về giao kết hợp đồng đại lý, Khoản 7 Điều 175 quy định bên đại lý có thể giao kết
hợp đồng với một hoặc nhiều bên giao đại lý, trừ trường hợp pháp luật có quy định cụ thể
bên đại lý chỉ được giao kết hợp đồng đại lý với một bên giao đại lý đối với loại hàng
hóa, dịch vụ nhất định và các bên không có thỏa thuận khác. Mục đích của thỏa thuận
này để ngăn chặn bên đại lý không được ký kết với các đối thủ cạnh tranh của bên giao
đại lý, ảnh hưởng đến tính cạnh tranh hoặc chuyển giao bí quyết kinh doanh cho đối thủ.
2.2.5. Quy định pháp luật về chấm dứt hợp đồng đại lý thương mại cho thương
nhân nước ngoài
Thứ nhất, như đã trình bày ở Mục 1.2.2.3, theo quy định tại Luật Thương mại 2005
thì các bên trong quan hệ đại lý thương mại có thể đơn phương chấm dứt hợp đồng đại lý
và chỉ cần thông báo bằng văn bản cho bên kia trong một thời hạn quy định. Bản chất của
hợp đồng là sự thỏa thuận có giá trị ràng buộc pháp lý đối với các bên. Quy định trên của
Luật đã làm mất đi tính ràng buộc thực hiện hợp đồng, đồng thời cũng khiến bên còn lại
bị ảnh hưởng về quyền và lợi ích.
Thứ hai, về thời hạn thông báo việc chấm dứt hợp đồng đại lý, pháp luật Việt Nam
quy định, trừ trường hợp có thỏa thuận khác, hợp đồng đại lý chỉ chấm dứt sau một thời
gian hợp lý nhưng không sớm hơn 60 ngày. Tuy nhiên, thời hạn của mỗi hợp đồng đại lý
khác nhau, tính rủi ro và thời gian để bên còn lại chuẩn bị khắc phục thiệt hại khi bên kia

đơn phương chấm dứt hợp đồng cũng khác nhau. Vì vậy, việc quy định thời hạn thông


×