Tải bản đầy đủ (.docx) (64 trang)

Pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi Thực tiễn thực hiện tại Công ty TNHH SX TM Palado Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (401.19 KB, 64 trang )

TÓM LƯỢC
Đề tài: “Pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi- Thực tiễn thực
hiện tại Công ty TNHH SX & TM Palado Việt Nam”
Chương I khóa luận nghiên cứu khái quát chung về khái niệm, đặc điểm, các
loại thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi và pháp luật về vấn đề này. Bên cạnh đó khóa
luận còn trình bày cơ sở lịch sử hình thành phát triển của pháp luật Việt Nam về thời
giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, từ đó nêu ra các nguồn pháp luật về vấn đề này hiện
nay, làm rõ được các nguyên tắc pháp luật điều chỉnh nội dung này.
Đối với chương II khóa luận tập trung nghiên cứu thực trạng pháp luật về thời
giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi. Tiếp đến phân tích chi tiết thực tiễn thực hiện pháp
luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi tại Công ty TNHH SX & TM Palado Việt
Nam. Từ đó đánh giá những kế quả đạt được của việc quy định pháp luật về thời giờ
làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, qua đó rút ra được một số hạn chế, bất cập trong việc
thực thi pháp luật về nội dung này cũng như thực tiễn thực hiện tại công ty TNHH SX
& TM Palado Việt Nam.
Cuối cùng trong chương III của khóa luận đã đưa ra một số giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi và
những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu.

1


LỜI CẢM ƠN
Với lòng biết ơn sâu sắc nhất, em xin gửi lời cảm ơn đến các thầy cô giáo
trường Đại học Thương Mại nói chung, các thầy cô giáo Khoa Kinh tế- Luật nói riêng,
những người đã cùng tri thức và tâm huyết của mình truyền đạt vốn kiến thức quý báu
cho chúng em trong suốt thời gian học tập tại trường.
Đặc biệt, em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Phạm Minh Quốc đã tận tình
hướng dẫn, giúp đỡ em hoàn thành bài khóa luận tốt nghiệp.
Bài khóa luận tốt nghiệp được thực hiện trong khoảng thời gian gần 2 tháng.
Trong quá trình tìm hiểu và nghiên cứu để hoàn thành bài khóa luận này em đã cố


gắng nhưng do kiến thức và kinh nghiệm của em còn hạn chế, chắc chắn không tránh
khỏi những thiếu xót. Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của
thầy cô và sẽ tiếp thu để sửa đổi cho kiến thức của em được hoàn thiện hơn.
Hà Nội, ngày 04 tháng 12 năm 2019.
Sinh viên thực hiện

Nguyễn Hương Thảo

2


MỤC LỤC

TÓM LƯỢC.................................................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN..............................................................................................................ii
MỤC LỤC................................................................................................................... iii
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT......................................................................................vi
PHẦN MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài:........................................................................................1
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan:.............................................2
3. Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu:................................................................4
4. Đối tượng, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu:.........................................................5
5. Phương pháp nghiên cứu:.......................................................................................6
6. Kết cấu đề tài:..........................................................................................................6
CHƯƠNG I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THỜI GIỜ LÀM VIỆC,
THỜI GIỜ NGHỈ NGƠI VÀ PHÁP LUẬT VỀ THỜI GIỜ LÀM VIỆC, THỜI
GIỜ NGHỈ NGƠI........................................................................................................7
1.1. Khái quát chung về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi:.................................7
1.1.1. Khái niệm thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi:............................................7
1.1.2. Các loại thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi:................................................8

1.1.3. Đặc điểm của thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi:.......................................9
1.1.4. Ý nghĩa của quy định pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi:. .10
1.2. Khái quát chung về pháp luật điều chỉnh vấn đề thời giờ làm việc, thời giờ
nghỉ ngơi:....................................................................................................................12
1.2.1. Khái niệm pháp luật điều chỉnh vấn đề thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ
ngơi:

........................................................................................................................ 12

1.2.2. Lịch sử hình thành và phát triển các quy định pháp luật về thời giờ làm
việc, thời giờ nghỉ ngơi ở nước ta:............................................................................13
1.2.3. Nguồn pháp luật điều chỉnh vấn đề thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi ở
Việt Nam hiện nay:....................................................................................................17

3


1.2.4. Một số nguyên tắc pháp lý cơ bản của lĩnh vực pháp luật về thời giờ làm
việc, thời giờ nghỉ ngơi:.............................................................................................17
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ THỜI GIỜ LÀM VIỆC, THỜI
GIỜ NGHỈ NGƠI VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI CÔNG TY TNHH SX &
TM PALADO VIỆT NAM........................................................................................20
2.1. Thực trạng quy định pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi........20
2.1.1. Thực trạng pháp luật về thời giờ làm việc:......................................................20
2.1.2. Thực trạng quy định pháp luật về thời giờ nghỉ ngơi.....................................29
2.1.3. Một số nhận xét, đánh giá về thực trạng quy định pháp luật về thời giờ làm
việc, thời giờ nghỉ ngơi:.............................................................................................35
2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi tại công
ty TNHH SX & TM Palado Việt Nam:.....................................................................38
2.2.1. Tổng quan tình hình và các nhân tố ảnh hưởng đến thực tiễn thực hiện

pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi tại công ty TNHH SX & TM
Palado Việt Nam:.......................................................................................................38
2.2.2. Các quy định của công ty về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi tại công ty
TNHH SX & TM Palado Việt Nam:.........................................................................41
2.2.3. Thực tiễn thực hiện các quy định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi tại
Công ty TNHH SX & TM Palado Việt Nam............................................................46
2.2.4. Một số nhận xét, đánh giá về thực thực tiễn thực hiện pháp luật về thời giờ
làm việc, thời giờ nghỉ ngơi tại công ty TNHH SX & TM Palado Việt Nam:........49
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT VỀ THỜI GIỜ LÀM VIỆC, THỜI GIỜ NGHỈ NGƠI VÀ MỘT SỐ GIẢI
PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ
VẤN ĐỀ NÀY TẠI CÔNG TY TNHH SX & TM PALADO VIỆT NAM....................51
3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi:.....51
3.1.1. Tăng cường tính hoàn thiện của các quy định về thời giờ làm việc, thời giờ
nghỉ ngơi:....................................................................................................................51
3.1.2. Tăng cường đảm bảo việc thực thi các quy định về thời giờ làm việc, thời
giờ nghỉ ngơi:.............................................................................................................51

4


3.1.3. Việc hoàn thiện pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi phải dảm
bảo phù hợp với Hiến pháp:.....................................................................................52
3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật điều chỉnh về thời giờ làm việc,
thời giờ nghỉ ngơi.......................................................................................................53
3.2.1 Cần quy định chặt chẽ hơn về thời giờ làm việc tiêu chuẩn:.........................53
3.2.2. Điều chỉnh quy định về thời giờ làm thêm:....................................................53
3.2.3 Bổ sung các quy định hướng dẫn chi tiết về chế độ ưu tiên đối với các đối
tượng đặc biệt............................................................................................................. 53
3.2.4 Bổ sung các quy định về nghỉ việc riêng có hưởng lương..............................54

3.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về thời giờ làm
việc, thời giờ nghỉ ngơi tại Công ty TNHH SX & TM Palado Việt Nam...............54
3.4. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu:..................................................55
KẾT LUẬN................................................................................................................56
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

5


BLLĐ
TNHH SX & TM

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
: Bộ luật Lao động
: Trách nhiệm hữu hạn sản xuất và thương mại

6


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Lao động là hoạt động quan trọng nhất của con người, nó không chỉ tạo ra
của cải vật chất nuôi sống con người, cải tạo xã hội mà nó còn mang lại những giá
trị tinh thần làm phong phú thêm cho đời sống con người. Tuy nhiên, để các sản
phẩm của lao động có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao không phải là chuyện
dễ dàng. Sức lao động của con người không phải là vô tận, mà nó sẽ cạn kiệt nếu
không được kịp thời phục hồi.
Theo như khoa học chứng minh, con người là một thực thể sinh học hệ thần kinh
của con người cũng hoạt động theo chu kỳ. Bên cạnh đó các nhà khoa học nhất trí rằng
một con người bình thường phải dành ít nhất 08 giờ đồng hồ để ngủ mỗi ngày. Như

vậy, trong số 24 giờ mỗi ngày sẽ chỉ còn lại trên dưới 16 giờ, trong đó có một số giờ
dành cho làm việc, hoạt động cá nhân và hoạt động xã hội khác. Vì thế, việc quy định
một thời giờ làm việc hợp lý, thời giờ nghỉ ngơi thích hợp sẽ có ý nghĩa rất quan trọng
đối với chất lượng lao động.
Bộ Luật lao động ra đời góp phần quan trọng trong việc tạo lập môi trường lao
động bình đẳng, lành mạnh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động cũng
như người sử dụng lao động. Tuy nhiên hiện nay các công xưởng và tình trạng vi
phạm ngày càng nhiều và phổ biến, các vi phạm chủ yếu về tăng số giờ làm thêm vượt
quá mức cho phép, giảm và cắt bớt thời gian nghỉ ngơi của người lao động,... Các vi
phạm này không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe của người lao đọng mà còn gián tiếp ảnh
hưởng đến đời sống gia đình của người lao động. Lý giải nguyên nhân vi phạm pháp
luật, nhiều doanh nghiệp phản ánh, quy định của pháp luật lao động về quỹ thời gian
làm thêm quá ít và “cứng nhắc”, trong khi hoạt động sản xuất của doanh nghiệp lại có
tính thêm mùa vụ nên vào những dịp cao điểm, cần giao hàng gấp, tất yếu sẽ vi phạm
về số giờ làm thêm. Bên cạnh đó, việc làm thêm quá số giờ tối đa quy định không phải
chỉ xuất phát từ nhu cầu của người sử dụng lao động mà chính những người lao động
trong doanh nghiệp cũng có nguyện vọng được làm thêm giờ để cải thiện thu nhập của
họ.
Từ những thực tế trên, để hiểu rõ hơn về pháp luật lao động quy định thời gian
làm việc và thời gian nghỉ ngơi cũng như hạn chế, đẩy lùi các vi phạm pháp luật về
vấn đề này, người viết xin sự lựa chọn đề tài: “Pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ
nghỉ ngơi- Thực tiễn thực hiện tại Công ty TNHH Sản xuất và Thương mai Palado
Việt Nam” làm đề tài cho khóa luận tốt nghiệp với mong muốn nắm bắt cặn kẽ và chi
tiết hơn những quy chế, pháp lý về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi mà BLLĐ
2012 quy định đặc biệt là thực tiễn thực hiện vấn đề đó tại Công ty TNHH SX & TM


Palado Việt Nam. Qua đó đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật
về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi và những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên
cứu.

2. Tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan:
Pháp luật lao động có rất nhiều quy định trong đó không thể không kể đến quy
định pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi bởi điều này có ảnh hưởng trực
tiếp đến đời sống và việc làm của người lao động. Trong thời gian qua đã có một số đề
tài, công trình nghiên cứu tiêu biểu như:
- Thạc sĩ Khuất Văn Trung (2012), Pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ
ngơi ở Việt Nam - Thực trạng và một số kiến nghị, luận văn Thạc sĩ ngành Luật kinh
tế. Luận văn đã phân tích và làm sáng tỏ về mặt lý luận những quy định pháp luật về
thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi tại Việt Nam và so sánh đối chiếu với các quy
định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi của một số nước trong khu vực và trên
thế giới. Nêu ra thực trạng việc áp dụng pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ
ngơi trên thực tế tại các doanh nghiệp trong phạm vi toàn quốc mà chủ yếu là các
thành phố lớn, tập trung đông các doanh nghiệp và khu công nghiệp như Hà Nội,
thành phố Hồ Chí Minh v.v và một số hạn chế, tồn tại trong các quy định hiện hành
của pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi. Trên cơ sở đó, đề xuất một số
giải pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa các quy định pháp luật về thời giờ làm việc, thời
giờ nghỉ ngơi nhằm bảo vệ tốt hơn quyền lợi của người lao động.
- Thạc sĩ Hoàng Thu Hằng (2014), Xử phạt vi phạm pháp luật lao động – Hậu
quả pháp lý của nó, Luật văn thạc sĩ Luật học. Luận văn phân tích cơ sở lý luận về lao
động, đánh giá khái quát thực trạng của xử phạt vi phạm pháp luật lao động từ đó rút
ra những nguyên nhân hạn chế, đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả vấn đề xử
phạt vi phạm pháp luật lao động.
- Thạc sĩ Nguyễn Thị Giang (2015), Bảo vệ quyền của lao động nữ trong pháp
luật lao động Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học. Luận văn xem xét chủ yếu vấn đề
bảo vệ quyền của lao động nữ dưới các lĩnh vực quyền con người như: quyền việc làm,
quyền bảo đảm thu nhập, quyền đảm bảo sức khỏe,…. Các quyền này được thể hiện
chủ yếu qua mối quan hệ giữa người sử dung lao động và người lao động - hai chủ thể
chính của Luật lao động.
Một số bài báo được đăng trên các tạp chí khoa học như:
- Saito Yoshihisa (2015), “Quy định về thời giờ làm việc theo quy định pháp

luật Nhật Bản”, Tạp chí Luật học Số 2/2015. Bài viết giới thiệu quy định của pháp luật
lao động Nhật Bản về các phương pháp quy định và thay đổi giờ làm việc. Với tư cách
là điều kiện lao động, việc quy định và thay đổi thời gian làm việc được thực hiện trên


cơ sở: Thỏa ước lao động tập thể, nội quy lao động và quy định của pháp luật. Bên
cạnh đó, bài viết cũng đề cập một số án lệ điển hình, đánh giá mức độ phản ánh ý chí
của người lao động thông qua các phương pháp này.
- Thạc sĩ Phùng Thị Cẩm Châu (2014), “Bộ luật lao động 2012 với việc bảo vệ
quyền lợi cho lao động nữ”, Tạp chí Luật học Số 7/2014. Bài viết nêu ra những quy
định mới tiến bộ hơn luật cũ của Bộ Luật lao động về việc bảo vệ quyền lợi của lao
động nữ ví dụ như chính sách của nhà nước đối với lao động nữ, nghĩa vụ của người
sử dụng lao động đối với lao động nữ,….
- Nguyễn Khuê (2016), “Quy định không làm thêm quá 300 giờ: Quy định
“cứng” nhưng chưa phù hợp!”, Báo Pháp luật xã hội. Bài viết phản ánh thực trạng Việt
Nam là nước quy định giờ làm thêm chỉ bằng gần 1/2 mức giới hạn làm thêm giờ do
Tổ chức Lao động Quốc tế khuyến cáo (không quá 600 giờ/năm) và thấp nhất khu vực.
Năng suất lao động thấp cộng với giới hạn về số giờ làm thêm đã bó buộc cả người lao
động lẫn người sử dụng lao động, làm giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Theo thống kê, có tới 61,3% số người lao động cho biết luôn muốn làm thêm giờ để có
thêm thu nhập trang trải cuộc sống. Bài viết cũng phản ánh quy định về thời gian làm
thêm không phải chuyện mới mà đã tranh cãi từ năm 1994. Và trong các lần sửa đổi
luật, quy định này tiếp tục được thảo luận song tới nay vẫn chưa thể thống nhất.
- Mai Long (2016), “Tăng giờ làm hay tăng lương: “Bài toán” 22 năm gây tranh
cãi”, Báo Pháp luật Việt Nam. Bài báo phản ánh sự đối lập trong quan điểm giữa
doanh nghiệp và Nhà nước trong vấn đề thời giờ làm thêm: Phía doanh nghiệp lập luận
rằng ở một số nước phát triển như Nhật Bản, cho phép người lao động làm thêm 720
giờ/năm, Trung Quốc là 600 giờ/năm. Trong khi Việt Nam là nước đang phát triển
nhưng chỉ cho phép 200-300 giờ/năm. Quy định như vậy là quá thấp; Phía các nhà làm
luật cho rằng mặc dù doanh nghiệp đề xuất tăng giờ làm thêm, nhà đầu tư mong muốn,

người lao động cũng có nhu cầu nhưng vẫn phải tính đến yếu tố sức khỏe, thể chất của
người lao động.
- Diệu Ngân (2015), “Quy định làm thêm giờ của Việt Nam đang “lệch pha” thế
giới?”, Báo Hải quan điện tử. Tác giả Diệu Ngân phản ánh thực trạng thu nhập bình
quân đầu người của Việt Nam còn thấp (bằng 1/40 thu nhập bình quân đầu người ở các
nước Trung Quốc, Nhật Bản) nhưng thời gian làm thêm tối đa ít hơn các quốc gia khác
rất nhiều. Những rào cản ngặt nghèo trong quy định làm thêm giờ khiến doanh nghiệp
mất tính cạnh tranh. Chính vì vậy, các doanh nghiệp đều có chung kiến nghị, quy định
làm thêm giờ nên có sự “nới lỏng”.
- Bách Nguyễn – Phan Mơ (2016), “Người lao động sẽ phải tăng thời giờ làm
thêm?”, Báo Pháp Luật Plus. Bài viết phản ánh thực trạng có rất nhiều ý kiến đề nghị


cần tăng thời giờ làm thêm tối đa để giải quyết được đồng loạt nhiều vấn đề: vừa đáp
ứng nhu cầu của đa số doanh nghiệp, vừa đáp ứng nhu cầu của một bộ phận không nhỏ
người lao động có nguyện vọng làm thêm để tăng thêm thu nhập, đồng thời tăng tính
cạnh tranh của thị trường lao động Việt Nam so với các quốc gia trong khu vực. Bài
viết cũng phản ánh các nhà làm luật đang cân nhắc giữa hai phương án sửa đổi bổ sung
Bộ luật Lao động 2012: Phương án 1, bảo đảm số giờ làm thêm và số giờ làm việc
bình thường của người lao động không quá 5 ngày liên tục cho mỗi đợt làm thêm giờ,
tuy nhiên tổng số giờ làm thêm của người lao động không được vượt quá 600 giờ
trong một năm. Phương án 2, bảo đảm số giờ làm thêm và số giờ làm việc bình thường
của người lao động không quá 12 giờ trong 1 ngày và không quá 5 ngày liên tục cho
mỗi đợt làm thêm giờ.
Trên đây là một số công trình nghiên cứu chung, một số bài báo về thời giờ là
việc, thời giờ nghỉ ngơi, nhìn chung, từ sau khi Bộ Luật lao động 2012 có hiệu lực thì
các bài viết đã nghiên cứu các quy định pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ
ngơi tuy nhiên tác giả chỉ nghiên cứu với một số đối tượng người lao động cụ thể,
chưa khái quát được tất cả đối tượng người lao động, cũng như chưa đi sâu vào nghiên
cứu vấn đề bảo vệ người lao động, cũng như chưa đi sâu vào nghiên cứu vấn đề bảo vệ

người lao động trên phương diện thời gian làm việc. Đề cập trực tiếp đến vấn đề pháp
luật về bảo vệ người lao động thông qua các quy định về thời giờ làm việc, thời giờ
nghỉ ngơi, chỉ có các bài báo, bài viết được công bố trên các tạp chí khoa học chuyên
ngành hoặc các diễn đàn pháp lý. Quy mô các bài viết ngắn gọn này không cho phép
các tác giả được nghiên cứu sâu rộng về vấn đề này. Do đó, cần phải có một công trình
nghiên cứu sâu hơn về pháp luật và thực trạng thực hiện pháp luật về thời giờ làm
việc, thời giờ nghỉ ngơi để từ đó đưa ra những đề xuất, kiến nghị góp phần hoàn thiện
hệ thống pháp luật bảo vệ người lao động nói riêng, và pháp luật lao động Việt Nam
nói chung.
3. Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu:
Qua quá trình nghiên cứu các quy định của pháp luật, tìm hiểu thực trạng thực
hiện các quy định của pháp luật tại đơn vị thực tập cũng như tham khảo các công trình
khoa học của các tác giả khác, em lựa chọn nghiên cứu nội dung “Pháp luật về thời
giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi - Thực tiễn thực hiện tại Công ty TNHH SX & TM
Palado Việt Nam”. Khác với các công trình nghiên cứu trước, nội dung khóa luận sẽ
không bao quát hết các nội dung bảo vệ người lao động (như hợp đồng lao động, tiền
lương, bảo hiểm xã hội…) mà tập trung vào pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ
nghỉ ngơi và thực tiễn thực hiện các quy định này tại một doanh nghiệp cụ thể - Công
ty TNHH SX & TM Palado Việt Nam.


Căn cứ theo cơ sở các quy định của pháp luật hiện hành, các lý luận và thực
tiễn thi hành các quy phạm về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi trong thời gian
qua, khóa luận đi sâu nghiên cứu các vấn đề sau:
- Phân tích khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của chế định thời giờ làm việc, thời giờ
nghỉ ngơi.
- Đánh giá thực trạng pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi.
- Nêu ra thực tiễn thực hiện pháp luật về thời giờ làm việc, nghỉ ngơi tại công ty
TNHH SX & TM Palado Việt Nam.
- Đưa ra kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.

4. Đối tượng, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu:
 Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu là các lý luận, quy định pháp luật về thời giờ làm việc,
thời giờ nghỉ ngơi và thực tiễn thực hiện pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ
ngơi tại Việt Nam nhằm đưa ra hướng giải quyết hoàn thiện và nâng cao hiệu quả của
pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, đặc biệt là thời giờ làm việc, thời
giờ nghỉ ngơi đối với một số trường hợp đặc biệt.
 Mục tiêu nghiên cứu:
- Trình bày những vấn đề lý luận liên quan đến tìm hiểu, phân tích các khái
niệm cơ bản về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi.
- Phân tích thực trạng thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi tại Việt Nam. Thông
qua đó, nêu ra những đánh giá pháp luật Việt Nam hiện nay đối với thời giờ làm việc,
thời giờ nghỉ ngơi và phát hiện những bất cập của hệ thống quy phạm pháp luật trong
việc điều chỉnh thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi.
- Nghiên cứu đề xuất các định hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về
thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi đảm bảo vừa phù hợp với đặc thù của Việt Nam.
Tóm lại, đề tài tập trung nghiên cứu pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ
ngơi, thực tiễn áp dụng pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi tại các doanh
nghiệp, cụ thể là tại công ty TNHH SX & TM Palado Việt Nam. Từ đó, đưa ra một số
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ
nghỉ ngơi và nêu ra những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu.
 Phạm vi nghiên cứu:
- Về thời gian: Khóa luận sẽ nghiên cứu pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ
nghỉ ngơi kể từ khi Luật Lao động 2012 có hiệu lực thi hành cho đến nay.
- Về không gian: Khóa luận tập trung làm rõ việc thực thi pháp luật về thời giờ
làm việc, thời giờ nghỉ ngơi của các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh tại Việt Nam
nói chung và công ty TNHH SX & TM Palado Việt Nam nói riêng.


- Về nguồn tư liệu: Nguồn tư liệu của khóa luận chủ yếu dự trên cơ sở những

khía cạnh pháp lý về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi được quy định tại BLLĐ
2012 và các văn bản hướng dẫn thi hành có liên quan. Cụ thể là những văn bản pháp
luật được Nhà nước Việt Nam ban hành, sách, báo, tạp chí, bài viết của các tác giả đã
được cấp phép phát hành và một số luận văn, khóa luận có liên quan đến đề tài về thời
giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi. Cùng với thực trạng thực hiện pháp luật về vấn đề
này tại Công ty TNHH SX & TM Palado Việt Nam trong 3 năm từ năm 2017 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Để làm rõ các vấn đề cần nghiên cứu nêu trên, khóa luận sử dụng rất nhiều
phương pháp nghiên cứu khoa học khác nhau như: phương pháp mô tả, tổng hợp, phân
tích, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh,... Các phương pháp nghiên cứu
trong khóa luận được thực hiện trên nền tảng của phương pháp luận chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, trên cơ sở các quan điểm, đường lối về chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cụ thể:
- Tại Chương 1 sử dụng phương pháp tổng hợp, thống kê, thu thập thông tin để
nêu lên khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa, nguyên tắc của những vấn về cơ bản của pháp
luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi.
- Chương 2 sử dụng chủ yếu phương pháp phân tích, đánh giá, tổng hợp được sử
dụng để nêu lên thực trạng của pháp luật điều chỉnh về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ
ngơi và thực tiễn thực hiện tại Công ty TNHH SX & TM Palado Việt Nam.
- Từ những đánh giá và tổng hợp, phân tích trên, Chương 3 sẽ đưa ra một số
kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ
ngơi
6. Kết cấu đề tài:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận bao gồm
3 chương:
Chương 1:Một số vấn đề lý luận cơ bản về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi
và pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi và thực
tiễn thực hiện tại Công ty TNHH SX & TM Palado Việt Nam.
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về thời giờ

làm việc, thời giờ nghỉ ngơi và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện quy
định pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi tại Công ty TNHH SX & TM
Palado Việt Nam.


CHƯƠNG I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THỜI GIỜ LÀM VIỆC,
THỜI GIỜ NGHỈ NGƠI VÀ PHÁP LUẬT VỀ THỜI GIỜ LÀM VIỆC, THỜI
GIỜ NGHỈ NGƠI.
1.1. Khái quát chung về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi:
1.1.1. Khái niệm thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi:
Thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi được hình thành trên cơ sở sinh học, tâm
lý và kinh tế xã hội có liên quan đến quyền và lợi ích trong quan hệ lao động, được
người lao động và cả người sử dụng lao động quan tâm. Hai phạm trù này là hai vấn
đề khác nhau nhưng lại gắn bó chặt chẽ với nhau, làm thành hai mặt của quá trình sống
và lao động của con người, được thỏa thuận giữa các bên trong khuôn khổ của pháp
luật. Trên thực tế, không có ai làm việc mà không nghỉ ngơi và ngược lại, với những
người không làm việc thì cũng không có vấn đề về thời giờ nghỉ ngơi, nhất là trong
thời kì xã hội phát triển mạnh mẽ như hiện nay, sự cạnh tranh khốc liệt càng làm cho
con người lao động làm việc với cường độ nhiều hơn.
Trong khoa học kinh tế lao động, xem xét chủ yếu dưới góc độ của việc tổ
chức quá trình lao động thì thời giờ làm việc chính là khoảng thời gian cần và đủ để
người lao động hoàn thành định mức lao động hoặc khối lượng công việc được giao,
thời giờ nghỉ ngơi là khoảng thời gian cần thiết để người lao động tái sản xuất lại sức
lao động đã hao phí nhằm đảm bảo quá trình lao động diễn ra liên tục.
Dưới góc độ pháp lý, thời giờ làm việc và thời giờ nghỉ ngơi được biểu hiện
dưới dạng quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia trong quan hệ pháp luật lao
động. Mối quan hệ này tạo sự ràng buộc trách nhiệm giữa người lao động và người sử
dụng lao động, người lao động sau khi trực tiếp hoàn thành nghĩa vụ lao động, tuân
theo quy định nội bộ đã thỏa thuận thì sẽ được hưởng những thành quả và ngoài giờ
làm việc sẽ là thời gian nghỉ ngơi, người lao động được tự do sử dụng khoảng thời

gian đó theo nhu cầu của bản thân. Như vậy, về pháp lý có thể hiểu thời giờ làm việc là
khoảng thời gian do pháp luật quy định hoặc do sự thỏa thuận các bên theo đó người
lao động phải có mặt tại nơi làm việc và thực hiện những công việc được giao trong
hợp đồng lao động giới hạn bởi quy định của pháp luật; thời giờ nghỉ ngơi là thời gian
mà người lao động không phải thực hiện những nghĩa vụ lao động và có quyền sử
dụng thời gian đó theo ý muốn của mình.
Thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi được coi là một trong những nguyên tắc
cần đảm bảo của luật lao động, hoặc một định mức lao động, hoặc một nội dung của
quan hệ pháp luật lao động, một chế định của pháp luật lao động.
Nếu xem thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi là một trong những nguyên tắc
cần đảm bảo của luật lao động thì đây là quyền và nghĩa vụ cơ bản của người lao động


và người sử dụng lao động. Với tư cách là một định mức lao động thì thời giờ làm
việc, thời giờ nghỉ ngơi hiểu là một khoảng thời gian cần thiết cho người lao động để
hoàn thành công việc và được tái tạo sức lao động cho quá trình làm việc. Còn nếu
xem thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi là một nội dung trong quan hệ pháp luật thì
trong thời gian làm việc người lao động phải thực hiện nhiệm vụ làm việc của mình,
xong ngoài khoảng thời gian đó người lao động được tự do nghỉ ngơi, tham gia vào
các quan hệ xã hội khác. Là một chế định của pháp luật, thời giờ làm việc, thời giờ
nghỉ ngơi bao gồm tất cả các quy định của pháp luật về thời gian người lao động phải
làm việc và những khoảng thời gian cần thiết để người lao động được nghỉ ngơi nhằm
tăng năng xuất lao động và bảo đảm sức khỏe.
Tóm lại, dù được nghiên cứu theo góc độ nào đi nữa, xong mục đích chính
nghiên cứu về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi vẫn là để tìm ra một thời gian làm
việc hợp lý, một thời giờ nghỉ ngơi phù hợp đảm bảo sức khỏe cho người lao động và
cả lợi ích cho người lao động cũng như người sử dụng lao động.
1.1.2. Các loại thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi:
• Các loại thời giờ làm việc:
Thời giờ làm việc tiêu chuẩn: là loại ngày làm việc trong đó pháp luật quy

định cụ thể khoảng thời gian làm việc của người lao động trong một ngày đêm.
- Thời giờ làm việc theo ngày (không quá 8 giờ/ngày)
- Thời giờ làm việc theo tuần (không quá 48 giờ/tuần)
- Thời giờ làm việc rút ngắn : để có thể bảo vệ tốt hơn sức khỏe cho những
người làm những nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc những người do
sinh lí hay chức năng có những đặc điểm riêng, như lao động nữ giáp kỳ thai nghén
sinh con, lao động chưa thành niên, người tàn tật, người cao tuổi thì pháp luật quy định
rút ngắn thời giờ làm việc ngắn hơn thời giờ làm việc bình thường (tức ít hơn 8
giờ/ngày) mà vẫn giữ nguyên lương.
Thời giờ làm thêm: do có yêu cầu của người sử dụng lao động mà số thời gian
làm việc vượt quá số giờ tiêu chuẩn đã được ấn định. Người sử dụng lao động và
người lao động có thể thỏa thuận làm thêm giờ, nhưng không quá 4 giờ trong một
ngày, 200 giờ trong một năm, trừ một số trường hợp đặc biệt được làm thêm không
quá 300 giờ một năm.
Thời giờ làm việc ban đêm: thời giờ tính là thời giờ làm việc ban đêm được
pháp luật lao động nước ta quy định tính từ 22 giờ đến 6 giờ sáng hôm sau.
Thời giờ làm việc linh hoạt: Người làm việc theo hợp đồng lao động không
trọn thời gian hoặc người lao động nhận công việc về nhà làm.


• Các loại thời giờ nghỉ ngơi:
Thời giờ nghỉ ngơi có hưởng lương: bao gồm
- Nghỉ trong giờ làm việc, nghỉ giải lao theo tính chất của công việc.
- Thời giờ phải ngừng việc không do lỗi của người lao động.
- Thời giờ học tập, huấn luyện an toàn lao động, vệ sinh lao động.
- Thời giờ làm việc được rút ngắn đối với một số đối tượng được ưu tiên được quy
định trong BLLĐ.
- Nghỉ lễ, tết, nghỉ việc riêng có hưởng lương, nghỉ phép hằng năm,...
Thời giờ nghỉ ngơi không hưởng lương:
- Nghỉ hàng tuần

- Nghỉ không lương theo thỏa thuận
Việc nghỉ không lương người lao động có quyền thỏa thuận với người sử dụng lao
động về việc xin nghỉ việc không hưởng lương trong bao lâu và có được trả lương hay
không.
1.1.3. Đặc điểm của thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi:
Thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi là hai nội dung có đặc điểm rất cơ bản và
cần thiết phải trong quy định pháp luật, nó liên quan đến chính những quyền lợi trong
quan hệ lao động.
Thứ nhất, đây là hai nội dung tách biệt nhau nhưng lại không thể tách rời bởi
con người là một thực thể sinh học, hệ thần kinh con người hoạt động theo chu kỳ,
không thể làm việc liên tục mà không nghỉ ngơi, thời giờ làm việc là có giới hạn. Đó là
một cơ chế bảo vệ, như cái phanh, bắt cơ thể ngừng hoạt động để khỏi kiệt sức. Để
làm việc hiệu quả, người lao động phải có thời gian nhất định giành cho nghỉ ngơi.
Thứ hai, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi được xuất phát từ chính yêu cầu
bảo vệ người lao động trong lĩnh vực lao động và từ sự tác động của nền kinh tế thị
trường. Thời giờ nghỉ ngơi để người lao động tránh bị lạm dụng sức lao động từ phía
người sử dụng lao động. Trong lĩnh vực lao động, kinh tế thị trường đã mở ra những
điều kiện thuận lợi để phát triển nguồn lực, tạo nhiều việc làm cho người lao động
đồng thời thúc đẩy năng lực cạnh tranh giữa các doanh nghiệp. Mặt khác lại khiến
người lao động thường có xu hướng kéo dài thời gian làm việc và giảm thời gian nghỉ
ngơi. Điều đó làm ảnh hưởng đến sức khỏe, nhu cầu khác trong đời sống, ảnh hưởng
tới khả năng phát triển toàn diện của người lao động.
Thứ ba, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi được quy định rất chi tiết, cụ thể
trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Nhà nước luôn quan tâm đến vấn đề này, ban hành
rất nhiều các bộ luật, thông tư, nghị định cùng các văn bản hướng dẫn thi hành cũng


như xử lý vi phạm khi xảy ra các tranh chấp cũng như sai phạm trong quan hệ lao
động.
Thứ tư, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi giống như một quy luật tư nhiên

của con người mà mỗi ngành nghề, độ tuổi, tính chất công việc lại được quy định theo
những mức khác nhau để phù hợp nhất.
1.1.4. Ý nghĩa của quy định pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi:
Việc quy định thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi không chỉ có ý nghĩa với
người lao động mà còn có ý nghĩa với người sử dụng lao động cũng như Nhà nước
trên nhiều phương diện. Bởi quyền làm việc và quyền nghỉ ngơi là một trong những
quyền rất cơ bản của con người, trước hết là người lao động trong quan hệ lao động,
phải được pháp luật can thiệp, bảo vệ. Hiến pháp của các nước đều ghi nhận điều này
trong đó có Hiến pháp của nước ta. Tuyên ngôn nhân quyền của Liên hiệp quốc năm
1948 cũng nghi nhận quyền đó. Pháp luật lao động quốc gia quy định về thời giờ làm
việc và thời giờ nghỉ ngơi, tạo hành lang pháp lý nhằm bảo vệ sức khỏe người lao
động trong quan hệ lao động để làm việc được lâu dài, có lợi cho cả hai bên, đảm bảo
có một tỷ số hợp lý giữa hai loại thời giờ này, có tính đến lợi ích hợp pháp của người
sử dụng lao động, vừa không thiệt hại cho sản xuất kinh doanh, vừa không làm giảm
sút khả năng lao động, khả năng sáng tạo của người lao động, suy cho cùng là nhằm
bảo vệ việc làm, tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả của lao động, hướng vào chiến
lược con người.
Có thể nói, pháp luật quy định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi có ý
nghĩa rất quan trọng, cụ thể như sau:
Đối với người lao động:
Thứ nhất, việc ban hành pháp luật điều chỉnh thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ
ngơi có ý nghĩa trong việc bảo vệ quyền của người lao động. Bởi lẽ, vì mục tiêu lợi
nhuận, người sử dụng lao động thường có xu hướng khai thác triệt để sức lao động của
người lao động thông qua việc kéo dài thời gian làm việc. Pháp luật quy định thời gian
làm việc tối đa, thời gian nghỉ ngơi tối thiểu hoặc rút ngắn thời gian làm việc đối với
một số đối tượng người lao động nhất định nhằm tránh sự lạm dụng sức lao động, đảm
bảo tái sản xuất sức lao động. Trong “Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền” năm 1948 có
viết: Mỗi người đều có quyền nghỉ ngơi và giải trí, kể cả quyền được có ngày làm việc
được giới hạn một cách hợp lý và được nghỉ định kỳ có hưởng lương 1. Đảng và Nhà
nước ta luôn quan tâm vấn đề này hàng đầu, thể hiện trong Hiến pháp 1946, 1959,

1980 và Điều 55 Hiến pháp 1992: “Lao động là quyền và nghĩa vụ của công dân; Nhà
nước và xã hôi có kế hoạch tạo ra ngày càng nhiều việc làm cho người lao động”.
1 Điều 24, “Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền” năm 1948


Trong BLLĐ 2012 cũng có hẳn Chương VII quy định về thời giờ làm việc, thời giờ
nghỉ ngơi. Xong tất cả tạo ra những quy định pháp lý để bảo vệ sức khỏe của người
lao động, vừa không làm giảm sút khả năng lao động, khả năng sáng tạo của người lao
động vừa không thiệt hại cho sản xuất kinh doanh.
Thứ hai, việc quy định khung tối đa thời giờ làm việc, cũng như việc quy định
các loại thời giờ nghỉ ngơi giúp người lao động có sự lựa chọn phù hợp với điều kiện
cá nhân, đảm bảo năng suất, chất lượng, hiệu quả công việc, đồng thời quá trình lao
động cũng giúp người lao động hoàn thiện nhân cách. Do vậy với việc điều tiết thời
giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi của người lao động một cách hợp lý, pháp luật tạo
điều kiện cho người lao động được đảm bảo thực hiện các quyền khác của mình như
quyền tham gia quản lý, điều hành doanh nghiệp. Đồng thời, người lao động còn có
điều kiện chăm lo hạnh phúc gia đình, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ, tay nghề và tham gia các hoạt động xã hội khác. Ngoài ra, đây còn là căn
cứ để người lao động hưởng những quyền lợi như: tiền lương, tiền thưởng, các chế độ
trợ cấp,…
Đối với người sử dụng lao động:
Thứ nhất, việc quy định thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi giúp người sử
dụng lao động xây dựng kế hoạch tổ chức sản xuất kinh doanh khoa học và hợp lý, sử
dụng một cách tiết kiệm các nguồn tài nguyên trong doanh nghiệp nhằm hoàn thiện tốt
tất cả các mục tiêu đã đề ra. Coi số thời gian làm việc pháp luật quy định đối với mỗi
người lao động là một đại lượng không đổi, người sử dụng lao động phải căn cứ vào
khối lượng công việc, tổng quỹ thời gian cần thiết hoàn thành (xác định thông qua
khối lượng công việc) mà để xây dựng định mức lao động, xác định được chi phí nhân
công và bố trí sử dụng lao động linh hoạt, hợp lý đảm bảo hiệu quả cao nhất.
Thứ hai, những quy định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi là căn cứ pháp lý

cho việc người sử dụng lao động thực hiện quyền quản lý, điều hành, giám sát lao động,
đặc biệt trong xử lý kỷ luật lao động, từ đó tiến hành trả lương, thưởng… khen thưởng
và xử phạt người lao động.
Đối với Nhà nước:
Thứ nhất, việc quy định thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi vừa thể hiện
chức năng, nhiệm vụ trong việc tổ chức, điều hành hoạt động lao động xã hội, tạo ra
hành lang pháp lý để Nhà nước thực hiện chức năng quản lý của mình đôngg thời vừa
thể hiện rõ thái độ của Nhà nước đối với lực lượng lao động. Bằng các quy định về
thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, Nhà nước kiểm tra giám sát quan hệ lao động,
tạo cơ sở pháp lý để giải quyết các mâu thuẫn, bất đồng nảy sinh giữa các bên tham gia
quan hệ lao động liên quan đến thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi. Trong công tác


thanh tra lao động và quản lý lao động, việc giám sát thực hiện pháp luật lao động,
hướng dẫn tổ chức lao động hợp lý, khoa học cho các nơi sử dụng lao động và làm
việc thường kỳ của các cơ quan Nhà nước. Xong, dựa vào chế độ làm việc và nghỉ
ngơi để thực hiện kiểm tra, kiểm soát là việc làm trước tiên để nhận thấy mặt tốt và
mặt chưa tốt trong quản lý lao động, từ đó để tổ chức lao động khoa học hơn. Chế độ
thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi còn là một trong những nội dung để tổ chức
công đoàn tham gia xây dựng và đấu tranh quyền lợi cho người lao động. Công đoàn
với tư cách là tổ chức bảo vệ quyền lợi người lao động sẽ phải căn cứ vào các quy định
về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi để đấu tranh với người sử dụng lao động, đem
lại quyền lợi chính đáng cho người lao động.
Thứ hai, việc quy định về thời giờ làm việc tối đa và thời gian nghỉ ngơi tối
thiểu còn phần nào cho thấy trình độ phát triển kinh tế - xã hội và tính ưu Việt của chế
độ Nhà nước ta. Đây cũng chính là lí do vì sao các quốc gia có nền kinh tế phát triển,
trình độ khoa học – kỹ thuật và năng xuất lao động cao thì thời gian làm việc ngắn hơn
các nước chưa phát triển.
1.2. Khái quát chung về pháp luật điều chỉnh vấn đề thời giờ làm việc, thời giờ
nghỉ ngơi:

1.2.1. Khái niệm pháp luật điều chỉnh vấn đề thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ
ngơi:
Theo nghĩa hẹp, pháp luật gồm các quy định mà phần lớn là các quy tắc xử
sự chung do nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội vì lợi ích cảu cả xã
hội và vì lợi ích của giai cấp thống trị.
Theo nghĩa rộng, pháp luật không chỉ gồm các quy tắc xử sự chung mà còn
bao hàm cả các nguyên tắc xử sự, các tư tưởng, học thuyết pháp lý … được thể hiện ở
các loại nguồn pháp luật khác nhau.
Thông thường, pháp luật được hiểu khái quát như sau: Pháp luật là hệ thống
các quy tắc xử sự chung, do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí
của nhà nước, là công cụ điều chỉnh các quan hệ xã hội vì sự tồn tại và phát triển của
cả xã hội, đồng thời vì lợi ích, mục đích của giai cấp thống trị.
Từ đó, pháp luật điều chỉnh vấn đề thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi là hệ
thống các quy tắc xử sự điều chỉnh vấn đề thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi do nhà
nước ban hành và đảm bảo thực hiện, thể hiện ý chí của nhà nước nhằm đam bảo các
lợi ích trong quan hệ xã hội nói chung và quan hệ lao động nói riêng vì sự tồn tại và
phát triển của cả xã hội.
1.2.2. Lịch sử hình thành và phát triển các quy định pháp luật về thời giờ làm
việc, thời giờ nghỉ ngơi ở nước ta:


Cũng như các nước trên thế giới, vấn đề thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi
được Đảng và Nhà nước Việt Nam rất quan tâm. Điều này được thể hiện bằng hệ
thống các văn bản pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi có phạm vi rộng
và lớn từ khi Cách mạng Tháng Tám thành công đến hiện nay. Pháp luật nói chung và
pháp luật lao động nói riêng có lịch sử hình thành gắn liền với lịch sử phát triển của
đất nước với các dấu mốc quan trọng. Qua đó, có thể khái quát lịch sử phát triển của
pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi theo các giai đoạn chủ yếu sau:
Giai đoạn năm 1945 đến năm 1954: thời kỳ đầu này đất nước còn non trẻ nên
gặp không ít khó khăn và thử thách, Chính phủ dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí

Minh. Hệ thống văn bản pháp luật điều chỉnh các quan hệ pháp luật trong xã hội còn
thiếu nhiều. Để giải quyết vấn đề đó, ngày 10/10/1975, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký
Sắc lệnh số 47 để tạm giữ các luật lệ cũ cho tới khi ban hành luật lệ mới phù hợp. Các
cấp, các ngành đã ra sức cố gắng không ngừng nghỉ và đã cho ra đời nhiều văn bản
pháp luật, trong đó có các văn bản về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi. Đầu tiên là
Sắc lệnh số 55 ngày 20/11/1945 của Chính phủ quy định về việc nghỉ có lương ngày
1/5, ngày lễ, Tết, kỉ niệm lịch sử và ngày lễ tôn giáo. Tiếp đó, bản Hiến pháp đầu tiên
của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời – Hiến pháp năm 1946 về thời giờ làm
việc, thời giờ nghỉ ngơi của người lao động. Ngày 12/03/1947, Chính phủ ban hành
Sắc lệnh số 29/SL – văn bản pháp luật đầy đủ và tiến bộ nhất lúc bấy giờ điều chỉnh về
quan hệ lao động của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Cụ thể như ở Khoản 3,
Điều 101 có quy định “thời giờ làm việc của công nhân đàn ông hay đàn bà, bất kỳ
tuổi nào không được quá 48 giờ 1 tuần lễ. Đối với người lao động làm việc trong môi
trường độc hại hoặc những công việc nặng nhọc được quy định tại Điều 102 của Sắc
lệnh này “về những công việc làm việc dưới hầm mỏ hoặc trong những xưởng mỹ
nghệ có hại cho sức khỏe thì giờ công nhân có mặt ở nơi làm việc là không quá 45 giờ
trong một tuần lễ” và ở Điều 103 quy định làm thêm giờ của người lao động trong
những điều kiện, hoàn cảnh cần thiết là không quá 100 giờ mỗi năm, được trả thêm
lương phụ cấp.
Chế độ cũ chưa thật sự quan tâm đến quyền lợi của lao động nữ và lao động
chưa thành niên thì Sắc lệnh 29/SL đã khắc phục những tàn dư đó bằng một số quy
định cấm sử dụng lao động nữ, lao động là người chưa thành niên làm đêm, trừ những
trường hợp khẩn cấp mà pháp luật cho phép: Điều 106 “ Con trai chưa đến 18 tuổi,
đàn bà con gái bất kỳ bao nhiêu tuổi làm tại các xưởng kỹ nghệ, thương điếm đều
không được làm đêm”, Điều 109 “Gặp những công việc khẩn cấp phải làm ngay để
ngăn ngừa tai nạn sắp đến hoặc để tổ chức việc cứu vãn hay sửa chữa các khí cụ, vật
liệu nhà cửa bị tai nạn làm hư hỏng thì hạn làm việc của công nhân con trai dưới 18


tuổi và đàn bà con gái ở bất kỳ lứa tuổi nào có thể tăng quá giới hạn”.

Thêm nữa để thấy rằng Nhà nước rất quan tâm đến sức khỏe cho người lao
động khi thông qua Sắc lệnh 29/SL là việc quy định chế độ nghỉ hàng tuần, nghỉ hàng
năm, nghỉ lễ, tết và nghỉ ốm: Điều 112 “Mỗi tuần lễ công nhân phải được nghỉ 24 giờ
liền…”, Điều 117 quy định người lao động được nghỉ 9 ngày lễ (có 4 ngày tết nguyên
đán, ngày lễ lao động 1-5, ngày lễ độc lập 2-9, 1 ngày tết dương lịch, ngày phật đản 84 âm lịch và ngày thiên chúa giáo), Điều 124 “Công nhân hay thợ học nghề làm được
một năm thì được nghỉ hàng năm ít nhất 10 ngày liền được cả lương và phụ cấp.
Trong 10 ngày ấy, phải 8 ngày không là chủ nhật hay ngày lễ chính thức. Công nhân
nào làm được 6 tháng được nghỉ ít nhất 5 ngày lĩnh cả lương và phụ cấp, mà 4 ngày
không phải là chủ nhật hay ngày lễ chính thức”.
Có thể nói, Sắc lệnh 29/SL đã quy định khá đầy đủ gần như toàn bộ những
chế định thiết yếu của một Bộ luật Lao động mà các quy định sau này phải ghi nhận.
Đây được coi như “Bộ luật Lao động đầu tiên” của nước ta điều chỉnh mối quan hệ lao
động trong quan hệ chủ nợ, giữa người lao động với người sử dụng lao động.
Dựa theo cơ sở Sắc lệnh 29/SL để giải quyết được tình thế chiến tranh (cuộc
kháng chiên chống thực dân Pháp) lúc bấy giờ, Chính phủ đã ban hành thêm các Sắc
lệnh bổ sung phải kể đến là Sắc lệnh 76/SL ngày 20/5/1950 ban hành quy chế công
chức và Sắc lệnh 77/SL ngày 22/5/1950 quy định chế độ cho công nhân giúp việc
Chính phủ trong thời chiến tranh. Khác với Sắc lệnh 29/SL thì ở những Sắc lệnh này
đã có sự chuyển sang điều chỉnh quan hệ lao động trong khu vực nhà nước. Thế nhưng
hoàn cảnh khó khăn khiến việc áp dụng những văn bản trên chưa được nhiều, nếu có
thì cũng chỉ được một phần nhỏ trong đó. Song chúng cũng đã đánh dấu mốc quan
trọng trong lịch sử phát triển của pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi
trong pháp luật lao động Việt Nam.
Giai đoạn từ năm 1955 đến năm 1975: lúc này đất nước đang bị chia cắt
thành hai miền Nam – Bắc, miền Bắc thì được hoàn toàn giải phóng, miền Nam phải
chịu ách đô hộ của Đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai. Pháp luật trong giai đoạn này điều
chỉnh chủ yếu về quan hệ lao động trong khu vực kinh tế nhà nước với mục đích dần
xóa bỏ các hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Thời giờ làm việc, thời giờ
nghỉ ngơi của cán bộ công nhân viên chức được Nhà nước ban hành nhiều văn bản quy
định dưới dạng các Nghị định, Quyết định, Thông tư như: Thông tư số 05/LĐTT ngày

9/3/1955 quy định về thời giờ làm việc tại các xí nghiệp quốc doanh và công trường;
Thông tư số 16/LĐTT ngày 1/9/1957 về việc sửa đổi bổ sung Thông tư số 05/LĐTT
ngày 9/3/1955; Nghị định số 28/TTg ngày 28/1/1959 quy định những ngày lễ được
nghỉ có lương và ban hành chế độ nghỉ hàng năm, chế độ nghỉ phép; Thông tư


895/LĐTT ngày 10/7/1959 giải thích về chế độ nghỉ hàng năm và nghỉ việc riêng; Bộ
Lao động ban hành Thông tư số 8/LĐTT ngày 4/3/1961 hướng dẫn thi hành Nghị định
số 28/TTg ngày 28/1/1959 của Thủ tướng Chính phủ; Hội đồng chính phủ cũng ban
hành hai Quyết định quan trọng liên quan đến thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi là
Quyết định số 118/TTg ngày 17/1/1963 quy định việc hội họp học tập của cán bộ công
nhân viên chức nhà nước và Quyết định số 119/TTg ngày 17/1/1963 về một số biện
pháp đảm bảo thời gian lao động của công nhân viên chức nhà nước; bên cạnh đó các
Bộ cũng ban hành các Thông tư liên bộ giải thích, hướng dẫn hoặc quy định chi tiết
các chế độ đã ngộ cho công nhân viên chức như Thông tư số 05/TTLB ngày 1/6/1968
của liên Bộ Lao và Bộ Y tế.
So với những văn bản trước đó thì các văn bản trên đã đề cập được tới nhiều
lĩnh vực hơn của pháp luật thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi nhưng do trong cơ chế
quản lý tập trung quan liêu bao cấp nên các văn bản đó điều chỉnh mối quan hệ lao
động của công nhân viên chức nhà nước đã dần bộc lộ nhiều nhược điểm, hạn chế. Bởi
vậy, hai văn bản mới là Thông tư số 05/LĐTT ngày 6/5/1971 hướng dẫn về chế độ
nghỉ ngơi của cán bộ công nhân viên chức và Thông tư số 06/LĐTT ngày 6/5/1971
hướng dẫn về thời giờ làm việc của công nhân viên chức được Nhà nước ta ban hành
để hệ thống hóa, sửa đổi những quy định mà các văn bản pháp luật trước đã đề cập sao
cho phù hợp hơn.
Giai đoạn từ năm 1976 đến nay: Khi này miền Nam được giải phóng, thống
nhất hai miền, Đảng và Nhà nước tiến hành công cuộc xây dựng, đổi mới đất nước và
ban hành các văn bản về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi dựa trên cơ sở vẫn áp
dụng theo các văn bản trước đây là Thông tư 05, Thông tư 06 năm 1971. Nền kinh tế
nhiều thành phần ra đời kéo theo những khiếm khuyết bộc lộ từ quy định trong hai

Thông tư này, các thành phần kinh tế trong xã hội đều được khuyến khích phát triển.
Để điều chỉnh sự thay đổi này, Chính phủ có nhiều văn bản pháp luật về thời giờ làm
việc, thời giờ nghỉ ngơi có thể kể đến là Nghị định 233 của Hội đồng Bộ trưởng ngày
22/6/1990 ban hành quy chế hoạt động đối với các xí nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài. Đây được coi như bước tạo tiền đề pháp lý cho sự phát triển mới của đất nước
tuy nhiên còn thiếu tính đồng bộ, chưa thật sự hiệu quả và chưa đạt yêu câu nhất định
của pháp luật lao động bởi tuy văn bản pháp luật thì nhiều nhưng lại chỉ áp dụng trong
khu vực Nhà nước thiếu tính khả thi.
Chuyển đổi kinh tế dẫn đến chuyển đổi trong cơ cấu, số lượng trong đội ngũ
lao động, một loại hàng hóa đặc biệt chính là sức lao động. Trước thực tế trên để giải
quyết yêu cầu cấp bách, Nhà nước đã nhanh chóng ban hành một văn bản pháp luật
mới về lao động. Vào ngày 23/6/1994, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt


Nam khóa IX, kỳ họp thứ V đã chính thức thông qua Bộ luật Lao và được áp dụng
toàn quốc có hiệu lực từ ngày 1/1/1995. Có thể nói đây là văn bản pháp luật có hiệu
lực pháp lý cao và mang ý nghĩa quan trong trong việc điều chỉnh các mối quan hệ lao
động. Thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi được quy định chi tiết cụ thể tại chương
VII của Bộ luật này.
Trên cơ sở BLLĐ, Nhà nước còn ban hành nhiều văn bản pháp luật quan
trọng khác nữa như: Nghị định 195/CP ngày 31/12/1994 quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số điều của Bộ luật lao động về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi;
Nghị định số 23/CP ngày 18/4/1996 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số
điều của BLLĐ về lao động nữ; Quyết định 188/1999/QĐ-TTg ngày 17/9/1999 về
thực hiện chế độ tuần làm việc 40 giờ; Nghị định 109/NĐ-CP ngày 27/12/2002 sửa
đổi, bổ sung một số điều Nghị định 195/CP ngày 31/12/1994; Nghị định 44/2003/NĐCP ngày 9/5/2003 quy định chi tiết và hướng dẫn một số điều của Bộ luật lao động về
hợp đồng lao động; Thông tư số 15/2003/TT-BLLĐTBXH ngày 3/6/2003 về việc
hướng dẫn thực hiện làm thêm giờ theo quy định của nghị định số 109/2002/NĐ-CP;
….
Trải qua các năm 2002, 2006, 2007, Bộ luật được sửa đổi bổ sung đến nay là

BLLĐ 2012 đã càng khẳng định vai trò trong việc bảo vệ quyền lợi người lao động
nhất là vấn đề bảo đảm giờ làm, nghỉ ngơi cho người lao động. BLLĐ 2012 quy định
cụ thể và rõ ràng hơn rất nhiều so với luật cũ, từ việc quy định nguyên tắc ký kết, nội
dung của hợp đồng, việc thực hiện hợp đồng cho đến quy định rõ hơn các trường hợp
chấm dứt hợp đồng lao động. Ngoài việc hoàn thiện các chế định đã có trước đây,
BLLĐ 2012 còn quy định một số nội dung mới khác như chế định cho thuê lại lao
động. Cùng với đó là các Thông tư, Nghị định mới nhất cho đến nay về vấn đề thời giờ
làm việc, thời giờ nghỉ ngơi như:
- Nghị định 45/2013/NĐ-CP hướng dẫn Bộ luật lao động về thời giờ làm việc,
thời giờ nghỉ ngơi và an toàn lao động, vệ sinh lao động;
- Thông tư 24/2015/TT-BTC quy định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ
ngơi đối với người lao động làm công việc có tính chất đặc biệt trong lĩnh vực thăm
dò, khai thác dầu khí trên biển do Bộ trưởng Bộ Công thương ban hành;

- Thông tư 54/2015/TT-BLĐTBXH hướng dẫn về thời giờ làm việc, thời giờ
nghỉ ngơi đối với người lao động làm công việc sản xuất có tính thời vụ và công
việc gia công hàng theo đơn đặt hàng do Bộ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã
hội ban hành;


- Thông tư 31/2017/TT-BNNPTNT quy định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ
ngơi đối với người lao động làm công việc có tính chất đặc biệt trong lĩnh vực phòng
chống thiên tai do Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành ;…
Tất cả các văn bản này giống như hành lang pháp lý giúp cho việc bảo vệ
quyền lợi của người lao động đặc biệt về vấn đề thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi.
Kết luận lại, pháp luật Việt Nam nói chung và các quy định về thời giờ làm
việc, thời giờ nghỉ ngơi nói riêng được Nhà nước khá chú trọng và xây dựng thương
đối phát triển toàn vẹn, góp phần không nhỏ vào sự phát triển toàn vẹn của đất nước
theo từng giai đoạn khác nhau. Pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi trong
BLLĐ đã khá hoàn thiện vừa để bảo vệ quyền lợi của người lao động vừa góp phần cải

thiện phát triển đất nước theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
1.2.3. Nguồn pháp luật điều chỉnh vấn đề thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi ở
Việt Nam hiện nay:
- Bộ Luật Lao động 2012;
- Nghị định 45/2013/NĐ-CP hướng dẫn Bộ luật lao động về thời giờ làm việc, thời giờ
nghỉ ngơi và an toàn lao động, vệ sinh lao động;
- Thông tư 54/2015/TT-BLĐTBXH hướng dẫn về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ
ngơi đối với người lao động làm công việc sản xuất có tính thời vụ và công việc gia
công hàng theo đơn đặt hàng do Bộ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội ban
hành;
- Thông tư 24/2015/TT-BTC quy định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi đối với
người lao động làm công việc có tính chất đặc biệt trong lĩnh vực thăm dò, khai thác
dầu khí trên biển do Bộ trưởng Bộ Công thương ban hành;
- Thông tư 31/2017/TT-BNNPTNT quy định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi
đối với người lao động làm công việc có tính chất đặc biệt trong lĩnh vực phòng chống
thiên tai do Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành.
1.2.4. Một số nguyên tắc pháp lý cơ bản của lĩnh vực pháp luật về thời giờ làm
việc, thời giờ nghỉ ngơi:
• Nguyên tắc Nhà nước quy định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi:
Việc quy định thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi gắn liền với yêu cầu bảo hộ
lao động, hạn chế sự lạm dụng sức lao động, đáp ứng nhu cầu của các bên trong quan
hệ lao động dựa trên cơ sở của nguyên tắc ưu tiên bảo vệ người lao động – đối tượng
luôn ở vị thế yếu hơn so với người sử dụng lao động. Nếu để người sử dụng lao dộng
toàn quyền quyết định, người sử dụng lao động thường có xu hướng kéo dài thời gian
làm việc để khai thác tối đa nghĩa vụ từ phía người lao động, nhằm mục tiêu lợi nhuận.
Nếu để hai bên trong quan hệ lao động tự do thỏa thuận mà không có sự can thiệp của


pháp luật, người sử dụng lao động có thể lợi dụng vị thế có lợi của mình để ép buộc
người lao động chấp nhận thời gian làm việc họ đưa ra.

Để thực hiện chức năng quản lý xã hội của mình, Nhà nước cần phải can thiệp
điều chỉnh bằng việc quy định thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi. Điều này đã được
ghi nhận trong Hiến pháp: “Nhà nước quy định thời gian lao động…” (Điều 56, Hiến
pháp 1992). Theo đó, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi của người lao động được cụ
thể hóa trong các văn bản pháp luật.
Nội dung của nguyên tắc được biểu hiện ở chỗ: Nhà nước quy định khung thời
giờ làm việc ở mức tối đa, thời giờ nghỉ ngơi ở mức tối thiểu. Cụ thể, Nhà nước đã quy
định ngày làm việc tiêu chuẩn, tuần làm việc tiêu chuẩn, số giờ mà người sử dụng lao
động được phép huy động người lao động làm thêm trong một ngày, một năm. Nhà
nước cũng quy định những khoảng thời gian nghỉ ngơi xen kẽ với thời giờ làm việc,
nghỉ hàng tuần, nghỉ hàng năm…. Các quy định này đảm bảo tính mềm dẻo, linh hoạt
cho các bên tự do thỏa thuận và áp dụng khi dùng các từ ngữ như “không quá”, “ít
nhất”. Riêng với cơ quan Nhà nước, do đặc thù của quan hệ lao động mà việc áp dụng
quy định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi là bắt buộc, không đơn vị nào có
quyền thỏa thuận hay tự ý thay đổi thời giờ làm việc đã được ấn định.
Có thể thấy nguyên tắc này mang ý nghĩa quan trọng để bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp cho người lao động cũng như thể hiện sự quan tâm đối với người lao
động. Bên cạnh đó, Nhà nước dễ dàng kiểm soát, thanh tra các hoạt động của doanh
nghiệp trong đảm bảo pháp luật về vấn đề này.
• Nguyên tắc thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi do các bên trong quan hệ
lao động tự thỏa thuận.
Quyền tự do thỏa thuận của các bên đã được pháp luật ghi nhận rộng rãi đối
với hầu hết các quan hệ lao động thuộc điều chỉnh của luật lao động nói chung và chế
định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi nói riêng, được thể hiện trong việc quan hệ
giữa người lao động và người sử dụng lao động được xác lập và tiến hành thương lượng,
thỏa thuận theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, hợp tác, tôn trọng quyền và lợi ích
hợp pháp của nhau, thực hiện đầy đủ những điều đã cam kết2. Vì vậy, sự thỏa thuận hợp
pháp về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi của các bên là hoàn toàn bình đẳng, tự
nguyện, bảo đảm quyền tự do kinh doanh của công dân, quyền chủ động trong hoạt
động sản xuất kinhh doanh và quyền tự định đoạt của người lao động. Người lao động

thường có vị thế yếu hơn so với người sử dụng lao động nên những thỏa thuận này
được khuyến khích theo hướng có lợi cho người lao động.
Nhà nước chỉ can thiệp ở tầm vĩ mô bằng việc quy định giới hạn thời giờ làm
2 Khoản 1, điều 7, BLLĐ 2012.


việc, giờ làm thêm tối đa, thời giờ nghỉ ngơi tối thiểu …. Việc cụ thể hóa như thế nào
phụ thuộc vào vào ý chí của các chủ thể tham gia trên cơ sở thỏa thuận, thương lượng
phù hợp với các điều kiện, đặc điểm riêng. Thông thường các thỏa thuận này được ghi
nhận trong thỏa ước lao động tập thể, có thể đưa vào thành nội dung của nội quy lao
động.
Thỏa ước lao động tập thể về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi là cơ sở
pháp lý chủ yếu để từ đó hình thành nên mối quan hệ lao động có tính tập thể, tạo nên
sự cộng đồng trách nhiệm của cả hai bên trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ
phát sinh trên cơ sở pháp luật lao động. Hơn thế nữa, nó còn tạo điều kiện để người lao
động, bằng sự thương lượng, thông qua sức mạnh tập thể với người lao động có thể
hưởng lợi ích cao hơn so với sự quy định trong pháp luật, góp phần điều hòa lợi ích,
hạn chế cạnh tranh không cần thiết, tạo sự gắn bó chặt chẽ giữa người lao động và
người sử dụng lao động.
• Nguyên tắc rút ngắn thời gian làm việc đối với một số đối tượng đặc biệt
hoặc làm công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm:
Đối với một số đối tượng lao động, một số ngành nghề, công việc nhất định
(đối tượng người lao động làm các công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm, lao động
nữ, lao động là người tàn tật, lao động chưa thành niên, lao động là người cao tuổi…)
thì đòi hỏi phải có những quy đỉnh riêng nhằm đảm bảo sức khỏe và sự công bằng
trong khai thác lao động là vô cùng cần thiết. Bởi theo nghiên cứu cho thấy, với số
lượng công việc như nhau thì mức hao phí sức lao động bỏ ra của họ cao hơn so với
bình thường, do vậy khả năng phục hồi sức lao động cũng lâu hơn.
Nguyên tắc này thể hiện ở việc quy định giảm số giờ làm việc tối đa, tăng số
giờ nghỉ ngơi tối thiểu so với thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi bình thường mà

người lao động vẫn được đảm bảo quyền lợi. Nguyên tắc này là sự cụ thể hóa việc bảo
hộ lao động đối với các lao động đặc thù, có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo
tính mạng, sức khỏe và thể chất cho người lao động yên tâm làm việc. Ví dụ đối với
lao động làm công việc nặng nhọc, độc hại thì thời giờ làm việc không quá 6 giờ/ngày
(Điều 104 BLLĐ 2012), lao động dưới 15 tuổi không quá 4 giờ/ngày và 20 giờ/tuần
(Điều 163 BLLĐ 2012)….
Ngoài ra các đối tượng này cũng được bảo vệ bởi những quy định chặt chẽ
trong các trường hợp làm thêm giờ, làm đêm. Nguyên tắc này là sự cụ thể hóa việc bảo
hộ lao động đối với các lao động đặc thù, có nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo tính
mạng, sức khỏe, thể chất cho người lao động yên tâm làm việc.


×