Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức. Nội dung học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh của sinh viên trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (266.98 KB, 32 trang )

BÀI THẢO LUẬN SINH VIÊN
MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Đề tài 2: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức. Nội dung học tập và làm

theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh của sinh viên trường Đại học
Thương mại trong giai đoạn hiện nay.

MỤC LỤC BÀI THẢO LUẬN
1


PHẦN LỜI MỞ ĐẦU
PHẦN NỘI DUNG
PHẦN I: CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.

2.

Khái niệm, ý nghĩa - vai trò đạo đức
1.1.
Khái niệm đạo đức
1.2.
Ý nghĩa – vai trò đạo đức
Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
2.1.
Cơ sở khách quan
2.2.
Nhân tố chủ quan

PHẦN II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC
1.


2.

Vai trò và sức mạnh của đạo đức
Hồ Chí Minh bàn về những chuẩn mực đạo đức cơ bản của con người
2.1.
Trung với nước, hiếu với dân
2.2. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
2.3. Yêu thương con người
2.4.

3.

Tinh thần quốc tế trong sáng, thuỷ chung

Quan điểm về những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới
3.1.
Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức
3.2.
Xây đi đôi với chống
3.3.
Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời

PHẦN III: SINH VIÊN ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI HỌC TẬP VÀ LÀM
THEO TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
1.
2.

Thực trạng sinh viên trường Đại học Thương Mại
Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, sinh viên Đại học Thương Mại sẽ học
tập và làm theo Người


PHẦN KẾT LUẬN

Danh mục tài liệu tham khảo:
2


-

-

-

Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh (Dành cho sinh viên đại học, cao đẳng
khối không chuyên ngành Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh), Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
Mạch Quang Thắng (2009): Hồ Chí Minh, nhà cách mạng sáng tạo, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Các câu chuyện về tấm gương Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích dẫn trong
Phần III của tài liệu này được trích từ Nguồn: “ Kể chuyện Bác Hồ - Tổng
hợp 20 mẩu chuyện hay và ý nghĩa nhất về Bác” của Đài tiếng nói nhân dân
TP. Hồ Chí Minh( VOH Online).

LỜI MỞ ĐẦU

3


Như chúng ta đã biết, nội dung học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh tại đất nước chúng ta ngày càng được Đảng, nhà nước và nhân dân chú trọng,

quan tâm và nhân rộng. Các tư tưởng, tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí
Minh đều rất có ý nghĩa với nhân dân trong thời kì của Bác mà còn có giá trị sâu
sắc ở giai đoạn hiện nay và cả tương lai của đất nước dân tộc chúng ta. Tại Đại
Hộc Thương Mại cũng thế, có rất nhiều các phong trào, cuộc thi và các hoạt động
hướng đến học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Đây cũng lí do
nhóm quyết định chọn để đem đến cho mọi người Đề tài 2 có tên: “Tư tưởng Hồ
Chí Minh về đạo đức. Nội dung học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh của sinh viên trường Đại học Thương mại trong giai đoạn hiện nay”.
PHẦN I: CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1. Khái niệm, ý nghĩa - vai trò đạo đức
1.1.
Khái niệm đạo đức
 Nguồn gốc bắt nguồn quan niệm đạo đức
-

-

-

-



Với tư cách là một bộ phận của tri thức Triết học, những tư tưởng đạo đức học
đã được xuất hiện hơn 26 thế kỷ trước đây trong triết học Trung Quốc, Ấn Độ,
Hy Lạp cổ đại.
Danh từ đạo đức bắt nguồn từ tiếng La tinh là mos (moris) - lề thói, (moralis
nghĩa là có liên quan đến lề thói, đạo nghĩa). Còn "luân lí" thường xem như
đồng nghĩa với "đạo đức" thì gốc ở chữ Hy Lạp là Êthicos nghĩa là lề thói; tập
tục. Hai danh từ đó chứng tỏ rằng, khi ta nói đến đạo đức, tức là nói đến những

lề thói tập tục và biểu hiện mối quan hệ nhất định giữa người với người trong
giao tiếp với nhau hàng ngày. Sau này người ta thường phân biệt hai khái niệm
moral là đạo đức còn Ethicos là đạo đức học.
Ở phương Đông, các học thuyết về đạo đức của người Trung Quốc cổ đại bắt
nguồn từ cách hiểu về đạo và đức của họ. Đạo là một trong những phạm trù
quan trọng nhất của Triết học Trung Quốc cổ đại. Đạo có nghĩa là con đường,
đường đi về sau khái niệm đạo được vận dụng trọng triết học để chỉ con đường
của tự nhiên. Đạo còn có nghĩa là con đường sống của con người trong xã hội.
Khái niệm đạo đức đầu tiên xuất hiện trong kinh văn đời nhà Chu và từ đó trở
đi được người Trung Quốc cổ đại sử dụng nhiều. Đức dùng để nói đến nhân
đức, đức tính và nhìn chung đức là biểu hiện của đạo, là đạo nghĩa, là nguyên
tắc luân lý. Như vậy có thể nói đạo đức của người Trung Quốc cổ đại chính là
những yêu cầu, nguyên tắc do cuộc sống đặt ra mà mỗi người phải tuân theo.
Khái niệm đạo đức
 Ngày nay, đạo đức được định nghĩa như sau: “ Đạo đức là một hình thái ý
thức xã hội và tập hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội, nhằm
4


I.2.

điều chỉnh cách đánh giá và cách ứng xử của con người trong quan hệ với
nhau và qua hệ với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi
sức mạnh của truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội.”
Ý nghĩa – vai trò đạo đức

Đạo đức có ý nghĩa – vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của cá nhân và xã
hội. Tầm quan trọng này của đạo đức đã được lịch sử xã hội loài người khẳng định
trong quá trình tổ chức thiết lập, duy trì trật tự, ổn định và phát triển xã hội. Tùy
theo trình độ phát triển kinh tế - xã hội mà sự tác động của đạo đức đến cá nhân và

xã hội có khác nhau. Vai trò của đạo đức được thể hiện như sau:
-

-

2.
2.1.

Đạo đức là một trong những phương thức cơ bản để điều chỉnh hành vi con
người, một sự điều chỉnh hoàn toàn tự nguyện, tự giác, không vụ lợi trong một
phạm vi rộng lớn.
Đạo đức góp phần nhân đạo hóa con người và xã hội loài người, giúp con
người sống thiện, sống có ích.
Đạo đức thể hiện bản sắc dân tộc trong quan hệ quốc tế, là cơ sở để mở rộng
giao lưu giữa các giá trị văn hóa của dân tộc, quốc gia với các dân tộc, quốc
gia khác.
Đạo đức góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội, qua đó thúc đẩy sự phát
triển kinh tế - xã hội.
Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
Cơ sở khách quan

 Bối cảnh lịch sử
- Bối cảnh lịch sử Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX: Hồ Chí Minh sinh

-

ra và lớn lên trong hoàn cảnh đất nước và thế giới có nhiều biến động. Người
phải chứng kiến sự hèn nhát của triều đình nhà Nguyễn từng bước khuất phục
trước cuộc xâm lược của tư bản Pháp. Và tiếp đó là các phong trào đấu tranh
của các tầng lớp nhân dân để mong dành lại được độc lập nhưng chưa có một

hướng đi đúng đắn. Từ đó thúc giục trong Hồ Chí Minh một suy nghĩ khác là
Phong trào cứu nước của nhân dân ta muốn giành được thắng lợi phải đi theo
một con đường mới.
Bối cảnh thời đại: Chủ nghĩa tư bản từ giai đoạn tự do cạnh tranh chuyển
sang giai đoạn độc quyền đã xác lập quyền thống trị của chúng trên phạm vi
toàn thế giới. Chủ nghĩa đế quốc đã trở thành kẻ thù chung của các dân tộc
thuộc địa. Năm 1917, Cách Mạng Tháng Mười Nga thành công. Đây là cuộc
cách mạng vĩ đại đã làm “thức tỉnh các dân tộc Châu Á”, “mở ra trước mắt họ
5


thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc”.
 Những tiền đề tư tưởng - lí luận
- Giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam: Đó là truyền thống yêu
nước, kiên cường, bất khuất, là tinh thần tương thân, tương ái, lòng nhân
nghĩa, ý thức cố kết cộng đồng, là ý chí vươn lên vượt qua mọi khó khăn, thử
thách, là trí thông minh, tài sáng tạo, quý trọng hiền tài, khiêm tốn tiếp thu
tinh hoa văn hóa nhân loại để làm giàu cho văn hóa dân tộc…Trong đó chủ
nghĩa yêu nước là cốt lõi, nền tảng và quan trọng nhất. Chính sức mạnh của
chủ nghĩa yêu nước đã thúc giục Nguyễn Tất Thành quyết chí ra đi tìm đường
cứu nước, tìm kiếm những gì hữu ích cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
- Tinh hoa văn hóa nhân loại: Kết hợp các giá trị truyền thống của văn hóa
Phương Đông với các thành tựu hiện đại của văn minh Phương Tây – đó
chính là nét đặc sắc trong quá trình hình thành tư tưởng, nhân cách và văn
hóa Hồ Chí Minh.
- Chủ nghĩa Mác – Lênin: là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của tư
tưởng Hồ Chí Minh. Quá trình tiếp nhận chủ nghĩa Mác – Lênin ở Hồ Chí
Minh thực chất “là chặng đường chiến thắng biết bao khó khăn với sự lựa
chọn vững chắc, tránh được những sai lầm dẫn tới ngõ cụt”.
2.2.

Nhân tố chủ quan
 Khả năng tư duy và trí tuệ Hồ Chí Minh
-

Hồ Chí Minh đã không ngừng quan sát, nhận thức thực tiễn, làm phong phú
thêm sự hiểu biết của mình, đồng thời hình thành những cơ sở quan trọng để
tạo dựng nên những thành công trong lĩnh vực hoạt động lý luận của Người
về sau.

 Phẩm chất đạo đức và năng lực hoạt động thực tiễn
-

-

Biểu hiện ở bản lĩnh kiên định, luôn tin vào nhân dân, khiêm tốn, bình dị, ham
học hỏi, nhạy bén với cái mới, có phương pháp biện chứng, có đầu óc thực
tiễn.
Phẩm chất này còn được biểu hiện ở sự khổ công học tập để chiếm lĩnh đỉnh
cao trí thức nhân loại, là tâm hồn của một nhà yêu nước chân chính, một chiến
sĩ cộng sản nhiệt thành cách mạng, một trái tim yêu nước thương dân, sẵn sàng
chịu đựng hy sinh vì độc lập, tự do của tổ quốc, hạnh phúc của đồng bào.

PHẦN II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC
1.

Vai trò và sức mạnh của đạo đức
6


Chủ tịch Hồ Chí Minh là một vị lãnh tụ vĩ đại, là một tấm gương mẫu mực,

sáng ngời về thực hành đạo đức cách mạng để toàn đảng, toàn dân noi theo. Người
đã để lại cho nhân dân ta tài sản tinh thần vô giá, đó là tư tưởng của Người. Và tư
tưởng về đạo đức của Người cũng chính là những bài học quý giá ấy. Suốt cuộc đời
hoạt động cách mạng của mình, Người đặc biệt quan tâm đến việc giáo dục, rèn
luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Quan điểm của chủ
tịch Hồ Chí Minh về vai trò và sức mạnh của đạo đức như sau:

 Thứ nhất: Hồ Chí Minh quan niệm “ đạo đức là cái gốc của người cách
mạng”
-

-

-

-

Khi đánh giá về vai trò của đạo đức trong đời sống, Người đã khẳng định đạo
đức là nguồn nuôi dưỡng và phát triển con người, như gốc của cây, như ngọn
nguồn của sông suối. Người từng nói: “Cũng như sông thì có nguồn mới có
nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây
héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy
cũng không lãnh đạo được nhân dân”
Nói về vai trò của đạo đức, Người cho rằng đạo đức là sức mạnh của con
người. Làm cách mạng là một việc lớn nên cần có sức mạnh.Người viết: “Làm
cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp vẻ vang,
nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp,
lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người
cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được
nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh cán bộ, đảng viên muốn dân tin, dân phục
thì phải cần có tư cách đạo đức.“Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng
cho loài người là một công việc to tát, mà tự mình không có đạo đức, không có
căn bản, tự mình đã hủ hóa, xấu xa thì còn làm nổi việc gì?”
Hồ Chí Minh yêu cầu Đảng phải “là đạo đức, là văn minh” . Người kế thừa
quan điểm của V.I Lê-nin: Đảng cộng sản phải tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự,
lương tâm của dân tộc và thời đại. Trong Di chúc, Người vẫn dành một phần
trang trọng để nói về đạo đức. Người không chỉ yêu cầu mỗi cán bộ đảng viên
cần “thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô
tư”, mà còn dặn dò đảng viên phải quan tâm chăm lo giáo dục đạo đức cách
mạng cho đoàn viên và thanh niên, đào tạo họ thành những người kế thừa xây
dựng chủ nghĩa xã hội vừa "hồng" vừa "chuyên".
7


-

Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức trong hành động, lấy hiệu quả thực
tế làm thước đo. Người luôn đặt đạo đức bên cạnh tài năng, gắn đức với tài, lời
nói phải đi đôi với hành động, tránh bệnh nói suông.


Trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, đức và tài, hồng và chuyên, phẩm
chất và năng lực thống nhất là một.

 Thứ hai: Người cho rằng đạo đức là nhân tố tạo nên sức hấp dẫn của chủ
nghĩa xã hội
- Theo Hồ Chí Minh, sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội chưa phải ở lý tưởng cao
xa, mức sống vật chất dồi dào, mà trước hết là ở những giá trị đạo đức cao
đẹp, phẩm chất những con người cộng sản ưu tú, bằng tấm gương sống và

hành động của mình, chiến đấu cho lý tưởng đó trở thành hiện thực.
- Người cho rằng, phong trào cộng sản công nhân quốc tế trở thành lực lượng
quyết định vận mệnh của loài người không chỉ do chiến lược và sách lược
thiên taì của cách mạng vô sản, mà còn do chính những phẩm chất đạo đức
cao quý của những con người cộng sản.
- Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là một trong những tấm gương đạo đức sáng ngời
với nhân cách vĩ đại song cũng rất đời thường. Tấm gương của Người đã trở
thành nguồn cổ vũ động viên tinh thần không chỉ với nhân dân ta mà còn đối
với toàn bộ nhân loại tiến bộ và đoàn kết đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
2. Hồ Chí Minh bàn về những chuẩn mực đạo đức cơ bản của con người
Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức là nền tảng và là sức mạnh của người cách
mạng, coi đó là cái gốc của cây, ngọn nguồn của sông nước: Người cách mạng phải
có đạo đức cách mạng làm nền tảng thì mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng
vẻ vang vì sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Quan niệm lấy đức làm
gốc của Hồ Chí Minh không có nghĩa là tuyệt đối hoá mặt đức, coi nhẹ mặt tài.
Người cho rằng có tài mà không có đức là người vô dụng nhưng có đức mà không
có tài thì làm việc gì cũng khó. Cho nên, đức là gốc nhưng đức và tài phải kết hợp
với nhau để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng.
Theo Hồ Chí Minh những chuẩn mực chung nhất của nền đạo đức cách mạng Việt
Nam gồm những điểm sau: Trung với nước, hiếu với dân; Cần, kiệm, liêm, chính,
chí công vô tư; Yêu thương con người; Tinh thần quốc tế trong sáng, thuỷ chung

8


Trung với nước, hiếu với dân
Trong mối quan hệ đạo đức thì mối quan hệ giữa mỗi người với đất nước,
với nhân dân, với dân tộc là mối quan hệ lớn nhất. Trung, hiếu là phẩm chất đạo
đức quan trọng nhất, bao trùm nhất.

2.1.

-

Trung với nước là trung thành với sự nghiệp giữ nước và dựng nước. Nước là
của dân, còn nhân dân là chủ của đất nước. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân,
bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Đây là chuẩn mực đạo đức có ý nghĩa quan trọng
hàng đầu.

-

Trung với nước, hiếu với dân là suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của
Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào
cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Bác vừa kêu gọi hành động vừa
định hướng chính trị đạo đức cho mỗi người Việt Nam.

-

Đối với cán bộ đảng viên phải suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng,
đó là điều chủ chốt của đạo đức cách mạng. Phải tuyệt đối trung thàmh với
Đảng, với dân, phải tận trung, tận hiếu, thì mới xứng đáng vừa là đầy tớ trung
thành, vừa là người lãnh đạo của dân; dân là đối tượng để phục vụ hết lòng.
Phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí
để dân hiểu được quyền và trách nhiệm của người chủ đất nước.

 Nội dung chủ yếu của trung với nước là:
-

Đặt lợi ích của đảng, của Tổ quốc, của cách mạng lên trên hết
Quyết tâm phấn đấu thực hiện mục tiêu của cách mạng.

Thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.

 Nội dung của hiếu với dân là:
-

Khẳng định vai trò sức mạnh thực sự của nhân dân.
Tin dân, lắng nghe dân, học dân, tổ chức vận động nhân dân cùng thực hiện tốt
đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước.
Chăm lo đến đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Mọi đường lối, chính sách đều phục vụ lợi ích của nhân dân
 Sự sáng tạo Hồ Chí Minh về “ Trung với nước, hiếu với dân”
Khi kế thừa phạm trù Trung, Hiếu của đạo đức Nho giáo là ở chỗ: Thứ nhất,
trong khi nói “trung với nước”, Hồ Chí Minh đã thực hiện sự chuyển hoá
phạm trù Trung, làm mất đi ý nghĩa mà hàng nghìn năm chế độ phong kiến đã
sử dụng như một công cụ để cai trị đất nước trong mối quan hệ nô lệ, bị áp bức
9


-

-

2.2.

và hoàn toàn không có tự do, bình đẳng. Thứ hai, với tư tưởng đạo đức “trung
với nước”, Hồ Chí Minh đã thực hiện một cuộc cách mạng trong quan hệ về
đạo đức nói chung, về chủ nghĩa yêu nước nói riêng. Thứ ba, là tính mục đích
của nội dung tư tưởng đạo đức trung với nước. Ở đây, Hồ Chí Minh đã hiện
thực hoá phạm trù trung với nước, gắn lý luận với thực tiễn, chuyển hoá đạo
đức cũ thành tư tưởng đạo đức mới - đạo đức cách mạng mà bản thân Người là

tấm gương tiêu biểu cho tư tưởng đạo đức trung với nước đó. Cũng như với
phạm trù Trung, đến Hồ Chí Minh, phạm trù Hiếu đã được chuyển đổi mang
tính cách mạng. Hiếu với dân không còn bó hẹp trong phạm vi hiếu với cha
mẹ mình như nội dung của đạo đức Nho giáo, mà rộng hơn là hiếu với nhân
dân. Hiếu với dân là lấy dân làm gốc, là làm đầy tớ phục vụ nhân dân (mà ý
nghĩa cách mạng sâu sắc của nó chính là thực hành dân chủ).
Trong đạo đức truyền thống của xã hội phong kiến phương Đông, khái niệm
cũ là "trung với vua, hiếu với cha mẹ", Hồ Chí Minh đã đưa vào đó một nội
dung mới, phản ánh đạo đức ngày nay cao rộng hơn là “Trung với nước, hiếu
với dân”. Đó là một cuộc cách mạng trong quan niệm đạo đức.
Về chữ hiếu, theo Hồ Chí Minh, là hiếu với dân. Hiếu với dân không phải chỉ
là hiếu với cha mẹ mình như người xưa vẫn nói, mà là hiếu với nhân dân, với
toàn dân tộc, vì "nước lấy dân làm gốc", dân là "gốc" của nước. Bác Hồ từng
chỉ rõ: "Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân... Trong xã hội không có
gì tốt đẹp, vẻ vang bằng phục vụ cho lợi ích của nhân dân"

Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư

Theo Người, cần, kiệm, lêm, chính là tứ đức không thể thiếu được đối với mỗi
con người giống như trời có bốn mùa, đất có bốn phương
-

Cần là lao động cần cù, siêng năng, lao động có kế hoạch, sáng tạo năng suất
cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại,
không dựa dẫm. Lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh
phúc của con người.

-

Kiệm là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của nhân

dân, của đất nước, của bản thân mình. Tiết kiệm từ cái nhỏ đến cái to; Không
xa sỉ, không hoang phí, không bừa bãi, theo Hồ Chí Minh Cần phải đi liền
với Kiệm, cần mà không kiệm cũng giống như gió vào nhà trống, thùng không

10


đáy, và một dân tộc biết cần, biết kiệm là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh
về tinh thần, một dân tộc văn minh tiến bộ.
-

Liêm là luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân; không xâm phạm
một đồng xu, hạt thóc của nhà nước, của nhân dân. Phải trong sạch, không
tham lam địa vị, tiền của, danh tiếng, sung sướng. Không tâng bốc mình. Chỉ
có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ. Hành vi trái với chữ liêm
là:… cậy quyền thế mà đục khoét, ăn của dân, hoặc trộm của công làm của
riêng. Dìm người giỏi, để giữ địa vị và danh tiếng của mình là trộm vị. Gặp
việc phải, mà sợ khó nhọc nguy hiểm, không dám làm là tham uý lạo. Cụ
Khổng nói: người mà không liêm, không bằng súc vật. Cụ Mạnh nói: ai cũng
tham lợi thì nước sẽ nguy.

-

Chính là không tà, thẳng thắn, đứng đắn. Đối với mình, không tự cao, tự đại,
luôn chịu khó học tập cầu tiến bộ, luôn kiểm điểm mình để phát huy điều hay,
sửa đổi điều dở. Đối với người, không nịnh hót người trên, xem khinh người
dưới; luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết, không dối trá, lừa lọc.
Đối với việc, để việc công lên trên việc tư, làm việc gì cho đến nơi, đến chốn,
không ngại khó, nguy hiểm, cố gắng làm việc tốt cho dân cho nước.


 Cần, kiệm, liêm, chính rất cần thiết đối với người cán bộ, đảng viên. Nếu đảng

viên mắc sai lầm thì sẽ ảnh hưởng đến uy tín của Đảng, nhiệm vụ của cách
mạng. Cần, kiệm, liêm, chính còn là thước đo sự giàu có về vật chất, vững
mạnh về tinh thần, sự văn minh của dân tộc. “Nó” là cái cần để “làm việc, làm
người, làm cán bộ, để phụng sự Đoàn thể, phụng sự giai cấp và nhân dân,
phụng sự Tổ quốc và nhân loại”.
-

Chí công vô tư, là làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, chỉ biết
vì Đảng, vì Tổ quốc, vì nhân dân, vì lợi ích của cách mạng. Thực hành chí
công vô tư là quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng. “phải
lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ (tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi
lạc nhi lạc). Chủ nghĩa cá nhân chỉ biết đến mình, muốn “mọi người vì mình”.
Nó là giặc nội xâm, còn nguy hiểm hơn cả giặc ngoại xâm. Hồ Chí Minh viết:
“ Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp
dẫn lớn, không nhất định hôm nay vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi,
nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”. Hồ Chí
Minh cũng phân biệt lợi ích cá nhân và chủ nghĩa cá nhân. Chí công vô tư là
tính tốt có thể gồm 5 điều: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm. Bồi dưỡng phẩm chất
11


đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là để vững vàng qua mọi thử
thách : Giàu sang không quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy vũ
không thể khuất phục.
 Điểm mới của Hồ Chí Minh về cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
-

So với quan điểm của Khổng Tử


Khổng Tử đã từng nêu lên những khái niệm về cần, kiệm, liêm, chính tuy nhiên
ông cho rằng cần, kiệm, liêm, chính là những đức tính do “thiên phú”. Tuy nhiên,
khi vận dụng những khái niệm này của đạo đức cũ Người lại cho rằng cần, kiệm,
lêm, chính không phải do thiên phú mà do sự rèn luyện bền bỉ mà nên, cho nên
Người đã khằng đinh: đạo đức cách mạng không phải tự trên trời sa xuống mà do
sự rèn luyện bền bỉ mà nên.
-

So với quan điểm trong truyền thống và trong Nho giáo

Nếu người xưa chỉ chú trọng sự cần cù trong lao động sản xuất và trong học tập thì
Hồ Chí Minh cho rằng chúng ta còn phải cần cù, kiên trì cả trong chiến đấu bảo vệ
Tổ quốc. Khi Người nói “chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc
lâu hơn nữa” thì đó chính là sắc thái mới của chữ Cần trong thời đại chống chủ
nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân.
Nếu trong văn hóa truyền thống, Kiệm là tiết kiệm, căn cơ để làm giàu (“Buôn
thuyền bán bè không bằng ăn dè, hà tiện”) thì với Hồ Chí Minh, Kiệm không phải
là bủn xỉn, hà tiện mà là chi tiêu thật hợp lý để làm lợi cho dân. Đặc biệt hơn nữa,
Hồ Chí Minh đã mở rộng tối đa nội dung của Kiệm. Đó không chỉ là tiết kiệm của
cải, vật chất mà còn là kiệm thời gian, kiệm sức dân, kiệm nhân tài, chất xám. Một
thứ kiệm nữa mà Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh là kiệm xương máu của nhân dân.
Với lòng yêu thương con người, khi buộc phải tiến hành các cuộc kháng chiến bảo
vệ Tổ quốc, Người yêu cầu phải đánh sao cho sự tổn hại ở mức thấp nhất chứ
không thể “nhất tướng công thành vạn xác khô”. Cuối cùng, Kiệm đối với Hồ Chí
Minh còn là kiệm lời theo phương châm “nói ít, bắt đầu bằng hành động”
Hồ Chí Minh cũng đưa ra quan điểm mới về đức LIÊM. Nếu trong ngũ thường của
Nho giáo (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín) không có đức Liêm thì với Hồ Chí Minh, Liêm –
tức là liêm khiết, không tham lam, vơ vét của công và của dân - là một phẩm chất
không thể thiếu của người cách mạng. Từ lúc Đảng chưa ra đời, trong tác phẩm

“Đường Cách mệnh”, Hồ Chí Minh đã yêu cầu người cách mạng phải “ít lòng ham
muốn về vật chất”. Khi Đảng trở thành đảng cầm quyền thì chữ Liêm càng quan
trọng vì nếu thiếu nó thì cán bộ “biến thành sâu mọt của dân”. Chẳng vậy mà sau
12


cách mạng Tháng Tám, Hồ Chí Minh đã tuyên bố: “Chính phủ sau đây phải là một
chính phủ liêm khiết”.
Theo quan điểm của người xưa, Liêm là dùng để chỉ phẩm chất của một người
sống trong sạch, giữ thân trước mọi cám dỗ của hiền tài, sắc đẹp, coi của cải là phù
du, trọng đức hạnh là cao cả. Còn trong quan điểm của Bác, Liêm không chỉ là
sống trong sạch trước cám dỗ của của cải, vật chất mà còn là sống trong sạch,
không “tham địa vị, tham danh tiếng, tham ăn ngon, tham sống yên”
Trong ngũ thường của Nho giáo không có đức CHÍNH nhưng Hồ Chí Minh lại
luôn yêu cầu người cán bộ phải “chính tâm và thân dân”. Người có đức Chính là
người thẳng thắn, đúng mực không chỉ trong hành động mà ngay cả trong suy nghĩ
thầm kín của mình mà người xưa gọi là “tư vô tà”. Đặc biệt, người đó phải biết bảo
vệ lẽ phải, phụng sự lẽ phải mà với Hồ Chí Minh, lẽ phải lớn nhất, chân lý lớn nhất
là lợi ích của dân nên người có đức Chính phải là người “vì dân chứ không vì
mình”. Như vậy, Hồ Chí Minh đã thổi linh hồn mới vào những khái niệm cũ.

2.3.

Yêu thương con người

-

Kế thừa truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp truyền thống nhân nghĩa
với chủ nghĩa nhân đạo cộng sản, tiếp thu tinh thần nhân văn của nhân loại qua
nhiều thế kỷ, qua hoạt động thực tiễn, Hồ Chí Minh đã xác định tình yêu

thương con người là phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất.

-

Tình yêu rộng lớn dành cho những người cùng khổ, những người lao động bị
áp bức, bóc lột. Hồ Chí Minh chỉ ham muốn cho đất nước được hoàn toàn độc
lập, dân được tự do, mọi người ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học
hành. Chỉ có tình yêu thương con người bao la đến như vậy mới có cách
mạng, mới nói đến chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.

-

Nghiêm khắc với mình, độ lượng với người khác. Phải có tình nhân ái với cả
những ai có sai lầm, đã nhận rõ và cố gắng sửa chữa, đánh thức những gì tốt
đẹp trong mỗi con người. Người căn dặn Đảng phải có tình đồng chí thương
yêu lẫn nhau, trên nguyên tắc tự phê bình và phê bình chân thành.

-

Tình yêu thương con người còn là tình yêu bạn bè, đồng chí, có thái độ tôn
trọng con người, điều này có ý nghĩa đối với người lãnh đạo.

 Sáng tạo của Hồ Chí Minh
13


-

Ở xã hội phong kiến cũ luôn tồn tại sự đối nghịch giữa các giai cấp bóc lột và
bị bóc lột. Đây là một mâu thuẫn giai cấp lớn, ở đây không tồn tại tình yêu

thương con người mà chỉ có sự bóc lột, tranh chấp. Trong tư tưởng Hồ Chí
Minh, tình yêu thương con người còn cao hơn và rộng hơn là yêu thương cả
những người bị áp bức bóc lột. Chỉ có tình yêu thương con người bao la đến
như vậy mới có cách mạng, mới nói đến chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng
sản.

-

Yêu thương con người với Hồ Chí Minh còn là biết cảm thông với những sai
lầm của người khác và giúp họ thức tỉnh trước sai lầm và sống cuộc sống mới
tốt đẹp hơn có ích hơn với chính bản thân họ, gia đình và xã hội.

2.4.

Tinh thần quốc tế trong sáng, thuỷ chung

-

Đó chính là tinh thần đoàn kết với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao
động các nước trong cuộc đấu tranh giải phóng con người khỏi ách áp bức,
bóc lột mà Hồ Chí Minh đã dày công vun đắp bằng hoạt động cách mạng thực
tiễn của bản thân mình và bằng sự nghiệp cách mạng của cả dân tộc. Trong
quá trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã đến nhiều nước trên thế giới,
các nước tư bản cũng như thuộc địa. Người đã chứng kiến cảnh cùng cực của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đồng thời cũng thấy rõ cảnh sống xa
hoa của bọn tư sản. Thực tế sinh động đã giúp Người đồng cảm và nhận thức
rõ: Nơi đâu cũng có người nghèo như ở xứ mình, dù ở các nước thuộc địa hay
chính quốc, họ đều bị áp bức, bóc lột tàn nhẫn bởi chủ nghĩa thực dân tàn ác.
Người đi tới kết luận: “Dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống
người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối

tình hữu ái là thật mà thôi: Tình hữu ái vô sản” 1. Kết luận này cho thấy nhận
thức của Hồ Chí Minh về ý thức dân tộc và ý thức giai cấp đã từ tầm nhìn
quốc gia tới tầm nhìn quốc tế. Kết luận trên cũng là sự khởi đầu của tư tưởng
đoàn kết quốc tế Hồ Chí Minh - đoàn kết với những người lao khổ, cần lao
trên thế giới, luôn gắn liền lợi ích dân tộc với lợi ích giai cấp, lợi ích quốc gia
với lợi ích quốc tế.

-

Đó là tinh thần quốc tế vô sản, bốn phương vô sản đều là anh em. Hành trình
qua các nước vào những năm đầu của thế kỷ XX đã giúp Hồ Chí Minh nhận
thấy rằng phải có được quan hệ hợp tác giúp đỡ giữa cách mạng chính quốc và
cách mạng thuộc địa. Ngay từ năm 1921, Người khẳng định thực dân đế quốc
là kẻ thù của nhân dân thuộc địa và cũng là kẻ thù của nhân dân lao động
chính quốc. Bởi vậy, để chống lại kẻ thù chung, đạt tới mục tiêu giải phóng

14


thân phận nô lệ và bị bóc lột, đòi hỏi sự đoàn kết liên minh chặt chẽ nhân dân
lao động ở thuộc địa và chính quốc.
-

Đó là tinh thần đoàn kết của nhân dân Việt Nam với tất cả những người tiến bộ
trên thế giới vì hoà bình, công lý và tiến bộ xã hội.

 Điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh về tinh thần đoàn kết quốc tế
-

Điểm mới và sâu sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh là Người đã chứng minh

được bọn đế quốc không chỉ áp bức bóc lột nhân dân các nước thuộc địa mà
còn thống trị nhân dân lao động và giai cấp vô sản chính quốc. Người đã ví
chủ nghĩa đế quốc giống như “con đỉa hai vòi”. Một vòi bám vào giai cấp vô
sản ở chính quốc, một vòi bám vào giai cấp vô sản ở thuộc địa. Muốn giết con
vật ấy, phải đồng thời cắt cả hai vòi, nếu chỉ cắt một vòi thì vòi lại tiếp tục hút
máu và vòi bị cắt tiếp tục mọc ra. Vì thế, nhiệm vụ chống chủ nghĩa tư bản,
đánh đổ chúng là nhiệm vụ của cả nhân dân lao động chính quốc và thuộc địa.

-

Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, đoàn kết quốc tế còn phải gắn liền với chủ
nghĩa yêu nước. Nếu tinh thần yêu nước không chân chính và tinh thần quốc tế
không trong sáng thì có thể dẫn tới tư tưởng dân tộc hẹp hòi, hoặc chủ nghĩa
bành trướng bá quyền nước lớn, kỳ thị dân tộc. Những khuynh hướng sai lệch
ấy có thể dẫn đến chỗ phá vỡ một quốc gia dân tộc hay một liên bang đa quốc
gia dân tộc, phá vỡ tình đoàn kết quốc tế trong cuộc đấu tranh chung, thậm chí
có thể đưa đến tình trạng đối đầu, thù địch.

Quan điểm về những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới
Trong cuộc đời hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng
vấn đề xây dựng đạo đức cách mạng, coi đạo đức là cái gốc, cái nền tảng của
người cách mạng.
- Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng
không lãnh đạo được nhân dân. Người khẳng định: “Có tài mà không có đức là
người vô dụng, có đức mà không có tài làm việc gì cũng khó”. Xuất phát từ
thực tiễn cách mạng Việt nam, với tư duy độc lập sáng tạo, Hồ Chí Minh đã kế
thừa có chọn lọc tư tưởng đạo đức truyền thống và vận dụng sáng tạo tư tưởng
nhân văn của Chủ nghĩa Mác – Lê nin. Người đề xuất tư tưởng đạo đức mới,

3.

-

15


3.1.
-

tư tưởng đạo đức cách mạng. Những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới ấy bao
gồm:
Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức
Nói đi đôi với làm, Hồ Chí Minh coi đây là nguyên tắc quan trọng bậc nhất
trong xây dựng một nền đạo đức mới.

Trong cuốn Đường Cách Mệnh, khi nói về tư cách người cách mệnh Hồ Chí
Minh viết: “Nói thì phải làm” “Có lòng bày vẽ cho người” hay trong tác phẩm
Nâng cao đạo đức cách mạng quét sạch chủ nghĩa cá nhân, Hồ Chí Minh yêu cầu
Đảng cần thực hiện “Đảng viên đi trước, làng nước theo sau” .Luận điểm ấy đã
khẳng định rất rõ vấn đề nêu gương có tầm quan trọng đặc biệt trong đời sống đạo
đức, nhất là đối với trách nhiệm của cán bộ, đảng viên.
Nói đi đôi với làm đối lập hoàn toàn với thói đạo đức giả của giai cấp bóc lột,
nói một đằng làm một nẻo, thậm chí nói mà không nghe.

-

Ngay sau Cách mạng tháng 8, Hồ Chí Minh đã chỉ ra những biểu hiện của thói
đạo đức giả ở một số cán bộ, “vác mặt làm quan cách mạng”, nói mà không làm.
Sau này, Người đã nhiều lần bàn đến việc tẩy sạch căn bệnh quan liêu, coi thường
quần chúng của các một số cán bộ, đảng viên “miệng thì nói dân chủ, nhưng làm
việc thì họ theo lỗi “quan” chủ. Miệng thì nói “phụng sự quần chúng”, nhưng họ

làm trái ngược với lợi ích quần chúng, trái ngược với phương châm và chính sách
của Đảng và Chính phủ, làm tổn hại uy tín của Đảng và Chính phủ trước nhân dân.
o

o

Nêu gương về đạo đức là một nét đẹp của truyền thống văn hóa phương Đông.
Hồ Chí Minh đã có lần chỉ rõ "Nói chung thì các dân tộc phương Đông đều
giàu tình cảm, và đối với họ, một tấm gương sống có giá trị hơn một trăm bài
diễn văn tuyên truyền". Do đó cần xây dựng những tấm gương người tốt việc
tốt . Với ý nghĩa đó, Hồ Chí Minh đã đào tạo các thê hệ cán bộ cách mạng
Việt Nam, không chỉ bằng lí luận cách mạng tiền phong mà còn bằng chính
tấm gương đạo đức cao cả của mình. Bản thân Hồ Chí Minh là tấm gương
trong sáng tuyệt vời về lời nói đi đôi với việc làm.Trong suốt cuộc đời hoạt
động của mình,Hồ Chí Minh luôn luôn nêu gương sáng về đạo đức, Người
nói ít làm nhiều, có nhiều vấn đề về đạo đức Người làm mà không nói.
Đối với cán bộ, Đảng viên, Hồ Chí Minh nói: "Trước mặt quần chúng, không
phải ta cứ viết lên trán hai chữ "Cộng sản" mà ta lại được họ yêu mến. Quần
chúng chỉ quý mến những người có tư cách đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân
dân, mình phải mực thước cho người ta bắt chước... Hô hào dân tiết kiệm,
mình phải tiết kiệm trước đã".
16


-

Hồ Chí Minh cho rằng hơn bất cứ một lĩnh vực nào khác, trong việc xây dựng
một nền đạo đức mới, đạo đức cách mạng phải đặc biệt chú trọng “ đạo làm
gương”.


Tấm gương đạo đức của Hồ Chí Minh là tấm gương chung cho cả dân tộc, cho
các thế hệ mai mãi về sau. Nhưng còn nhiều tấm gương của các vị anh hùng, chiến
sỹ thi đua những tấm gương của những người tiêu biểu cho từng ngành, từng cấp,
những tấm gương “Người tốt việc tốt” rất gần gũi trong đời thường có ở mọi lúc
mọi nơi mà chúng ta không thể coi thường. Về vấn đề này Hồ Chí Minh đã nói:
“Người tốt, việc tốt nhiều lắm ở đâu cũng có. Ngành nào, giới nào, địa phương
nào, lứa tuổi nào cũng có”.
3.2.
-

-

-

Xây đi đôi với chống
Để xây dựng một nền đạo đức mới, cần phải kết hợp chặt chẽ giữa xây và
chống. Để tạo nên những con người hoàn thiện về tài, đức, phục vụ sự nghiệp
cách mạng, theo Hồ Chí Minh cần phải quán triệt nguyên tắc xây phải đi đôi
với chống.Cùng với việc xây dựng đạo đức mới, bồi dưỡng những phẩm chất
tốt đẹp, nhất thiết phải chống những biểu hiện đạo đức sai trái, xấu xa, không
phù hợp với những yêu cầu của đạo đức mới. Xây đi đôi với chống, muốn xây
phải chống, chống nhằm mục đích xây. Cũng vì vậy Hồ Chí Minh căn dặn
toàn Đảng: “Phải cương quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân nâng cao đạo đức
cách mạng bồi dưỡng tư tưởng tập thể, tinh thần đoàn kết, tính tổ chức và kỷ
luật”.
Việc xây dựng đạo đức mới trước hết phải được tiến hành bằng việc giáo dục
những phẩm chất, chuẩn mực đạo đức mới. Vấn đề quan trọng trong việc giáo
dục đạo đức là phải khơi dạy ý thức đạo đức lành mạnh ở mọi người để mọi
người tự giác nhận thức được trách nhiệm đạo đức của mình. Hồ Chí Minh đã
chỉ ra rằng “Mỗi người đều có thiện ác ở trong lòng. Ta phải biết làm thế nào

cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị
mất đi, đó là thái độ của người cách mạng”
Khi xây dựng, bồi dưỡng phẩm chất đạo đức mới phải gắn liền chống lại cái
xấu, cái sai, cái vô đạo đức thường diễn ra hàng ngày. Hồ Chí Minh cho rằng:
trên con đường đi tới tiến bộ và cách mạng, đạo đức chỉ mới có thể được xây
dựng thành công trên cơ sở kiên trì mục tiêu chống chủ nghĩa đế quốc, chống
những thói quen, tập quán lạc hậu và loại trừ chủ nghĩa các nhân. Xây dựng
đạo đức có nhiều cách làm, trước hết mỗi cá nhân và tổ chức phải có ý thức tự
giác trau dồi đạo đức cách mạng. Sự tự giác của bản thân là phẩm chất đạo
đức quý đối với từng người và tổ chức. Điều quan trọng hơn là phải phát hiện
17


sớm, phải tuyên truyền, vận động hình thành phong trào quần chúng rộng rãi
đấu tranh cho sự lành mạnh, trong sạch về đạo đức.

3.3.
-

-



Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời
Một nền đạo đức mới chỉ có thể được xây dựng trên cơ sở sự tự giác tu dưỡng
đạo đức của mỗi người. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói phải làm thế nào để mỗi
người tự nhận việc trau dồi đạo đức cách mạng là việc làm “Sung sướng vẻ
vang nhất trong đời này”. Người đã nhiều lần chỉ rõ: “Mỗi con người phải
thường; xuyên chăm lo tu dưỡng đạo đức như việc rửa mặt hàng ngày đấy
cũng là công việc phải kiên trì bền bỉ suốt đời, không người nào có thể chủ

quan tự mãn.”
Đạo đức cách mạng là đạo đức dấn thân, đạo đức trong hành động vì độc lập,
tự do của dân tộc, hạnh phúc của nhân dân. Theo Người: “Đạo đức cách mạng
không phải trên trời xa xuống. Nó do đấu tranh rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà
phát triển củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng
trong”. Người cũng dạy: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm
qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn
được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa
vào chủ nghĩa cá nhân”.
Mỗi con người đều có cái tốt, cái xấu vấn đề là không tự lừa dối mình mà nhìn
thẳng vào mình thấy rõ cái tốt, cái thiện để phát huy, thấy cái xấu, cái ác để
khắc phục. Vì vậy việc tu dưỡng rèn luyện phải được thực hiện trong hoạt
động thực tiễn. Nếu không thường xuyên rèn luyện thì lúc khó khăn có thể
vượt qua, có công với cách mạng, nhưng đến khi an nhàn lại sa vào chủ nghĩa
cán nhân trở thành con người ngăn cản cách mạng, cho dân, cho nước. Cũng
chính vì lẽ đó mà tu dưỡng đạo đức phải gắn với thực tiễn bền bỉ trong mọi lúc
mọi nơi, mọi hoàn cảnh; phải kiên trì rèn luyện, tu dưỡng suốt đời như công
việc rửa mặt hàng ngày.

PHẦN III: SINH VIÊN ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI HỌC TẬP VÀ LÀM
THEO TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
1.
-

Thực trạng sinh viên trường Đại học Thương Mại
Công tác giáo dục của nhà trường học tập và làm theo tấm gương đạo đức đạo
đức Hồ Chí Minh là cuộc vận động lớn vừa mang tính cấp bách trong bối cảnh
hiện nay

18



o

o

o

o

o

o
o

o

Một số chương trình, phong trào, hoạt động tiêu biểu mà sinh viên Trường Đại
học Thương mại đã tổ chức, tham gia:
Hiến máu nhân đạo tháng 3 và tháng 10 . Ngày hội hiến máu 19/09/2019 “
Điều ước cho em” tại trường … Mang ý nghĩa hết sức thiết thực thể hiện tinh
thần nhân ái “ Thương người như thể thương thân”, mỗi giọt máu cứu người
chính là nghĩa cử cao đẹp giúp ích cho những đồng bào đang gặp khó khăn.
Chiến dịch tình nguyện “ Mùa hè Xanh” . Mùa hè Xanh là chiến dịch tình
nguyện đầy ý nghĩa của sinh viên trong thời gian nghỉ hè, các bạn sẽ được đi
đén các địa điểm còn khó khăn để giúp đỡ người dân, “ ở đâu cần thanh niên
có,ở đâu khó có thanh niên”. Qua chiến dịch tình nguyện mùa hè xanh, sinh
viên sẽ có cơ hội để trải nghiệm cuộc sống.
Các hoạt động tình nguyện: “Trung thu cho em” ( diễn ra vào 7-8/9/2019 tại
Mộc Châu, Sơn La); “Đông ấm” ( diễn ra vào 29-30/12/2019 tại Hòa Bình )

của đội Thanh niên xung kích Khoa Khách sạn – Du lịch Trường Đại học
Thương mại. Bao gồm các hoạt động chính như: tổ chức chương trình
meeting, vui chơi cùng các em nhỏ miền cao; quyên góp đồ dung học tập,
quần áo, trao quà cho các hộ đặc biệt khó khăn; xây dựng tủ sách cho các em
học sinh; quét dọn, phát quang đường làng ngõ xóm, trồng hoa,…
Các hoạt động về : Ánh sáng soi đường , Hành trình theo chân Bác ,…
Hướng sinh viên ghi nhớ về công ơn của tổ tiên, ông bà, các anh, các chị đã
hi sinh tuổi trẻ, sức lực và cả tính mạng của mình để bảo vệ đất nước này, đó
chính là “Uống nước nhớ nguồn”, “ Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”.
Các giải Cầu lông sinh viên , thiếu nữ mùa xuân , giải chạy báo Hà Nội
mới .Đây là cơ hội để các bạn yêu thích, đam mê văn nghệ, các môn thể thao
có cơ hội thể hiện bản thân, thể hiện tinh thần văn nghệ, thể thao,giao lưu với
các sinh viên khác trong khoa, nếu có thành tích xuất sắc các bạn có thể được
chọn
Tiếp lửa cổ vũ đội tuyển U23 Việt Nam , U22 Việt Nam tại Seagames 2019
Tham gia các chương trình trao đổi sinh với Nhật Bản (tuyển sinh đi học tại
Nhật Bản năm học 2020 – 2021( học bổng Mitsubishi ) theo thông báo
28/TB- HĐQT ngày 13/1/2019; chương trình học bổng của Bộ Ngoại giao và
Thương mại Hungary dành cho học ngôn ngữ, văn hóa và nghiên cứu
Hungary năm học 2020-2021,..
Tham gia các cuộc giao lưu với, học hỏi kinh nghiệm, văn hóa, lối sống với
các sinh viên trường khác như ĐH Ngoại ngữ, ĐH sư phạm, ĐH Kinh tế
quốc dân,… Điển hình là cuộc thi VUG dành cho cho các bạn sinh viên tại
19


các khối trường Đại học phía Bắc, cuộc thi là nơi giao lưu, học hỏi cho các
bạn có đam mê về thể thao, đặc biệt là bộ môn nhảy đối kháng.
o Gần đây nhất là dịch nCovi ( Covid-19), dưới sự kêu gọi của Đảng, Nhà
nước, sự vận động của Nhà trường, sinh viên Trường Đại học Thương mại đã

quyên góp tiền ủng hộ nhà nước, cộng đồng, xã hội chống dịch; thực hiện
nghiêm túc chủ trương “ ở nhà là yêu nước” của Đảng và Nhà nước; năng
động sáng tạo trong việc học tập online,…
 Mặt tích cực:
- Công tác giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh được bộ giáo dục và nhà trường
quan tâm. Các sinh viên học tập tại trường đều học tập và nghiên cứu sâu sắc
tư tưởng Hồ Chí Minh thông qua các môn học tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong
nền kinh tế thị trường phát triển như hiện tại, sự giao lưu hòa nhập văn hóa
giữa các nước trở nên dễ dàng, thuận tiện phần lớn sinh viên Trường Đại học
Thương mại vẫn giữ được lối sống tình nghĩa, trong sạch, lành mạnh; khiêm
tốn, luôn cần cù và sáng tạo trong học tập; sống có bãn lĩnh, có chí lập thân,
lập nghiệp, năng động, nhạy bén, dám đối mặt với những khó khăn, thách
thức, dám chịu trách nhiệm, không ỷ lại, chây lười; luôn gắn bó với nhân dân,
đồng hành cùng dân tộc, phấn đấu cho sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh.
- Rất nhiều sinh viên tham gia tích cực các hoạt động xã hội, các phong trào
Đoàn – Hội sinh viên tổ chức như :tri ân những người có công với cách mạng ,
giúp đỡ những người neo đơn, cơ nhỡ,…
- Có một số sinh viên đưa ra các phương pháp học tập hay chế tạo các mô hình ,
giải pháp nâng cao việc học tập và rèn luyện tri thức và đạo đức cho tất cả các
sinh viên . Đây chính là sự sáng tạo hợp lý , sáng tạo vì tập thể , thể hiện tài
chí của thế hệ trẻ Việt Nam.
 Mặt hạn chế :
Song song với những kết quả tích cực mà sinh viên Trường Đại học Thương
mại đạt được thì bên cạnh đó vẫn còn tồn tại một số mặt hạn chế :
- Cuộc vận động “ học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh “ của
sinh viên đã đi vào chiều sâu nhưng bên cạnh đó một bộ phận không nhỏ sinh
viên vẫn còn tồn tại thái độ thờ ơ , không quan tâm.
- Có một bộ phận sinh viên không có chí lập thân, lập nghiệp, hút xách; thiếu
trung thực, gian lận trong thi cử, chạy điểm, chạy thầy, mua bằng cấp…

- Một số sinh viên buộc phải có đủ ngày công tác xã hội theo quy định của nhà
trường mới được cấp bằng tốt nghiệp nên một số bạn tham gia “ chỉ có lệ”,
20


2.

-

-

tham gia vì kiếm điểm rèn luyện và ngày công tác xã hội , thấy cái gì có lợi
cho mình thì làm , còn không được lợi hoặc cảm thấy cái lợi quá ít sẽ tìm cách
trốn tránh .
Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, sinh viên Đại học Thương Mại sẽ học
tập và làm theo Người
Tấm gương trung với nước, hiếu với dân, suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là con người Việt Nam đẹp nhất và là một trong những
con người đẹp nhất của thời đại chúng ta. Ngay từ thưở thiếu thời, Hồ Chí
Minh đã lựa chọn một cách rõ ràng và dứt khoát mục tiêu hiến dâng cả cuộc
đời mình cho cách mạng. người đã chấp nhận mọi hy sinh, luôn kiên định,
dũng cảm và sáng suốt để vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, “thắng không
kiêu, bại không nản”, “giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khó không thể
chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục” nhằm thực hiện bằng được mục tiêu
đó. Người nói: bài học chính trong đời tôi là tuyệt đối và hoàn toàn cống hiến
đời mình cho sự nghiệp giải phóng và thống nhất tổ quốc, giải phóng giai cấp
công nhân và dân tộc bị áp bức, cho sự thắng lợi của CNXH, cho sự hợp tác
anh em và hòa bình giữa các dân tộc; “một ngày đồng bào còn chịu khổ là một
ngày tôi ăn không ngon, ngủ không yên”.

Đến lúc phải rời thế giới này, điều luyến tiếc duy nhất của Người là “không
được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”. Tấm gương vì nước, vì dân, suốt
đời đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng
con người của Hồ Chí Minh đã được nhân dân thể giới và bạn bè quốc tế thừa
nhận và kính phục. họ đã dùng những lời đẹp đẽ và trang trọng nhất để ca ngợi
chủ tịch Hồ Chí Minh : “nhà cách mạng triệt để”, “nhà hoạt động quốc tế thần
thoại”, “một nhân vật nổi bậc nhất trong thời đại của chúng ta”, “một tấm
gương sáng chói, những phẩm chất cách mạng và nhân dạo cao cả nhất. Hiếm
có một nhà lãnh đạo nào trong những giờ phút thử thách lại tỏ ra sáng suốt,
bình tĩnh, gan dạ, quên mình, kiên nghị và dũng cảm một cách phi thường như
vậy”, một con người “mà cái chết là mầm sống của sự sống và là nguồn cổ vũ
đời đời bất diệt”…



Học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh sinh viên cần:

-

Mỗi người cần nhận thức sâu sắc hơn, đầy đủ hơn những hy sinh to lớn của
ông cha để chúng ta có non sông, Tổ quốc Việt Nam độc lập, tự do, thống nhất
21


trọn vẹn hôm nay. Nâng cao tinh thần yêu nước, tự hào về truyền thống anh
hùng của dân tộc là lương tâm và trách nhiệm của mỗi người Việt Nam chân
chính. Trung với nước ngày nay là trung thành vô hạn với sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, nền văn hóa,
bảo vệ Đảng, chế độ, nhân dân và sự nghiệp đổi mới, bảo vệ lợi ích của đất
nước.

-

Trung với nước, hiếu với dân ngày nay thể hiện ở ý chí vươn lên quyết tâm
vượt qua nghèo nàn, lạc hậu, góp phần dựng xây đất nước phồn vinh, sớm đưa
nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, theo kịp trình độ các nước phát triển
trong khu vực và thế giới; thực hiện bằng được mong ước của Bác Hồ kính
yêu: “xây dựng đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”.

-

Trung với nước, hiếu với dân là phải luôn luôn có ý thức giữ gìn đoàn kết toàn
dân tộc, đoàn kết trong Nhà trường, trong gia đình, xã hội

-

Trung với nước hiếu với dân là phải có tinh thần trách nhiệm cao đối với công
việc, có lương tâm nghề nghiệp trong sáng; quyết tâm phấn đấu để thành đạt
và cống hiến nhiều nhất cho đất nước, cho dân tộc; quyết tâm xây dựng quê
hương giàu đẹp, văn minh. Phải có tinh thần ham học hỏi, phát huy truyền
thống hiếu học và quý trọng nhân tài của ông cha ta; biết vận dụng sáng tạo
các tri thức khoa học, công nghệ hiện đại, các sáng kiến trong sản xuất, công
tác, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Mọi sự bảo thủ, trì trệ, lười học
tập, ngại lao động, đòi hỏi hưởng thụ vượt quá khả năng và kết quả cống hiến
là trái truyền thống đạo lý dân tộc và trái với tư tưởng yêu nước của Chủ tịch
Hồ Chí Minh.



Hồ Chí Minh mẫu gương cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, đời riêng
trong sáng, nếp sống giản dị và đức khiêm tốn phi thường


-

Hồ Chí Minh luôn “CẦN KIỆM LIÊM CHÍNH” từ trong suy nghĩ đến hành
động; từ cuộc sống đời thường đến vị thế một nguyên thủ quốc gia và cho đến
lúc đi xa. Lựa chọn cuộc sống cần kiệm, giản dị, chan chứa tình yêu thiên
nhiên, không màng danh vọng, không ham của cải, chẳng ưa sự xa hoa và
những nghi thức sang trọng, Hồ Chí Minh từng nói, người ta ai cũng muốn ăn
ngon, mặc đẹp, nhưng điều quan trọng là phải thiết thực và phù hợp, đúng
22


thời, đúng hoàn cảnh. Người ăn mặc đều giản dị và tiết kiệm và đó là lối sống
của Người…
-

Sinh thời, Bác sống rất giản dị, từ lời nói đến việc làm, phong cách làm việc,
từ cách ăn mặc cho đến những sinh hoạt hàng ngày, ngay cả khi Người đã là
Chủ tịch nước. Tác phong giản dị ấy mang lại một sự gần gũi, một ấn tượng
khó quên với những ai đã được gặp Bác dù chỉ một lần. Bác ăn mặc rất giản
dị và tiết kiệm. Quần áo Bác mặc chỉ có vài bộ, may cùng kiểu. Có cái áo của
Bác rách, vá đi vá lại, thay cổ mà Bác vẫn không cho đổi. Có lần Bác nói với
một đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng một cách chân tình: “Này chú! Chủ
tịch Đảng, Chủ tịch nước mặc áo vá vai thế này là cái phúc của dân đấy. Đừng
bỏ cái phúc ấy đi”. Đôi dép cao su của Bác, bộ quần áo ka-ki sờn Bác vẫn
dùng hàng ngày, khi biết các đồng chí phục vụ định thay, Bác không đồng ý.
Chiếc bút chì mòn vẹt Bác dùng để theo dõi tin tức trên báo. Những trang bản
thảo được Bác viết ở mặt sau của những tờ tin tham khảo của Việt Nam Thông
tấn xã. Chiếc ô tô Bác đi công tác hay đi thăm đồng bào và chiến sĩ trong cả
nước cũng chỉ là loại xe bình thường. Bác không dùng chiếc điều hoà nhiệt độ

do các đồng chí cán bộ ngoại giao đang công tác ở nước ngoài biếu, mà đề
nghị chuyển chiếc điều hoà ấy cho các đồng chí thương bệnh binh đang điều
trị tại trại điều dưỡng hoặc quân y viện, mặc dù lúc đó Bác đang ở trong ngôi
nhà của người thợ điện (nhà 54) rất nóng. Những bữa ăn thanh đạm của Người
“thường là dưa cà, đôi khi có thịt”. Những lần đi thăm các địa phương, Bác
thường không báo trước và mang theo cơm nắm để tránh sự đón rước linh
đình, gây phiền hà và tốn kém tiền của nhân dân.

Bài thơ “ Tức ảnh Pác Bó” được Bác viết vào tháng 2 năm 1941 có những câu thơ”
“Sáng ra bờ suối, tối vào hang
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng
Cuộc đời cách mạng thật là sang.”
Bài thơ đã phần nào cho chúng ta thấy được cuộc sống, điều kiện làm việc vô cùng
đơn sơ, giản dị trong những ngày Bác sống và hoạt động tại hang Pác Bó. Thức ăn
hàng ngày của Người chỉ là những cây cối mọc dại hái vào nấu tạm bữa ăn, bàn
làm việc chỉ là những phiến đá to trong hang.
-

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, trên chiến khu Việt Bắc, Bác ở
trong ngôi nhà sàn đơn sơ, giản dị thì đến khi cách mạng thành công, trở về
23


-

-

-



-

-

-

-

Thủ đô, Bác cũng chỉ ở trong ngôi nhà nhỏ của người thợ điện, sau đó chuyển
sang nhà sàn, chứ không ở ngôi nhà to, sang trọng của Toàn quyền Đông
Dương. Bác dành ngôi nhà sang trọng đó làm nơi đón tiếp khách của Đảng và
Nhà nước ta.
Sự tiết kiệm của Bác còn thể hiện trong việc sử dụng đội ngũ cán bộ. Là Chủ
tịch Chủ tịch nước, nhưng những năm tháng sống trên chiến khu Việt Bắc, đi
theo Bác chỉ là tổ công tác ít người kiêm nhiều việc. Cách mạng Tháng Tám
thành công, trở về Thủ đô, các đồng chí phục vụ Bác ở Phủ Chủ tịch cũng rất
ít. Những lần đi công tác xa, không cần nhiều cán bộ cùng đi, Bác cho những
anh em còn lại về thăm gia đình. Bác dặn “Các chú tranh thủ về thăm nhà,
nhưng nhớ đúng hẹn lên đón Bác”. Điều đó thể hiện sự quan tâm của Bác đối
với con người và cũng là một hình thức tiết kiệm thời gian.
Về “chí công vô tư”, Bác đã từng nói: “Đem lòng chí công vô tư mà đối với
người, với việc”, “Khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi
hưởng thụ thì mình nên đi sau”, “Phải lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”.
Người giải thích “...Cán bộ các cơ quan, các đoàn thể, cấp cao thì quyền to,
cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp
đục khoét, có dịp là ăn của đút, có dịp “dĩ công vi tư”
Vụ án Trần Dụ Châu những năm 50 là một bài học đắt giá cho những cán bộ,
đảng viên không thường xuyên tu dưỡng đạo đức cách mạng, không thực hành
cần kiệm liêm chính, dẫn đến hành động tham ô, hủ hoá, suy thoái về đạo đức.

Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, sinh viên Đại học
Thương Mại cần:
Làm việc phải có kế hoạch, dù công việc gì, to hay nhỏ, đều phải sắp xếp khoa
học và tính toán cẩn thân. Đối với sinh viên Đại học Thương Mại hay phải làm
việc nhóm, chúng ta nên phân công công việc theo năng lực của từng người,
như vật sẽ đỡ mất thời gia và đạt được hiệu quả công việc cao. Cần phải đi đôi
với chuyên, phải biết nuôi dưỡng sức khỏe và tinh thần
Tích cực lao động, học tập, công tác với tinh thần lao động sáng tạo, có năng
suất, chất lượng, hiệu quả cao; biết quý trọng công sức lao động và tài sản của
tập thể ; không xa hoa, lãng phí, không phô trương, hình thức.
Kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng; chân thành, khiêm
tốn; không chạy theo chủ nghĩa thành tích, không bao che, giấu giếm khuyết
điểm...
Phải kiên quyết chống bệnh lười biếng, lối sống hưởng thụ, vị kỷ, nói không đi
đôi với làm, nói nhiều, làm ít, miệng nói lời cao đạo nhưng tư tưởng, tình cảm
và việc làm thì mang nặng đầu óc cá nhân, tư lợi, việc gì có lợi cho mình thì
24


"hăng hái", tranh thủ kiếm lợi, việc gì không "kiếm chác" được cho riêng mình
thì thờ ơ, lãnh đạm.
 Tin tưởng tuyệt đối vào sức mạnh của nhân dân, kính trọng nhân dân và hết
lòng hết sức phục vụ nhân dân; luôn nhân ái, vị tha, khoan dung và nhân
hậu với con người .
- Tin tưởng tuyệt đối vào sức mạnh của nhân dân, kính trọng nhân dân và hết
lòng, hết sức phục vụ nhân dân
o Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương lớn về nêu gương tôn trọng quyền làm
chủ của nhân dân, tin tưởng tuyệt đối vào quyền làm chủ của nhân dân.
Người từng xác định, trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân, không gì
mạnh bằng nhân dân.

o Đối với nhân dân Việt Nam, Hồ Chí Minh luôn tin tưởng vào khả năng của
họ, nhìn thấy ở nhân dân nguồn sức mạnh vô tận của lịch sử. Đồng thời, Hồ
Chí Minh luôn kính trọng, yêu thương, gần gũi họ. Người từng dạy cán bộ,
đảng viên phải gần dân, thương dân, hiểu dân, học dân, phải hết lòng hết sức
phục vụ nhân dân. Người yêu cầu cán bộ từ Trung ương tới làng xã phải thực
sự là công bộc của dân, không được lên mặt là quan cách mạng, ban phát cho
dân.
o Hồ Chí Minh không những quan tâm, gần gũi nhân dân mà Người rất hiểu
biết, chia sẻ, cảm thông và hết lòng hết sức phục vụ các tầng lớp nhân dân.
Người có lời chỉ bảo ân tình, cụ thể thiết thực với các cụ già, bác sĩ, kỹ sư,
thày giáo, chiến sĩ, sĩ quan, dân tộc, tôn giáo ở khắp mọi nơi. Vì thế, Người
được tất cả mọi tầng lớp nhân dân khắp mọi miền đất nước luôn kính yêu gắn
bó thân thiết như cha anh, người nhà, người bác, người ông vô cùng kính
trọng trong gia đình mình.
o Khi đọc “Tuyên ngôn độc lập” ở Quảng trường Ba Đình ngày 02-9-1945,
Người dừng lại hỏi: “Đồng bào nghe tôi nói có rõ không?”. Người chu đáo,
ân cần, gần gũi với dân như vậy. Người sợ đồng bào Hà Nội không nghe rõ
tiếng phát âm xứ Nghệ - quê Người. Trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ
lâm thời, ngày 03-9-1945, Người đề nghị các Bộ trưởng trong Chính phủ do
Người đứng đầu nhịn ăn, cứ 10 ngày nhịn một bữa, lấy gạo cứu dân nghèo và
Người xung phong thực hiện đầu tiên. Đó thực sự là một Chính phủ của dân,
thương dân và vì dân. Ngay sau khi phiên họp kết thúc, Người có thư gửi
toàn thể quốc dân đồng bào thông báo, Chính phủ do Người đứng đầu bắt
đầu tiếp dân, xin đồng bào đăng ký và gửi trước câu hỏi để Người chuẩn bị.
25


×