Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Tiểu luận cao học quản lý nhà nước trong các lĩnh vực trọng yếu quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn tỉnh bắc ninh hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.95 KB, 32 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Tôn giáo không chỉ là một hình thái ý thức xã hội mà còn là một thực
thể xã hội, ra đời và phát triển từ cả ngàn năm nay. Từ khi ra đời, tôn giáo đã
trải qua những thăng trầm và không ngừng biến đổi theo sự biến đổi của tồn
tại xã hội, nhưng chung nhất, nó luôn là một nhu cầu tinh thần của đa số nhân
loại. Trong quá trình tồn tại và phát triển, tôn giáo có ảnh hưởng sâu sắc đến
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và đến tập quán của nhiều quốc gia, của các
tộc người trong một quốc gia, theo cả các chiều: tích cực và tiêu cực. Những
năm gần đây, tôn giáo trên thế giới không chỉ phục hồi và phát triển, đáp ứng
nhu cầu tâm linh của con người, mà còn làm nảy sinh không ít cuộc xung đột
giữa các dân tộc trong một quốc gia, hay giữa các quốc gia với nhau.
Ở Việt Nam cũng vậy, là một quốc gia có nhiều hình thức tín ngưỡng,
tôn giáo đang có xu hướng phát triển mạnh, đến nay - năm 2011, Nhà nước ta
đã công nhận tư cách pháp nhân cho 13 tôn giáo, với 33 tổ chức Giáo hội.
Trong đó, các tôn giáo bản địa (nội sinh) và các tôn giáo được du nhập từ
nước ngoài vào (ngoại sinh) đều được tạo điều kiện bình đẳng hoạt động theo
pháp luật. Tình hình đó như là sự phản ánh về quá trình đất nước đổi mới,
Việt Nam đã có sự phát triển khá mạnh mẽ trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội, đời sống vật chất cũng như tinh thần của nhân dân được cải thiện
rõ rệt, vì thế tôn giáo càng được khẳng định rõ hơn, là nhu cầu tinh thần của
một bộ phận nhân dân.
Nhưng, bên cạnh những sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo, lễ hội lành
mạnh, tuân thủ pháp luật, thì vẫn còn có hiện tượng một số người lợi dụng tín
ngưỡng, tôn giáo để hành nghề mê tín dị đoan, mê hoặc nhân dân, cao hơn,
phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc... Trước tình hình đó, công tác quản lý
nhà nước đối với hoạt động tôn giáo càng cần phải được tăng cường, không
chỉ trên bình diện vĩ mô mà còn ở các khu vực, các địa phương trong cả nước.

1



Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo là một nhiệm vụ quan trọng
và có ý nghĩa quyết định sự thành bại của công tác tôn giáo trong tình hình
mới. Các Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng về công tác tôn giáo đều nhấn mạnh
đến vai trò của công tác này và việc: “Tăng cường quản lý nhà nước về tôn
giáo” là một trong những giải pháp chủ yếu của công tác tôn giáo hiện nay.
Bắc Ninh là một tỉnh thuộc miền Bắc nước ta, là cửa ngõ phía Bắc của Thủ đô
Hà Nội. Tỉnh Bắc Ninh mặc dù có diện tích không lớn, nhưng dân số lại đông
và có vị trí địa lý chính trị quan trọng, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm của
đồng bằng Châu thổ Sông Hồng, có nguồn nhân lực dồi dào và là tỉnh vốn có
truyền thống ngàn năm văn hiến và cách mạng.
Số lượng và quy mô tôn giáo ở Bắc Ninh cũng không lớn, song lại là vị
trí “địa tôn giáo” rất quan trọng. Đó là, về đạo Công giáo, Bắc Ninh có Toà
Giám mục, là trung tâm, đầu não của Giáo phận Bắc Ninh, gồm 12 tỉnh khác
nhau. Còn Phật giáo, Bắc Ninh từng có trung tâm Luy Lâu mà gần hai nghìn
năm trước đã được xem là một trung tâm Phật giáo lớn, bằng hoặc hơn cả
trung tâm Phật giáo Lạc Dương và Bành Thành của Trung Quốc, còn đến
nay, tên chùa Dâu, Keo, Phật Tích vẫn nức tiếng toàn cõi Việt Nam. Hiện
nay bên cạnh 2 tôn giáo chính là Phật giáo và Công giáo, trên địa bàn Bắc
Ninh đã xuất hiện cả đạo Tin Lành, một tôn giáo được xem là tôn giáo của
thời CNH, HĐH.
Trong những năm qua tình hình tôn giáo, tín ngưỡng trên địa bàn tỉnh
Bắc Ninh ổn định, sinh hoạt tôn giáo và đời sống tín ngưỡng, tôn giáo diễn ra
bình thường đúng với chủ trương, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước.
Đại bộ phận chức sắc, nhà tu hành và tín đồ các tôn giáo trong tỉnh an tâm,
phấn khởi, tin tưởng vào sự nghiệp đổi mới của Đảng, về những thành tựu
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; tích cực tham gia phát triển kinh tế xã hội, các hoạt động từ thiện, nhân đạo, xây dựng gia đình văn hoá ở khu dân
“sống tốt đời, đẹp đạo”, tích cực thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị
của địa phương. Tuy nhiên, tình hình tôn giáo trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh cũng
2



nổi lên một số vấn đề có tính phức tạp. Đó là, hoạt động mê tín, dị đoan diễn
ra khá phổ biến; một số cơ sở thờ tự của tôn giáo chưa tuân thủ các quy định
của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, Luật Di sản và của các quy định của tỉnh.
Khi xây dựng, sửa chữa cơ sở thờ tự, tổ chức tôn giáo vẫn thiếu hồ sơ xin
phép; triển khai khi chưa được sự đồng ý của các cơ quan có thẩm quyền.
Tình hình khiếu kiện đòi lại đất đai, cơ sở cũ của giáo hội còn tiềm ẩn dấu
hiệu phức tạp; hoạt động truyền đạo Tin lành trái phép và các đạo lạ trên địa
bàn tỉnh vẫn xảy ra.
Công tác quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo ở tỉnh Bắc Ninh
những năm qua đã có nhiều tiến bộ, đạt được một số kết quả nhất định.
Nhưng bên cạnh đó, công tác này cũng còn một số hạn chế, như: Một bộ phận
cán bộ đảng viên nhận thức về chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước
đối với tôn giáo còn hời hợt; sự phối hợp giữa các cấp, các ngành còn thiếu
tập trung và đồng bộ; việc giải quyết các vấn đề liên quan đến tôn giáo còn
kéo dài, gây tâm trạng phản cảm cho quần chúng tín đồ, chức sắc tôn giáo.
Việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với tôn giáo của chính quyền
nhiều lúc, nhiều nơi còn cứng nhắc.
Từ thực tế tình hình trên, tôi chọn để tài: “Quản lý nhà nước đối với
hoạt động tôn giáo trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh hiện nay”, để làm tiểu luận kết
thúc môn học Quản lý Nhà nước trong các lĩnh vực trọng yếu.
2.Tình hình nghiên cứu
Vấn đề quản lý nhà nước đối với hoạt động của các tôn giáo trong thời gian
qua đã có nhiều công trình nghiên cứu. Đó là: “Quản lý nhà nước đối với
hoạt động tôn giáo trong điều kiện xây dựng nhà nước dân chủ, pháp quyền
Việt Nam hiện nay” của PGS.TS Nguyễn Hữu Khiển; "Một số vấn đề cấp
bách trong quản lý tôn giáo ở một số tỉnh phía Bắc" của GS.TS Đỗ Quang
Hưng; “Mác-Angghen về tôn giáo” của PGS. Nguyễn Đức Sự chủ biên); “
Một số vấn đề lý luận và thực trạng tôn giáo Việt Nam” của GS. Đặng

Nghiêm Vạn; Mối quan hệ giữa chính trị và tôn giáo trong thời kỳ mở rộng
3


giao lưu quốc tế và phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta hiện nay, PGS, TS Ngô Hữu Thảo, chủ nhiệm (1998); Cuốn
sách “Vấn đề tôn giáo trong cách mạng Việt Nam lý luận và thực tiễn" của
GS.TS Đỗ Quang Hưng; “Một số tôn giáo ở Việt Nam hiện nay” của TS.
Nguyễn Thanh Xuân; “Đặc điểm tôn giáo ở Việt Nam” của TS.Nguyễn Đức
Lữ; Đề tài cấp Bộ “55 năm đường lối chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà
nước Việt Nam (1945-2000)” của Ban Tôn giáo Chính phủ; Đề tài cấp Bộ
“Công tác an ninh trong quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở Việt
nam” của Bộ Công an...
Những công trình trên đề cập đến nhiều khía cạnh, cả lý luận và thực
tiễn của vấn đề quản lý tôn giáo, song cụ thể ở địa bàn Bắc Ninh thì chưa có.
Ở tỉnh Bắc Ninh, vì nhiều lý do khác nhau nên hiện nay vấn đề nâng cao hiệu
quả công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo hãy còn rất ít đề tài
đi sâu nghiên cứu, nếu có thì thời điểm nghiên cứu đã khá lâu, trước khi có
Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, như luận văn cao cấp lý luận chính trị của
Nguyễn Quang Khải, năm 2004. Vì vậy, đề tài mà tôi lựa chọn hy vọng sẽ làm
sáng tỏ hơn về vấn đề quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trên địa
bàn tỉnh Bắc Ninh hiện nay.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục tiêu nghiên cứu:
Tiểu luận từ việc khái quát những nhận thức chung về tôn giáo, về quản lý
nhà nước đối với tôn giáo và phân tích thực trạng công tác quản lý nhà nước
đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh trong thời gian qua, đề
xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác
quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn tỉnh.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu:

- Làm rõ một số vấn đề lý luận về quản lý nhà nước đối với tôn giáo.
- Đánh giá được thực trạng công tác quản lý nhà nước đối với hoạt
động tôn giáo ở Bắc Ninh trong thời gian qua.
4


- Đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý nhà nước về tôn giáo ở Bắc Ninh trong tình hình mới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Là công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở tỉnh Bắc Ninh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Về không gian, là địa bàn tỉnh Bắc Ninh;
- Về thời gian là từ khi có Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo sửa đổi và bổ
sung (năm 2013), đến nay.
5. Cơ sở lý luận và Phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn:
Tiểu luận được triển khai dựa trên quan điểm của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về tôn
giáo và quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo. Tiểu luận cũng xuất phát
từ thực tiễn công tác quản lý nhà nước đối với tôn giáo ở tỉnh Bắc Ninh thời
gian qua.
5.2. Phương pháp nghiên cứu:
Triển khai tiểu luận này, sử dụng những nguyên tắc phương pháp luận
của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; đồng thời sử
dụng các phương pháp của các khoa học cụ thể, như tổng hợp và phân tích,
khái quát hoá, thống kê, so sánh, lịch sử và lôgic, xã hội học, tôn giáo học.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, tiểu luận
gồm 3 chương, 9 tiết.
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về quản lý Nhà nước đối với hoạt

động tôn giáo.
Chương 2: Thực trạng quản lý Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở tỉnh
Bắc Ninh hiện nay.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản
lý Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở tỉnh Bắc Ninh

5


NỘI DUNG
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI
VỚI HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO.
1.1. Tôn giáo và quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo.
1.1.1. Khái niệm tôn giáo
Tôn giáo, theo tiếng Latinh (Religare) có nghĩa là sự nối liền với cái tột
cùng, như sự gắn bó với Chúa, với Thượng đế; hoặc được hiểu là sự phản ánh
mối quan hệ giữa con người với thần thánh; giữa thế giới vô hình với thế giới
hữu hình; giữa cái thiêng liêng với cái trần tục.
Theo quan điểm mác-xít, tôn giáo không chỉ là một hình thái ý thức xã
hội mà còn là một thực thể xã hội. Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội,
tôn giáo phản ánh hư ảo tồn tại xã hội, có kết cấu gồm: Tâm lý, tình cảm,
niềm tin và hệ tư tưởng tôn giáo. Còn với tính cách là một thực thể, hay một
hiện tượng xã hội, tôn giáo thuộc thượng tầng kiến trúc xã hội, được quy định
bởi hạ tầng cơ sở xã hội. Cụ thể hơn, tôn giáo ra đời từ 3 nguồn gốc: Kinh tế xã hội, nhận thức và tâm lý. Là một hiện tượng xã hội, kết cấu của tôn giáo
bao gồm cả yếu tố vật chất và tinh thần, mà thông thường là các yếu tố: ý thức
(giáo lý), nghi lễ, luật lệ và tổ chức.
1.1.2. Khái niệm “Quản lý nhà nước”
Khái niệm “quản lý nhà nước” được hiểu ở cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
Theo nghĩa rộng, quản lý nhà nước là dạng quản lý xã hội của Nhà nước,

sử dụng quyền lực nhà nước để điều chỉnh các quá trình xã hội và hành vi hoạt
động của con người do tất cả các cơ quan Nhà nước (Lập pháp, Hành pháp, Tư
pháp) tiến hành để thực hiện các chức năng của Nhà nước đối với xã hội.
Theo nghĩa hẹp, quản lý Nhà nước là dạng quản lý xã hội mang quyền
lực Nhà nước với chức năng chấp hành pháp luật và tổ chức thực hiện pháp
luật của các cơ quan trong hệ thống hành pháp (Chính phủ, UBND các cấp).

6


Giáo trình Quản lý hành chính nhà nước của Học viện Hành chính quốc
gia đã nêu: Quản lý Nhà nước là hoạt động của Nhà nước trên lĩnh vực lập
pháp, hành pháp và tư pháp nhằm thực hiện chức năng đối nội, đối ngoại của
Nhà nước; là dạng quản lý xã hội mang tính quyền lực nhà nước, được sử
dụng quyền lực Nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã hội và hành vi hoạt
động của con người [38].
Vậy, chủ thể Quản lý Nhà nước là các cá nhân hay tổ chức mang quyền
lực Nhà nước tác động tới đối tượng quản lý. Còn đối tượng Quản lý Nhà
nước là toàn bộ công dân Việt Nam và những người không phải là công dân
Việt Nam đang sống, làm việc trên lãnh thổ Việt Nam cùng toàn bộ các lĩnh
vực của đời sống xã hội.
1.2.2. Khái niệm “Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo”.
Nghĩa rộng: Đó là quá trình dùng quyền lực nhà nước (quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp) của các cơ quan Nhà nước theo qui định của pháp luật để
tác động, điều chỉnh, các quá trình tôn giáo và hành vi hoạt động tôn giáo của
tổ chức, cá nhân tôn giáo diễn ra phù hợp với pháp luật, đạt được mục tiêu cụ
thể quản lý.
Nghĩa hẹp: Đó là quá trình chấp hành pháp luật và tổ chức thực hiện
pháp luật của các cơ quan trong hệ thống hành pháp (Chính phủ và UBND
các cấp) để điều chỉnh các quá trình tôn giáo và mọi hành vi hoạt động tôn

giáo của tổ chức, cá nhân tôn giáo diễn ra theo đúng qui định của pháp luật.
Theo đó, Quản lý Nhà nước đối với tôn giáo ở cả 2 nghĩa rộng, hẹp,
đều tập trung, trước hết và chủ yếu là quản lý các “hoạt động tôn giáo”. Cụ
thể hơn, đó là các hoạt động tôn giáo liên quan, ảnh hưởng trực tiếp đến các
lĩnh vực của đời sống xã hội. Hoạt động đó là gì ? Về việc này, tại khoản 5,
điều 3 Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo đã nêu: “Hoạt động tôn giáo là việc
truyền bá, thực hành giáo lý, giáo luật, lễ nghi, quản lý tổ chức của tôn
giáo”[77, tr.2].

7


Từ đó chúng ta thấy, chủ thể Quản lý Nhà nước về tôn giáo nếu theo
nghĩa rộng của khái niệm, thì đó là các cơ quan nhà nước thuộc hệ thống lập
pháp, hành pháp và tư pháp; còn theo nghĩa hẹp, nó chỉ gồm các cơ quan nhà
nước thuộc hệ thống hành pháp các cấp.
Còn khách thể Quản lý Nhà nước đối với tôn giáo, đó là hoạt động tôn
giáo của các tổ chức tôn giáo, của tín đồ, chức sắc, nhà tu hành. Là công dân
Việt Nam, tín đồ, chức sắc tôn giáo, nhà tu hành vừa mang những đặc điểm
chung của người Việt Nam, nhưng đồng thời cũng có những nét đặc trưng
riêng của người có đạo.
1.2. Tính tất yếu tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động
tôn giáo.
Vì sao phải tăng cường công tác Quản lý Nhà nước đối với tôn giáo,
việc này được xuất phát từ các lý do khách quan và cơ bản.
Thứ nhất, hoạt động tôn giáo có liên quan đến tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội, do đó, với chức năng quản lý xã hội của mình, để đảm bảo
cho xã hội ổn định, phát triển bình thường, tất yếu Nhà nước phải tăng cường
quản lý các hoạt động tôn giáo.
Thứ hai, sự nghiệp đổi mới do Đảng ta lãnh đạo diễn ra trên tất cả các

lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có đời sống tôn giáo, vậy để đường lối,
chính sách, pháp luật được hiện thực hoá, để đồng bào có và không có tôn
giáo đoàn kết trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo động lực cho sự thành
công của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nhà nước phải tăng cường
quản lý các hoạt động tôn giáo.
Thứ ba, các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách lợi dụng tôn giáo hống
phá cách mạng, vậy để đập tan âm mưu đó và để đồng bào lương - giáo tích
cực tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tất yếu Nhà nước phải tăng cường
quản lý các hoạt động tôn giáo.
Thứ tư, Việt Nam mở cửa, hội nhập để phát triển, theo đó, các thế lực thù
địch cũng thông qua con đường hợp tác, liên doanh, du lịch... thâm nhập vào
8


những vùng nhạy cảm về tôn giáo, mua chuộc một số chức sắc, tín đồ tôn giáo,
vậy để hội nhập quốc tế có nhiều thành công, Nhà nước phải tăng cường quản
lý các hoạt động tôn giáo.
Như vậy, Quản lý Nhà nước đối với tôn giáo là tất yếu, không chỉ ở
nước ta mà còn đối với các nước khác. Tuy nhiên, về mục đích, nội dung cụ
thể của Quản lý Nhà nước về tôn giáo cũng khác nhau qua mỗi giai đoạn.
Vậy, chủ thể quản lý cần nắm vững quan điểm lịch sử cụ thể để công tác này
có hiệu quả, hiệu lực cao nhất.
1.3. Nội dung, đặc điểm và nguyên tắc quản lý nhà nước đối với
hoạt động tôn giáo
1.3.1. nội dung quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo.
Đối với việc thành lập và gia nhập các tổ chức tôn giáo.
Để bảo đảm an ninh trật tự, và bảo đảm sự bình đẳng giữa người theo
đạo và người không theo đạo, Nhà nước có những quy định cấm không cho
nhập tu đối với những người trốn tránh pháp luật và các nghĩa vụ công dân.
Việc quy định như vậy đảm bảo cho việc nhập tu được thực hiện minh bạch,

trong sáng, tránh không cho những trường hợp nhập cư với mục đính hay
động cơ nhằm trốn tránh không phải chịu trách nhiệm trước pháp luật hay
thực hiện một số nghĩa vụ công dân, đảm bảo trật tự, an toàn xã hội.
Đối với việc tiến hành các nghi lễ tôn giáo và hoạt động tôn giáo
khác.
Nội dung này được Nhà nước khá chú trọng bởi mỗi năm ở khắp trong
và ngoài nước diễn ra rất nhiều những nghi lễ cũng như hoạt động tôn giáo.
Cụ thể Nhà nước hướng dẫn các chức sắc tôn giáo nắm vững và thực hiện
đúng các quy định của Nhà nước về hoạt động đối ngoại của các tôn giáo, về
việc cử các chức sắc hoặc các đoàn tôn giáo ra nước ngoài, hay đón các đoàn
tôn giáo nước ngoài vào Việt Nam.
Bên cạnh đó, Nhà nước cho phép các tổ chức tôn giáo được in, xuất bản
các loại sách kinh, các ấn phẩm tôn giáo, các ấn phẩm tôn giáo, đồ dung việc
9


đạo. Quy định này giúp các tôn giáo có thể truyền bá một cách đầy đủ về tổ
chức tôn giáo của mình, đồng thời giúp công dân dể dàng tiếp cận, tìm hiểu
và gia nhập các tôn giáo theo nguyện vọng của mình.
Đối với hoạt động quốc tế của tổ chức tôn giáo, tín ngưỡng, nhà tu
hành, chức sắc
Theo quy định, các tổ chức tôn giáo, tín đồ, nhà tu hành, chức sắc có
quyền thực hiện các hoạt động quan hệ quốc tế theo quy định của hiến
chương, điều lệ hoặc giáo luật của tổ chức tôn giáo phù hợp với pháp luật Việt
Nam. Để tránh những cá nhân hay tổ chức tôn giáo lợi dung danh nghĩa để
làm những việc ảnh hưởng đến Nhà nước, nội dung này trong những năm gần
đây được đặc biệt quan tâm, Nhà nước thực hiện hướng dẫn các chức sác tôn
giáo nắm vững và thực hiện đúng các quy định của Nhà nước về hoạt động
đối ngoại của các tôn giáo, đồng thời cử các chức sắc hoặc các đoàn tôn giáo
ra nước ngoài hoặc đón các đoàn tôn giáo nước ngoài vào Việt Nam.

Đối với việc đào tạo, bồi dưỡng nhưỡng người chuyên hoạt động tôn
giáo
Nhà nước tạo điều kiện tối đa cho các tổ chức tôn giáo đào tạo chức
sắc, nhà tu hành trong nước tại các cơ sở đào tạo đã được Nhà nước cho phép.
Ngoài ra, các tôn giáo có thể cử các chức sắc, nhà tu hành đi đào tạo ở nước
ngoài nếu thực sự có nhu cầu. Nhà nước còn cho phép các giảng viên được
giảng dạy ở các trường đào tạo trong nước.
Bên cạnh đó, các tổ chức tôn giáo phải đưa các môn học về lịch sử Việt
Nam hay pháp luật Việt Nam vào chính khóa của các trường đào tạo những
người chuyên hoạt động tôn giáo. Với quy định này, Nhà nước đã đưa đường
lối, chủ trương cũng như tôn chỉ mục đích hoạt động của đất nước đến từng tổ
chức tôn giáo, giúp nang cao vai trò, vị thế của đất nước đối với những giáo
dân, mặt khác trực tiếp tuyên truyền chính sách, hay các quy định của pháp
luật nhằm giúp các giáo dân ở các tổ chức tôn giáo thực hiện đúng đường lối
– chủ trương của Đảng và nhà nước đã đề ra.
10


1.3.2. Đặc điểm và nguyên tắc quản lý Nhà nước đối với tôn giáo.
Đặc điểm quản lý nhà nước về tôn giáo:
* Chủ thể quản lý:
Chủ thể quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo bao gồm các cơ
quan nhà nước thuộc hệ thống hành pháp gồm: Chính phủ, UBND các cấp
ngoài ra có các c ơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân được nhà nước trao
quyền quản lý nh ư Bộ Công an, Bộ Xây dựng, Bộ Tài nguyên và môi tr
ường, Ban Tôn giáo Chính phủ...
* Khách thể quản lý:
Đó chính là hoạt động của các tổ chức tôn giáo, chức sắc, người tu
hành, tín đồ.
Các nguyên tắc quản lý nhà nước về tôn giáo:

Một là, nhà nước đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và tự do
không tín ngưỡng, tôn giáo của công dân; nghiêm cấm sự phân biệt đối xử vì
lý do tín ngưỡng, tôn giáo.
Hai là, công dân có tín ngưỡng, tôn giáo hoặc không có tín ngưỡng, tôn
giáo đều bình đẳng trước pháp luật, được hưởng mọi quyền công dân và có
trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ công dân.
Ba là, các hoạt động tôn giáo phải tuân thủ pháp luật của nhà n ước
Cộng hoà XHCN Việt Nam.
Bốn là, mọi hành vi vi phạm quyền tự do tí n ngưỡng, tôn giáo, mọi
hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chống lại nhà nước Việt Nam, ngăn
cản tín đồ thực hiện nghĩa vụ công dân, phá hoại sự nghiệp đoàn kết toàn dân,
làm tổn hại đến nền văn hoá lành mạnh của dân tộc và hoạt động mê tín dị
đoan đều bị xử lý theo pháp luật.

11


Chương 2.
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG
TÔN GIÁO Ở TỈNH BẮC NINH HIỆN NAY

2.1. Một vài nét khái quát về tỉnh Bắc Ninh
Bắc Ninh là tỉnh có diện tích nhỏ nhất Việt Nam thuộc đồng bằng sông
Hồng và nằm trên Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ. Bắc Ninh tiếp giáp với
vùng trung du Bắc bộ tại tỉnh Bắc Giang. Thành phố Bắc Ninh nằm cách
trung tâm Hà Nội 30km về phía đông bắc. phía tây và tây nam giáp thủ đô Hà
Nội, phía bắc giáp tỉnh Bắc Giang, phía đông và đông namgiáp tỉnh Hải
Dương, phía nam giáp tỉnh Hưng Yên. Trong quy hoạch xây dựng, tỉnh này
thuộc vùng Thủ đô. Ngoài ra, Bắc Ninh còn nằm trên 2 hành lang kinh tế Côn
Minh - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh và Nam Ninh - Lạng

Sơn - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh.
Tổng diện tích là 839,7 Km vuông , Toàn tỉnh có tổng cộng 1 thành
phố, 1 thị xã, 6 huyện với 126 đơn vị hành chính cấp xã trong đó có 23
phường, 6 thị trấn và 97 xã, Các huyện bao gồm: Gia Bình, Lương Tài, Quế
Võ, Thuận Thành, Tiên Du, Yên Phong.
Năm 2011, dân số Bắc Ninh là 1.060.300 người, mật độ dân số 1289
người/km², vẫn là tỉnh có mật độ dân số cao thứ 3 cả nước.
Bắc Ninh có một dân số trẻ với nhóm tuổi lao động từ 15 đến 60 là
665.236 người, chiếm 64,93% tổng dân số. Nhóm tuổi dưới 15 có 258.780
người, chiếm 25,26% tổng dân số còn nhóm người trên 60 tuổi có 100.456
người, tức chiếm 9,8%.
Về kinh tế - Xã hội. Năm 2015, tổng thu NSNN trên địa bàn đạt
15.050 tỷ đồng, bằng 107,5% dự toán, bằng 118,7% so với năm 2014. Trong
đó, thu nội địa ước đạt 10.035 tỷ đồng; thu từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt
4.540 tỷ đồng. Tổng chi ngân sách địa phương ước thực hiện là 13.394 tỷ
đồng, bằng 146% so với dự toán; trong đó chi đầu tư phát triển ước thực hiện
12


trên 3.784 tỷ đồng. Việc đầu tư từ vốn ngân sách tỉnh đã góp phần lớn trong
việc xây mới, nâng cấp, cải tạo hệ thống giao thông, hỗ trợ đầu tư xây dựng
hạ tầng nông thôn và các dự án trọng điểm.
Tất cả những đặc điểm về tự nhiên, dân số, kinh tế xã hội… này tạo nên
những ưu thế ,cũng như gây ra những khó khăn nhất định đối với sự quản lý
nhà nước về Tôn giáo của Uỷ ban nhân dân tỉnh, và các cơ quan chuyên môn
về Tôn giáo trên địa bàn tỉnh hiện nay.
2.2. Thực trạng công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn
giáo ở tỉnh Bắc Ninh
2.2.1. Những hạn chế và nguyên nhân của hạn chế
2.2.1.1. Những hạn chế

Công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn tỉnh
Bắc Ninh trong những năm qua cũng không tránh khỏi những hạn chế, tồn tại
nhất định và cần được khắc phục kịp thời. Sau đây là một số hạn chế:
- Về mặt nhận thức còn nhiều hạn chế bất cập:
Mặc dù có nhiều cố gắng trong công tác tuyên truyền chủ trương chính
sách đối với tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta, nhưng hiện nay trên địa bàn
tỉnh vẫn còn một số tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể, và một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa nhận thức đầy đủ và thống nhất
về vấn đề tôn giáo và công tác tôn giáo.
Trên thực tế ở một số nơi có một bộ phận cán bộ đảng viên vẫn có tư
tưởng bảo thủ hẹp hòi, cứng nhắc và còn mang nặng định kiến, mặc cảm với
tín đồ, chức sắc các tôn giáo. Bên cạnh đó, có nơi vẫn còn tồn tại tình trạng lơ
là, buông lỏng quản lý, mất cảnh giác tạo sơ hở và bị lợi dụng. Đơn cử như
trường hợp của Ông Lý Tiến Lưu, dân tộc Dao, tín đồ theo đạo Tin lành thuộc
Hội thánh Tin lành Từ Sơn, do sơ hở trong công tác quản lý, năm 1988 khi
đang là Trưởng ban trị sự Hội thánh Tin lành Từ Sơn, ông Lý Tiến Lưu đã
theo học lớp giảng sư của trường Kinh Thánh ở Hà Nội. Khi địa phương phát
hiện việc đi học trái phép của ông Lý Tiến Lưu như: Không xin phép địa
13


phương, trình độ văn hóa thấp (học hết lớp 7/ 10), đã quá tuổi qui định, chưa
hoàn thành nghĩa vụ quân sự,…Trong quá trình học tập ông Lưu bị Công an
thành phố Hà Nội trục xuất về nhiều lần, nhưng ông Lý Tiến Lưu vẫn cố tình
theo học.
Đến tháng 6/1999 sau khi học song ông Lý Tiến Lưu nhiều lần gửi đơn
lên các cấp chính quyền đề nghị công nhận là giảng sư nhưng không được
chấp nhận, từ đó ông Lý Tiến Lưu tỏ thái độ bất bình với chính quyền và tiến
hành nhiều hoạt động tôn giáo trái phép [62, tr.2].
Chính những nguyên nhân nói trên đã dẫn đến việc xử lý các vấn đề

nảy sinh trong các tôn giáo còn nhiều lúng túng, bị động, thiếu tính nhất quán,
để vụ việc kéo dài làm cho vấn đề trở nên phức tạp thêm, tạo cơ hội cho các
phần tử cực đoan lợi dụng lôi kéo quần chúng, dẫn đến làm mất ổn định tình
hình chính trị, trật tự xã hội ở địa phương.
- Công tác vận động quần chúng và công tác xây dựng lực lượng chính
trị trong các vùng có đông tín đồ các tôn giáo còn nhiều yếu kém:
Quan điểm chỉ đạo của Đảng là: Cốt lõi của công tác tôn giáo là công
tác vận động quần chúng. Trong những năm qua mặc dù các cấp chính quyền,
các đoàn thể chính trị xã hội đã có nhiều cố gắng trong công tác vận động
quần chúng tín đồ, nhưng hiệu quả đạt được còn thấp. Chương trình hoạt
động của các tổ chức đoàn thể còn sơ sài, đơn điệu, ít có địa phương tạo ra
cách thức hoạt động phù hợp với điều kiện mới. Việc tập hợp hội viên, đoàn
viên và công tác tuyên truyền, giáo dục còn kém hiệu quả.
Bên cạnh đó hoạt động của các tôn giáo lại rất sôi động, nhiều nơi có
phần lấn át cả các đoàn thể quần chúng, trong đó phải kể đến hoạt động của
Hội thánh Tin lành Từ Sơn. Hội thánh Tin lành Từ Sơn có 15 Hội nhánh,
trong đó mỗi hội nhánh đều thành lập Ban tráng niên họp tối thứ bảy hàng
tuần, Ban thanh niên họp tối thứ sáu, Ban thiếu niên họp tối thứ năm, Ban
thiếu nhi họp vào tối chủ nhật, mỗi hội nhánh họp chung vào tối thứ tư và và
sáng chủ nhật hàng tuần. Nội dung của các buổi nhóm lễ gồm cầu nguyện, hát
14


Thánh ca và tập hát Thánh ca và nhiều hoạt động khác, ngoài ra các hội nhánh
đều thành lập Ban thăm viếng từ thiện.
Như vậy trong một tuần lễ, các giới, các thành phần tín đồ Tin lành
trong hội thánh dành quá nhiều thời gian cho việc sinh hoạt đạo, làm ảnh
hưởng lớn đến thời gian học tập, lao động sản xuất và thời gian tham gia sinh
hoạt cũng như các hoạt động do chính quyền và các đoàn thể tổ chức.
Cùng với đó là các hoạt động mê tín dị đoan, hiện tượng thương mại

hóa tôn giáo… có xu hướng ngày càng tăng, có nguy cơ xâm nhập ngày càng
sâu vào các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo tại một số cơ sở thờ tự, nhất là các
đình, chùa. Điều đó gây ảnh hưởng xấu đến đời sống sinh hoạt tín ngưỡng,
tôn giáo lành mạnh của quần chúng nhân dân trên địa bàn.
Công tác xây dựng cơ sở chính trị trong vùng giáo còn gặp nhiều khó
khăn. Mặc dù Qui định số 123-QĐ/TW ngày 28/9/2004 của Ban chấp hành
Trung ương Đảng qui định Một số điểm về kết nạp đảng viên đối với người có
đạo và đảng viên có đạo tham gia sinh hoạt tôn giáo đã ban hành và đưa vào
thực hiện được gần hai năm nhưng kết quả công tác phát triển đảng trong
vùng tôn giáo còn chưa cao.
Công tác giáo dục nhận thức về chủ trương chính sách của Đảng và
Nhà nước cho quần chúng tín đồ các tôn giáo nhiều nơi còn chưa được quan
tâm đúng mức. Trên mặt trận văn hóa- tư tưởng hầu như còn bỏ ngỏ, các
phương tiện thông tin đại chúng của tỉnh còn có xu hướng e dè, ít đề cập đến
vấn đề tôn giáo. Đài phát thanh - truyền hình Bắc Ninh phát 30 phút chương
trình phát thanh bằng tiếng dân tộc trong một ngày và một tháng có 02
chương trình truyền hình dân tộc bằng tiếng Dao, tuy nhiên diện phủ sóng còn
hạn hẹp, hiệu quả tuyên truyền đến với đồng bào còn hạn chế. Trong khi đó
hàng ngày Đài phát thanh “Nguồn sống” (Cơ quan ngôn luận của Giáo hội
Tin lành châu á, phát sóng tại Philippin). Ngoài ra công tác tranh thủ, xây
dựng lực lượng cốt cán trong chức sắc, tín đồ các tôn giáo còn nhiều hạn chế.

15


Với những hạn chế trên đây đã ảnh hưởng trực tiếp đến công tác vận
động quần chúng tín đồ các tôn giáo và công tác xây dựng lực lượng chính trị
trong vùng tôn giáo tập trung của tỉnh Bắc Ninh.
- Công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo của một số
ngành và một số địa phương còn nhiều sơ hở, buông lỏng và hạn chế:

Hạn chế này dẫn đến việc xử lý các vấn đề có liên quan đến tôn giáo
còn thụ động, lúng túng, kém hiệu quả, có nhiều vụ việc do làm chưa chưa
thấu đáo, kém tính thuyết phục, gây ra tâm lý phản cảm nên quần chúng tín đồ
chưa đồng tình ủng hộ. Trong quản lý các hoạt động tôn giáo vẫn còn tình
trạng chưa có sự phân công trách nhiệm hợp lý giữa các cấp, các ngành, các
đoàn thể trong hệ thống chính trị, do đó dẫn đến nhiều khi giải quyết vụ việc
còn buông lỏng hoặc chồng chéo giữa các cơ quan.
- Đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo vừa thiếu về số lượng lại vừa
yếu về chuyên môn nghiệp vụ:
Trong những năm gần đây, mặc dù Bắc Ninh đã quan tâm đến công tác
đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo, nhưng nhìn chung
vẫn chưa đáp ứng được với yêu cầu thực tiễn đặt ra. Điều đó được thể qua đội
ngũ cán bộ đang làm công tác tôn giáo. Hiện nay số lượng cán bộ làm công
tác quản lý nhà nước về tôn giáo của tỉnh là 173 cán bộ, cụ thể: Phòng Tôn
giáo thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh có 02 cán bộ; Phòng Tôn giáo các huyện và
thành phố Lạng Sơn có 32 cán bộ (trong đó chỉ có 22 đồng chí có trình độ Đại
học) và 139 cán bộ chuyên trách ở các xã, thị trấn. Trong số trên không có cán
bộ nào được đào tạo chuyên ngành về tôn giáo, chỉ có một số đồng chí được
tập huấn qua các lớp bồi dưỡng ngắn hạn về tôn giáo và công tác tôn giáo.
Điều bất cập hiện nay là ở đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác
tôn giáo ở các xã, phường, thị trấn. Đây là những người trực tiếp làm công tác
tôn giáo vận ở cơ sở nhưng họ chưa được đào tạo qua nghiệp vụ công tác tôn
giáo, đặc biệt ở những xã vùng sâu vùng xa đội ngũ cán bộ này nhiều người

16


có trình độ học vấn thấp, chỉ học hết lớp 7/10, điều đó cũng hạn chế đến kết
quả công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo trên địa bàn.
2.2.1.2. Nguyên nhân của hạn chế.

Công tác quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo ở tỉnh Bắc Ninh trong
những năm qua còn tồn tại một số hạn chế như đã trình bày ở phần trên,
những hạn chế đó do một số nguyên nhân chủ yếu sau:
Một là, sự bất cập, hạn chế trong nhận thức về tôn giáo và chính sách
tôn giáo.
Bắc Ninh có 3 tôn giáo chính, đó là Phật giáo, Công giáo và Tin lành.
Trong những năm qua, tín đồ các tôn giáo luôn hành đạo theo phương châm
“kính Chúa, yêu nước”, “sống tốt đời, đẹp đạo”, chấp hành tốt mọi chủ trương
đường lối, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước, có nhiều đóng góp
cho sự phát triển chung của tỉnh nhà.
Các tôn giáo đã có quá trình tồn tại và phát triển khá lâu ở Bắc Ninh,
tuy nhiên đến nay vẫn còn một số cán bộ đảng viên và quần chúng nhân dân
không hiểu biết về hoạt động của các tôn giáo trên địa bàn. Hiện nay đường
hướng hoạt động của các tôn giáo là tích cực gây thanh thế, phát triển tín đồ,
vì vậy nhiều hoạt động truyền đạo trái phép đã diễn ra trên địa bàn.
Ngoài ra, công tác tuyên truyền phổ biến quan điểm đường lối của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước đối với tôn giáo trong đội ngũ cán
bộ đảng viên chưa sâu rộng. Một bộ phận cán bộ đảng viên còn chưa nắm rõ
chủ trương chính sách về tôn giáo của Đảng và Nhà nước, chưa hiểu rõ những
qui định cụ thể về đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở nước ta hiện
nay, nhất là Pháp lệnh Tín ngưỡng, Tôn giáo. Chính vì vậy mà công tác quản
lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo không thể đạt hiệu quả cao được.
Hai là, sự phối hợp của các cơ quan làm công tác tôn giáo, quản lý
nhà nước về hoạt động tôn giáo còn thiếu chặt chẽ, đồng bộ.
Việc phân công, phân cấp trách nhiệm cho các cơ quan làm công tác
tôn giáo còn thiếu rõ ràng cụ thể, còn có sự chồng chéo hoặc buông lỏng quản
17


lý; Các ngành quản lý nhiều khi chưa hiểu biết sâu sắc về chính sách tôn

giáo, chưa gắn công tác tôn giáo với nhiệm vụ của đơn vị mình.
Công tác sơ kết, tổng kết quá trình thực tiễn thực hiện các Chỉ thị, Nghị
quyết của Trung ương, của tỉnh về tôn giáo để rút kinh nghiệm ở cấp cơ sở
còn chưa được coi trọng. Cấp ủy, chính quyền ở một số nơi chưa thật sự coi
trọng công tác xây dựng, củng cố tổ chức làm công tác vận động quần chúng
tín đồ các tôn giáo. Trong khi đó chất lượng của các tổ chức này ở vùng tôn
giáo tập trung còn nhiều yếu kém, chưa có phương thức hoạt động phù hợp.
Ba là, hệ thống pháp luật về tôn giáo của Nhà nước còn thiếu, việc cụ
thể hóa các chính sách của Nhà nước ở địa phương còn gặp nhiều khó khăn.
Trong một thời gian dài ở nước ta công tác nghiên cứu khoa học về vấn
đề tín ngưỡng, tôn giáo chưa được quan tâm đúng mức. Trong thời kỳ đổi
mới, đặc biệt là sau khi có Nghị quyết số 24 ngày 16/10/1990 của Bộ chính trị
Về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới được ban hành thì công
tác nghiên cứu đã được đẩy mạnh hơn.
Tuy nhiên hiện nay hệ thống pháp luật về tôn giáo đang trong quá trình
soạn thảo, hình thành nên chưa bao quát hết được một số nội dung hoạt động
của tôn giáo. Pháp lệnh Tín ngưỡng, Tôn giáo và Nghị định hướng dẫn thi
hành Pháp lệnh có nhiều điểm mới, song thời gian triển khai chưa nhiều nên ở
một số địa phương còn lúng túng trong tổ chức thực hiện [7, tr.17].
Việc cụ thể hóa chính sách về tôn giáo của Nhà nước trên địa bàn còn
gặp nhiều khó khăn, như: Trình độ dân trí của quần chúng tín đồ người dân
tộc thiểu số còn hạn chế; công tác tuyên truyền chưa phong phú và phù hợp
với trình độ và tâm lý của tín đồ là người dân tộc, do đó cũng ảnh hưởng đến
việc tiếp thu các chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng, Nhà nước nói
chung và chính sách về tôn giáo nói riêng.
Bốn là, đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo còn thiếu về số lượng và
yếu về năng lực.

18



Trong những năm qua mặc dù đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo ở
tỉnh đã được tăng cường nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác
quản lý về hoạt động tôn giáo hiện nay trên địa bàn.
Tình trạng tồn tại hiện nay là cán bộ làm công tác quản lý nhà nước đối
với hoạt động tôn giáo còn yếu về năng lực, trình độ, hầu hết cán bộ chuyển
công tác từ các ngành khác đến, chưa qua đào tạo cơ bản về tôn giáo và công
tác tôn giáo. Thậm chí có người chậm đổi mới tư duy, ít hiểu biết về tôn giáo
nên có nhiều lúng túng trong thực thi nhiệm vụ.
Trong khi đó đội ngũ chức sắc các tôn giáo được đào tạo bài bản, kỹ
lưỡng, có trình độ học vấn và thần học cao, do đó cán bộ làm công tác tôn
giáo của ta ngại tiếp xúc với chức sắc các tôn giáo, điều đó làm hạn chế rất
nhiều đến công tác quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo.
Hiện nay các huyện và thành phố trong tỉnh đã có phòng Dân tộc-Tôn
giáo, tuy nhiên cấp xã, phường, thị trấn là những nơi trực tiếp gặp gỡ, tiếp xúc
với tín đồ, chức sắc các tôn giáo thì đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo đều
theo chế độ kiêm nhiệm, vì vậy công tác quản lý nhà nước về hoạt động tôn
giáo cũng gặp một số khó khăn.

19


Chương 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU LỰC, HIỆU QUẢ
CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÔN
GIÁO Ở TỈNH BẮC NINH.
3.1. Tập trung nâng cao nhận thức, thống nhất quan điểm, trách
nhiệm của Hệ thống Chính trị về công tác tôn giáo và Quản lý Nhà nước
đối với tôn giáo
Quan điểm của Đảng ta hiện nay cần phải được quán triệt sâu rộng trong

mỗi cán bộ, đảng viên làm cho cán bộ, đảng viên nhận thức rằng, tôn giáo là
nhu cầu của nhân dân do đó không thể thiếu và phải được đáp ứng. Không nên
cho rằng, tín đồ đến cơ sở thờ tự sinh hoạt tôn giáo, nghe giảng những điều về
Chúa, về Phật là mê tín, lạc hậu, lãng phí thời gian, mà coi đây là nhu cầu của
mỗi tín đồ trong đời sống tâm linh. Các tôn giáo đều có quyền bình đẳng trước
pháp luật, nên không được cùng một việc tương tự mà giải quyết đối xử với tôn
giáo này thì dễ dàng, với tôn giáo khác thì khó khăn.
Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân nên
chúng ta phải tạo điều kiện để cho hàng ngũ chức sắc và tín đồ thực hiện nghi
lễ tôn giáo một cách bình thường mà không nên đặt vấn đề là lãng phí thời
gian. Đã là nhu cầu tất sẽ ngày một tăng nhất là khi đời sống ngày một khấm
khá. Nên việc sửa chữa, xây mới, mở rộng khuôn viên cơ sở thờ tự của các tôn
giáo để đáp ứng nhu cầu cho tín đồ là khách quan và vấn đề là, nhu cầu đó phải
chính đáng, giải quyết đúng pháp luật. Tôn giáo còn tồn tại lâu dài, điều đó là
đúng, song theo đó, nếu cứ để mặc cho các tôn giáo hoạt động, buông lỏng
quản lý, thì lại là sai lầm. Tư tưởng như vậy vài năm gần đây đã thấy xuất hiện
ở một số cán bộ, đảng viên. Tôn giáo cùng tồn tại trong quá trình xây dựng Chủ
nghĩa Xã hội ở nước ta là một cách nhìn biện chứng, khách quan, vấn đề ở đây
là phải quan tâm, phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của tôn giáo để

20


đồng bào tôn giáo đóng góp nhiều nhất cho quê hương, đất nước. Muốn vậy,
công tác Quản lý Nhà nước về tôn giáo không được buông lỏng.
Thời gian tới, để thống nhất sự lãnh đạo, chỉ đạo công tác tôn giáo trên
địa bàn tỉnh Bắc Ninh, Tỉnh uỷ cần kiện toàn Ban chỉ đạo về công tác tôn giáo
với một cơ cấu gồm đại diện đầy đủ của các ban, ngành, đoàn thể thuộc Hệ
thống chính trị. Sự quan tâm đến công tác tôn giáo của các đồng chí lãnh đạo
cao nhất của Đảng, chính quyền tỉnh Bắc Ninh không chỉ là nhân tố quan trọng

nhất, nếu như không nói là quyết định, đảm bảo sự thành công của công tác,
mà còn là sự động viên, chia sẻ lớn lao đối với cán bộ, chiến sỹ trực tiếp làm
công tác này.
Hiện nay, ở giải pháp này, đối với cán bộ, công chức làm công tác tôn
giáo của tỉnh Bắc Ninh cần khắc phục một số biểu hiện sau:
Một là, thái độ cứng nhắc định kiến do tư duy cũ để lại đã làm cho một
bộ phận tín đồ các tôn giáo thiếu sự tin tưởng vào đường lối, chính sách về tôn
giáo của Đảng và Nhà nước, tạo cơ sở cho các thế lực thù địch lợi dụng lôi kéo
tín đồ thực hiện âm mưu chống Đảng và Nhà nước ta.
Hai là, biểu hiện buông lỏng quản lí nhà nước, giải quyết công việc có
liên quan đến tôn giáo không thận trọng, không lường hết được hậu quả. Đây
cũng là cơ sở cho những hoạt động lợi dụng tôn giáo gây áp lực với chính
quyền.
Ba là, né trách giải quyết các vụ việc phức tạp có liên quan đến tôn giáo,
ngại va chạm, sợ trách nhiệm nên thường thoái thác đùn đẩy cho nhau gây hậu
quả cũng không kém các biểu hiện cứng nhắc và buông lỏng nêu trên.
3.2. Công tác Quản lý Nhà nước cần tăng cường, tập trung hơn nữa
tới các hoạt động có tính trọng điểm, phức tạp của tôn giáo trên địa bàn
Ban tôn giáo Sở Nội vụ là cơ quan tham mưu giúp UBND tỉnh thực hiện
chức năng Quản lý Nhà nước về tôn giáo, vậy trước hết có yêu cầu mọi cán bộ,
công chức của ban phải nắm chắc đường lối chủ trương của Đảng, chính sách,

21


pháp luật của Nhà nước về tôn giáo. Đây là việc làm rất cần thiết cho công tác
tôn giáo hiện nay cũng như lâu dài về sau.
Để tăng cường công tác Quản lý Nhà nước về tôn giáo, UBND các cấp
cần đầu tư hơn nữa các trang thiết bị phục vụ công tác chuyên môn cho ban,
các phòng Nội vụ. Đối với cán bộ, công chức chuyên làm công tác tôn giáo

cần có chế độ ưu đãi, vì họ thường xuyên phải về cơ sở để giải quyết công
việc, phải tiếp xúc với các chức sắc tôn giáo tại các cơ sở thờ tự, kể cả vào
những ngày nghỉ hàng tuần cũng như các ngày nghỉ lễ.
Thời gian tới, Quản lý Nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo trên địa
bàn tỉnh Bắc Ninh cần tập trung vào một số hoạt động trọng tâm. Đó là:
- Tăng cường quản lý các lễ hội tôn giáo
Để làm tốt công tác này, Ban tôn giáo, phòng Nội vụ tham mưu cho
UBND chỉ đạo các cơ sở phối hợp với tổ chức tôn giáo cơ sở làm tốt tất cả các
khâu của lễ hội, từ khâu xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện và tổng kết, rút
kinh nghiệm. Tổ chức tôn giáo chịu trách nhiệm phần lễ, chính quyền chịu
trách nhiệm phần hội, đảm bảo an ninh trật tự, đảm bảo không để xảy ra hiện
tượng mê tín dị đoan, cờ bạc... làm mất đi tính linh thiêng của lễ hội.
- Tăng cường quản lý đất đai, xây dựng các cơ sở thờ tự của các tôn
giáo
Để khắc phục tình trạng một số chùa xây dựng chưa xin phép và vi
phạm giấy phép xây dựng, cơ quan làm công tác quản lý nhà nước cần phối
hợp với phòng Kinh tế và Hạ tầng huyện tham mưu với UBND huyện mở lớp
tập huấn cho các công chức cấp xã phụ trách tôn giáo và các Trưởng thôn,
trưởng khu dân cư về thủ tục xin cấp giấy phép xây dựng, còn UBND tỉnh
nên giảm bớt thời hạn cấp giấy phép xây dựng xuống còn 15 ngày.
- Tăng cường quản lý chức sắc, nhà tu hành
Để khắc phục tình trạng tăng ni Phật giáo về hoạt động tôn giáo mà tổ
chức tôn giáo không thông báo kịp thời với chính quyền, chủ thể quản lý cần
mời Trưởng Ban đại diện Phật giáo huyện đến để quán triệt việc đăng ký
22


thuyên chuyển nơi hoạt động tôn giáo của chức sắc, nhà tu hành đúng với quy
định. Đồng thời quán triệt cho UBND cấp cơ sở làm tốt công tác quản lý hộ
tịch, hộ khẩu trên địa bàn, kịp thời phát hiện những sư không rõ danh tính về

hoạt động tôn giáo, từ đó có giải pháp kiên quyết, đúng pháp luật.
- Tăng cường công tác Quản lý Nhà nước các hoạt động đối ngoại
tôn giáo
Công tác này rất phù hợp và cần thiết đối với tình hình tôn giáo và hoạt
động tôn giáo trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Vì thế, các cơ quan, đoàn thể thực
hiện chức năng Quản lý Nhà nước về tôn giáo cần chủ động trong công tác đối
ngoại tôn giáo phù hợp với xu thế chung của quốc tế và tình hình chính trị,
tôn giáo ở trong nước. Theo đó cần hướng dẫn các tôn giáo thực hiện quan hệ
đối ngoại phù hợp với đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước; đẩy mạnh
thông tin, tuyên truyền đối ngoại về chính sách tôn giáo của Việt Nam và tình
hình các tôn giáo hiện nay, tạo điều kiện cho các tổ chức, chức sắc tôn giáo
tham gia các hoạt động đối ngoại tôn giáo đem lại lợi ích không chỉ cho mình
mình mà còn cho quốc gia, dân tộc và địa phương.
3.3. Công tác Quản lý Nhà nước cần quan tâm hơn đến công tác
vận động quần chúng tín đồ, chức sắc các tôn giáo và xây dựng lực lượng
chính trị ở cơ sở
Khi Đảng cầm quyền, một trong những nguy cơ là cán bộ chính quyền
xem nhẹ công tác dân vận mà xa rời người dân, sẽ dẫn đến hậu quả làm Nhà
nước trở nên quan liêu hoá, còn Đảng thì mất uy tín. Chính vì thế, Thủ tướng
Chính phủ, năm 2000, đã ra Chỉ thị về tăng cường công tác dân vận đối với cán
bộ các cơ quan nhà nước . Theo tinh thần của Chỉ thị này, tất cả cán bộ, công
chức chính quyền phải làm và biết làm công tác dân vận. Cán bộ công chức làm
công tác Quản lý Nhà nước đối với tôn giáo lại càng phải quán triệt nó ở tầm
cao nhất, vì “nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần
chúng”. Hơn nữa, từ vị trí là yếu tố cốt lõi của Hệ thống Chính trị, với chức năng
tham mưu cho Đảng về công tác tôn giáo, cơ quan, cán bộ Quản lý Nhà nước
23


đối với tôn giáo cũng cần hướng dẫn, giúp cho Mật trận Tổ quốc và các đoàn thể

quần chúng trong công tác vận động tín đồ tôn giáo.
Để chức sắc, tín đồ các tôn giáo thực hiện tốt đường lối, chính sách,
pháp luật và tự giác đấu tranh chống các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo,
trong vận động họ, chúng ta phải làm tốt:
Một là, tăng cường bồi dưỡng lòng yêu nước, ý thức công dân cho tín
đồ các tôn giáo.
Tất cả tín đồ các tôn giáo ở Bắc Ninh đều là công dân của nhà nước,
vậy, lợi ích của Tổ quốc, của dân tộc là thiêng liêng và cao cả, do đó mọi tín
đồ đều phải có quyền và nghĩa vụ trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Để tín đồ các tôn giáo ý thức được vấn đề này, khi tuyên truyền vận
động, MT và các đoàn thể quần chúng phải luôn quan tâm bồi dưỡng cho họ
lòng yêu quê hương, đất nước, rèn luyện ý thức công dân; biết tuân thủ chính
sách, pháp luật. Họ phải biết gắn bó quyền lợi của cá nhân, gia đình với cộng
đồng xã hội và hoàn thành tốt nghĩa vụ công dân, thực hiện nhiệm vụ xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc, kiên quyết đấu tranh với âm mưu lợi dụng tôn giáo của các
thế lực xấu.
Hai là, thu hút, tập hợp quần chúng tín đồ tham gia vào các tổ chức
đoàn thể chính trị
Muốn hạn chế hoạt động không bình thường của hội đoàn tôn giáo, trái
với chính sách, pháp luật thì chỉ có cách là Mật trận và các đoàn thể phải tập
hợp, thu hút ngày càng đông đoàn viên, hội viên là tín đồ các tôn giáo. Qua
sinh hoạt của các đoàn thể mà tuyên truyền, vận động, hướng dẫn họ tích cực
hưởng ứng các phong trào, góp sức vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ quê
hương, đất nước. Phát huy tinh thần nhân ái, giúp đỡ cộng đồng của đồng bào
theo đạo, qua đó xây dựng tình làng nghĩa xóm, củng cố khối đại đoàn kết
toàn dân.
Ba là, hướng dẫn quần chúng đấu tranh với các biểu hiện tiêu cực, mê
tín dị đoan, lợi dụng tôn giáo
24



Cần nghiêm khắc phê phán kịp thời những hành vi tôn giáo cực đoan
trái phép, lôi kéo quần chúng tín đồ gây rối, ngăn chặn hành vi vi phạm pháp
luật của một số kẻ xấu lợi dụng, gây chia rẽ trong nhân dân làm ảnh hưởng
đến trật tự an ninh, an toàn xã hội.
Bốn là, làm tốt công tác tuyên truyền vận động chức sắc, nhà tu hành
Công tác vận động chức sắc, nhà tu hành cần tập trung vào:
- Thường xuyên thăm hỏi, động viên, nắm bắt nhu cầu nguyện vọng
của giáo hội. Tạo điều kiện cho chức sắc, nhà tu hành hoạt động tôn giáo theo
quy định, chúc mừng, động viên gặp gỡ họ nhân dịp các ngày lễ trọng, khơi
dậy lòng tự hào dân tộc, trách nhiệm công dân và nghĩa vụ với Tổ quốc.
- Giới thiệu một số chức sắc, nhà tu hành, tín đồ tôn giáo tiêu biểu tham
gia vào Hội đồng nhân dân xã, huyện, giúp họ triển khai các chủ trương công
tác ở địa phương, tạo điều kiện thuận lợi cho mọi tín đồ làm tròn nghĩa vụ
công dân và tham gia vào các đoàn thể xã hội ở địa phương. Gần đây nhất,
trong kỳ bầu cử Hội đồng nhân dân 3 cấp, nhiệm kỳ 2011-2016, trên địa bàn
tỉnh Bắc Ninh đã có không ít chức sắc, nhà tu hành các tôn giáo tham gia ứng
cử và trúng cử.
Năm là, quan tâm xây dựng cơ sở chính trị vùng có đồng bào tôn giáo
Ở những địa bàn giáo dân, lương dân sinh sống xen kẽ, cần xem xét, bồi
dưỡng cất nhắc những giáo dân tiêu biểu giữ cương vị trong tổ chức đoàn thể xã hội để xua đi sự tự ti, mặc cảm với cộng đồng. Qua phong trào mà tuyển
chọn tín đồ xuất sắc để phát triển đảng, từ đó, họ sẽ là những người chủ yếu
tham gia vận động, thuyết phục, lôi kéo người khác. Khi vùng tôn giáo "có vấn
đề", họ sẽ là chỗ dựa quan trọng cho công tác đấu tranh.
Đối với Mặt trân Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, để làm tốt công
tác vận động quần chúng tín đồ, chức sắc, nên làm tốt một số việc:
Một là, cần xây dựng chương trình, kế hoạch cho công tác vận động
đồng bào có đạo, phù hợp với từng đối tượng tín đồ. Đây là vấn đề lâu nay
chưa được quan tâm đúng mức. Thời gian tới các cấp uỷ đảng tiếp tục quán
25



×