Tải bản đầy đủ (.pdf) (64 trang)

thẩm quyền của tòa án trong việc giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 64 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP. HCM
KHOA LUẬT

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP

THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN TRONG VIỆC
GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP KINH DOANH,
THƯƠNG MẠI

NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

Giảng viên hướng dẫn: ThS. VŨ ANH SAO
Sinh viên thực hiện: NGUYỄN THỊ THANH HẰNG
MSSV: 1511271018
Lớp: 15DLK13

Thành phố Hồ Chí Minh - 2019


LỜI CẢM ƠN
Cuộc đời của mỗi con người bên cạnh sự cố gắng không ngừng nghỉ tự trau
dồi cho bản thân những kiến thức và kỹ năng cần thiết nhất để đi đến con đường
thành công như mong đợi còn có cả một quá trình lao động hăng say, đặc biệt phải
có sự đồng hành và giúp đỡ của mọi người xung quanh. Trong suốt thời gian từ khi
bắt đầu học tập ở giảng đường đại học đến nay, em đã nhận được rất nhiều sự quan
tâm, giúp đỡ của quý thầy cô, gia đình và bạn bè. Với lòng biết ơn sâu sắc nhất, em
xin gửi đến quý thầy cô ở Khoa Luật trường Đại học Công nghệ thành phố Hồ Chí
Minh đã cùng với tri thức và tâm huyết của mình để truyền đạt vốn kiến thức quý
báu cho chúng em trong suốt thời gian học tập tại trường.
Bên cạnh đó, thời gian nghiên cứu và hoàn thành khóa luận, em đã nhận


được sự hỗ trợ và hướng dẫn tận tâm từ giảng viên hướng dẫn - Thạc sĩ Vũ Anh
Sao. Mặc dù hiện tại thầy đã chuyển qua công tác tại trường Đại học Kinh tế Tài
chính Thành phố Hồ Chí Minh và lịch dạy khá dày đặc nhưng thầy vẫn cố gắng sắp
xếp và hỗ trợ rất nhiệt tình trong suốt quá trình em hoàn thiện khóa luận. Em xin
bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đến thầy - bậc nhà giáo luôn truyền lửa cho sinh
viên và nhiệt huyết với nghề.
Với điều kiện thời gian cũng như kinh nghiệm còn hạn chế của một sinh
viên, do đó không tránh khỏi những thiếu sót là điều chắc chắn, em rất mong nhận
được những ý kiến đóng góp quý báu của quý thầy cô và các bạn để em có thể hoàn
thiện khóa luận của mình một cách hoàn chỉnh hơn.
Sau cùng em xin kính chúc quý thầy cô của trường Đại học Công Nghệ
thành phố Hồ Chí Minh nói chung và thầy cô trong Khoa Luật nói riêng thật dồi dào
sức khỏe, niềm tin để tiếp tục thực hiện sứ mệnh cao đẹp của mình là truyền đạt
kiến thức cho thế hệ mai sau.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên

Nguyễn Thị Thanh Hằng


LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên NGUYỄN THỊ THANH HẰNG, MSSV: 1511271018
Tôi xin cam đoan các số liệu, thông tin sử dụng trong bài Khoá luận tốt
nghiệp này được thu thập từ nguồn tài liệu khoa học chuyên ngành (có trích dẫn
đầy đủ và theo đúng qui định);
Nội dung trong khoá luận KHÔNG SAO CHÉP từ các nguồn tài liệu khác.
Nếu sai sót tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm theo qui định của nhà trường
và pháp luật.
Sinh viên
(ký tên, ghi đầy đủ họ tên)


`

Nguyễn Thị Thanh Hằng


MỤC LỤC
THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT
CÁC TRANH CHẤP KINH DOANH, THƯƠNG MẠI
TRANG

PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................1
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài .........................................................................2
3. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu của đề tài .......................................................2
4. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ...................................3
5. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................................3
6. Kết cấu của khoá luận .......................................................................................4
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN TRONG
VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH, THƯƠNG MẠI.............5
1.1 Khái quát chung về tranh chấp kinh doanh, thương mại............................5
1.1.1 Khái niệm tranh chấp kinh doanh, thương mại...........................................5
1.1.2 Đặc điểm, nguyên nhân tranh chấp kinh doanh, thương mại .....................7
1.1.3 Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại ........................................10
1.2 Thẩm quyền của tòa án trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh,
thương mại............................................................................................................19
1.2.1 Khái quát về thẩm quyền của tòa án trong hệ thống pháp luật ................19
1.2.2 Thẩm quyền của tòa án trong giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương
mại ......................................................................................................................21
1.2.3 Phân loại về thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp kinh

doanh, thương mại..............................................................................................23
1.3 Pháp luật nước ngoài về phân định thẩm quyền của tòa án trong giải
quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại ........................................................25
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ........................................................................................28
Chương 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VÀ
MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THẨM QUYỀN CỦA
TÒA ÁN TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH,
THƯƠNG MẠI........................................................................................................29
2.1 Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về thẩm quyền của Tòa án
trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại ..............................29


2.1.1 Thẩm quyền theo vụ việc ...........................................................................29
2.1.2 Thẩm quyền của Tòa án các cấp ...............................................................33
2.1.3 Thẩm quyền theo lãnh thổ .........................................................................35
2.1.4 Thẩm quyền theo sự lựa chọn của nguyên đơn .........................................38
2.2 Đánh giá chung về tình hình giải quyết tranh chấp kinh doanh thương
mại thông qua Tòa án ở Việt Nam hiện nay......................................................39
2.2.1 Những vướng mắc về xác định thẩm quyền của Tòa án trong việc giải
quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại .........................................................42
2.2.2 Những khó khăn nảy sinh trong thực tiễn thực hiện thẩm quyền của Tòa
án ........................................................................................................................47
2.3 Hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết
tranh chấp kinh doanh thương mại ...................................................................50
2.3.1 Các phương hướng hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của Tòa án trong
việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại ...........................................50
2.3.2 Các giải pháp hỗ trợ, nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật trong việc giải
quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại thông qua Tòa án ............................51
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................................54
KẾT LUẬN ..............................................................................................................55

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................56


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, nền kinh tế Việt Nam đã và đang
đạt được nhiều thành tựu to lớn. Kinh tế tăng trưởng đã góp phần quan trọng đưa
đất nước tiến nhanh trên con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Quá trình hội nhập
với kinh tế thế giới đã có nhiều tác động không nhỏ đến nền kinh tế của Việt Nam
khiến các quan hệ kinh doanh, thương mại ngày càng gia tăng về số lượng cũng như
tính chất phức tạp. Theo số liệu đánh giá của ngành Tòa án, hàng năm mỗi đơn vị
tòa án cấp huyện thụ lý hàng trăm vụ án lớn nhỏ liên quan đến tranh chấp kinh
doanh, thương mại. Hầu hết là các tranh chấp từ hợp đồng mua bán hàng hóa, tranh
chấp hợp đồng tín dụng, tranh chấp hợp đồng dịch vụ… Số lượng tranh chấp kinh
doanh, thương mại cũng ngày càng đa dạng và phức tạp vì vậy phải có một cơ chế
hiệu quả để giải quyết các tranh chấp, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho
các tổ chức, cá nhân có tranh chấp kinh doanh, đồng thời cũng là công cụ để Nhà
nước quản lý trật tự kinh tế xã hội.
Đáp ứng các yêu cầu giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại của
cá nhân, tổ chức trong nền kinh tế, thực tiễn đã hình thành nhiều phương thức giải
quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại như: thương lượng, hòa giải, giải quyết
theo thủ tục Trọng tài, giải quyết theo thủ tục Tố tụng tòa án. Trên thực tế, các tranh
chấp kinh doanh, thương mại ở Việt Nam hầu hết được lựa chọn giải quyết bằng
con đường tòa án bởi tòa án là cơ quan tài phán công, mang tính cưỡng chế nghiêm
minh nên việc lựa chọn tòa án là cơ quan giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực kinh
doanh, thương mại là lựa chọn hữu hiệu cho các doanh nghiệp.
Hơn thế nữa, trong công cuộc đổi mới như hiện nay, bên cạnh những thành
tựu mà ngành tòa án đạt được trong thời gian vừa qua đã tạo được lòng tin, uy tín
cho các chủ thể kinh doanh, tạo nền tảng uy tín để các doanh nghiệp lựa chọn
phương thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh, thương mại bằng con đường

tòa án thì vẫn còn tồn tại một số vướng mắc, khó khăn trong công tác ngành mà
trong đó có thể nói đến những vấn đề liên quan đến thẩm quyền tòa án. Những khó
khăn ấy không những ảnh hưởng đến việc cải tiến chất lượng giải quyết vụ án mà
còn gây ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp. Vì vậy, việc
nghiên cứu thẩm quyền của tòa án cần được quan tâm thích đáng nhằm tìm ra
1


phương hướng giải quyết đúng đắn, nâng cao hiệu quả xét xử, đáp ứng yêu cầu mới
đặt ra trong giai đọan hiện nay.
Trước những yêu cầu của thực tiễn, việc tiếp tục nghiên cứu các quy định
của pháp luật về thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh
thương mại nhằm góp phần làm sáng tỏ thêm về lý luận cũng như thực tiễn, tìm ra
những hạn chế, vướng mắc trong quy định pháp luật và thực tiễn thi hành, từ đó đề
xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả công tác giải quyết
các vụ án kinh tế theo tinh thần cải cách tư pháp là hết sức cần thiết và vẫn có tính
thời sự, rất được quan tâm trong khoa học pháp lý ở Việt Nam hiện nay. Do vậy, tác
giả chọn đề tài “Thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết các tranh chấp
kinh doanh, thương mại” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Đề tài nghiên cứu muốn làm sáng tỏ các vấn đề cơ bản sau:
Thứ nhất, làm rõ những yếu tố ảnh hưởng đến quá trình giải quyết tranh
chấp kinh doanh, thương mại bằng Tòa án
Thứ hai, phân tích nội dung các quy định của pháp luật hiện hành về thẩm
quyền của Tòa án trong việc giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại.
Thứ ba, đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật, trên cơ sở đó chỉ ra những bất
cập, hạn chế, vướng mắc trong thực thi pháp luật về thẩm quyền của Tòa án trong
việc giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại.
Thứ tư, nêu ra một số kiến nghị khắc phục các cản trở, một số biện pháp hỗ
trợ, nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật trong việc giải quyết tranh chấp kinh

doanh, thương mại thông qua Tòa án nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh
tế trong thời kỳ hội nhập và tự do hóa nền kinh tế.
3. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu của đề tài
Đối với đề tài “Thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết các tranh
chấp kinh doanh, thương mại”, người viết đi vào tìm hiểu những vấn đề lý luận về
thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại của Tòa án, nghiên cứu
các quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại của Tòa
2


án theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành như Bộ luật Tố tụng dân sự, Bộ
luật dân sự, Luật tổ chức tòa án nhân dân, luật doanh nghiệp… tìm hiểu thực tiễn
thực hiện các quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại
của Tòa án, những bất cập, vướng mắc trong quá trình thực hiện.
4. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Hiện nay đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề này. Có
thể kể đến là các luận văn thạc sĩ như luận văn “Xây dựng đội ngũ thẩm phán đáp
ứng với yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Vũ Thu Hiền;
luận văn “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp kinh doanh,
thương mại tại Tòa án nhân dân cấp huyện” của tác giả Nguyễn Vũ Hoàng; luận
văn “Thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại ở Việt Nam hiện
nay” của tác giả Hoàng Tố Nguyên (2013); Tác giả Đinh Thị Trang với đề tài
“Pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại theo thủ tục tố tụng
Tòa án ở Việt Nam hiện nay”...
Có thể thấy, đã có một số công trình và các bài báo nghiên cứu khoa học về
vấn đề này nhưng nhìn chung các công trình, bài báo chỉ tập trung nghiên cứu các
điều luật liên quan đến thẩm quyền của Tòa án trong giải quyết tranh chấp kinh
doanh thương mại được quy định ở Bộ luật Tố tụng dân sự 2004, Bộ luật dân sự
2005. Tuy nhiên đến ngày 1/1/2017 Bộ luật dân sự 2015 có hiệu lực thì việc nghiên
cứu các vấn đề liên quan đến thẩm quyền tòa án trong giải quyết tranh chấp kinh

doanh, thương mại đã có những thay đổi nhất định. Vì vậy, trên cơ sở kế thừa và
phát huy kết quả nghiên cứu của các tác giả và xuất phát từ những lý do nêu trên,
tác giả chọn đề tài: “Thẩm quyền của Tòa án trong giải quyết các tranh chấp kinh
doanh, thương mại” làm đề tài khóa luận để tiếp tục nghiên cứu.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa triết học
Mac-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng,
Nhà nước ta về phát triển kinh tế xã hội, về xây dựng và hoàn thiện pháp luật trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Các phương pháp được sử dụng chủ yếu để nghiên cứu đề tài bao gồm các
phương pháp nghiên cứu khoa học nói chung và phương pháp nghiên cứu khoa học
3


pháp lý nói riêng như phương pháp phân tích, tổng hợp, đối chiếu, so sánh, hệ thống
hóa pháp luật…
6. Kết cấu của khoá luận
Khóa luận bao gồm 2 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết
tranh chấp kinh doanh, thương mại
Chương 2: Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành và một số giải pháp
hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp
kinh doanh, thương mại

4


Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN
TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH,
THƯƠNG MẠI

1.1 Khái quát chung về tranh chấp kinh doanh, thương mại
1.1.1 Khái niệm tranh chấp kinh doanh, thương mại
Theo Triết học Mac - Lê nin, mâu thuẫn là quy luật chung của xã hội, là
nguồn gốc, là động lực của sự phát triển. Mâu thuẫn luôn luôn tồn tại như một tất
yếu tự nhiên trên mọi lĩnh vực của xã hội, tạo nên sự phát triển của xã hội. Tranh
chấp là những xung đột thường phát sinh từ những mâu thuẫn và từ những lợi ích
riêng. Tuy nhiên, mâu thuẫn và tranh chấp lại tạo nên những phát triển của xã hội,
góp phần xây dựng xã hội ngày càng hiện đại, văn minh. Theo định nghĩa của từ
điển Tiếng Việt, “Tranh chấp là đấu tranh, giằng co khi có mâu thuẫn, bất đồng,
thường là trong vấn đề quyền lực giữa hai bên”1. Tranh chấp kinh doanh, thương
mại được hiểu là những tranh chấp trong lĩnh vực kinh doanh và thương mại, cụ
thể:
Theo quy định tại khoản 16 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2014: “Kinh
doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá
trình, đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị
trường nhằm mục đích sinh lợi”.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại 2005: “Hoạt động
thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng, cung ứng
dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi
khác”.
Như vậy, cả hai hoạt động kinh doanh và thương mại nêu trên có cùng nội
hàm về việc các chủ thể kinh doanh cùng hoạt động đầu tư, kinh doanh, cung ứng
các dịch vụ… nhằm mục đích sinh lợi, do đó hai hoạt động này đã được Bộ luật Tố
tụng dân sự 2015 gọi chung là hoạt động kinh doanh, thương mại và đưa vào cùng
một quy trình khi giải quyết tranh chấp là hoàn toàn phù hợp. Bên cạnh đó, khái
niệm kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp 2014 và khái niệm thương mại theo Luật
1

Tham khảo tại: />
5



thương mại 2005 về cơ bản là tương thích với nhau và cũng phù hợp với khái niệm
thương mại theo luật mẫu về thương mại điện tử của UNCITRAL: “Thuật ngữ
thương mại được diễn giải theo nghĩa rộng để bao quát các vấn đề nảy sinh từ mọi
quan hệ thương mại, dù có hay không có hợp đồng. Các mối quan hệ mang tính
thương mại bao gồm nhưng không phải chỉ bao gồm, các giao dịch sau đây: bất cứ
giao dịch thương mại nào về cung cấp hoặc trao đổi hàng hóa hoặc dịch vụ; thỏa
thuận phân phối; đại diện hoặc đại lý thương mại; ủy thác hoa hồng, cho thuê dài
hạn, xây dựng các công trình; đầu tư; cấp vốn; ngân hàng; bảo hiểm; thỏa thuận
khai thác; liên doanh hoặc các hình thức về hợp tác công nghiệp hoặc kinh doanh;
chuyên chở hàng hóa hay hành khách bằng đường biển, đường không, đường sắt
hoặc đường bộ”2.
Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 không dùng khái niệm “tranh chấp hợp đồng
kinh tế” như Pháp lệnh giải quyết các vụ án kinh tế mà dùng khái niệm “tranh chấp
trong hoạt động kinh doanh, thương mại” và đã liệt kê đầy đủ hơn các hành vi kinh
doanh, thương mại nào có tranh chấp thì thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân. Có
thể nhận thấy rằng, khái niệm tranh chấp kinh doanh thương mại thực chất là những
mâu thuẫn phát sinh từ việc các chủ thể kinh doanh có sự bất đồng đến mức trái
ngược nhau trong hoạt động kinh doanh, đầu tư, cung ứng dịch vụ… gọi chung là
trong hoạt động kinh doanh, thương mại3.
Cách định nghĩa này mặc dù còn nhiều hạn chế song cũng đã chỉ ra được
bản chất của tranh chấp kinh doanh, thương mại là mâu thuẫn, xung đột về những
lợi ích phát sinh khi tham gia các hoạt động kinh doanh, thương mại. Tuy nhiên,
phạm vi giữa mâu thuẫn, xung đột và tranh chấp là khác nhau, chỉ khi nào mâu
thuẫn và xung đột lớn, đến mức không thể điều hòa thì tranh chấp mới xảy ra.
Từ những nhân tích trên, có thể thấy hiện nay, vẫn chưa đưa ra được cách
hiểu thống nhất, đặc biệt là chưa có văn bản pháp lý nào quy định cụ thể khái niệm
tranh chấp kinh doanh, thương mại mà mới chỉ dừng lại ở vấn đề quan điểm của
một số tác giả trên cơ sở tiếp cận nó thông qua luật nội dung và luật tố tụng.

Như vậy, có thể hiểu khái niệm tranh chấp kinh doanh, thương mại là
những mâu thuẫn, bất đồng giữa các chủ thể phát sinh trong việc thực hiện các hoạt
Viện khoa học xét xử - Tòa án nhân dân tối cao (2004), Luật mẫu thương mại điện tử UNCITRAL, Thông
tin khoa học xét xử 2+3/2004
3
Tham khảo tại: />2

6


động có liên quan đến lĩnh vực kinh doanh, đầu tư và thương mại. Và có thể định
nghĩa một cách ngắn gọn đối với tranh chấp kinh doanh, thương mại như sau:
“Tranh chấp kinh doanh, thương mại là những mâu thuẫn, bất đồng hay xung đột
về quyền lợi và nghĩa vụ giữa các chủ thể tham gia các quá trình của hoạt động
kinh doanh, thương mại”.
1.1.2 Đặc điểm, nguyên nhân tranh chấp kinh doanh, thương mại
* Đặc điểm tranh chấp kinh doanh, thương mại
Thứ nhất, tranh chấp về kinh doanh, thương mại nảy sinh trực tiếp từ các
quan hệ kinh doanh và luôn gắn liền với hoạt động kinh doanh. Đó là hệ quả phát
sinh từ quan hệ giữa các chủ thể kinh doanh với nhau hoặc giữa các bên có liên
quan với chủ thể kinh doanh trong quá trình tiến hành các hoạt động nhằm mục đích
sinh lợi. Ví dụ tranh chấp phát sinh trong hoạt động sản xuất, mua bán hàng hóa,
cung ứng dịch vụ; hoặc tranh chấp liên quan đến đầu tư chứng khoán, sở hữu trí
tuệ,… và những hoạt động có mục đích sinh lợi khác.
Thứ hai, giải quyết tranh chấp trong kinh doanh, thương mại là vấn đề do
các bên tranh chấp tự định đoạt. Trên nguyên tắc, Nhà nước không được can thiệp
trừ khi các tranh chấp đó xâm phạm đến trật tự công cộng, hoặc khi các chủ thể
không thể tự thương lượng, hoà giải được với nhau và có đơn yêu cầu cơ quan tài
phán có thẩm quyền giải quyết.
Chính vì tranh chấp về kinh doanh, thương mại nảy sinh từ những quan hệ

được thiết lập trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng và thỏa thuận giữa các bên (thuộc
lĩnh vực của luật tư), cho nên các bên có toàn quyền quyết định các vấn đề liên quan
đến việc giải quyết tranh chấp. Họ có quyền tự thỏa thuận với nhau để lựa chọn
phương thức giải quyết phù hợp; được tự giải quyết về nội dung tranh chấp; tự
thương lượng và hòa giải với nhau ngay cả khi đã đưa vụ tranh chấp ra một cơ quan
tài phán giải quyết.
Thứ ba, các bên tranh chấp thường là chủ thể kinh doanh, có tư cách
thương nhân hoặc tư cách nhà kinh doanh. Đó là những pháp nhân, cá nhân có đăng
ký kinh doanh, có năng lực hành vi và được Nhà nước công nhận quyền hoạt động
kinh doanh. Ngoài ra, cũng có trường hợp một bên tranh chấp không phải chủ thể
kinh doanh mà là tổ chức, cá nhân có hoạt động liên quan đến thương mại; hoặc là
7


cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên không phải đăng ký
kinh doanh (Điều 2 Luật thương mại). Là người kinh doanh, về nguyên tắc họ thông
hiểu pháp luật và tập quán kinh doanh, thương mại, biết coi trọng “chữ tín” và cũng
có ý thức duy trì quan hệ hợp tác với các đối tác. Do vậy, giải quyết tranh chấp kinh
doanh, thương mại bằng con đường “hòa bình” (thương lượng hoặc hòa giải) là
phương thức thường được các bên tranh chấp sử dụng có hiệu quả.
Thứ tư, tranh chấp kinh doanh, thương mại là những tranh chấp mang yếu
tố vật chất và thường có giá trị lớn. Tranh chấp kinh doanh, thương mại phản ánh
những xung đột về lợi ích kinh tế của các bên trong một quan hệ kinh tế nhất định.
Yếu tố vật chất và lợi ích kinh tế trong nội dung tranh chấp là đặc điểm riêng giúp
phân biệt tranh chấp kinh tế với các loại tranh chấp khác trong đời sống xã hội.
Trong cơ chế thị trường, tranh chấp kinh tế có thể có giá trị tranh chấp rất lớn, hoặc
có liên quan đến nhiều chủ thể khác nhau. Do vậy, cơ chế giải quyết tranh chấp phải
nhanh, gọn, hiệu quả để bảo vệ kịp thời các quyền lợi kinh tế của các bên liên quan.
Ngược lại, nếu việc giải quyết tranh chấp không triệt để, không dứt điểm sẽ dễ gây
ra hậu quả tổn thất có tính dây chuyền, không chỉ ảnh hưởng bất lợi cho quá trình

hoạt động kinh doanh của chủ thể tranh chấp mà còn tác động xấu đến lợi ích của
các đối tượng khác nhau như nhà đầu tư, người lao động, khách hàng,… và làm xáo
trộn đời sống kinh tế xã hội nói chung4.
* Nguyên nhân tranh chấp kinh doanh, thương mại
Tranh chấp kinh doanh thương mại là tranh chấp diễn ra trong hoạt động
sản xuất kinh doanh nhằm mục đích sinh lời. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến
phát sinh tranh chấp trong lĩnh vực này, tuy nhiên trong giới hạn phạm vi bài viết,
người nghiên cứu sẽ chỉ ra một số nguyên nhân cơ bản dẫn đến tranh chấp trong
lĩnh vực kinh doanh thương mại mà xuất hiện nhiều nhất là tranh chấp hợp đồng
mua bán hàng hóa. cụ thể như sau:
Một là, do vi phạm chất lượng, số lượng, chủng loại và giấy tờ tài liệu kèm
theo hàng hóa.
Đối với hàng hoá có giá trị tương đối lớn hoặc rất lớn, thông thường bên
bán hàng yêu cầu bên mua hàng đặt trước một lượng tiền nhất định dưới dạng tiền
4

Tham khảo tại:
/>+kinh+doanh+th%C6%B0%C6%A1ng+m%E1%BA%A1i.htm

8


đặt cọc, tiền ứng trước tương đương với một phần giá trị khối lượng hàng đặt mua.
Khi bên bán hàng cầm tiền tạm ứng của bên mua mới đi mua hoặc đặt hàng từ các
hãng sản xuất. Phía người bán do sự thiếu hiểu biết hoặc do cố tình mua loại, hàng
hoá, thiết bị cùng loại nhưng không bảo đảm chất lượng theo hợp đồng giao kết
giữa hai bên quy định. Khi bên mua phát hiện hành vi giao hàng không đúng theo
hợp đồng của bên bán, bên mua sẽ không nhận hàng và đề nghị trả lại số tiền đã đặt
cọc. Khi đó sẽ xảy ra tranh chấp giữa các bên về việc phạt vi phạm hợp đồng, bồi
thường thiệt hại, cũng như đề nghị trả lại số tiền đặt cọc đã giao.

Hai là, do đã nhận tiền đặt trước (đặt cọc) nhưng không giao hàng
Trong một số trường hợp, sau khi đã nhận tiền đặt cọc hoặc tạm ứng trước
một phần tiền mua hàng của bên mua, bên bán hàng đã không giao hàng cho bên
mua mà chiếm đoạt hoặc sử dụng số tiền đó vào mục đích khác, hết thời hạn thực
hiện hợp đồng vẫn không tìm được hàng để giao cho bên mua. Theo quy định của
Bộ luật Dân sự, nếu bên bán mới nhận khoản tiền đặt cọc mà hợp đồng không có
thoả thuận khác thì đương nhiên bên bán phải trả cho bên mua với tổng số tiền là
200% giá trị khoản tiền đặt cọc đã nhận khi từ chối thực hiện hợp đồng.
Đối với khoản tiền tạm ứng mua hàng bên bán đã nhận của bên mua thì
không thể xử lý như đối với khoản tiền đặt cọc được. Trường hợp này, cần hiểu là
bên bán đã chấp nhận bán cho bên mua số lượng hàng hoá có giá trị tương đương
với số tiền đã nhận. Vì bất cứ lý do gì (ngoài những lý do pháp luật đã loại trừ), cần
tôn trọng và áp dụng nguyên tắc bên bán phải có trách nhiệm giao cho bên mua khối
lượng hàng hoá tương đương giá trị tiền đã nhận tại thời điểm đó. Có nghĩa tại thời
điểm nhận tiền tạm ứng, bên bán có nghĩa vụ giao cho bên mua đủ số lượng hàng
hoá tương đương số tiền theo giá trị hợp đồng.
Khi bên bán không thực hiện được hợp đồng, tức là có vi phạm xảy ra, bên
bán có trách nhiệm phải trả bên mua đúng số lượng hàng hoá tương đương với tỷ lệ
giá trị hợp đồng đã ký kết mới bảo đảm quyền lợi của bên mua. Nếu hợp đồng
không có thoả thuận khác về phạt hợp đồng, bồi thường thiệt hại thì chỉ có thể áp
dụng các quy định của Bộ luật Dân sự để giải quyết nội dung tranh chấp. Việc bên
bán tự nguyện hoàn trả số tiền đặt cọc, tiếp tục thực hiện hợp đồng hoặc bồi thường
thiệt hại là rất khó. Do đó, cần có một đơn vị chuyên nghiệp giúp bạn giải quyết
tranh chấp và thu hồi vốn một cách hiệu quả.

9


Ba là, tranh chấp do lỗi của bên mua đã nhận đủ hàng nhưng không tiến
hành thanh toán hoặc tiến hành thanh toán không đầy đủ tiền hàng.

Trong thời kỳ kinh tế khó khăn như hiện nay thì thực trạng các bên sau khi
đã nhận đầy đủ số lượng hàng hóa theo quy định của hợp đồng nhưng lại không tiến
hành thanh toán hoặc thanh toán không đầy đủ giá trị hàng hóa đã nhận được
thường xuyên xảy ra. Đây là thực trạng ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động sản xuất
kinh doanh của bên bán. Khi đó sẽ xảy ra tranh chấp liên quan đến nghĩa vụ thanh
toán theo hợp đồng. Tranh chấp trở nên phức tạp và khó giải quyết hơn khi các bên
để vụ việc kéo dài và không giải quyết dứt điểm. Trong khi đó, tại thời điểm tiến
hành giao nhận hàng do tin tưởng bạn hàng nên quá trình giao nhận hàng diễn ra
không đúng như quy định tại hợp đồng, thiếu cơ sở chứng minh đã giao hàng đầy
đủ và đảm bảo chất lượng. Việc bên mua không tự nguyện thanh toán hoặc thanh
toán không đầy đủ tiền hàng sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của bên bán.
Bốn là, do không ký hoàn tất hồ sơ giao hàng, biên bản nghiệm thu lắp đặt,
xác nhận tiền hàng
Trong một số trường hợp khi tiến hành giao dịch mua bán hàng hóa, do sự
tin tưởng lẫn nhau nên khi tiến hành giao hàng không có biên bản giao nhận hàng
hóa hoặc khi tiến hành giao tiền không có giấy xác nhận đã giao nhận tiền. Do đó,
khi phát sinh mâu thuẫn việc giải quyết tranh chấp sẽ gặp những khó khăn rất lớn
trong việc chứng minh đã thực hiện giao hàng hoặc đã thực hiện nhận tiền.
Nghĩa vụ chứng minh trong vụ án dân sự thuộc về bên yêu cầu, trong khi
không có các chứng từ xác nhận việc giao hàng hoặc đã giao tiền. Lúc này, để
chứng minh cho việc đã giao hàng hoặc đã giao tiền cần phải dựa trên các chứng cứ
gián tiếp. Do đó, để tiến hành thu thập và hoàn thiện các chứng từ chứng minh
cho yêu cầu khởi kiện là có cơ sở là rất khó khăn. Bởi vậy cần có một đơn vị
chuyên nghiệp giúp các bên trong việc thu thập những bằng chứng có lợi góp phần
chứng minh yêu cầu khởi kiện là có có sở5.
1.1.3 Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại
Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh, thương mại là cách thức, phương
thức cũng như các hoạt động để khắc phục và loại trừ các tranh chấp đã phát sinh
Viện khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp (2011), “Thực tiễn giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại quốc
tế của doanh nghiệp Việt Nam”, Thông tin Khoa học pháp lý

5

10


nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể kinh doanh, bảo vệ trật tự,
kỷ cương xã hội. Khi các tranh chấp xảy ra thường có ảnh hưởng đến không những
quyền lợi của các bên tranh chấp mà còn ảnh hưởng đến sản xuất, kinh doanh của
cả cộng đồng kinh doanh. Vì vậy, việc giải quyết tranh chấp phải đảm bảo các yêu
cầu sau đây để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên:
Một là, nhanh chóng, thuận lợi, không làm cản trở các hoạt động kinh
doanh
Hai là, khôi phục và duy trì các quan hệ hợp tác, sự tín nhiệm giữa các bên
trong kinh doanh
Ba là, giữ bí mật kinh doanh, uy tín của các bên trên thương trường
Bốn là, ít tốn kém nhất cả về thời gian, tiền bạc, sức lực
Năm là, phán quyết phải chính xác và có khả năng thi hành cao6.
Tranh chấp kinh doanh, thương mại là hệ quả phát sinh từ các quan hệ kinh
doanh, thương mại, các quan hệ có tính tài sản với mục đích kinh doanh, kiếm lời.
Khi tham gia các quan hệ kinh doanh, thương mại, các chủ thể đều hướng đến mục
đích cao nhất là lợi nhuận, lợi ích kinh tế. Có thể nhận thấy, mối quan hệ trong hoạt
động kinh doanh, thương mại vừa mang tính xung đột vừa hợp tác. Vì thế, khi xảy
ra tranh chấp các bên luôn tìm cách nhanh chóng để giải quyết các xung đột, mâu
thuẫn này để sớm đưa hoạt động kinh doanh, sản xuất của mình trở lại bình thường
ổn định. Do đó, việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại đòi hỏi các bên
tranh chấp cũng như cơ quan giải quyết tranh chấp phải tiến hành nhanh chóng, kín
đáo, không làm ảnh hưởng đến quá trình sản xuất kinh doanh của các bên đồng thời
phải luôn đảm bảo được sự hợp tác trong hoạt động kinh doanh, thương mại.
Như đã phân tích, tranh chấp kinh doanh, thương mại là việc phát sinh các
mâu thuẫn, bất đồng từ hoạt động sản xuất, đầu tư hay cung ứng các dịch vụ…

(được gọi chung là các hoạt động kinh doanh, thương mại). Đây là một trong các
loại việc thuộc lĩnh vực tư, do đó các bên có quyền thỏa thuận lựa chọn hình thức
giải quyết tranh chấp kinh doanh ngay từ trước khi nó xảy ra (quyền định liệu trước)
hoặc sau khi tranh chấp xảy ra. Việc lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp
6

Tham
khảo
truong/6dbb41e5

tại:

/>
11


của các bên được thực hiện trên cơ sở sự nhanh chóng, ít tốn kém và phải đảm bảo
các quyền tự do kinh doanh của các chủ thể, không cản trở các hoạt động kinh
doanh của chủ thể và không làm mất cơ hội kinh doanh của họ. Các bên tranh chấp
có thể thông qua hình thức, thủ tục thích hợp tiến hành các giải pháp nhằm loại bỏ
những mâu thuẫn, xung đột, bất đồng về lợi ích kinh tế nhằm bảo vệ quyền và lợi
ích chính đáng của mình. Pháp luật giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại là
các quy định điều chỉnh quy trình tiến hành giải quyết các tranh chấp kinh doanh,
thương mại, bao gồm các quy trình từ khi có tranh chấp đến khi quá trình giải quyết
tranh chấp hoàn thiện.
Tóm lại, giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại được hiểu là quá
trình phân xử để làm rõ quyền và nghĩa vụ hợp pháp của các bên, buộc bên vi phạm
nghĩa vụ phải thực hiện trách nhiệm của mình đối với bên bị vi phạm. Việc giải
quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại được tiến hành khi có ít nhất một bên cho
rằng mình có quyền lợi hợp pháp bị bên kia xâm phạm và có yêu cầu được giải

quyết. Kết quả là các quyền và nghĩa vụ của các bên được xác định lại hoặc mâu
thuẫn hay xung đột giữa các bên được dung hòa thông qua các phán quyết của
người đứng ra giải quyết tranh chấp.
Xuất phát từ quyền tự do kinh doanh, trong đó bao hàm quyền tự do lựa
chọn phương thức giải quyết tranh chấp, các bên tranh chấp có quyền lựa chọn
phương thức giải quyết tranh chấp phù hợp nhất cho mình. Có bốn phương thức giải
quyết tranh chấp đó là: thương lượng, hòa giải, trọng tài thương mại và tòa án.
Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương, thương mại bằng thương lượng là
hình thức giải quyết tranh chấp thông qua việc các bên tranh chấp cùng nhau bàn
bạc, tự dàn xếp, tháo gỡ những bất đồng phát sinh để loại bỏ tranh chấp mà không
cần có sự trợ giúp hay phán quyết của bất kì bên thứ ba nào.
Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại bằng hòa giải
Hòa giải là một biện pháp truyền thống để giải quyết các tranh chấp trong
đời sống xã hội. Trên thế giới có nhiều quan niệm khác nhau về hòa giải: Hòa giải
(conciliation) là sự can thiệp, sự làm trung gian hòa giải; hành vi của người thứ ba
làm trung gian giữa hai bên tranh chấp nhằm thuyết phục họ dàn xếp hoặc giải
quyết tranh chấp giữa họ; Hòa giải là một quá trình mà bên thứ ba tạo điều kiện và
phối hợp để các bên thương lượng với nhau. Từ điển pháp lý của Rothenberg định
12


nghĩa hòa giải là “hành vi thỏa hiệp giữa các bên sau khi có tranh chấp, mỗi bên
nhượng bộ một ít”. Tuy nhiên, hòa giải viên phải là người am hiểu pháp luật, có kỹ
năng hòa giải, có kiến thức chuyên môn liên quan đến lĩnh vực tranh chấp sẽ đóng
vai trò quan trọng trong việc giúp cho các bên tranh chấp tìm kiếm những giải pháp
thích hợp cho việc giải quyết tranh chấp, còn giải pháp có đạt được hay không là do
các bên tranh chấp quyết định.
Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại bằng trọng tài là phương
thức giải quyết tranh chấp thương mại do các bên thỏa thuận, được tiến hành theo
các quy định pháp luật tại Luật trọng tài thương mại. Tranh chấp có thể giải quyết

bằng trọng tài là các tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại,
hoặc các tranh chấp giữa các bên trong đó ít nhất một bên hoạt động thương mại,
hoặc tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng
Trọng tài. Theo Điều 5, khoản 1 của Luật Trọng tài thương mại 2010 quy định:
“Tranh chấp được giải quyết bằng Trọng tài nếu các bên thỏa thuận trọng tài.
Thỏa thuận Trọng tài có thể được lập trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp”. Vì
vậy, điều kiện quan trọng làm phát sinh thẩm quyền của Trọng tài là giữa các bên
phải có sự thỏa thuận.
Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại bằng Tòa án là phương thức
giải quyết tranh chấp tại cơ quan xét xử nhân danh quyền lực nhà nước, được tiến
hành theo trình tự, thủ tục nghiêm ngặt, chặt chẽ và bản án hay quyết định của Tòa
án về vụ tranh chấp nếu không có sự tự nguyện tuân thủ sẽ được đảm bảo thi hành
bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước. Tòa án là cơ quan tài phán kinh tế duy
nhất có quyền nhân danh quyền lực nhà nước tiến hành xét xử các vụ tranh chấp
kinh doanh, thương mại. Đặc điểm này thể hiện vai trò của nhà nước trong việc tạo
lập nên những thiết chế quyền lực nhằm giải quyết những mâu thuẫn bất đồng trong
kinh doanh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong nền kinh tế, góp
phần xây dựng môi trường kinh doanh lành mạnh7.
Tòa án là cơ quan thực thi quyền tư pháp trong bộ máy nhà nước và việc
thực thi quyền lực này lại ảnh hưởng trực tiếp đến mục tiêu và các giá trị của công
cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam; Tòa án là nơi thể hiện sâu sắc
nhất bản chất của Nhà nước và nền công lý của chế độ, đồng thời thể hiện chất
lượng hoạt động và uy tín của cả hệ thống tư pháp trong Nhà nước pháp quyền xã
Hoàng Thế Liên (1999), Về các phương thức giải quyết tranh chấp chủ yếu tại Việt Nam trong lĩnh vực kinh
tế và đầu tư nước ngoài, Thông tin Khoa học pháp lý, Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp
7

13



hội chủ nghĩa. Do đó, trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của
mình, Tòa án nhân dân cần phải tuân thủ theo các nguyên tắc, thủ tục do luật pháp
quy định để đảm bảo hiệu quả xét xử, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên
tham gia, đảm bảo vai trò quan trọng trong hoạt động quản lý xã hội. Xuất phát từ
yêu cầu quản lý kinh tế bằng pháp luật của nhà nước ta, Tòa kinh tế ra đời thực hiện
chức năng xét xử các tranh chấp trong hoạt động kinh doanh, thương mại8. Cũng
như Tòa án nhân dân nói chung, tòa kinh tế cũng áp dụng và tuân theo các nguyên
tắc đã được pháp luật quy định trong quá trình giải quyết các tranh chấp kinh doanh,
thương mại. Với mục đích giải quyết các tranh chấp nhanh chóng, có hiệu quả và
hợp pháp, tạo điều kiện thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia; hoạt
động của tòa kinh tế cần dựa trên các nguyên tắc, thủ tục tố tụng trong giải quyết
các tranh chấp kinh doanh, thương mại. Tất cả các hoạt động trong quá trình tố tụng
như khởi kiện, xét xử, ra quyết định hay bản án phải được thực hiện theo đúng các
nguyên tắc đã được quy định. Nếu có sự vi phạm các nguyên tắc này trong quá trình
thực hiện giải quyết các tranh chấp thì đều bị coi là bất hợp pháp và phải loại bỏ9.
Các nguyên tắc mà tòa kinh tế phải tuân thủ trong hoạt động giải quyết các
tranh chấp kinh doanh, thương mại đó là: nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt
của các đương sự; nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật; nguyên tắc tòa án không
tiến hành điều tra mà chỉ xác minh thu thập chứng cứ; nguyên tắc hòa giải; nguyên
tắc giải quyết vụ án nhanh chóng kịp thời; nguyên tắc xét xử công khai. Cụ thể:
Thứ nhất, nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của các đương sự;
nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật.
Quyền tự định đoạt của đương sự biểu hiện ở khả năng khi tham gia tố
tụng, các đương sự tự do định đoạt các quyền, phương tiện tố tụng nhằm bảo vệ
quyền lợi hợp pháp của mình trước các xâm hại. Nguyên tắc này được ghi nhận tại
Điều 5 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Theo đó, các đương sự có quyền quyết định
việc khởi kiện, yêu cầu tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn
khởi kiện, yêu cầu giải quyết vụ việc của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi
đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó; trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, các đương
sự có quyền chấm dứt, thay đổi yêu cầu của mình hoặc thỏa thuận với nhau một

cách tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Quyền định đoạt của đương
sự được thể hiện qua nội dung của một số quyền khác như: quyền thay đổi, bổ sung
8
9

Tham khảo tại: />Phùng Hải Hiệp - Phòng Nghiệp vụ, Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao; Tạp chí khoa học xét xử.

14


hoặc rút các yêu cầu; quyền hòa giải, thương lượng; quyền đưa ra chứng cứ và
chứng minh; quyền kháng cáo. Nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của đương
sự là nguyên tắc cơ bản nhất trong tố tụng vụ án kinh doanh, thương mại. Nguyên
tắc này xuất phát từ nguyên tắc đảm bảo quyền tự do kinh doanh của các chủ thể.
Quyền tự do kinh doanh không có nghĩa là các cá nhân, tổ chức khi tham gia kinh
doanh có thể làm bất cứ điều gì cho mục đích tìm kiếm lợi nhuận của mình; mà khi
tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh, các bên đều phải tuân theo những quy
tắc nhất định của pháp luật. Và khi có tranh chấp xảy ra, trình tự cũng như thủ tục
giải quyết phải tuân theo pháp luật. Với nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của
các đương sự trong quá trình tố tụng, pháp luật đã tạo điều kiện thuận lợi trong việc
lựa chọn cách giải quyết tranh chấp cho các bên, tạo ra sự chủ động của đương sự
trong quá trình giải quyết tranh chấp. Các chủ thể khi tham gia vào mối quan hệ
kinh doanh với các đối tác của mình, không ai mong muốn tranh chấp xảy ra, gây
thiệt hại cho lợi ích kinh tế của các bên. Nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau,
khi xảy ra tranh chấp, việc giải quyết tranh chấp một cách thấu tình đạt lý nhưng
vẫn đảm bảo uy tín kinh doanh, không làm ảnh hưởng đến quan hệ “bạn hàng” là
điều mà các bên đều mong muốn. Chính vì vậy, trong nguyên tắc tôn trọng quyền tự
định đoạt của đương sự, quyền khởi kiện có thể coi là quan trọng nhất. Bởi lẽ, theo
quy định thì Tòa án chỉ thụ lý, giải quyết các tranh chấp này nếu có đơn khởi kiện,
đơn yêu cầu của các đương sự; nếu đương sự không khởi kiện ra tòa thì tòa án

không có thẩm quyền giải quyết. Có thể thấy rằng, việc tranh chấp có được đưa ra
tòa án giải quyết hay không là sự lựa chọn của các chủ thể. Trên thực tế, khi phát
sinh các tranh chấp trong hoạt động kinh doanh, thì các bên sẽ cố gắng tự giải quyết
vì như vậy sẽ tiết kiệm được khá nhiều thời gian và chi phí, đặc biệt là không ảnh
hưởng đến quan hệ làm ăn cũng như uy tín của họ được bảo đảm; việc nhờ đến cơ
quan luật pháp là sự lựa chọn cuối cùng nếu các bên không thống nhất được với
nhau.
Thứ hai, nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật
Các chủ thể khi tham gia quan hệ sản xuất kinh doanh đều được pháp luật
thừa nhận quyền bình đẳng. Bình đẳng trong kinh doanh nghĩa là mọi cá nhân, tổ
chức khi tham gia vào các quan hệ kinh tế, từ việc lựa chọn ngành nghề, địa điểm
kinh doanh, lựa chọn hình thức kinh doanh cho đến việc thực hiện quyền và nghĩa
vụ trong quá trình sản xuất kinh doanh đều bình đẳng theo quy định của pháp luật.
Quyền bình đẳng không chỉ thể hiện khi các bên tham gia vào quan hệ kinh doanh
15


mà còn thể hiện khi họ tham gia vào quan hệ tố tụng tại tòa án. Tòa án có trách
nhiệm tạo điều kiện cho các đương sự thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình
trong quá trình tố tụng (Điều 8 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015).
Có thể nói nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật có ý nghĩa quan trọng vì
nó không chỉ thể hiện sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế mà còn góp phần
thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Khi có tranh chấp xảy ra thì trước tòa án sẽ không
phân biệt các bên thuộc loại hình doanh nghiệp nào, thuộc thành phần kinh tế gì;
các bên đều có quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật tố tụng. Với nguyên
tắc này, các tổ chức, các nhân sẽ yên tâm và mạnh dạn hơn trong đầu tư, sản xuất
kinh doanh; từ đó khuyến khích, tạo động lực thúc đẩy hoạt động của các doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế; góp phần không nhỏ tạo sự tăng trưởng kinh
tế - xã hội10.
Thứ ba, nguyên tắc Tòa án không tiến hành điều tra mà chỉ xác minh thu

thập chứng cứ
Chứng minh và chứng cứ là yếu tố cốt lõi của pháp luật tố tụng; mọi hoạt
động tố tụng đều tập trung làm rõ những vấn đề cần phải chứng minh bằng việc thu
thập và đánh giá chứng cứ. Về bản chất, chứng cứ là những thông tin, tài liệu hay
những gì có thật được cơ quan thu thập, kiểm tra và đánh giá theo quy định của
pháp luật nhằm phục vụ cho việc giải quyết đúng đắn các vụ án, tranh chấp. Nếu
trong Tố tụng hình sự, khi có tội phạm xảy ra, việc thu thập chứng cứ thuộc thẩm
quyền của cơ quan điều tra hoặc các cơ quan, đơn vị khác có liên quan theo quy
định của pháp luật; thì trong Tố tụng dân sự nói chung và trong Tố tụng án kinh
doanh, thương mại nói riêng thì khi cần khởi kiện ra Tòa để giải quyết tranh chấp,
các đương sự phải tự mình thu thập và cung cấp chứng cứ, chuyển giao chứng cứ,
tài liệu cho Tòa kinh tế. Các đương sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho
Tòa án và chứng mình cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp (Điều 6 Bộ
luật Tố tụng dân sự 2015). Ngoài ra, các cá nhân, tổ chức khởi kiện, yêu cầu bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho người khác thì cũng có quyền, nghĩa vụ cung cấp
chứng cứ và chứng minh như đương sự. Quyền và nghĩa vụ chứng minh, cung cấp
chứng cứ của đương sự được pháp luật quy định cụ thể và rõ ràng trong Bộ luật dân
sự 2015. Trong trường hợp đương sự không cung cấp được chứng cứ hoặc không
đưa ra đầy đủ chứng cứ thì đương sự phải chịu hậu quả về việc không chứng minh
10

Tham khảo tại:
/>
16


được hoặc chứng minh không đầy đủ. Cụ thể, khi giải quyết các vụ án kinh doanh,
thương mại, Tòa án chủ yếu chỉ căn cứ vào những chứng cứ mà đương sự đưa ra;
Tòa sẽ nghe các bên trình bày và xác minh chứng cứ; các bên có quyền và nghĩa vụ
trình bày những gì mà họ cho là đúng và cần thiết. Nếu các chứng cứ cung cấp chưa

đầy đủ hoặc chưa chính xác, thì Tòa án sẽ yêu cầu đương sự thu thập thêm chứng
cứ hoặc xác minh sự chính xác đó. Tòa án không nhất thiết phải thu thập thêm
chứng cứ mà chỉ tiến hành thu thập, xác minh chứng cứ khi thấy cần thiết để làm rõ
thêm yêu cầu của các bên, bảo đảm cho việc giải quyết vụ án được chính xác. Như
vậy, để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi xảy ra tranh chấp, các
đương sự cần tự mình thu thập đầy đủ các chứng cứ để xác nhận và chứng minh cho
yêu cầu của mình, phản đối yêu cầu của người khác là có căn cứ hợp pháp11.
Thứ tư, nguyên tắc hòa giải
Vấn đề xảy ra tranh chấp là điều không mong muốn của các cá nhân, tổ
chức tham gia kinh doanh. Việc kiện nhau ra tòa do không giải quyết được các mâu
thuẫn, xung đột một cách ổn thỏa sẽ không đem lại sự thuận lợi cho quá trình hoạt
động, kinh doanh của các bên, ảnh hưởng đến sự phát triển lành mạnh của nền kinh
tế - xã hội. Tranh chấp gây ra sự căng thẳng, mất đoàn kết, làm giảm uy tín của các
chủ thể trong môi trường kinh doanh. Chính vì vậy, nguyên tắc hòa giải theo quy
định của pháp luật nước ta là một nguyên tắc quan trọng của pháp luật tố tụng, xuất
phát từ quyền tự định đoạt của đương sự và trách nhiệm của Tòa án trong việc bảo
vệ quyền lợi của công dân; giúp các bên giải quyết mâu thuẫn một cách ổn thỏa;
góp phần hạn chế thiệt hại không đáng có do hậu quả của các tranh chấp gây ra.
Hòa giải là sự thỏa thuận của các đương sự trong việc giải quyết vụ án. Việc các
đương sự thỏa thuận giải quyết tranh chấp trong mọi giai đoạn tố tụng luôn được
nhà nước khuyến khích; bởi vì, khi các đương sự thỏa thuận với nhau về giải quyết
vụ án không chỉ có nội dung tranh chấp mà mâu thuẫn của các đương sự cũng được
giải quyết triệt để, nhanh chóng, tiết kiệm nhất và thường nhà nước không phải sử
dụng sức mạnh cưỡng chế để thi hành thỏa thuận đó. Hòa giải là quyền tố tụng của
đương sự và chỉ có đương sự mới có quyền hòa giải vì đương sự là chủ thể của quan
hệ pháp luật nội dung nên có quyền tự mình quyết định những vấn đề của vụ tranh
chấp. Do đặc điểm của tranh chấp kinh doanh, thương mại là phản ánh về vấn đề lợi
ích kinh tế của chủ thể kinh doanh nên hòa giải là biện pháp được ưu tiên áp dụng
11


Tham khảo tại:
/>
17


trước khi các bên tranh chấp phải nhờ tới cơ quan có thẩm quyền tài phán. Đây là
nguyên tắc được xây dựng trước tiên do yêu cầu của chính đơn vị kinh doanh. Theo
nguyên tắc này, khi có tranh chấp kinh doanh, thương mại xảy ra, trước hết các bên
tự tiến hành hòa giải với nhau. Khi không tự hòa giải được, các bên mới yêu cầu cơ
quan tòa án can thiệp. Nhưng khi đã yêu cầu cơ quan tòa án can thiệp, các đương sự
vẫn có thể tiến hành hòa giải dưới sự hướng dẫn, công nhận của tòa án.
Thứ năm, nguyên tắc giải quyết vụ án nhanh chóng, kịp thời
Xuất phát từ nhu cầu kinh doanh, việc giải quyết tranh chấp không những
phải đảm bảo đúng pháp luật mà còn phải nhanh chóng, dứt điểm, tránh dây dưa,
kéo dài. Hoạt động kinh doanh, thương mại là một quá trình diễn ra liên tục với mục
đích sinh lời của người tham gia kinh doanh. Đối với các chủ thể kinh doanh, dường
như yếu tố thời gian có ý nghĩa quan trọng hàng đầu trong công việc của họ; sự linh
hoạt và năng động của môi trường kinh doanh không cho phép họ lãng phí thời
gian. Nhưng khi những tranh chấp ngoài ý muốn phát sinh thì việc bỏ thời gian để
giải quyết chúng để bảo vệ lợi ích của mình là điều đương nhiên. Do đó, việc giải
quyết các vụ án một cách đúng đắn, nhanh chóng, kịp thời là mối quan tâm của hầu
hết những người tham gia kinh doanh, đặc biệt là các đương sự trong các vụ tranh
chấp kinh doanh, thương mại. Nguyên tắc giải quyết vụ án nhanh chóng, kịp thời
được thể hiện trong một số quy định của pháp luật. Chẳng hạn, trong tố tụng kinh
doanh, thương mại quy định thời gian tố tụng ngắn hơn so với các tố tụng dân sự
khác; các quy định rút ngắn thời hiệu, thời hạn; trong quá trình giải quyết vụ án, tòa
không cần thực hiện việc chứng minh và thu thập chứng cứ; hạn chế việc giao vụ án
cho tòa cấp dưới xét xử lại; hạn chế thấp nhất việc quay vòng vụ án để xét xử lại
nhiều lần… Việc quy định như vậy nhằm rút ngắn thời gian cho việc giải quyết các
tranh chấp, bảo vệ quyền lợi chính đáng cho các chủ thể, phù hợp với tính chất của

hoạt động kinh doanh.
Thứ sáu, nguyên tắc xét xử công khai
Công khai là thuộc tính quan trọng của xã hội dân chủ. Trong xã hội dân
chủ, công khai được coi là tư tưởng xuyên suốt quá trình tổ chức và vận hành bộ
máy nhà nước. Tuy nhiên, không phải vụ án nào đưa xét xử công khai cũng đều
đem lại những tác động tích cực, đặc biệt là trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Theo đó, tại khoản 2 Điều 15 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định “Trường hợp
đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, giữ gìn thuần phong mỹ tục của dân tộc, bảo vệ
18


người chưa thành niên hoặc giữ bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật cá
nhân, bí mật gia đình của đương sự theo yêu cầu chính đáng của họ thì tòa án có
thể xét xử kín”. Trong kinh doanh, thương mại, bí mật kinh doanh có thể là những
phát minh, sáng chế,… có ảnh hưởng đáng kể đến hiệu quả hoạt động kinh doanh
của các chủ thể. Những bí mật kinh doanh của doanh nghiệp là những điều không
thể tiết lộ, không thể chia sẻ cho tất cả các doanh nghiệp khác biết; nếu không sẽ
ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động kinh doanh của chính doanh nghiệp, thậm
chí là doanh nghiệp bị phá sản. Do đó, các cá nhân, tổ chức có thể yêu cầu tòa án
xét xử kín để cho các bí mật kinh doanh được đảm bảo12.
1.2 Thẩm quyền của tòa án trong việc giải quyết tranh chấp kinh
doanh, thương mại
1.2.1 Khái quát về thẩm quyền của tòa án trong hệ thống pháp luật
Thẩm quyền là quyền xem xét để kết luận và định đoạt một vấn đề theo
pháp luật. Về mặt pháp lý, thẩm quyền là một quyền năng thi hành trao cho một cơ
quan được thiết lập chính thức bởi pháp luật hay một lãnh đạo chính trị để giải
quyết và đưa ra những tuyên bố về những vấn đề pháp lý và để đảm bảo pháp lý
trong một phạm vi cụ thể13.
Trong khoa học pháp lý, thẩm quyền được hiểu là tổng hợp các quyền và
nghĩa vụ hành động, quyết định của các cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống bộ máy

nhà nước do pháp luật quy định; là toàn bộ những quyền do pháp luật quy định,
theo đó tòa án được tiến hành xem xét, giải quyết những vụ việc cụ thể theo quy
định của pháp luật.
Thẩm quyền của tòa án được quy định trong Hiến pháp 2013, Luật tổ chức
Tòa án Nhân dân 2014 và các văn bản pháp luật khác. Theo quy định của các văn
bản pháp luật nêu trên thì tòa án là cơ quan xét xử duy nhất của nước Cộng Hòa Xã
Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, chức năng xét xử của tòa án là chức năng cơ bản và quan
trọng nhất, nó bao trùm và xuyên suốt quá trình hoạt động của tòa án. Điều 102
Hiến pháp 2013 quy định “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”, “Tòa án nhân dân gồm Tòa
12

Tham khảo tại:
/>13
Viện khoa học xét xử - Tòa án nhân dân tối cao (2004), Luật mẫu thương mại điện tử UNCITRAL, Thông
tin khoa học xét xử 2+3/2004

19


án nhân dân tối cao và Tòa án khác do Luật định”; Khoản 2 Điều 2 Luật Tổ chức
Tòa án Nhân dân 2014 quy định “Tòa án nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh,
thương mại, lao động hành chính và giải quyết các việc khác theo quy định của
pháp luật; xem xét đầy đủ, khách quan, toàn diện các tài liệu, chứng cứ đã được thu
thập trong quá trình tố tụng; căn cứ vào kết quả tranh tụng ra bản án, quyết định
việc có tội hoặc không có tội, áp dụng hoặc không áp dụng hình phạt, biện pháp tư
pháp, quyết định về quyền và nghĩa vụ về tài sản, quyền nhân thân”. Qua đó, thẩm
quyền của Tòa án trong hệ thống pháp luật được hiểu với những cấp độ và nội dung
khác nhau. Cụ thể:

Thẩm quyền của tòa án là phạm vi quyền hạn của tòa án trong việc thực
hiện pháp luật. Theo đó tùy thuộc vào quyền hạn do luật định, tòa án các cấp, các
tòa án khác nhau trong hệ thống tòa án, có phạm vi quyền hạn khác nhau trong việc
xét xử các loại vụ án. Sự phân công này nhằm đảm bảo tính chuyên môn, chuyên
nghiệp hóa; phân định lĩnh vực hoạt động của các cơ quan nhà nước14.
Tòa án Nhân dân với chức năng là cơ quan xét xử, có trách nhiệm giải
quyết các xung đột trong đời sống xã hội xâm phạm đến lợi ích nhà nước, công dân
được quy định trong pháp luật. Tòa án không thực hiện chức năng điều hành quản
lý nhà nước như các cơ quan hành chính hoặc chuyên môn khác thuộc hệ thống cơ
quan nhà nước. Từ những phân tích trên, theo tác giả thẩm quyền của tòa án là
phạm vi giới hạn hoạt động của tòa án và quyền năng pháp lý của tòa án có mối liên
quan chặt chẽ với nhau bao gồm thẩm quyền xét xử, phạm vi - giới hạn xét xử và
quyền hạn quyết định của tòa án.
Việc xác định thẩm quyền của tòa án có ý nghĩa hết sức quan trọng mà có
thể kể đến là tránh được sự chồng chéo nhiệm vụ, tạo điều kiện cho tòa án giải
quyết nhanh và đúng đắn các vụ tranh chấp; Tránh tình trạng giải quyết không đúng
thẩm quyền hoặc đùn đẩy trách nhiệm giữa các tòa án; Xác định những điều kiện
chuyên môn, nghiệp vụ cần thiết của đội ngũ cán bộ.

14

Tham khảo tại: />
20


×