Tải bản đầy đủ (.docx) (85 trang)

THỰC TRẠNG đái THÁO ĐƯỜNG và rối LOẠN DUNG nạp GLUCOSE máu ở đối TƯỢNG 30 69 TUỔI có yếu tố NGUY cơ tại xã tân THÀNH HUYỆN KIM sơn TỈNH NINH BÌNH năm 2019

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (365.46 KB, 85 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

BỘ Y TẾ

NGUYỄN THỊ LIÊN

THỰC TRẠNG ĐÁI THÁO ĐƯỜNG VÀ RỐI LOẠN
DUNG NẠP GLUCOSE MÁU Ở ĐỐI TƯỢNG 30-69 TUỔI
CÓ YẾU TỐ NGUY CƠ TẠI XÃ TÂN THÀNH
HUYỆN KIM SƠN TỈNH NINH BÌNH NĂM 2019

LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC

HÀ NỘI - 2019


2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

BỘ Y TẾ

NGUYỄN THỊ LIÊN

THỰC TRẠNG ĐÁI THÁO ĐƯỜNG VÀ RỐI LOẠN
DUNG NẠP GLUCOSE MÁU Ở ĐỐI TƯỢNG 30-69 TUỔI
CÓ YẾU TỐ NGUY CƠ TẠI XÃ TÂN THÀNH


HUYỆN KIM SƠN TỈNH NINH BÌNH NĂM 2019
Chuyên ngành : Y học dự phòng
Mã số
: 8720163

LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS Chu Văn Thăng

HÀ NỘI - 2019


3

LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu Trường Đại học Y Hà Nội,
Ban lãnh đạo Viện Đào tạo Y học dự phòng và Y tế công cộng, Phòng Quản lý
đào tạo sau đại học Trường Đại học Y Hà Nội, đặc biệt là các thầy cô trong
Bộ môn Sức khỏe môi trường đã tạo điều kiện thuận lợi, động viên giúp đỡ để
em có thể hoàn thành khóa luận này.
Em vô cùng biết ơn sâu sắc Ban lãnh đạo Trung tâm Kiểm soát bệnh tật
tỉnh Ninh Bình đã tạo điều kiện cho em được học tập nâng cao trình độ
chuyên môn, rèn luyện đức luyện tài chuẩn bị cho hành trang trong tương lai.
Với tất cả sự kính trọng và biết ơn sâu sắc nhất tới PGS.TS Chu Văn
Thăng, người thầy kính mến đã trực tiếp hướng dẫn em hoàn thành luận văn
tốt nghiệp thạc sĩ này.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn với các thầy/cô trong Viện Đào tạo Y học dự
phòng và Y tế công cộng. Em xin cảm ơn Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh
Ninh Bình, Trung tâm Y tế huyện Kim Sơn, Trạm Y tế xã Tân Thành, tỉnh

Ninh Bình đã tạo điều kiện thuận lợi cho em trong quá trình thu thập số liệu
và thực hiện luận văn này.
Hà Nội, ngày
tháng
Học viên

năm 2019

Nguyễn Thị Liên


4

LỜI CAM ĐOAN
Tôi là Nguyễn Thị Liên, học viên cao học khóa 27 Trường Đại học Y
Hà Nội, chuyên ngành Y học dự phòng, xin cam đoan:
1. Đây là luận văn do bản thân tôi trực tiếp thực hiện dưới sự hướng dẫn

của Thầy Chu Văn Thăng.
2. Công trình này không trùng lặp với bất kỳ nghiên cứu nào khác đã

được công bố tại Việt Nam.
3. Các số liệu và thông tin trong nghiên cứu là hoàn toàn chính xác, trung

thực và khách quan, đã được xác nhận và chấp thuận của cơ sở nơi
nghiên cứu.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về những cam kết này.
Hà Nội, ngày

tháng


năm 2019

Người viết cam đoan
(Ký và ghi rõ họ tên)

Nguyễn Thị Liên


5

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BMI

: Body Mass Index (Chỉ số khối cơ thể)

BYT

: Bộ Y tế

CDC

: Centers for Disease Control and Prevention
(Trung tâm kiểm soát dịch bệnh Hoa Kỳ)

ĐTĐ

: Đái tháo đường

ĐTNC


: Đối tượng nghiên cứu

HA

: Huyết áp

HATT

: Huyết áp tâm thu

HATTr

: Huyết áp tâm trương

IDF

: International Diabetes Federation
(Liên đoàn Đái tháo đường quốc tế)

IFG

: Impaired Fasting Glycaemia: Rối loạn Glucose máu lúc đói

IGT

: Impaired Glucose Tolarance: Rối loạn dung nạp Glucose máu

JNC


: Join National Commite of United - State
(Ủy ban phòng chống huyết áp Hoa Kỳ)

KAP

: Kiến thức, thái độ, thực hành

RLCHL

: Rối loạn chuyển hóa Lipid

RLDNG

: Rối loạn dung nạp Glucose

TĐTĐ

: Tiền đái tháo đường

THA

: Tăng huyết áp

VB

: Vòng bụng

VM

: Vòng mông


WHO

: World Health Organization (Tổ chức y tế thế giới)

WHR

: Waist Hip (Chỉ số eo/mông)

YTNC

: Yếu tố nguy cơ


6

MỤC LỤC

LỜI CẢM ƠN
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ


7

DANH MỤC BẢNG


8


DANH MỤC BIỂU ĐỒ


9

ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh Đái tháo đường (ĐTĐ) là một trong những bệnh không lây phổ
biến nhất hiện nay trên toàn cầu. Theo thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới
(WHO), bệnh ĐTĐ typ 2 chiếm 85-95% tổng số người mắc bệnh ĐTĐ. Dự
kiến đến năm 2025 thế giới sẽ có khoảng 300-330 triệu người mắc bệnh ĐTĐ
chiếm tỷ lệ 5,4% dân số toàn cầu nhưng điều đáng quan tâm là bệnh sẽ tăng
nhanh ở khu vực các quốc gia ghèo - các nước đang phát triển. Theo dự báo tỷ
lệ bệnh ĐTĐ sẽ tăng 48%, số người mắc bệnh sẽ tăng 170% ở các nước đang
phát triển trong khi các nước phát triển trong khi ở các nước phát triển tỷ lệ
bệnh tăng 27%, số người ĐTĐ tăng 42%. Ở Mỹ, theo thông báo của CDC
(Trung tâm kiểm soát bệnh tật Hoa Kỳ), trong hai năm (2003-2005) tỷ lệ bệnh
ĐTĐ tăng 14%, số người mắc bệnh từ 18,2 triệu người lên 20,8 triệu người.
Bệnh ĐTĐ đã trở thành nguyên nhân hàng đầu gây tử vong ở Mỹ [1].
Việt Nam không xếp vào 10 nước có tỷ lệ mắc đái tháo đường cao
nhưng lại là quốc gia có tốc độ phát triển bệnh nhanh. Một nghiên cứu của
Bệnh viện Nội tiết Trung ương vào cuối tháng 10 - 2008 cho thấy, tỷ lệ mắc đái
tháo đường ở Việt Nam tăng nhanh từ 2,7% (năm 2001) lên 5% (năm 2008),
trong đó có tới 65% người bệnh không biết mình mắc bệnh [2]. Theo số liệu
của IDF (Liên đoàn đái tháo đường quốc tế), năm 2015 Việt Nam có 3,5 triệu
người mắc ĐTĐ trong độ tuổi 20 - 79, sự gia tăng này cho thấy sự bùng nổ của
bệnh ĐTĐ đã trở thành gánh nặng cho chăm sóc y tế , làm tổn hại đến thành
tựu phát triển kinh tế xã hội.
Rối loạn Glucose huyết lúc đói (IFG: Impaired Fasting Glycaemia ) và
rối loạn dung nạp glucose (IGT: Impaired Glucose Tolarance) là tiền đề của

bệnh ĐTĐ và bệnh tim mạch trong tương lai gần. IGT hiện nay được coi như
là “tiền đái tháo đường” [3]. Số người có IGT trên toàn cầu cao hơn nhiều so


10
với người ĐTĐ và thường được ví như phần chìm của tảng băng, vì vậy phát
hiện những người IGT là vấn đề quan trọng cần ưu tiên trong quản lý sức
khỏe cộng đồng hiện nay.
Việt Nam là một đất nước đang trong thời kì đô thị hóa và phát triển
kinh tế mạnh mẽ theo hướng công nghiệp hóa do vậy các thói quen sống thay
đổi theo, gia tăng các thức ăn sẵn, đồ ăn nhanh, hậu quả dẫn đến gia tăng các
bệnh không lây nhiễm như thừa cân béo phì, đái tháo đường, rối loạn chuyển
hóa...Nghiên cứu của Viện nội tiết Trung Ương cho thấy tỷ lệ ĐTĐ tại nội
thành của 4 thành phố lớn tại Việt Nam là 4,9% [4], năm 2014 tỷ lệ ĐTĐ là
5,7%. Bệnh nhân thường phát hiện bệnh ĐTĐ khi đã có biến chứng là phổ
biến. Tình trạng bệnh tật và chi phí y tế là một gánh nặng đáng kể làm nghèo
hóa một tỷ lệ nhất định các hộ gia đình.
Cùng với tỷ lệ bệnh ĐTĐ được phát hiện, tỷ lệ bệnh nhân ĐTĐ chưa
được phát hiện đặc biệt tỷ lệ rối loạn dung nạp Glucose máu (tiền ĐTĐ) rất
lớn điều này được thể hiện rõ ở nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước. Tỷ lệ
ĐTĐ và rối loạn dung nạp Glucose đều ra tăng cùng với tuổi, thói quen sinh
hoạt ít vận động, chế độ ăn nhiều chất béo đặc biệt là chất béo bão hòa...Bên
cạnh đó những vấn đề này chưa được quan tâm đúng mức thể hiện ở những
bệnh nhân ĐTĐ đến khám khi đã có nhiều biến chứng và biến chứng nặng nề
gây khó khăn cho việc điều trị và chi phí.
Vấn đề tìm hiểu các đặc điểm dịch tễ học, các yếu tố nguy cơ của bệnh
đái tháo đường nhằm hạn chế sự gia tăng tỷ lệ mắc mới của bệnh, ngăn ngừa
các biến chứng, giảm tỷ lệ chết, giảm gánh nặng về kinh tế cho cá nhân, gia
đình người bệnh và cho toàn xã hội là vấn đề có tính cấp thiết trên phạm vi
toàn cầu cũng như ở mỗi quốc gia.



11
Huyện Kim Sơn là một trong những huyện của Ninh Bình có tốc độ
phát triển nhanh do đó tỷ lệ mắc các bệnh không lây nhiễm nói chung và bệnh
đái tháo đường nói riêng cũng ngày càng tăng. Để đánh giá tình hình mắc
bệnh nhằm huy động sự tham gia tích cực của cộng đồng vào công tác phòng
chống ĐTĐ chúng tôi tiến hành nghiên cứu “Thực trạng đái tháo đường và
rối loạn dung nạp Glucose máu ở người dân từ 30-69 tuổi có yếu tố nguy
cơ tại xã Tân Thành huyện Kim Sơn tỉnh Ninh Bình năm 2019”.
Với mục tiêu sau:
1. Xác định tỷ lệ Đái tháo đường và rối loạn dung nạp glucose máu ở
người dân từ 30-69 tuổi có yếu tố nguy cơ tại xã Tân Thành huyện
Kim Sơn tỉnh Ninh Bình năm 2019.
2. Mô tả một số yếu tố liên quan đến đái tháo đường và rối loạn dung
nạp Glucose máu ở người dân từ 30-69 tuổi có yếu tố nguy cơ tại
xã Tân Thành huyện Kim Sơn tỉnh Ninh Bình năm 2019.


12

Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. Khái niệm về đái tháo đường
1.1.1. Định nghĩa và dịch tễ học
- Định nghĩa
Theo Tổ chức Y tế Thế giới, “Đái tháo đường là một hội chứng có đặc
tính biểu hiện bằng sự tăng đường máu do hậu quả của việc mất hoàn toàn
insulin hoặc là do có liên quan đến sự suy yếu trong bài tiết hoặc hoạt động
của insulin" [2].

Tháng 1/2003, các chuyên gia thuộc Uỷ ban chẩn đoán và phân loại
bệnh đái tháo đường Hoa Kỳ, lại đưa ra một một định nghĩa mới về đái tháo
đường: “Đái tháo đường là một nhóm các bệnh chuyển hoá có đặc điểm là
tăng glucose máu, hậu quả của sự thiếu hụt bài tiết insulin; khiếm khuyết
trong hoạt động của insulin hoặc cả hai. Tăng glucose máu mạn tính thường
kết hợp với sự hủy hoại, sự rối loạn chức năng của nhiều cơ quan đặc biệt là
mắt, thận, thần kinh, tim và mạch máu” [5].
Theo Liên đoàn Đái tháo đường quốc tế (IDF) năm 2010, định nghĩa:
“Đái tháo đường là nhóm những rối loạn không đồng nhất gồm tăng đường
huyết và rối loạn dung nạp glucose do thiếu Insulin, do giảm tác dụng của
insulin hoặc cả hai”. Đái tháo đường typ 2 đặc trưng bởi kháng insulin và
thiếu tương đối insulin, một trong hai rối loạn này có thể xuất hiện ở thời
điểm có triệu chứng lâm sàng bệnh.
“Tiền đái tháo đường (TĐTĐ) là tình trạng suy giảm chuyển hóa glucose
bao gồm 2 tình huống là rối loạn Glucose lúc đói và giảm dung nạp glucose”.


13
- Dịch tễ học
+ Trên thế giới
Trong những năm gần đây, tỷ lệ ĐTĐ gia tăng mạnh trên toàn cầu,
WHO đã lên tiếng báo động về mối lo ngại này trên toàn thế giới.
Theo công bố của WHO năm 1985 có 30 triệu người trên thế giới bị
ĐTĐ thì năm 1994 là 89,9 triệu người. Theo ước tính của viện nghiên cứu
ĐTĐ quốc tế vào năm 2000 thế giới có khoảng 157,3 triệu người và năm
2010 có 215,6 triệu người bị ĐTĐ [6].
Tại Singapore tỷ lệ mắc bệnh ĐTĐ rất cao, năm 1992 là 8,6% đến năm
1998 tăng lên 9%. Năm 1999 bệnh ĐTĐ là nguyên nhân gây chết người đứng
thứ 6 và chiếm 2,2% trong tổng số tử vong ở Singapore [6].
Theo công bố của WHO năm 2000 ở vùng Trung Đông có 22 triệu

người bị ĐTĐ sẽ lên 53 triệu người năm 2025 tỷ lệ mắc ĐTĐ sẽ tăng khoảng
30% từ 6,3% lên 8,2% [7].
Bệnh có xu hướng tăng rõ rệt theo thời gian và theo sự tăng trưởng kinh
tế. Ở các nước công nghiệp phát triển ĐTĐ typ 2 chiếm 70-90% tổng số bệnh
nhân ĐTĐ, tuy nhiên có sự khác nhau về tỷ lệ mắc bệnh giữa các vùng lãnh
thổ [5].
Năm 2000 Ấn Độ, Trung Quốc và Mỹ là các quốc gia có số người mắc
bệnh cao nhất trên thế giới và dự đoán đến năm 2030 hầu như các quốc gia có số
người mắc bệnh ĐTĐ tăng gấp đôi, đặc biệt Philipines sẽ là quốc gia có số người
mắc bệnh đứng thứ 9 trong 10 quốc gia có số người mắc bệnh cao nhất [8].
Tại Mỹ, sự phổ biến của bệnh ĐTĐ ở lứa tuổi từ 20 trở lên với tổng số
người được chẩn đoán và không được chẩn đoán ước tính khoảng 12,9% và
nó tiếp tục gia tăng với mức độ báo động. Sự gia tăng này song hành cùng sự
gia tăng tỷ lệ béo phì. Tỷ lệ mắc ĐTĐ typ 2 đã lên đến 95% các trường hợp
bệnh ĐTĐ và thường kèm theo tăng huyết áp và rối loạn lipid máu [9].


14
+ Tại Việt Nam
Việt Nam chưa có nhiều nghiên cứu thống kê tỷ lệ ĐTĐ toàn quốc mà
chỉ tiến hành điều tra ở một số thành phố lớn. Ước tính có khoảng 1 triệu
người mắc bệnh, thành thị khoảng 4%, nông thôn khoảng ≤ 1%. Riêng nội
thành Hà Nội cókhoảng 50 nghìn người mắc bệnh. Cứ 10 người mắc bệnh chỉ
có khoảng 4 người biết và đi khám bệnh [4].
Một nghiên cứu được tiến hành trên 2394 đối tượng từ 30 - 64 tuổi
đang sinh sống tại 4 thành phố lớn là Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng và Thành
phố Hồ Chí Minh thấy rằng tỷ lệ mắc đái tháo đường là 4,6% - 4,9% [4]. Đa
số bệnh nhân đái tháo đường không được chẩn đoán và điều trị.
Năm 2004, Tạ Văn Bình và cộng sự tiến hành nghiên cứu bệnh đái tháo
đường tại Cao Bằng. Nghiên cứu được tiến hành trên 1.200 đối tượng ở độ

tuổi 30-64, kết quả cho thấy tỷ lệ mắc bệnh qua sàng lọc là 6,8% [10]. Cũng
trong năm đó Trần Thị Mai Hà nghiên cứu tại Yên Bái, Hoàng Kim Ước
nghiên cứu tại Phú Thọ, Sơn La kết luận đái tháo đường là bệnh gặp chủ yếu
ở người có thu nhập cao, có đời sống vật chất và địa vị trong xã hội. Đó là
một thách thức lớn ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế xã hội và sức khoẻ
cộng đồng.
Nghiên cứu của Lê Cảnh Chiến tại Tuyên Quang; Hoàng Thị Đợi,
Nguyễn Kim Lương tại Thái Nguyên cũng cho thấy tỷ lệ mắc bệnh ở nữ cao
hơn nam, ở nhóm ít hoạt động thể lực cao hơn nhóm hoạt động thể lực nhiều.
Kết quả cho thấy, trong tổng số 667 đối tượng thì tỷ lệ ĐTĐ là 3,59% [11].
Theo số liệu điều tra năm 2012 tỷ lệ mắc ĐTĐ toàn quốc 5,42%, Miền
núi phía Bắc, Đồng bằng Sông Hồng, Duyên hải miền trung, Tây Nguyên,
Đông Nam Bộ lần lượt là 4,82%, 5,81%, 6,37%, 3,82%, 5,95%. Theo báo cáo
năm 2015 của bệnh viện Nội tiết Trung ương năm 2014 có 5,7% số ĐTĐ
được phát hiện [12].


15
Nghiên cứu của Lê Quang Toàn, Tạ Văn Bình và cộng sự, nghiên cứu
theo dõi trong vòng 12 tháng với 662 bệnh nhân ĐTĐ typ 2 lần đầu đến khám
và điều trị tại Bệnh viện Nội tiết. Có 360 bệnh nhân (54,4%) mới được chẩn
đoán và 302 bệnh nhân (45,6%) đã được chẩn đoán và điều trị ở tuyến trước.
Kết quả cho thấy tỷ lệ các biến chứng vào thời điểm lần đầu đến khám : Biến
chứng thần kinh ngoại vi 58,1%, biến chứng thận 29%, biến chứng võng mạc
23,9%, đau thắt ngực 3,8%, nhồi máu cơ tim 0,2%, tai biến mạch máu não
1,4%, biến chứng bàn chân 0,91%. Các biến chứng này đã gặp ở bệnh nhân
mới được chẩn đoán ĐTĐ, tuy với tỷ lệ thấp hơn. Tỷ lệ mới mắc các biến
chứng ĐTĐ trong thời gian theo dõi 12 tháng: biến chứng võng mạc 11,9%,
biến chứng võng mạc tăng sinh 2,2%, biến chứng thận 6,3%, suy thận 0,6%,
biến chứng thần kinh ngoại vi 13,1%, đau thắt ngực 2,5%, nhồi máu cơ tim

0,3%, tai biến mạch máu não 0,75% và loét bàn chân 0,75%. Nhóm kiểm soát
glucose máu, huyết áp và lipid máu tốt hơn có tỷ lệ mới mắc các biến chứng
ĐTĐ thấp hơn so với nhóm được kiểm soát kém hơn. Các biến chứng của
ĐTĐ có tỷ lệ cao ở bệnh nhân lần đầu đến khám, kể cả bệnh nhân mới được
phát hiện. Các biến chứng của ĐTĐ tiếp tục xuất hiện trong thời gian theo dõi
điều trị với tỷ lệ khá cao mặc dù có cải thiện rõ rệt về glucose máu, huyết áp
và lipid. Tỷ lệ mắc mới các biến chứng ĐTĐ có liên quan với sự kiểm soát
glucose máu, huyết áp và lipid máu [13].
Đái tháo đường týp 1 phụ thuộc nhiều vào yếu tố gen và thường được
phát hiện trước 40 tuổi. Nhiều bệnh nhân, đặc biệt là trẻ em và trẻ vị thành
niên biểu hiện nhiễm toan ceton là triệu chứng đầu tiên của bệnh. Đa số các
trường hợp được chẩn đoán bệnh đái tháo đường týp 1 thường là người có thể
trạng gầy, tuy nhiên người béo cũng không loại trừ. Người bệnh đái tháo
đường týp 1 sẽ có đời sống phụ thuộc insulin hoàn toàn.


16
1.1.2. Phân loại
- Đái tháo đường týp 1
Đái tháo đường týp 1 chiếm tỷ lệ khoảng 5 - 10% tổng số bệnh nhân
đái tháo đường thế giới. Nguyên nhân do tế bào bê - ta bị phá hủy, gây nên sự
thiếu hụt insulin tuyệt đối cho cơ thể (nồng độ insulin giảm thấp hoặc mất
hoàn toàn). Các kháng nguyên bạch cầu người (HLA) chắc chắn có mối liên
quan chặt chẽ với sự phát triển của đái tháo đường týp 1 [1].
Có thể có các dưới nhóm:
+ Đái tháo đường qua trung gian miễn dịch.
+ Đái tháo đường týp 1 không rõ nguyên nhân.
- Đái tháo đường týp 2
Đái tháo đường týp 2 chiếm tỷ lệ khoảng 90% đái tháo đường trên thế
giới, thường gặp ở người trưởng thành trên 40 tuổi. Nguy cơ mắc bệnh tăng dần

theo tuổi. Tuy nhiên, do có sự thay đổi nhanh chóng về lối sống, về thói quen ăn
uống, đái tháo đường týp 2 ở lứa tuổi trẻ đang có xu hướng phát triển nhanh.
Đặc trưng của đái tháo đường týp 2 là kháng insulin đi kèm với thiếu
hụt tiết insulin tương đối. Đái tháo đường týp 2 thường được chẩn đoán rất
muộn vì giai đoạn đầu tăng glucose máu tiến triển âm thầm không có triệu
chứng. Khi có biểu hiện lâm sàng thường kèm theo các rối loạn khác về
chuyển hoá lipid, các biểu hiện bệnh lý về tim mạch, thần kinh, thận…, nhiều
khi các biến chứng này đã ở mức độ rất nặng.
Đặc điểm lớn nhất trong sinh lý bệnh của đái tháo đường týp 2 là có sự
tương tác giữa yếu tố gen và yếu tố môi trường trong cơ chế bệnh sinh. Người
mắc bệnh đái tháo đường týp 2 có thể điều trị bằng cách thay đổi thói quen, kết


17
hợp dùng thuốc để kiểm soát glucose máu, tuy nhiên nếu quá trình này thực hiện
không tốt thì bệnh nhân cũng sẽ phải điều trị bằng cách dùng insulin.
- Đái tháo đường thai nghén
Đái đường thai nghén thường gặp ở phụ nữ có thai, có glucose máu tăng,
gặp khi có thai lần đầu. Sự tiến triển của đái tháo đường thai nghén sau đẻ theo 3
khả năng: Bị đái tháo đường, giảm dung nạp glucose, bình thường [1].
- Các thể đái tháo đường đặc biệt (hiếm gặp)
+ Khiếm khuyết chức năng tế bào bê - ta: ĐTĐ khởi phát sớm ở người
trẻ thường dưới 25 tuổi do đột biến gen. Gồm các thể MODY 1, MODY 2,
MODY 3, MODY 4, và các khiếm khuyết khác.
+ Khiếm khuyết gen hoạt động của insulin: bất thường hoạt động của
insulin do đột biến thụ thể insulin. Gồm kháng insulin typ A, ĐTĐ teo tổ chức
mỡ, dạng khác.
+ Bệnh tụy ngoại tiết: Viêm tụy, chấn thương, carcinom tụy…
+ Các bệnh nội tiết: Hội chứng Cushing, cường năng tuyến giáp…
+ Thuốc hoặc hóa chất: hóa chất diệt chuột, pentamindin, nicotinic

acid, glucocorticoid…
+ Một số bệnh nhiễm trùng: nhiễm một số loại virus như coxsackie B,
cytomegakovirus, adenovirus…
- Rối loạn dung nạp glucose máu (IGT) và rối loạn glucose máu lúc
đói (IFG)
Rối loạn dung nạp glucose máu (impaired glucose tolerance - IGT) và
rối loạn glucose máu lúc đói (impaired fasing glycaemia - IFG) là những nguy
cơ cho phát triển ĐTĐ và các bệnh tim mạch sau này. Một người được xác
định IFG cũng có thể có IGT sau hai giờ hoặc ĐTĐ. Nếu một người có đặc
tính xác định cả hai IFG và IGT sẽ có khả năng tiến triển thành bệnh ĐTĐ


18
thực sự là rất cao. Theo Harris và cộng sự nghiên cứu vào năm 1989 ở Mỹ
cho thấy, tỷ lệ rối loạn dung nạp glucose gặp khá nhiều và tăng dần theo tuổi,
từ 6,4% ở lứa tuổi 20-44 tăng lên 41% ở lứa tuổi 65-74. Theo Saad và cộng
sự, rối loạn dung nạp glucose có nguy cơ phát triển thành bệnh ĐTĐ typ 2 cao
gấp 6,3 lần so với người bình thường. Cách dự phòng bệnh ĐTĐ ở những
người có rối loạn dung nạp glucose máu hiệu quả vẫn là điều chỉnh chế độ ăn,
sinh hoạt và tăng cường hoạt động thể lực.
Bảng 1.1. Tiêu chuẩn đoán ĐTĐ theo quyết định 3319-BYT [14]
Nồng độ Glucose máu
Chẩn đoán

Glucose lúc đói
Đái tháo đường

Tiền đái tháo
đường
Bình thường


mmol/l hoặc mg/dl
(máu mao mạch)
≥ 7,0 mmol/l

Hoặc 2 giờ sau test dung

( ≥ 126mg/dl)
≥ 11,1 mmol/l

nạp Glucose
Glucose lúc đói (IFG)
Hoặc 2 giờ sau test dung

(≥ 200 mg/dl)
5,6 - 6,9 mmol/l
≥7,8mmol/l (≥140mg/dl) và

nạp Glucose (IGT)
Glucose lúc đói

<11,1mmo/l (<200mg/dl)
< 7mmol/l

1.1.3. Biến chứng
Trong hầu hết các nước có thu nhập cao, bệnh ĐTĐ được xếp hạng
trong số các nguyên nhân hàng đầu gây tàn tật như mù lòa, suy thận và cắt cụt
chi dưới. Tại thời điểm chẩn đoán, người bệnh ĐTĐ typ 2 phần lớn đã có biến
chứng trong đó biến chứng võng mạc lên tới 35%, biến chứng thần kinh ngoại
vi 12%, protein niệu 2%. ĐTĐ cũng là một trong những nguyên nhân gây tử

vong hàng đầu chủ yếu do tăng đáng kể nguy cơ của bệnh mạch vành tim và
đột quỵ (bệnh tim mạch). Ngoài sự đau khổ phải chịu đựng bệnh tật, người
bệnh ĐTĐ có biến chứng và gia đình họ còn bị ảnh hưởng khá nhiều đến kinh


19
tế. Chi phí cho điều trị bệnh ĐTĐ đặc biệt là bệnh ĐTĐ có biến chứng là rất
lớn. Chi phí bao gồm chi phí trực tiếp cho điều trị, chi phí do mất thu nhập,
chi phí cho những người chăm sóc sức khỏe và chi phí kinh tế cho xã hội
trong việc giảm năng suất và liên quan đến mất cơ hội phát triển kinh tế.
1.2. Nguyên nhân và yếu tố nguy cơ
1.2.1. Nguyên nhân
- Đái tháo đường typ 1
Đái tháo đường typ 1 là do sự phá hủy tế bào Beta của tuyến tụy nên tụy
không sản xuất ra đủ lượng Insulin cần thiết cho cơ thể. ĐTĐ typ 1 là một bệnh
tự miễn dịch trong đó có vai trò của yếu tố di truyền (anh chị em sinh đôi cùng
trứng cả hai đều mắc bệnh chiếm 50%) và yếu tố môi trường. Do có những thay
đổi về di truyền trong hệ thống miễn dịch và yếu tố môi trường thuận lợi (nhiễm
virus, nhiễm độc,…) tế bào Bê-ta tụy trở thành đích phá hủy của hệ thống miễn
dịch trong đó miễn dịch tế bào Lympho T có vai trò quyết định, miễn dịch dịch
thể (kháng thể) có vai trò góp phần vào sự phá hủy tế bào [15].
- Đái tháo đường typ 2
+ Do rối loạn tiết Insulin: Bất thường về nhịp tiết và động học bài tiết,
về số lượng và chất lượng của Insulin. Ở người bình thường khi đường máu
tăng Insulin sẽ được bài tiết thành 2 pha rõ rệt: Pha sớm và pha muộn đủ để
kiểm soát nồng độ đường máu. Ở người bệnh RLDNG sẽ giảm phóng thích
Insulin ở pha đầu kèm theo đáp ứng Insulin trễ và kéo dài. Mất bài tiết pha
đầu của Insulin thực tế có thể làm đường máu sau ăn tăng lên. Việc không
kiểm soát được Glucose máu trong giai đoạn đầu thúc đẩy vòng luẩn quẩn do
độc tính của Glucose gây thêm sự bất thường về tác động, về bài tiết Insulin

dẫn đến ĐTĐ thực sự.
+ Kháng Insulin: Ở bệnh nhân ĐTĐ typ 2 Insulin không có khả năng
thực hiện được những tác động của mình như ở người bình thường.


20
. Kháng Insulin ở cơ: Bình thường Glucose từ máu vào tổ chức cơ thì
35% được tổng hợp thành Glycogen, 15% phân hủy thành Lactat, 50% được
oxy hóa, ở bệnh nhân ĐTĐ typ 2 hai quá trình tổng hợp Glycogen và oxy hóa
bị rối loạn chỉ còn quá trình phân hủy Glucose thành Lactat còn nguyên vẹn.
. Kháng Insulin ở gan: Có 2 yếu tố được đề cập đến là vai trò tăng
Glucagon và tăng hoạt tính men Phosphoenol pyruvat carboxy kinase (PEP-CK).
+ Vai trò của di truyền và môi trường:
. Đột biến gen: Chiếm 5 - 15% tổng số bệnh nhân đái tháo đường là đột
biến một gen, gen đột biến thường là gen trội. Một số đột biến khác gây lên một
số thể bệnh ĐTĐ typ 2 ở người trẻ. Đột biến gen chiếm 85 - 95% bệnh ĐTĐ typ
2. Kiểu hình thường gặp nhất là hội chứng X. Nhiều tác giả cho rằng gen kháng
Insulin cùng tồn tại với các gen khác như tăng huyết áp, tăng lipid máu.
Nếu đột biến một gen có thể không đủ gây bệnh ĐTĐ thì sự kết hợp
nhiều gen đột biến xảy ra là yếu tố thuận lợi làm xuất hiện bệnh ĐTĐ [16].
1.2.2. Yếu tố nguy cơ
Các yếu tố nguy cơ của đái tháo đường và rối loạn dung nạp Glucose
được chia thành 2 nhóm, nhóm có thể tác động, thay đổi được và nhóm không
thể tác động, thay đổi được.
* Nhóm nguy cơ có thể tác động, thay đổi được
- Thừa cân béo phì
Tổ chức Y tế thế giới (WHO) coi béo phì là đợt sóng đầu tiên của một
nhóm bệnh rối loạn chuyển hóa ở các nước đã và đang phát triển, người ta gọi
là hội chứng thế giới mới đang gây nên các gánh nặng về kinh tế - xã hội và
chăm sóc sức khỏe ở các nước nghèo [17].

Tại Anh, theo Ford và cộng sự (2002) thấy khoảng 25% dân số bị Hội
chứng chuyển hóa. Người ta ước lượng khoảng 314 triệu người trên thế giới
bị rối loạn chuyển hóa và 70% trong số họ có nguy cơ bị đái tháo đường typ


21
2. Tại Mỹ, ước tính có khoảng 300.000 người béo phì bị chết/năm, 61% người
Mỹ trưởng thành bị quá cân hoặc béo phì, theo một nghiên cứu cho thấy gần
30% thanh thiếu niên của nước Mỹ bị Hội chứng chuyển hóa.
Ở người béo phì, lượng mỡ phân phối ở bụng nhiều dẫn đến tỷ lệ vòng
bụng/ vòng mông tăng hơn bình thường. Béo bụng có liên quan chặt chẽ với
hiện tượng kháng Insulin do thiếu hụt sau thụ thể dẫn đến sự thiếu Insulin
tương đối do giảm số lượng thụ thể ở các mô ngoại vi (chủ yếu là mô cơ, mô
mỡ). Do tính kháng Insulin cộng với sự giảm tiết Insulin dẫn đến sự giảm tính
thấm của màng tế bào với glucose ở tổ chức cơ và mỡ, ức chế quá trình
phosphoryl hóa và oxy hóa glucose, làm chậm quá trình chuyển carbohydrat
thành mỡ, giảm tổng hợp glycogen ở gan, tăng tân tạo đường mới và bệnh đái
tháo đường xuất hiện.
Ở Việt Nam, kết quả nghiên cứu của Trần Đức Thọ và cộng sự cho thấy
những người có BMI > 25 có nguy cơ bị bệnh đái tháo đường typ 2 nhiều hơn
gấp 3,74 lần so với người bình thường.
Béo phì là một trong những nguy cơ có thể phòng tránh được của bệnh
đái tháo đường typ 2. Nghiên cứu của Frank và cộng sự từ năm 1980 đến năm
1986 được thực hiện trên 84941 phụ nữ không bị bệnh đái tháo đường tại thời
điểm bắt đầu nghiên cứu, kết quả cho thấy thừa cân và béo phì là nguy cơ số 1
của bệnh đái tháo đường typ 2.
BMI = cân nặng (kg)/chiều cao2(m)


22

Bảng 1.2. Bảng phân loại thể lực theo chỉ số khối cơ thể (BMI) áp dụng
cho người Châu Á - Thái Bình Dương (WHO,2000)
Xếp loại
Gầy
Bình thường
Thừa cân
Béo phì độ I
Béo phì độ II

Chỉ số khối cơ thể
<18,5
18,5 - 22,9
≥ 23 - 24,9
25 - 29,9
≥ 30

- Béo bụng
Theo tiêu chuẩn của WHO năm 2000 áp dụng cho khu vực Châu Á Thái Bình Dương: Béo bụng khi vòng bụng ≥ 90 cm ở nam và ≥ 80 cm ở nữ.
- Tăng huyết áp
+ Khái niệm: Theo Tổ chức y tế thế giới: Một người lớn được chẩn
đoán là tăng huyết áp khi huyết áp tối đa, huyết áp tâm thu (HATT) ≥ 140
mmHg và/ hoặc huyết áp tối thiểu, huyết áp tâm trương (HATTr) ≥ 90mmHg
hoặc đang điều trị thuốc hạ huyết áp hàng ngày hoặc có ít nhất 2 lần được bác
sỹ chẩn đoán là tăng huyết áp.
+ Sự kết hợp giữa tăng huyết áp và đái tháo đường làm tình trạng bệnh
trầm trọng hơn cho các bệnh nhân. Mối liên quan giữa tăng huyết áp và đái
tháo đường chưa hoàn toàn rõ ràng mặc dù được nghiên cứu rất nhiều, đôi khi
tăng huyết áp xuất hiện đơn độc là nguyên nhân gây ra một số các bệnh khác
nhưng có lúc tăng huyết áp là hậu quả của một số bệnh trong đó có đái tháo
đường. Tăng huyết áp xảy ra phổ biến hơn trên nhóm bệnh nhân đái tháo

đường và nó làm khó khăn cho việc kiểm soát đường máu và các biến chứng
khác. Khó tránh khỏi tăng huyết áp khi có bệnh cầu thận mà bệnh cầu thận là
một trong những biến chứng không tránh khỏi của đái tháo đường. Trong một
nghiện cứu của đa trung tâm của Anh có 40% nam và 53% nữ trong nhóm đái
tháo đường typ 2 có HA cao hơn 160/95 mmHg. Theo NormanKaplan trong


23
một nghiên cứu ở Đan Mạch có 51% đái tháo đường typ 1 và 80% đái tháo
đường typ 2 bị tăng huyết áp.
+ Bệnh căn của tăng huyết áp trong đái tháo đường vẫn còn chưa được
biết rõ có rất nhiều giả thiết được đưa ra, trong đó có giả thiết về nguồn gốc
thần kinh trung ương, kháng Insulin, các yếu tố liên quan đến độ nhớt của
máu và độ cứng thành mạch. Các tác giả cho rằng trong đái tháo đường typ 2
kháng Insulin có vai trò quan trọng làm tăng huyết áp Insulin làm tăng sự hấp
thu muối của thận, Insulin kích thích hệ thần kinh giao cảm từ đó làm tăng
cung lượng tim. Insulin là yếu tố tăng trưởng mạnh, tác động trực tiếp và gián
tiếp qua các yếu tố tăng trưởng khác làm tăng sinh các tế bào cơ trơn, dày
thành mạch tăng sức đề kháng.
Tiến triển của bệnh vi mạch và mạch máu lớn tăng lên trên bệnh nhân
đái tháo đường khi có cả tăng huyết áp, tăng tần suất bị Microalbumin niệu,
phì đại thất trái, bệnh mạch vành và suy tim.
Đái tháo đường và bệnh tim mạch: Theo Tạ Văn Bình (2002) nghiên
cứu ở bệnh nhận suy tim sung huyết: sau 3 năm, 30% phát triển thành đái tháo
đường typ 2, và cứ tăng 1% HbA1c thì yếu tố tim mạch tăng 10 - 30%. Kiểm
soát đường máu kém tỷ lệ bệnh tim mạch tăng cao [3].
- Thừa năng lượng đưa vào và mất cân đối khẩu phần dinh dưỡng
Nhiều nghiên cứu đã nhận thấy tỷ lệ bệnh đái tháo đường tăng cao ở
những người có chế độ ăn nhiều chất béo bão hòa, nhiều carbonhydrat tinh
chế, ngoài ra thiếu hụt các yếu tố vi lượng hoặc vitamin góp phần làm thúc

đẩy sự tiến triển bệnh ở người trẻ tuổi cũng như người cao tuổi. Ở người già
mắc bệnh đái tháo đường có sự tăng sản xuất gốc tự do, nếu bổ sung các chất
chống oxy hóa như vitamin C, E thì phần nào cải thiện được hoạt động của
Insulin và quá trình chuyển hóa.


24
Chế độ ăn nhiều chất xơ, ăn ngũ cốc ở dạng chưa tinh chế (khoai, củ)
ăn nhiều rau là giảm nguy cơ mắc bệnh đái tháo đường.
- Lối sống tĩnh, ít hoạt động thể lực
+ Stress
+ Lối sống phương tây hóa, thành thị hóa, hiện đại hóa, ít hoạt động, ít
luyện tập thể dục thể thao.
+ Ngoài ra một số nghiên cứu cho thấy có mối quan hệ chặt chẽ giữa
tiền sử hút thuốc lá, lạm dụng rượu bia với việc gia tăng tỷ lệ Hội chứng
chuyển hóa (HCCH).
Khi sử dụng rượu ở mức độ vừa phải thì rượu có thể làm giảm nồng độ
Insulin khi đói, tăng tính nhạy cảm của Insulin, tăng nồng độ HDL-C. Tuy
nhiên nếu lạm dụng rượu sẽ có tác dụng ngược lại làm tăng Triglycerid máu,
tăng huyết áp và làm trầm trọng hơn sự kháng Insulin.
Tiêu hao năng lượng thông qua hoạt động thể lực là yếu tố hết sức quan
trọng trong quá trình thiết lập cân bằng giữa năng lượng tiêu hao và năng
lượng ăn vào. Hoạt động thể lực cũng giúp cơ thể chuyển hóa tích cực nên có
thể làm giảm khối mỡ, cải thiện độ nhạy cảm với Insulin và làm giảm Insulin
máu. Do phương thức lao động và điều kiện sống thay đổi nên hoạt động thể
lực ngày càng có xu hướng giảm đi, cùng với chế độ ăn uống được nâng lên,
sự gia tăng tỷ lệ béo phì và các rối loạn chuyển hóa thường đi song song với
giảm hoạt động thể lực trong lối sống tĩnh lại.
Do đó việc thực hiện lối sống năng động, tăng cường hoạt động thể lực
sẽ giảm đi tỷ lệ mắc hội chứng chuyển hóa và các rối loạn liên quan khác đặc

biệt là rối loạn dung nạp glucose máu.
Các nghiên cứu khác nhau trên thế giới đã cho thấy bệnh đái tháo đường
đang tăng nhanh ở những nước đang phát triển, đang có tốc độ đô thị hóa nhanh;
đó cũng là những nơi đang có sự chuyển tiếp về dinh dưỡng, lối sống.


25
* Nhóm không thể tác động, thay đổi được
- Các yếu tố gen
Yếu tố gen đóng vai trò quan trọng trong bệnh đái tháo đường typ 2.
Những đối tượng có mối liên quan huyết thống với người bị bệnh đái tháo
đường như có bố, mẹ hoặc anh chị em ruột bị bệnh đái tháo đường có nguy cơ
bị bệnh đái tháo đường cao gấp 4 - 6 lần người bình thường (trong gia đình
không có ai mắc bệnh đái tháo đường), đặc biệt nhất là những người mà cả
bên nội và bên ngoại đều có người mắc bệnh đái tháo đường. Khi cả hai cha
mẹ đều bị mắc bệnh thì nguy cơ này tăng tới 50%. Hai trẻ sinh đôi cùng
trứng, một người mắc bệnh đái tháo đường người kia sẽ bị xếp vào nhóm thực
sự bị bệnh đái tháo đường.
Theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Thịnh và Đoàn Duy Hậu, người có
tiền sử gia định có người bị bệnh đái tháo đường có nguy cơ mắc bệnh cao
gấp 19,5 lần sovới người không có tiền sử gia đình mắc bệnh.
- Các nguyên nhân về tuổi, giới, chủng tộc
Tỷ lệ mắc bệnh và tuổi mắc bệnh đái tháo đường thay đổi theo sắc tộc,
ở Tây Âu tỷ lệ mắc bệnh đái tháo đường typ 2 ở người da vàng cao hơn người
da trắng từ 2 - 4 lần, tuổi mắc bệnh ở người da vàng trẻ hơn, thường trên 30
tuổi, ở người da trắng thường trên 50 tuổi. Khi cơ thể già đi, chức năng tụy
nột tiết cũng bị suy giảm theo và khả năng tiết Insulin của tụy cũng bị giảm,
khi tế bào tụy không còn khả năng tiết Insulin đủ với nhu cầu cần thiết của cơ
thể, glucose máu khi đói tăng và bệnh đái tháo đường thực sự xuất hiện. Nhiều
nghiên cứu đã chứng minh tuổi có liên quan đến sự xuất hiện bệnh đái tháo

đường typ 2; tuổi càng tăng, tỷ lệ mắc bệnh đái tháo đường và rối loạn dung nạp
glucose máu càng cao. Ở Châu Á, bệnh đái tháo đường typ 2 có tỷ lệ cao ở
người trên 30 tuổi, ở Châu Âu bệnh có tỷ lệ cao ở người từ tuổi 50 trở lên.


×