Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Bản chất của phép biện chứng duy vật ý nghĩa phương pháp luận đối với thực tiễn hoạt động

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.04 KB, 25 trang )

Bản chất của phép biện chứng duy vật ý nghĩa phương pháp luận
đối với thực tiễn hoạt động quân sự
Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng mười Nga thành công năm 1917 đã
mở ra một kỷ nguyên mới cho lịch sử nhân loại, kỷ nguyên của độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội, chấm dứt thời kỳ độc tôn của CNTB trên phạm vi
toàn thế giới, mở đầu một thời đại mới, thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH
trên phạm vi toàn thế giới. Từ một nước xã hội chủ nghĩa năm 1917 sau năm
1945 đã trở thành một hệ thống thế giới, hệ thống XHCN không ngừng được
củng cố và phát triển, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, đấu tranh vì
hoà bình, dân chủ, dân sinh và tiến bộ xã hội trên toàn thế giới phát triển
mạnh mẽ. Có được những thành quả như vậy trước hết chúng ta phải thấy
được công lao vĩ đại của C .Mác, Ph.Ăng-Ghen và V.I.Lê-nin, cả cuộc đời và
sự nghiệp của mình các ông đã xây dựng lên học thuyết cách mạng và khoa
học, kiên quyết đấu tranh không khoan nhượng với các quan điểm duy tâm,
duy vật siêu hình, đặc biệt là các quan điểm của các nhà triết học tư sản, biến
những tư tưởng lý luận thành thực tiễn hiện thực. Xuất phát từ bản chất cách
mạng và khoa học của hệ tư tưởng đó chủ nghĩa Mác-Lênin đã mở rộng ảnh
hưởng, ăn sâu, bám chắc vào trái tim khối óc của hàng trăm triệu người trên
thế giới. Nó đã chứng minh cho sức sống bền vững, sự bất diệt của chủ nghĩa
Mác-Lênin.
Từ những năm 80 của thế kỷ 20, CNXH đã lâm vào khủng hoảng trầm
trọng, trước hết là ở ở Liên xô và đông âu, hệ thống XHCN đang có một sức
mạnh cả về kinh tế, chính trị, quân sự v.v.là đối trọng với CNTB, thế nhưng
chưa đầy hai thập kỷ cuối cùng của thế kỷ 20 hệ thống XHCN đã hoàn toàn bị
tan rã, đó là một thực tế vô cùng đau sót đối với những người cộng sản, phong
trào công nhân, cũng như toàn thể những người yêu chuộng hòa bình và công
lý trên pham vi toàn thế giới. Sự sụp đổ của mô hình CNXH ở Đông Âu và
Liên Xô vừa qua do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, song nguyên


2


nhân chủ yếu là do sai lầm chủ quan kéo dài ngày càng trầm trọng của các
Đảng cộng sản và những người đứng đầu trong bộ máy của Đảng và nhà nước.
Họ đã mắc phải những sai lầm nghiêm trọng là xa rời những nguyên lý cơ bản
của chủ nghĩa Mác-Lênin, vi phạm những nguyên tắc cơ bản của Đảng v.v. để
cho chủ nghĩa cơ hội, xét lại lũng đoạn về chính trị. Từ đó dẫn đến những sai
lầm về đường lối chính trị, mất cảnh giác, thủ tiêu đấu tranh giai cấp, buông
lỏng chuyên chính vô sản, hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản,v.v. Làm
cho chủ nghĩa xã hội dần dần đi chệch hướng, vỏ thì chủ nghĩa xã hội song bên
trong thì không còn chất của chủ nghĩa xã hội, từng bước chuyển hoá theo con
đường tư bản chủ nghĩa. Mặt khác chúng ta cũng phải thừa nhận rằng một
nguyên nhân rất quan trọng dẫn tới sự đổ vỡ nhanh chóng của hệ thống xã hội
chủ nghĩa đó là sự can thiệp trắng trợn và tinh vi của chủ nghĩa đế quốc đứng
đầu là đế quốc mỹ. Chúng dùng mọi âm mưu và thủ đoạn, tập trung trên nhiều
lĩnh vực trong đó trọng điểm là kinh tế và chính trị, trong lĩnh vực chính trị
chúng tập chung nghiên cứu chủ nghĩa Mác-Lênin, xuyên tạc, phủ nhận hệ tư
tưởng đó, đề cao những quan điểm triết học tư sản, như vậy bằng chiến lược
“Diễn biến hòa bình” kết hợp trong đánh ra, ngoài đánh vào làm cho các nước
XHCN sụp đổ nhanh chóng.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ phát triển rất mạnh mẽ, đem
lại cho con người những thành tựu rất to lớn trên mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội. CNTB nhờ kế thừa được những thành tựu khoa học công nghệ hiện
đại và sự điều chỉnh, thích nghi với điều kiện lịch sử mới nên vẫn còn khả
năng tồn tại và phát triển. Cùng với nó là vấn đề toàn cầu hoá và hội nhập
kinh tế quốc tế đang là một hiện thực khách quan, mang tính phổ biến đã tác
động mạnh mẽ vào sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc trên thế giới. Hiện
nay hệ thống XHCN không còn song dù khó khăn từ nhiều phía các nước
XHCN vẫn tồn tại và phát triển, đồng thời nhiều dân tộc đang đấu tranh vì


3

mục tiêu độc lập dân tộc, công bằng, dân chủ, văn minh và có xu hướng tiến
lên trên con đường XHCN.
Từ những thực tế nêu trên, đây là những thử thách khắc nghiệt đối với
chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung và triết học Mác-Lênin nói riêng mà hạt nhân
cơ bản là phép biện chứng duy vật với chức năng trang bị thế giới quan và
phương pháp luận trong xem xét và cải tạo thực tiễn. Nghiên cứu bản chất của
phép biện chứng duy vật sẽ giúp chúng ta có cái nhìn tổng thể, khách quan về
sự tồn tại, vận động và phát triển của các sự vật hiện tượng, các mặt các lĩnh
vực trên pham vi thế giới và ở trong nước, cũng như những vấn đề do cuộc
sống đang đang đặt ra, trên cơ sở đó cung cấp những giải pháp khoa học, hữu
hiệu cho hoạt động cải tạo hiện thực của con người, nhất là những người cộng
sản chân chính trong đấu tranh cho mục tiêu giải phóng giai cấp, giải phóng
dân tộc, giải phóng con người và giải phóng nhân loại.
Trước hết chúng ta phải khẳng định rằng: Triết học Mác-Lênin là cơ sở thế
giới quan và phương pháp luận, là hạt nhân của toàn bộ chủ nghĩa Mác. Giá
trị, vai trò của chủ nghĩa Mác-Lênin trước hết được thể hiện ở chính hạt nhân
của hệ thống đó. Nghiên cứu đánh giá triết học Mác-Lê nin mà tập trung ở
phép biện chứng duy vật không thể tách rời, cô lập với toàn bộ lịch sử tư
tưởng triết học nhân loại, mà ngược lại triết học Mác-Lê nin xuất hiện là một
tất yếu hợp quy luật, là sự kế thừa, kết tinh toàn bộ các giá trị tinh hoa của
nhân loại đã tạo ra trước đó. phép biện chứng duy vật Mác xít dựa trên truyền
thống tư tưởng biện chứng của nhiều thế kỷ, vạch ra những đặc trưng chung
nhất của biện chứng khách quan, nghiên cứu những quy luật phổ biến của sự
vận động và phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy.Nó là
chìa khóa để giúp con người nhận thức và chinh phục thế giới. Nắm vững
những nguyên tắc phương pháp luận của phép biện chứng duy vật không
những là một nhân tố cơ bản để hình thành thế giới quan khoa học, mà còn là
điều kiện tiên quyết cho sự sáng tạo của chính đảng cách mạng. Phép biện



4
chứng duy vật Mác xít là hình thức phát triển cao nhất của lịch sử tư tưởng
triết học nhân loại, là đỉnh cao của trí tuệ loài người. Việc nghiên cứu, khẳng
định và có niềm tin vững chắc vào bản chất cách mạng, khoa học của phép
biện chứng duy vật sẽ giúp những người cộng sản có cơ sở vững chắc để bảo
vệ và phát triển triết học Mác-Lênin và vận dụng sáng tạo vào thực tiễn cách
mạng của mỗi nước. đối với Việt Nam nó là cơ sở cho Đảng cộng sản vạch ra
chiến lược, sách lược xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới.
Xuất phát từ vai trò quan trọng của nội dung trên bài viết này xin trình bày
khái quát về: Bản chất của phép biện chứng duy vật, ý nghĩa phương
pháp luận đối với thực tiễn hoạt động quân sự.
I- Phép biện chứng duy vật Mác-Lê nin mang bản chất cách mạng,
khoa học
Việc khẳng định tính cách mạng, khoa học của một học thuyết, một
chủ nghĩa phụ thuộc phần lớn vào việc nội dung học thuyết ấy có phản ánh
đúng đắn chân lý khách quan, đúng quy luật khách quan hay không? có giải
đáp được những vấn đề của thời đại đặt ra hay không? mặt khác học thuyết ấy
do giai cấp nào đề ra, giai cấp đó tiến bộ hay lạc hậu; nó phản ánh tập trung
lợi ích của giai cấp tiên tiến hay không? sự phù hợp của nó trước những biến
đổi của lịch sử xã hội như thế nào?...
Nghiên cứu lịch sử phát triển của triết học nhân loại cho ta kết luận
rằng: trước khi triết học Mác-Lênin ra đời , một số trong các nhà duy vật
trước Mác đã đề xuất những tư tưởng biện chứng, tuy nhiên, nhìn chung chủ
nghĩa duy vật trước Mác mang tính chất siêu hình(nghiã là phản biện chứng).
Nhà triết học duy tâm vĩ đại người Đức G.V.Hêghen (1770- 1831) là một nhà
biện chứng kiệt xuất nhất. Ông đã trình bày những quy luật cơ bản của phép
biện chứng, nhưng không phải như những quy luật của các quá trình tự nhiên
và xã hội mà là những quy luật của tư duy “thuần túy”, tách rời khỏi mọi nội
dung cảm tính.v.v. Như vậy chỉ có triết học Mác-Lênin mới đáp ứng đầy đủ



5
những yêu cầu trên. Triết học Mác-Lênin đã luận giải một cách khoa học về
sự tồn tại, vận động và phát triển của thế giới tự nhiên, xã hội và tư duy. Nó
giải đáp kịp thời những vấn đề bức xúc về thế giới mà những tư tưởng trước
đó chưa giải đáp được, đồng thời soi sáng các nhiệm vụ lịch sử đã chín muồi
của nhân loại, vạch ra con đường và những giải pháp đấu tranh để giải phóng
con người thoát khỏi áp bức bóc lột bất công. Triết học Mác-Lênin không chỉ
giải đáp các nhiệm vụ của lịch sử nhân loại bằng khái quát triết học mà còn
hiện thực hoá các tư tưởng đó bằng thực tiễn cách mạng. nói cách khác: triết
học Mác-Lênin là sự thống nhất hữu cơ giữa giải thích thế giới và cải tạo thế
giới, thống nhất giữa tính cách mạng và tính khoa học.
Triết học Mác-Lênin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận
duy nhất cho phép con người nhận thức đầy đủ, đúng đắn toàn bộ thế giới
trong sự tồn tại, vận động và phát triển. Sự ra đời của triết học Mác- Lênin là
một kết quả hợp quy luật, là sự thống nhất hữu cơ giữa những tiền đề khách
quan và nhân tố chủ quan. Là một hệ thống triết học trong đó có sự thống
nhất giữa thế giới quan duy vật triệt để và phương pháp luận biện chứng
khoa học. Chính những điều này đã làm cho triết học Mác-Lênin khắc phục
được những hạn chế so với các hệ thống triết học trước đó, trở thành một hệ
thống triết học cách mạng và hoàn bị để khám phá thế giới tự nhiên, xã hội
và tư duy con người.
Nói tới triết học là nói tới hệ thống quan điểm chung nhất của con
người về thế giới và vai trò của con người trong thế giới ấy. Tuy nhiên, tuỳ
thuộc vào lập trường thế giới quan và phương pháp luận, sự chế ước của điều
kiện xã hội-lịch sử và yếu tố chủ quan mà mỗi trường phái triết học có những
quan điểm khác nhau và đối lập nhau. Triết học Mác-Lênin là sự hội tụ đầy đủ
những giá trị tinh hoa trong tư tưởng triết học nhân loại, chính vì vậy nó là cơ
sở lý luận duy nhất cho phép nhận thức đúng về thế giới. Với một hệ thống
những nguyên lý, quy luật, phạm trù mang tính khái quát cao, cho đến nay nó



6
vẫn còn nguyên giá trị. Trong hệ thống triết học Mác-Lênin, chủ nghĩa duy
vật và phép biện chứng thống nhất hữu cơ với nhau. Vì vậy việc nghiên cứu
toàn diện phép biện chứng duy vật có ý nghĩa hết sức quan trọng nhằm xây
dựng thế giới quan duy vật triệt để và hệ phương pháp khoa học trong nhận
thức và hoạt động thực tiễn.
Từ việc kế thừa có chọn lọc những thành quả của các nhà triết học
tiền bối, mà trực tiếp nhất là phép biện chứng của Hê ghen và quan điểm duy
vật của Phoiơbắc, dựa trên việc khái quát những thành quả mới nhất của khoa
học đương thời cũng như thực tiễn lịch sử loài người. Vào giữa thế kỷ 19,
Mác và Ăng ghen đã sáng lập ra triết học duy vật biện chứng và phép biện
chứng duy vật, trong tác phẩm chống Đuy-rinh các ông đã đề cập đến vấn đề
này: “Đối với phép biện chứng là phương pháp mà điều căn bản là nó xem xét
những sự vật và những phản ánh của chúng trong tư tưởng trong mối liên hệ
qua lại lẫn nhau của chúng, trong sự ràng buộc, sự vận động, sự phát sinh và
sự tiêu vong của chúng”1 những tư tưởng về phép biện chứng của Mác,
Ăngghen sau này được Lê nin tiếp tục hoàn chỉnh và phát triển. Phép biện
chứng duy vật đã khái quát một cách đúng đắn những quy luật vận động và
phát triển chung nhất của thế giới. Nhờ vậy, Mác và Ăng ghen đã khắc phục
được những hạn chế vốn có của phép biện chứng tự phát thời cổ đại, cũng
như những sai lầm của phép biện chứng duy tâm khách quan thời cận đại và
phép biện chứng siêu hình của Hêghen, làm cho phép biện chứng duy vật trở
thành một khoa học. Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất hữu cơ giữa lý
luận và phương pháp. Hệ thống các quy luật, phạm trù của nó không chỉ phản
ánh đúng đắn thế giới khách quan mà còn chỉ ra những cách thức để định
hướng cho con người trong nhận thức thế giới và cải tạo thế giới. Phép biện
chứng duy vật không chỉ khái quát những thành tựu của tất cả các khoa học
cụ thể, mà nó còn kết tinh những tinh hoa trong quá trình phát triển tư tưởng

1

C.Mác, Ph Ăngghen, Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 1994, t20, tr.38


7
triết học của nhân loại. Nó trình bày một cách có hệ thống, chặt chẽ tính chất
biện chứng của thế giới thông qua những nguyên lý, phạm trù, quy luật chung
nhất của thế giới tự nhiên, xã hội và tư duy con người.
Bản chất và đặc trưng cơ bản của phép biện chứng duy vật là tính
cách mạng và khoa học. Tính cách mạng và tính khoa học của phép biện
chứng duy vật thống nhất chặt chẽ với nhau bởi vì phép biện chứng duy vật
như Lênin đã chỉ ra: Nó là học thuyết về sự phát triển dưới hình thức hoàn bị
nhất, sâu sắc nhất và không phiến diện. Bản chất cách mạng của phép biện
chứng duy vật thể hiện ở chỗ, trong khi đưa ra quan niệm về tính hợp lý của
cái hiện tồn thì đồng thời cũng bao hàm trong nó quan niệm về sự diệt vong
tất yếu của cái hịên tồn đó. Với bản chất cách mạng sâu sắc và triệt để, được
thể hiện trong các nguyên lý, các cặp phạm trù và các quy luật của mình, phép
biện chứng đã vạch ra biện chứng của quá trình phát triển, với nội dung và
hình thức hết sức phong phú. Nó là cơ sở phương pháp luận để chỉ đạo chủ
thể trong việc xem xét đánh giá đồng thời xác định phương pháp cách mạng
khoa học và đúng đắn.
Các nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển
là những yếu tố đầu tiên có tính phổ quát nhất nó chỉ ra toàn cảnh quá trình
vận động và phát triển của sự vật hiện tượng , định hướng toàn bộ nội dung,
đồng thời xác định những nguyên tắc, phương pháp luận cơ bản của phép biện
chứng duy vật . Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy
vật khái quát bức tranh toàn cảnh chằng chịt những mối liên hệ của thế giới
(tự nhiên, xã hội và tư duy). Tính chất vô tận của thế giới, cũng như tính chất
có hạn của mỗi sự vật, hiện tượng, quá trình đó chỉ có thể giải thích được

trong mối liên hệ phổ biến, trong các mối liên hệ đó mỗi mối liên hệ
có vai trò và vị trí khác nhau. Sự liên hệ phổ biến là đặc trưng phổ quát nhất
của thế giới. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến giúp chúng ta có quan điểm
toàn diện trong nhận thức, xem xét chỉ đạo hoạt động thực tiễn. Như vậy khi


8
xem xét các sự vật hiện tượng phải xem xét toàn diện các mối liên hệ; trong
tổng số các mối liên hệ phải rút ra được những mối liên hệ bản chất, chủ yếu
quy định sự tồn tại của chúng để hiểu rõ bản chất của sự vật; từ bản chất của
sự vật phải quay lại hiểu rõ toàn bộ sự vật trên cơ sở liên kết các mối liên hệ
bản chất, chủ yếu với tất cả các mối liên hệ khác của sự vật để bảo đảm tính
đồng bộ khi giải quyết các vấn đề của đời sống. Quan điểm toàn diện, đối lập
với mọi suy nghĩ và hành động phiến diện, chiết trung, siêu hình.
Nguyên lý về sự phát triển của phép biện chứng duy vật phản ảnh
đặc trưng biện chứng phổ quát nhất của thế giới. Mọi sự vật hiện tượng luôn
vận động, biến đổi không ngừng và về phương diện bản chất của mọi sự vận
động, biến đổi của thế giới có xu hướng phát triển. Vì vậy quán triệt quan
điểm phát triển là nguyên tắc chung trong chỉ đạo hành động và suy nghĩ của
con người. Đó là phải xem xét sự vật trong sự vận động, biến đổi và phát triển
của nó, phải tư duy năng động, linh hoạt, mềm dẻo, phải nhận thức được cái
mới và ủng hộ cái mới.
Trong kết cấu của phép biện chứng duy vật, đi liền với những
nguyên lý cơ bản là những quy luật cơ bản phản ảnh cái bản chất trong sự vận
động của vũ trụ. Nó là những mối liên hệ quy định bản chất của sự vật, hiện
tượng cho nên là mối liên hệ tất yếu chi phối sự phát triển của sự vật hiện
tượng. Quy luật mang tính ổn định, tồn tại khách quan và phổ biến. Song tính
phổ biến của các quy luật lại không giống nhau, có những quy luật riêng biệt,
quy luật đặc thù,…Phép biện chứng duy vật chỉ nghiên cứu những quy luật
phổ biến nhất gọi là những quy luật cơ bản. Đồng thời, mỗi quy luật cơ bản

lại nói lên một mặt khác nhau của sự vận động và phát triển của sự vật, hiện
tượng.
Trước tiên, đó là quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối
lập, “gọi tắt là quy luật mâu thuẫn” đây là hạt nhân của phép biện chứng bởi
vì tất cả các sự vật hiện tượng đều là sự thống nhất và đấu ttranh của các mặt


9
đối lập. Mặt khác sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập chỉ ra bản
chất của sự vật, hiện tượng và bản chất của sự phát triển như vậy nó thể hiện
tính chỉnh thể thống nhất của phép biện chứng. Quy luật này vạch ra nguồn
gốc, động lực của sự phát triển, phản ảnh quá trình đấu tranh giải quyết mâu
thuẫn bên trong sự vật.
Quy luật chuyển hoá từ những thay đổi về lượng dẫn tới những biến
đổi về chất và ngược lại (gọi tắt là quy luật lượng-chất) phản ánh cách thức,
cơ chế của quá trình phát triển là đi từ những biến đổi nhỏ nhặt, dần dần về
lượng đến giới hạn độ thì gây ra sự biến đổi cơ bản về chất thông qua bước
nhảy vọt và ngược lại.
Quy luật phủ định của phủ định khái quát khuynh hướng phát triển
tiến lên theo hình xoáy ốc, thể hiện tính chất chu kỳ trong quá trình phát triển
của các sự vật hiện tượng .
Ba quy luật trên thống nhất hữu cơ với nhau, phản ánh sự tác động
qua lại của những mặt quan trọng nhất trong sự liên hệ và vận động phát triển
của sự vật hiện tượng. Cùng với ba quy luật cơ bản, phép biện chứng duy vật
còn có hệ thống các phạm trù, đó là những khái niệm chung nhất phản ánh
những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ chung, bản chất của sự vật
hiện tượng. Ngoài tính khách quan, các phạm trù còn mạng tính biện chứng,
chúng luôn có sự liên hệ chằng chịt với nhau, trong những điều kiện nhất định
có thể chuyển hoá lẫn nhau.
Những phạm trù có tính liên hệ trực tiếp với nhau được xếp thành

những cặp đôi, gọi là những cặp phạm trù cơ bản hay những quy luật không
cơ bản của phép biện chứng duy vật. Những cặp phạm trù quen thuộc trong
phép biện chứng duy vật là: phạm trù cái riêng và cái chung; nguyên nhân và
kết quả; tất nhiên và ngẫu nhiên; nội dung và hình thức; bản chất và hiện
tượng; khả năng và hiện thực.


10
Như vậy, phép biện chứng duy vật là một hệ thống hoàn chỉnh bao
gồm nhiều yếu tố, mỗi yếu tố có một vai trò nhất định nhưng có quan hệ chặt
chẽ với nhau. Trong đó quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
giữ vai trò quan trọng nhất, là hạt nhân của phép biện chứng duy vật. Lênin
viết: “Có thể định nghĩa vắn tắt phép biện chứng là học thuyết về sự thống
nhất của các mặt đối lập, như thế là nắm được hạt nhân của phép biện chứng,
nhưng điều đó đòi hỏi phải có những giải thích và một sự phát triển thêm ” 2.
Có thể thấy vai trò hạt nhân của quy luật mâu thuẫn ở chỗ nó cho phép ta nắm
được bản chất của sự vật, chỉ rõ nguồn gốc, động lực của sự phát triển, là chìa
khoá cho phép đi sâu tìm hiểu toàn bộ phép biện chứng duy vật. Phạm trù
mâu thuẫn xuyên suốt toàn bộ hệ thống quy luật của phép biện chứng, đó là :
mâu thuẫn lượng - chất; mâu thuẫn phủ định - khẳng định; chung - riêng;
nguyên nhân - kết quả,…Với quan điểm như trên đòi hỏi khi tiếp cận và áp
dụng phép biện chứng trong xem xét và giải quyết các vấn đề đặt ra phải thấy
được vai trò chi phối của quy luật mâu thuẫn, đồng thời không xem nhẹ vai
trò của các yếu tố khác.
Nội dung các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật vừa là sự
cụ thể hoá thêm nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển. Đồng thời
vừa đi sâu phản ánh cái bản chất và nội dung bên trong của quá trình vận
động, phát triển của thế giới vật chất. Còn các cặp phạm trù cơ bản của phép
biện chứng duy vật phản ánh tính phong phú muôn hình muôn vẻ của sự vận
động, phát triển của thế giới vật chất. Nếu như những nguyên lý của phép

biện chứng duy vật là những luận điểm bao quát nhất, có tính chất biện chứng
chung nhất về thế giới thì các quy luật cơ bản, các cặp phạm trù đi sâu nghiên
cứu từng mối liên hệ bản chất, từng góc cạnh cụ thể khác nhau của các sự vật

2

Lênin Toàn tập, Nxbtb, M, 1981, t29, tr.240.


11
hiện tượng đặt trong quá trình vận động, phát triển không ngừng của thế giới
vật chất.
Từ những nội dung đã trình bày trên đây cho ta kết luận rằng: Phép
biện chứng duy vật là một phương pháp luận triết học với đặc trưng cơ bản là
xem xét, luận giải thế giới như một chỉnh thể của những sự vật hiện tượng
luôn liên hệ và ràng buộc với nhau. Luôn vận động và không ngừng biến đổi.
Với tư cách là một phương pháp luận triết học biện chứng, luận giải, xem xét
các sự vật hiện tượng một cách biện chứng, nó hoàn toàn đối lập với phép
siêu hình, chính vì vậy phép biện chứng duy vật là hình thức cao nhất của tư
duy khoa học. Đồng thời phép biện chứng duy vật là sự tổng kết toàn bộ sự
phát triển của triết học và khoa học tự nhiên, là sự khái quát cao quy luật của
tự nhiên và thế giới. Phép biện chứng duy vật không chỉ là khoa học tư duy
mà còn là khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động, phát triển
của tự nhiên và xã hội loài người.
Phép biện chứng duy vật không chỉ là một hệ thống lý luận của con
người mà nó còn là một hệ thống phương pháp phổ quát, chung nhất giúp con
người trong hoạt động thực tiễn, trong nhận thức và cải tạo hiện thực khách
quan. Hệ thống phương pháp luận chung đó được nghiên cứu và rút ra từ
những nguyên lý, quy luật, phạm trù của phép biện chứng duy vật , trở thành
những nguyên tắc chung nhất chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người. Đó

là nguyên tắc khách quan, toàn diện, lịch sử cụ thể và phát triển. Quán triệt
nguyên tắc này khi xem xét sự vật hiện tượng phải đặt sự vật trong tổng hoà
các mối quan hệ của các mặt, các thuộc tính của chính sự vật ấy; phải xem xét
chúng trong trạng thái vận động, biến đổi và theo xu hướng chung là phát
triển tiến lên. Bên cạnh đó phải tìm ra nguyên nhân quan trọng quyết định đến
sự vận động của sự vật, tìm ra nguồn gốc động lực của sự phát triển trên cơ sở
đó giải quyết các mâu thuẫn nảy sinh tồn tại trong mỗi sự vật. Muốn cải tạo
sự vật phải thường xuyên tăng cường sự tích luỹ về lượng, khi có điều kiện


12
tạo nên sự nhảy vọt về chất, kịp thời phát hiện các mâu thuẫn, phải xác định
rõ mâu thuẫn nào là cơ bản, mâu thuẫn nào là không cơ bản để có biện pháp
tác động cải tạo, chống mọi biểu hiện chủ quan duy ý chí, nôn nóng đốt cháy
giai đoạn trong sự phát triển, đồng thời chống tư tưởng bảo thủ trì trệ, khi
lượng đã đến giới hạn độ, điểm nút lại chần chừ do dự không kiên quyết tạo
nên sự nhảy vọt về chất. Biểu hiện trong xã hội là không dám làm cách mạng,
không dám cải tổ, đổi mới khi điều kiện thời cơ đã chín muồi. Nguyên tắc duy
vật biện chứng còn chỉ ra phát triển là một quá trình lâu dài đầy khó khăn,
phức tạp với con đường không bằng phẳng,quanh co hình xóay trôn ốc đôi khi
chấp nhận cả sự tụt lùi tạm thời. Vì vậy vậy phải có thái độ kiên trì, bình tĩnh
tự tin trước những khó khăn của sự phát triển, xây dựng niềm tin vào cái mới,
cái tiến bộ, quyết tâm củng cố niềm tin, ủng hộ cái mới , tạo điều kiện để cái
mới chiến thắng; kiên quyết ngăn chặn tiến tới loại trừ cái cũ, cái bảo thủ lạc
hậu gây cản trở con đường phát triển.
Ngày nay khoa học đã chứng minh rằng thế giới vật chất không do ai
sinh ra và không bị mất đi. Các sự vật, hiện tượng của tự nhiên, xã hội đều chỉ
là những dạng tồn tại cụ thể khác nhau của vật chất; thế giới thống nhất ở tính
vật chất, luôn vận động biến đổi không ngừng theo những quy luật khách
quan vốn có của nó. Nguồn gốc của mọi sự vận động của thế giới là do đấu

tranh của các mặt đối lập bên trong của nó. Hoàn toàn không thể giải thích
được sự tồn tại của thế giới từ những lực lượng bên ngoài một cách thần bí,
mà chỉ có thể xuất phát từ thế giới quan duy vật biện chứng mới nhận thức
được thế giới một cách đúng đắn.
Cùng với sự phát triển của khoa học, đặc biệt là những thành tựu
khoa học tự nhiên, sinh học, tin học v.v. các giác quan của con người ngày
càng được lối dài, con người ngày càng khám phá và phát hiện ra ngày càng
nhiều các sự vật hiện tượng, các thuộc tính của chúng, các hình thức tồn tại
của vật chất. Song có thể nói rằng tất cả các thành tựu của khoa học hiện đại


13
hiện nay cũng không hề mâu thuẫn, trái ngược với những nguyên lý, quy luật,
phạm trù mà phép biện chứng duy vật đã khái quát. Ngay cả sự ra đời, tồn tại
và phát triển của xã hội cũng vậy, không thể có cái nhìn đúng đắn nếu không
xuất phát từ nền tảng vật chất của nó, bản thân xã hội cũng chỉ là một kết cấu
vật chất đặc thù. Sự vận động, phát triển bao giờ cũng do nguyên nhân vật
chất, nguyên nhân kinh tế với những quy luật cơ bản của nó.
Mặc dù thế giới mà con người đang sống hiện nay có nhiều đặc điểm
khác xa so với thời kỳ Mác, Ăngghen, Lênin sống và làm việc, đặc biệt là
trong lĩnh vực xã hội chứa đựng nhiều nghịch lý, bất bình thường. Song cũng
không thể vượt ra ngoài những nguyên lý, quy luật, phạm trù của phép biện
chứng duy vật. Điều đó giúp chúng ta nhận thức đúng đắn những quy luật vận
động của thế giới và sự biến đổi của nó một cách khoa học, khắc phục các
biểu hiện bàng quang mơ hồ, thiếu tin tưởng hoặc nghe theo những luận điểm
của bọn xét lại, quan điểm triết học tư sản phản động nói về vấn đề này Lê nin
đã viết : “Tất cả bọn chúng đều tự xưng là Mác xít, nhưng hiểu chủ nghĩa
Mác một cách sách vở hết chỗ nói. Chúng tuyệt nhiên không hề hiểu điểm căn
bản trong chủ nghĩa Mác, tức là:biện chứng cách mạng của chủ nghĩa Mác” 3.
Trên cơ sở đó có niềm tin vững chắc vào phép biện chứng duy vật của chủ

nghĩa Mác- Lênin, xây dựng niềm tin vào sự thắng lợi cuối cùng của chủ
nghĩa cộng sản. Với những vấn đề mà phép biện chứng duy vật đã chỉ ra Con
người với tư cách là chủ thể sáng tạo ra lịch sử, bằng sự nhận thức và hoạt
động của mình mà cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội và cải tạo chính bản thân
mình.Trong thời đại ngày nay cùng với nền đại công nghiệp phát triển, công
nghệ thông tin và các lĩnh vực khác phát triển như vũ bão, những tri thức của
con người ngày càng sâu sắc và phong phú hơn, đa dạng hơn, phản ảnh thế
giới ngày càng chính xác hơn khoa học hơn, điều đó cũng chứng tỏ các
nguyên lý, quy luật, phạm trù của phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa
Mác- Lênin là chân lý, là bất diệt.
3

V. I.Lênin:Toàn tập, Nxb tiến bộ, M 1978, t45, tr430


14
Khẳng định bản chất cách mạng, khoa học của phép biện chứng duy
vật cũng như trang bị cho mọi người kiến thức về phép biện chứng duy vật
nói riêng và triết học Mác-Lênin nói chung là một nhiệm vụ rất quan trọng để
mọi người nhận thức được các vấn đề về tự nhiên về xã hội, trên cơ sở đó
nhận thức sự phát triển tất yếu của xã hội, sự thay thế nhau của các hình thái
kinh tế-xã hội như một quá trình lịch sử tự nhiên; vạch ra nguồn gốc, động
lực, trạng thái và chiều hướng phát triển tất yếu của hình thái kinh tế XHCN,
đồng thời cho ta quan điểm phát triển trong phân tích thời đại và dự báo khoa
học về sự vận động, phát triển của xã hội trong tương lai.
Từ thế giới quan và phương pháp luận của phép biện chứng duy vật
cho chúng ta thấy rằng sự sụp đổ của các nước XHCN ở Đông Âu và Liên Xô
vừa qua chỉ là sự thất bại, sự thụt lùi của một mô hình cụ thể, chứ không phải
là sự sai lầm của hệ tư tưởng, hay nói cách khác là sai lầm do người tổ chức
thực hiện, nó phản ánh đúng đắn quá trình vận động và phát triển rất quanh

co, phức tạp chứ không phải theo một con đường thẳng tắp, thậm chí có
những bước thụt lùi tạm thời. Như vậy giữa thực tiễn và lý luận không hề đối
lập nhau, chúng luôn thống nhất với nhau, tất cả mọi xung đột, chiến tranh,
đấu tranh giai cấp v.v. chỉ là sự phản ánh các nguyên lý, quy luật, phạm trù
của phép biện chứng duy vật mác xít trong xã hội mà thôi. Sẽ không có sự
phát triển nếu không giải quyết được các mâu thuẫn. Tính quanh co phức tạp
trong quá trình phát triển của xã hội, sự khủng hoảng, thất bại tạm thời của
CNXH vừa qua không làm mất đi tính đúng đắn và khoa học của triết học
Mác-Lênin nói chung và phép biện chứng duy vật nói riêng.
Quá trình tiếp cận, xem xét bản chất của phép biện chứng duy vật
cần khẳng định rõ: Với hệ thống các nguyên lý, quy luật, phạm trù, phép biện
chứng duy vật là công cụ nhận thức vĩ đại, là cơ sở khoa học chỉ đạo quá trình
nhận thức hiện thực khách quan. Cho dù thế giới có vận động, biến đổi thế
nào đi chăng nữa, dù các nhà triết học có chỉ ra những tư tưởng hay những


15
vấn đề cụ thể thì cũng đều nằm trong quỹ đạo, phạm vi mà phép biện chứng
duy vật đã khái quát, còn lại các tư tưởng chống lại phép biện chứng duy vật
hay phủ nhận chủ nghĩa Mác-Lênin đều là những tư tưởng ngụy biện, tư
tưởng của giai cấp tư sản, giai cấp bóc lột cố tình che đậy bản chất xấu xa của
mình. Với chức năng trang bị thế giới quan và phương pháp luận khoa học,
phép biện chứng duy vật đến nay vẫn giữ nguyên giá trị và có vai trò ngày
càng tăng trong thời đại ngày nay. Nó cho phép chúng ta có những kết luận
khoa học về xã hội tư bản từ bản chất, xu hướng vận động và sự diệt vong tất
yếu của nó. Đồng thời cho phép chúng ta nhận thức đúng đắn sự khủng
hoảng, tìm ra nguyên nhân và biện pháp khắc phục sự khủng hoảng của
CNXH.
Bản chất cách mạng, khoa học của phép biện chứng duy vật còn
được thể hiện ở sự thống nhất giữa giải thích thế giới và cải tạo thế giới. Việc

đưa thực tiễn vào triết học là bước ngoặt cách mạng trong triết học Mác, đây
là điều khác nhau căn bản giữa triết học Mác-Lênin với các tư tưỏng triết học
trước đó, trong Luận cương về Phoiơbắc, Mác viết: “Các nhà triết học đã giải
thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề là cải tạo thế giới”4.
Như vậy ở đây chính là phép biện chứng duy vật đã tạo ra tính cách
mạng bằng cách xuất phát từ vai trò chỉ đạo hoạt động thực tiễn để cải tạo thế
giới. Xuất phát từ quan điểm duy vật triệt để, triết học Mác-Lênin đã nhận
thức đúng đắn vai trò, vị trí của thực tiễn đối với sự tồn tại, vận động và phát
triển của thế giới, đặc biệt trên lĩnh vực xã hội. Thực tiễn không chỉ là cơ sở
động lực của nhận thức, là tiêu chuẩn để kiểm tra, đánh giá nhận thức mà còn
đóng vai trò quyết định đối với quá trình cải tạo thế giới, cải tạo hiện thực.
Trong triết học Mác-Lê nin nói chung và phép biện chứng duy vật nói riêng
thì toàn bộ quá trình nhận thức đều xuất phát từ thực tiễn với mục đích cuối
cùng là chỉ đạo hoạt động cải tạo thực tiễn, chính vì vậy cho đến nay chưa có
4

C.Mác, Ph Ăng ghen, Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 1994, t3, tr.12.


16
một học thuyết nào thay thế được. Tuy nhiên, khẳng định bản chất cách mạng
và khoa học, chúng ta cũng nhận thức sâu sắc rằng triết học Mác-Lênin nói
chung và phép biện chứng duy vật nói riêng là một hệ thống mở, nó luôn cần
được bổ sung phát triển trong điều kiện mới.
Triết học Mác-Lênin là triết học của giai cấp công nhân. Với hệ
thống nguyên lý, lý luận phản ánh chân thực quy luật vận động và phát triển
của thế giới, nó có quan hệ mật thiết gắn bó với khoa học tự nhiên, dựa vào
khoa học tự nhiên, đây chính là cơ sở bảo đảm cho sức sống bền vững của
triết học Mác-Lênin. Trong quá trình phát triển, ở mỗi giai đoạn lịch sử triết
học Mác-Lênin lại được bổ sung khái quát những nội dung mới từ những

thành tựu khoa học. Đồng thời triết học Mác-Lênin còn là lý luận của giai
cấp vô sản, vạch ra con đường đấu tranh cho sự thắng lợi của CNCS, do
vậy nó đã trở thành vũ khí tinh thần có giá trị quan trọng trong cuộc đấu
tranh chống lại các trường phái phản động và khắc phục những hạn chế của tư
tưởng phản khoa học, cũng như chứng minh xu hướng vận động tất yếu của
xã hội loài người. Bằng hệ thống lý luận tiến bộ, cách mạng và khoa học, đây
chính là giá trị văn hoá tinh thần to lớn của giai cấp vô sản và nhân loại.
Bản chất cách mạng, khoa học của phép biện chứng duy vật còn thể
hiện ở chỗ nó luận giải mục đích, con đường đi tới giải phóng con người, vì con
người, lấy sự phát triển toàn diện của con người làm thước đo chung cho sự phát
triển của xã hội. Như Mác chỉ ra rằng: ý nghĩa lịch sử, mục đích cao cả của sự
phát triển xã hội là phát triển con người toàn diện, nâng cao năng lực và phẩm
giá con người, giải phóng con người, loại trừ ra khỏi cuộc sống con người mọi
sự tha hóa, để con người được sống với cuộc sống đích thực con người và bước
quan trọng nhất trên con đường đó là giải phóng con người về mặt xã hội. Điều
đó cho thấy rằng trong quan niệm của Mác, thực chất của tiến trình phát triển
lịch sử xã hội loài người là vì con người, vì cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn cho
con người, phát triển toàn diện và giải phóng con người. Nói theo Ăng ghen là


17
đưa con người từ vương quốc của tất yếu sang vương quốc của tự do, làm cho
con người cuối cùng là người chủ của tồn tại xã hội, cũng đồng thời trở thành
những người chủ tự nhiên, người chủ của bản thân mình, trở thành người tự do.
Đó cũng chính là quá trình mà nhân loại tự tạo ra những điều kiện, những khả
năng cho chính mình, đem lại sự phát triển toàn diện tự do, hài hoà cho mỗi
người trong cộng đồng nhân loại, tạo cho con người năng lực làm chủ tiến trình
lịch sử của mình. Triết học Mác-Lênin mà linh hồn là phép biện chứng duy vật
đã đề cao những vấn đề quan trọng nhất, quyết định nhất về cải tạo thế giới hiện
thực, giải phóng con người khỏi mọi hình thức áp bức bóc lột bất công, chính

điều này đã làm cho triết học Mác-Lênin có giá trị nhân đạo và nhân văn cao cả.
II- ý nghĩa phương pháp luận của phép biện chứng duy vật đối với
thực tiễn hoạt động quân sự
Ngày nay trước những biến đổi hết sức nhanh chóng của tình hình thế
giới và những diễn biến phức tạp của đời sống xã hội. Việc nhận thức đúng
đắn và vận dụng sáng tạo phép biện chứng duy vật có ý nghĩa quyết định đến
sự thắng lợi của cách mạng. Do vậy đòi hỏi mỗi chúng ta hơn lúc nào hết
càng phải nắm vững phép biện chứng duy vật, mài sắc tư duy biện chứng để
nhận thức đúng những biến đổi sâu sắc của tình hình thế giới, để đáp ứng
những đòi hỏi cấp bách của sự nghiệp đổi mới. Trong giai đoạn hiện nay,
Đảng ta luôn khẳng định: Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động, vận dụng sáng
tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt
Nam. Những nguyên lý của phép biện chứng duy vật cho phép Đảng ta kiên
định con đường XHCN, bởi đó là con đường hợp với quy luật phát triển của xã
hội loài người. Trong cương lĩnh xây dựng đất nước Đảng ta cũng khẳng định:
Lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh co. Song loài người cuối cùng
nhất định sẽ tiến lên CNXH vì đó là quy luật tiến hoá của lịch sử, là cơ sở để
Đảng ta xác định : thời đại ngày nay vẫn là thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH.


18
Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam , cách mạng Việt Nam đang thực
hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ vững chắc tổ quốc Việt Nam
XHCN. Trong phạm vi bài tiểu luận tác giả tập trung rút ra ý nghĩa phương pháp
luận trong lĩnh vực quân sự gắn với nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc .
Đối với hoạt động thực tiễn quân sự, đây là một lĩnh vực hoạt động
xã hội, bởi vì nó gắn với hoạt động của con người, do vậy nó vừa tuân thủ
những quy luật của tự nhiên, của xã hội mặt khác do đặc điễm của chiến tranh
do vậy nó phải tuân thủ quy luật đặc thù của chiến tranh. Vì vậy phép biện

chứng duy vật cũng cung cấp những nguyên tắc, phương pháp luận khoa học
và cách mạng trong thực tiễn hoạt động quân sự, đó là nguyên tắc: khách
quan, toàn diện, lịch sử, cụ thể và phát triển.
Lĩnh vực quân sự căn bản khác với các hiện tượng khác của đời sống
xã hội. Bản chất của chiến tranh, tính đặc thù và những điều kiện trong chiến
tranh được tiến hành quy định bằng hình thức biểu hiện đặc biệt của những
quy luật và phạm trù của phép biện chứng trong lĩnh vực quân sự. Phép biện
chứng cũng được thể hiện cụ thể hoá khi phân tích những cuộc chiến tranh
của các thời đại khác nhau và khi nghiên cứu từng hiện tượng riêng biệt của
một cuộc chiến tranh nào đó. Sẽ là sai lầm nếu gán ghép một cách máy móc
những biểu hiện của những quy luật và phạm trù của phép biện chứng trong
lĩnh vực quân sự của thời thời kỳ chiến tranh trước đây vào điều kiện chiến
tranh hiện nay. Chẳng hạn, lấy phạm trù khả năng và quy luật chuyển hoá từ
những thay đổi về lượng đến những thay đổi về chất để lý giải. Trước kia khả
năng dành thắng lợi đối với một kẻ địch mạnh trong một thời gian ngắn trong
nhiều trường hợp đã bị hạn chế rõ rệt do tính năng của vũ khí lúc bấy giờ và
do những đặc điểm của chiến trường cùng với nhiều lý do khác. Ngày nay lại
khác, việc sử dụng ồ ạt vũ khí tên lửa và hàng loạt những vũ khí tối tân khác
(như Mỹ đã sử dụng ở I Rắc, Nam Tư, Apganitstan…) thúc đẩy khả năng rút
ngắn chiến tranh, rút ngắn rất nhiều thời gian đánh bại đối phương và gây ảnh


19
hưởng quyết định đến những biểu hiện của quy luật chuyển hoá từ những thay
đổi về lượng thành những thay đổi về chất trong chiến tranh.
Trong chiến tranh hiện đại hiện nay, nếu cuộc chiến tranh do chủ
nghĩa đế quốc đứng đầu là đế quốc Mỹ tiến hành thì tất cả những quá trình
chiến tranh xảy ra sẽ nhanh hơn rất nhiều so với bất cứ cuộc chiến tranh nào
của quá khứ. Vì vậy, không được tính đến khả năng dần dần tăng cường lực
lượng để tấn công, đánh trả. Trong điều kiện mà chỉ với những đòn tấn công

bằng những vũ khí hiện đại nhất đầu tiên đã đủ sức quyết định đến tiến trình
và kết cục đụng độ quân sự như ở I Rắc, Nam Tư, Apganitstan,…Thực tiễn đã
chứng minh, sự tác động của quy luật chuyển hoá từ những thay đổi về lượng
thành những thay đổi về chất, thay đổi cả thời gian cũng như quy mô và kết
quả cuối cùng. Đây chính là đặc điểm quan trọng nhất của sự biểu hiện quy
luật ấy. ý nghĩa của nhân tố bất ngờ sẽ hết sức lớn và do đó quân đội phải
thường xuyên sẵn sàng chiến đấu cao, hết sức đề cao cảnh giác để kịp thời
thay đổi cả về lượng và chất trong tất cả các lĩnh vực. Hiện nay cách mạng
việt nam đang thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ tổ
quốc xã hội chủ nghĩa trong đó lấy xây dựng là nhiệm vụ hàng đầu, tuy nhiên
Đảng ta luôn luôn chủ trương gắn chặt kinh tế với quốc phòng an ninh, vì thế
trong văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X Đảng ta xác định “Kết hợp
kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh theo phương châm phát triển kinh tế xã hội là nền tảng để bảo vệ Tổ quốc; ổn định chính trị, củng cố quốc phòng,
an ninh vững mạnh là điều kiện để phát triểnkinh tế – xã hội ” 5. Thực chất nội
dung trên là sự vận dụng hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật, đồng
thời Đảng ta vận dụng phép biện chứng duy vật vào việc xây dựng nền quốc
phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân. Vì vậy đối với người cán bộ
trong Quân đội nhân dân Việt Nam, quán triệt luận điểm nói trên và vận dụng
vào trong thực tiễn hoạt động quân sự có tầm quan trọng đặc biệt, thiết thực
5

Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb chính trị quốc gia,H ,2006, tr227,
228


20
và to lớn. Do đó trong lĩnh vực quân sự hiện đại, cần hiểu biết sâu sắc những
vấn đề chiến tranh và xây dựng quân đội, làm việc một cách tích cực, chủ
động, tự giác, vận dụng một cách sáng tạo thế giới quan, phương pháp luận
của phép biện chứng duy vật vào trong lĩnh vực hoạt động quân sự.

Nghiên cứu lĩnh vực quân sự một cách biện chứng có nghĩa là xem
xét tất cả các mặt của nó trong sự phát triển và vận động thường xuyên, trong
tổng thể những mối liên hệ đa dạng của nó. Bởi vì, lĩnh vực quân sự cũng như
bất kỳ quá trình nào khác, được hoàn thiện trên cơ sở tất cả những quy luật
được phản ánh và được khái quát trong những luận điểm của phép biện chứng
duy vật, cho nên khi nghiên cứu các hiện tượng và quá trình của nó, cần tính
toán đến các tác động không phải của một mà là tất cả các quy luật và phạm
trù của phép biện chứng duy vật. Phương pháp biện chứng cũng đòi hỏi
nghiên cứu triệt để các mặt bản chất của lĩnh vực quân sự, đi từ cái đã biết
đến cái chưa biết, từ hiểu biết hiện tượng đến bản chất, nhận thức đầy đủ toàn
bộ các mối liên hệ qua lại và mang tính quy định lẫn nhau giữa các sự vật
hiện tượng. Trong đó cần phát hiện tính quy luật của sự phát sinh và phát triển
các hiện tượng chiến tranh và xây dựng quân đội ta hiện nay.
Những hiện tượng của chiến tranh và của việc xây dựng quân đội
luôn vận động, biến đổi và phát triển. Do đó trong lĩnh vực quân sự, những
biến đổi về lượng và chất dẫn tới phủ định cái cũ và xuất hiện cái mới thường
được diễn ra trên cơ sở của cuộc đấu tranh của các khuynh hướng đối lập. Sự
phủ định biện chứng, trước hết, đó là một quá trình giải quyết mâu thuẫn bên
trong, là sự thủ tiêu một mặt đối lập và sự ra đời của một sự vật, của một hiện
tượng mới về chất với những mặt đối lập riêng của nó. Cái mới không sinh ra
từ trước, nó ra đời và phát triển đến một lúc nào đó từ trong cái cũ, trong cuộc
đấu tranh với cũ. Và do đó trong những hiện tượng của chiến tranh và xây
dựng quân đội, cái mới chỉ có thể được xác lập trong điều kiện nếu xoá bỏ
được cái lỗi thời, thủ tiêu được tất cả những cái gì ngăn cản sự phát triển.


21
Không có sự phủ định cái cũ đã lỗi thời thì cái mới không được xác lập và
củng cố. Đó là quy luật biện chứng của sự phát triển của hiện thực xung
quanh. Như Mác đã viết khẳng định: không có một lĩnh vực nào có thể có sự

phát triển mà không phủ định những hình thức tồn tại cũ của mình.
Trong xây dựng quân đội, xuất phát từ nhận thức sâu sắc bản chất
cách mạng và khoa học của phép biện chứng duy vật, Đại hội Đảng bộ quân
đội lần thứ VIII đã xác đinh phương hướng, nhiệm vụ quân sự, quốc phòng 5
năm 2006 – 2010 và trong những năm tới : phương hướng nhiệm vụ chung :
Tập trung nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng bộ Quân
đội , tiếp tục đổi mới mạnh mẽ về quân sự, quốc phòng; động viên mọi nguồn
lực, đẩy mạnh xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng , chính quy, tinh nhuệ
và từng bước hiện đại; xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh toàn
diện, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch
, sẵn sàng ứng phó thắng lợi với mọi tình huống, góp phần giữ vững ổn định
chính trị – xã hội của đất nước, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Mục tiêu xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện
đại là một quá trình lâu dài và khó khăn, quá trình xây dựng phải gắn với sự
vận động và phát triển của nền kinh tế của đất nước ta, với tiềm lực quân sự
của quốc gia, khả năng đầu tư cho quốc phòng. Trong quân đội lại gắn với quá
trình tinh giảm, điều chỉnh quân số sao cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ mới, với
khả năng tự sản xuất, tự cung cấp một phần trang thiết bị vũ khí, kỹ thuật; đồng thời
phải giáo dục nâng cao mặt bằng trí tuệ cho đội ngũ cán bộ, chiến sĩ.
Quá trình xây dựng quân đội cần phải kiên trì tích luỹ về lượng để tạo
điều kịên nhảy vọt về chất. Chống mọi biểu hiện nóng vội, chủ quan, không
xem xét tình hình cụ thể, đốt cháy giai đoạn, đòi hỏi chính quy, hiện đại ngay.
Đồng thời cũng chống tư tưởng bảo thủ trì trệ, chậm đổi mới nâng cao trình
độ, coi trọng cái cũ và không thấy được sự phát triển của cái mới, cái tiến bộ,
kết quả là không tạo được sự nhảy vọt về chất.


22
Hiện nay trước tình hình thế giới và khu vực có nhiều diễn biến phức
tạp khó lường, do vậy nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc cũng phải đặt trong điều kiện

mới. Vận dụng phép biện chứng duy vật vào lĩnh vực quân đội hiện nay rất đa
dạng và phong phú song cần tập trung vào một số nội dung sau đây:
Một là: mọi lĩnh vực hoạt động của quân đội đều phải tuân theo
những quy luật của chiến tranh, những điều kiện khách quan, chống áp đặt
chủ quan, phát huy tính năng động sáng tạo của mọi chủ thể.
Hai là: Xác định rõ nhiệm vụ của quân đội tới toàn thể cán bộ chiến sĩ,
làm tốt công tác tuyên truyền giáo dục nâng cao bản lĩnh chính trị, lập trường
giai cấp, xây dựng niềm tin, lòng trung thành với Đảng, nhà nước, nhân dân.
Balà : Tăng cường xây dựng quân đội về chất lượng gắn với số
lượng hợp lý.Tăng cường giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và đường lối quan điểm của Đảng gắn với việc đào tạo nâng cao trình
độ chuyên môn và khoa học kỹ thuật quân sự hiện đại.
Bốn là :luôn luôn cảnh giác, không bị mắc mưu kẻ thù, sử lý đúng
mọi tình huống tác chiến, xác định đúng đối tượng và đối tác, trong từng thời
điểm cụ thể phải xác định rõ đối tượng tác chiến.
Năm là :Làm tốt công tác bảo đảm chính sách, lợi ích giữa các đối
tượng trong quân đội , xây dựng bầu không khí dân chủ, tạo sự thống nhất về
ý chí và hành động .
Sáu là : Gắn chặt nhiệm vụ quân đội với nhiệm vụ của các cơ quan
ban nghành khác của Đảng , nhà nước, tạo sự đồng bộ thống nhất , thành một
chỉnh thể, đặc biệt là với lực lượng công an nhân dân .
Phép biện chứng duy vật cũng đòi hỏi phê phán những quan điểm
duy tâm, siêu hình trong xây dựng quân đội, không tuân theo quan điểm lịch
sử, cụ thể và phát triển, mà trái lại xây dựng một cách cắt xén, phiến diện,
không thống nhất đồng bộ, đề cao mặt này, hạ thấp mặt kia trong xây dựng và


23
huấn luyện chiến đấu do đó không tạo nên sức mạnh tổng hợp cho quân đội,
không tạo nên sự phát triển về chất của quân đội.

Tóm lại: Từ bản chất cách mạng và khoa học của phép biện chứng
duy vật, nó trang bị cho chúng ta thế giới quan, phương pháp luận khoa học
về những quy luật phổ biến của sự vận động và phát triển của tự nhiên, của xã
hội loài người và của tư duy. Đồng thời phép biện chứng duy vật cũng có ý
nghĩa phương pháp luận sâu sắc trong lĩnh vực quân sự nói chung và trong
việc xây dựng quân đội ta nói riêng. Từ bản chất của phép biện chứng duy vật
giúp chúng ta có nhận thức đúng đắn và nhất trí cao với các chủ trương, biện
pháp của Đảng, nhà nước ta về xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách
mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ
xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN trong giai đoạn mới.
Những ý nghĩa to lớn và giá trị bền vững của phép biện chứng duy vật
trong nhận thức và cải tạo thế giới là những di sản giá trị văn hoá tinh thần mang
bản chất cách mạng, khoa học. Nó đã và đang mãi mãi có ý nghĩa lý luận và thực
tiễn sâu sắc đối với lịch sử phát triển của xã hội loài người, nó đã vượt ra ngoài
giới hạn một giai cấp, một quốc gia dân tộc để trở thành tài sản tinh thần vô giá
của nhân loại, trở thành công cụ vĩ đại của nhận thức khoa học, cải tạo thế giới.
Những tư tưởng, quan điểm của chủ nghĩa Mác về phép biện chứng
duy vật đến nay vẫn còn nguyên giá trị và có ý nghĩa vô cùng to lớn trong
công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay. Là cơ sở để Đảng ta đề ra chiến lược
sách lược lãnh đạo cách mạng Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, đặc biệt là
lãnh đạo quân đội thực hiện đúng chức năng và nhiệm vụ của mình đó là bảo
vệ chủ quyền, bảo vệ Đảng nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN.v.v. Đối với
quân đội nó là cơ sở để xác định nhiệm vụ trong giai đọan hiện nay, nhận thức
rõ đối tác đối tượng , đồng thời phải có quan điểm mềm dẻo, biện chứng về
vấn đề này. Có như vậy quân đội mới hoàn thành mọi nhiệm vụ do Đảng, nhà
nước và nhân dân giao phó .


24
Đối với những người cộng sản thì phép biện chứng duy vật trở thành

công cụ quan trọng bậc nhất không thể thiếu của nhận thức và hành động để
cải tạo thế giới và cải tạo chính bản thân mình, là cơ sở khoa học để xây dựng
tinh thần lạc quan cách mạng, giữ vững niềm tin vào mục tiêu lý tưởng, con
đường đã lựa chọn. Đồng thời còn là cơ sở để nhận thức đúng đắn những biến
đổi mau lẹ, sâu sắc của tình hình thế giới nhằm đáp ứng những đòi hỏi cấp
bách của sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay. Mặt khác, phép biện chứng
duy vật còn là vũ khí lý luận khoa học, cung cấp cho chúng ta phương pháp
đấu tranh chống lại các quan điểm cơ hội, xét lại, phản động của các thế lực
thù địch, bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin, đường lối quan
điểm của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Việc bảo vệ, phát triển và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác –Lênin nói
chung, phép biện chứng duy vật nói riêng vừa là đòi hỏi cấp bách của thực tiễn
vừa là vấn đề mang tính quy luật sống còn mà lịch sử hình thành và phát triển của
học thuyết Mác đã kiểm chứng. Thực tiễn xây dựng CNXH ở Liên Xô, Đông Âu
và 20 năm đổi mới trên đất nước ta đã cho thấy: lúc nào xa rời hoặc vận dụng máy
móc những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
không tuân theo những nguyên tắc của phép biện chứng duy vật thì tất yếu phải
trả giá, thậm chí diễn ra cả sự đổ vỡ, khủng hoảng, thất bại.
Trong thời đại ngày nay, các quan điểm, tư tưởng của Mác, Ăngghen , Lênin về phép biện chứng duy vật vẫn có ý nghĩa hết sức quan trọng
đối với chúng ta trong xem xét, đánh giá các vấn đề diễn ra trong tự nhiên, xã
hội và cả trong tư duy. Chúng ta cần phải kiên định, nắm vững phép biện
chứng duy vật để lý giải, nhận thức các vấn đề mới nảy sinh và tiếp tục
nghiên cứu, phát triển, vận dụng sáng tạo những lý luận, quan điểm của phép
biện chứng duy vật của Mác, Ăng-ghen, Lênin vào tất các các lĩnh vực trong
hoạt động quân sự nhằm nâng cao khả năng sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu
thắng lợi trong mọi tình huống góp phần cùng toàn Đảng toàn dân đưa sự


25
nghiệp đổi mới theo định hướng XHCN trên đất nước ta ngày càng phát triển,

đạt những thành tựu to lớn và vững chắc hơn.


×