CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ TÍN DỤNG ỨNG PHÓ VỚI DỊCH COVID-19
Cuộc đua xuống đáy
Khởi phát từ đầu năm 2020, đến giữa tháng 3 năm 2020 dịch Covid-19 đã lan rộng
ra hầu hết các quốc gia trên thế giới và khiến hơn 10 vạn người nhiễm bệnh và gần
8 ngàn người tử vong, chủ yếu tập trung tại Trung Quốc, châu Âu và Iran. Do chưa
thể dự báo được diễn biến của dịch nên việc đánh giá tác động, dự báo tình hình
cũng như đề xuất giải pháp chính sách tiền tệ nói riêng, chính sách kinh tế vĩ mô
nói chung nhằm khắc phục hậu quả và vượt qua dịch bệnh gần như là bất khả thi.
Mặc dù vậy, Mỹ đã dẫn đầu thế giới về cuộc đua “xuống đáy” khi liên tiếp cắt
giảm lãi suất cơ bản về 0% chỉ trong vòng mấy ngày nửa đầu tháng 3/2020 đi kèm
với những gói bơm tiền khổng lồ lên đến hàng ngàn tỷ USD vào nền kinh tế vốn
đang chao đảo vì dịch bệnh. Chuỗi cung ứng toàn cầu gián đoạn do đứt mắt xích
quan trọng hàng đầu là Trung Quốc với tỷ trọng khoảng 1/5 sản lượng công nghiệp
của thế giới song hành với liên tiếp phong tỏa và cách ly từng khu vực, từng thành
phố thậm chí từng quốc gia đã khiến kinh tế toàn cầu khựng lại và suy thoái kinh tế
cận kề. Không chỉ dòng hàng hóa, dòng lao động mà cả dòng dịch vụ và tài chính
tưởng như miễn nhiễm với dịch bệnh nhờ Cách mạng công nghiệp 4.0 cũng bị
chặn đứng bởi nỗi lo sợ dịch bệnh bao trùm. Lần đầu tiên trong thời hiện đại, kinh
tế thế giới cùng một lúc phải chịu đựng cả cú sốc cung lẫn cú sốc cầu từ qui mô
toàn cầu, quốc gia, thành phố đến cộng đồng dân cư và hộ gia đình. Hơn thế nữa,
khủng hoảng và suy thoái kinh tế toàn cầu 2020 khác với tất cả các cuộc khủng
hoảng kinh tế - tài chính trước đây là không bắt nguồn từ những sai lầm kinh tế tài chính của chính quyền hay thị trường mà từ nỗi lo sợ dịch bệnh đeo bám và lan
rộng theo dòng luân chuyển hàng hóa, dịch vụ, lao động – cốt lõi của mọi hoạt
động kinh tế - tài chính. Hàng loạt thị trường rung lắc và đối mặt nguy cơ sụp đổ,
từ thị trường hàng hóa, dịch vụ du lịch, thương mại,... đến thị trường chứng khoán,
thị trường dầu mỏ, thị trường tiền tệ và cả thị trường vàng. Các công cụ tài chính
tiền tệ truyền thống như bơm tiền thông qua các gói kích thích hay hỗ trợ, cắt giảm
lãi suất hay phá giá tiền tệ, miễn giảm thuế phí hoặc kể cả giảm giá hàng hóa dịch
vụ nhằm kích cầu đều khó có thể cứu vãn tình hình do các thị trường bị chia cắt, bị
cách ly trong khi nỗi lo sợ lại lây nhiễm đến tất cả các thị trường bất kể mọi rào
cản. Chính sách kinh tế vĩ mô, trong đó có chính sách tiền tệ cần tập trung vào
ngăn chặn nỗi lo sợ và hoảng loạn trên thị trường, khơi thông dòng chảy tiền tệ
đang tắc nghẽn thay vì đổ thêm dầu vào lửa thông qua đẩy thêm tiền vào thị trường
dù là tiền giá rẻ.
Bản lĩnh Việt Nam
Trọng tâm chính sách và chỉ đạo điều hành của Chính phủ năm 2020 là tập trung
toàn lực ngăn chặn dịch Covid-19 lây lan đồng thời hạn chế tới mức thấp nhất ảnh
hưởng của dịch bệnh, cả ảnh hưởng vật chất, tài chính lẫn tinh thần chứ không phải
là bàn chuyện điều chỉnh hay không các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô hay nới lỏng chính
sách tài chính - tiền tệ để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế hay đa dạng hóa thị trường, cả
thị trường xuất khẩu và nhập khẩu, thị trường hàng hóa lẫn thị trường dịch vụ,...
Mọi đề xuất chỉ thực sự sáng suốt sau khi đã có những đánh giá toàn diện và có căn
cứ từ thực tế cuộc sống, mà điều đó chỉ có sớm nhất là cuối quí I/2020. Trước hết
chúng ta cần xây dựng khung phân tích đánh giá tình hình đồng thời chuẩn bị các
kịch bản đối phó, kể cả kịch bản xấu nhất nhằm nắm thế chủ động trong mọi tình
huống, đặc biệt khi chiếc hộp pandora dịch bệnh vẫn ẩn chứa không ít điểm đen
thông tin. Theo đó, những nội dung trọng tâm của mỗi kịch bản là:
Thứ nhất, dịch Covid-19 tác động trực tiếp đến các ngành dịch vụ, nhất là du lịch
và vận tải hàng không chưa kể dịch vụ ăn uống và thương mại hàng hóa. Các chỉ
tiêu về biến động khách du lịch, không chỉ khách du lịch quốc tế mà cả du lịch
trong nước, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng cũng như lưu
lượng vận chuyển hành khách và hàng hóa cần được thu thập và phân tích thật chi
tiết, kỹ lưỡng đồng thời phân tích rõ tác động của dịch Covid-19 đến các chỉ tiêu
đó. Ngoài ra không thể bỏ qua đánh giá tác động đến các lĩnh vực có liên quan đến
dịch vụ, chẳng hạn như bất động sản du lịch, cơ sở hạ tầng thương mại, lao động
trong các ngành dịch vụ, vốn đầu tư và dòng tiền của các cơ sở kinh doanh dịch
vụ,...
Thứ hai, dịch Covid-19 không tác động trực tiếp và nặng nề tới khu vực công
nghiệp và nông nghiệp như đối với khu vực dịch vụ song ảnh hưởng tiêu cực là
không thể phủ nhận. Trước hết là sự đình trệ sản xuất của Trung Quốc cũng như
các quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của dịch bệnh khiến cho chuỗi cung ứng
toàn cầu bị gián đoạn nghiêm trọng và chưa biết đến bao giờ được phục hồi trở lại,
theo đó thương mại và sản xuất kinh doanh toàn cầu nói chung, kinh tế Việt Nam
nói riêng chịu tác động chưa từng thấy kể cả từ thời khủng hoảng châu Á 19971999 hay khủng hoảng toàn cầu 2008 - 2009. Trung Quốc, châu Âu và Mỹ đều là
những đối tác thương mại hàng đầu của Việt Nam nên dịch Covid-19 chính là phép
thử khắc nghiệt đối với tuyệt đại đa số nhà sản xuất Việt Nam, không kể thuộc
ngành công nghiệp hay nông nghiệp. Biến động dữ dội của các yếu tố đầu vào lẫn
đầu ra sẽ chỉ bộc lộ khi các doanh nghiệp và hộ nông dân sử dụng hết hàng hóa vật
tư dự trữ sản xuất hay thực hiện hết các đơn hàng đã ký kết. Vì vậy, việc phân tích
đánh giá chính xác toàn bộ các yếu tố đầu vào, đầu ra của nền kinh tế và của từng
nhà sản xuất là đặc biệt cần thiết và quan trọng.
Thứ ba, mặc dù đến giữa tháng 3/2020 ở Việt Nam mới có vài chục ca dương tính
với Covid-19 nhưng nguồn lực và chi phí để phòng chống dịch không thể tách rời
cân đối tổng thể phân bổ nguồn nhân tài vật lực của quốc gia năm 2020, thậm chí
cân đối theo dự toán NSNN năm 2020 cũng cần được xem xét điều chỉnh cho phù
hợp, cả phần chi NSNN cũng như phần thu NSNN, nhất là khi diễn biến dịch
Covid-19 trên thế giới nói chung, ở Việt Nam nói riêng vẫn rất phức tạp và khó
lường.
Thứ tư, nội dung cơ bản của mỗi kịch bản phát triển kinh tế - xã hội ứng phó với
dịch Covid-19 không phải là GDP tăng trưởng bao nhiêu hay lạm phát thế nào hay
kim ngạch XNK tăng giảm ra sao mà là hệ thống các chính sách để giảm thiểu thiệt
hại do dịch Covid-19 gây ra, sớm phục hồi sản xuất kinh doanh, ổn định đời sống
nhân dân. Đến lượt mình, các chính sách đó cần đảm bảo cả 3 chữ hiệu gồm hiệu
quả, hiệu lực và hiệu ứng. Tính nhất quán, đồng bộ cần được xuyên suốt từ chính
sách tín dụng, tiền tệ, tài khóa, tỷ giá hối đoái, đến thương mại, đầu tư,...
Đầu tháng 3/2020, gói hỗ trợ có trị giá lên tới trên 300 ngàn tỷ (285 ngàn hỗ trợ tín
dụng ngân hàng và 30 ngàn hỗ trợ thuế) là chưa từng có từ trước tới nay. Về tính
chất, gói hỗ trợ khổng lồ không phải là kích cầu như gói kích thích kinh tế 20092010 nhưng những bài học đắt giá 10 năm trước rất cần thiết cho gói hỗ trợ lần
này, đặc biệt là bài học về hỗ trợ đúng đối tượng và tránh thất thoát, tham nhũng.
Trước hết, nguyên nhân phải có gói hỗ trợ là do ảnh hưởng dịch Covid-19 khiến
cho chuỗi cung ứng bị đứt ở mắt xích TQ trong khi có không ít lĩnh vực sản xuất
kinh doanh của VN phụ thuộc tới 70 - 80% nguồn nguyên liệu từ Trung Quốc. Đây
là cú sốc cung vô tiền khoáng hậu. Thứ hai, do ảnh hưởng của dịch Covid-19, thị
trường du lịch lao dốc không phanh, hơn nữa những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng
nề nhất của dịch lại là những thị trường du lịch hàng đầu của VN. Ngành du lịch
chịu tác động nặng nề nhất và kéo theo hàng loạt lĩnh vực liên quan như vận tải
hành khách, dịch vụ ăn uống ngoài gia đình, vui chơi giải trí,... Thứ ba, tiếp sau cú
sốc cung là cú sốc cầu khi thị trường xuất khẩu của Việt Nam bị thu hẹp và hầu hết
các doanh nghiệp FDI nằm trong chuỗi giá trị toàn cầu vốn đang gián đoạn nghiêm
trọng. Thứ tư, do dịch Covid-19 nên niềm tin tiêu dùng sụt giảm đi đôi với hiện
tượng thất nghiệp tạm thời và giảm sút thu nhập nên thị trường tiêu dùng trong
nước co lại. Những doanh nghiệp trực tiếp chịu tác động của dịch Covid-19 gặp
khó khăn kéo theo các doanh nghiệp là đối tác bạn hàng cũng khó khăn hơn. Vì
vậy, gói hỗ trợ là cần thiết nhưng phải đúng đối tượng và dựa trên nguyên tắc thị
trường. Các hỗ trợ tài chính như giãn, hoãn trả nợ ngân hàng và nộp thuế dành cho
các doanh nghiệp gặp khó khăn tạm thời có khả năng phục hồi sau khi dịch Covid19 đi qua. Sự hỗ trợ chỉ là tạm thời, không phải cho không hay xóa nợ hoàn toàn.
Hỗ trợ này giúp doanh nghiệp giảm nhẹ gánh nặng nghĩa vụ tài chính, duy trì sự
tồn tại chờ phục hồi. Quan trọng hơn là gói hỗ trợ tín dụng lãi suất thấp khác hẳn
gói hỗ trợ 4% lãi suất năm 2009 ở chỗ không có nguồn gốc NSNN và không do cơ
quan nhà nước quản lý điều hành mà do các NHTM chủ động quản lý và thực hiện.
Vì vậy phải căn cứ vào thị trường. Đối tượng hỗ trợ tín dụng trước hết là doanh
nghiệp có thể sớm giúp nối lại chuỗi cung ứng thay thế mắt xích bị đứt. Thứ hai là
doanh nghiệp giúp khai thác thị trường tiêu thụ sản phẩm, cả trong và ngoài nước.
Thứ ba là doanh nghiệp có thể duy trì cả yếu tố đầu vào và đầu ra song gặp khó
khăn về vốn. NHTM và thị trường tài chính cần giám sát để dòng vốn rẻ này để
không bị đổ vào BĐS hay chứng khoán như trường hợp gói kích thích 2009. Hơn
nữa, NHTM tự quyết định và tự chịu trách nhiệm về giải ngân gói hỗ trợ chứ
Chính phủ không can thiệp và càng không bảo lãnh “ngầm” như thời kỳ 20092010.
Tóm lại, chính sách tiền tệ tín dụng năm 2020 vẫn phải là ưu tiên ổn định kinh tế
vĩ mô, kiểm soát lạm phát đồng thời hướng dòng vốn tín dụng hỗ trợ vào đúng đối
tượng, đúng nhu cầu nhằm giải quyết đúng những vấn đề mà doanh nghiệp phải
đối mặt do tác động của dịch Covid-19. Theo đó, các biện pháp giãn hoãn thuế phí
và nợ nhằm hỗ trợ doanh nghiệp giảm gánh nặng tài chính quan trọng hơn nhiều so
với cắt giảm lãi suất hay/và phá giá VND./.