Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

Nghiên cứu khoa học: Thực trạng và giải pháp kiểm soát hoạt động chuyển giá của các công ty đa quốc gia tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (339.02 KB, 60 trang )

LỜI CẢM ƠN
Nghiên cứu khoa học dường như đã trở nên quen thuộc với mỗi sinh viên. Với sự
đam mê, lòng nhiệt huyết, tinh thần ham học hỏi, cùng với phong trào sinh viên làm
nghiên cứu khoa học của Trường Đại học Thương Mại nói chung, khoa Kinh tế và
Kinh doanh quốc tế nói riêng, đã thôi thúc nhóm chúng tôi cùng nhau tìm hiểu và
nghiên cứu đề tài: “Thực trạng và giải pháp kiểm soát hoạt động chuyển giá của các
công ty đa quốc gia tại Việt Nam”.
Để thực hiện và hoàn thành đề tài nghiên cứu này nhóm chúng tôi đã nhận được
sự giúp đỡ cũng như động viên, quan tâm từ nhiều cá nhân và tổ chức, sự động viên từ
thầy cô và bạn bè.
Trước hết nhóm chúng tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới Th.s Phan Thu Giang
người trực tiếp hướng dẫn chúng tôi làm nghiên cứu khoa học, đã luôn dành nhiều thời
gian công sức giúp đỡ chúng tôi hoàn thành đề tài này.
Nhóm chúng tôi xin cảm ơn Ban Giám hiệu Trường Đại học Thương Mại, cùng
toàn thể đội ngũ giảng viên đã tận tình truyền đạt cho chúng tôi những kiến thức bổ
ích, ý nghĩa, giúp đỡ chúng tôi trong quá trình làm nghiên cứu khoa học.
Tuy có nhiều cố gắng, song vì chưa có nhiều kinh nghiệm trong làm nghiên cứu
khoa học nên đề tài này không thể tránh khỏi những sai sót. Vì vậy nhóm chúng tôi rất
mong muốn nhận được ý kiến đóng góp phản hồi từ những thầy cô trong khoa cũng
như trong trường để đề tài nghiên cứu được hoàn thiện hơn.
Chúng tôi xin trân trọng cảm ơn!

i


MỤC LỤC
Liên quan đến đề tài chuyển giá, trước đó cũng đã có những nghiên cứu được thực hiện như:.......2

ii



DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1: Thành phần vốn đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài năm 2019................................32
Bảng 2: Sự thay đổi các hướng dẫn kiểm soát chuyển giá dựa trên các văn bản pháp luật. .35
Bảng 3: Kết quả thanh tra doanh nghiệp FDI tại một số địa phương.....................................39

iii


DANH MỤC VIẾT TẮT
TÊN VIẾT TẮT
MNCs
MNE
FDI
TNCs
NSNN
IRS
OECD

TÊN TIẾNG VIỆT
Công ty đa quốc gia

TÊN TIẾNG ANH
Multinational Corporations
Multinatinal Enterprises
Doanh nghiệp có vốn đầu tư Foreign Direct Investment
nước ngoài
Công ty Xuyên quốc gia
Transational Corporations
Ngân sách Nhà Nước
Cơ quan thuế nội địa Hoa Kỳ

Internal Revenue Service
Tổ chức hợp tác kinh tế và phát Organization for Economic
triển

Cooperation

and

Development
DN
APA

Doanh nghiệp
Nguyên tắc giá thị trường

American

Psychological

Asscociation
ĐTNN
GCNDKĐT

Đầu tư nước ngoài
Giấy chứng nhận đăng ký đầu

ALP


Nguyên tắc căn bản giá thị Arm’s Length Principle


WTO

trường
Tổ chức Kinh tế thế giới

iv

World Trade Organization


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Trong những năm gần đây, hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam ngày càng phát
triển cùng với việc ký kết càng nhiều các hiệp định thương mại tự do, điều đó đã góp
phần thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam, đóng góp vai trò rất
quan trọng đối với sự phát triển của kinh tế xã hội. Đầu tư nước ngoài góp phần thúc
đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, tăng năng lực
sản xuất và xuất khẩu của nền kinh tế, cải thiện cán cân thương mại, tạo việc làm và
cải thiện thu nhập cho người dân, đóng góp nguồn thu ngân sách quốc gia. Đến nay,
Việt Nam đã thu hút được nhiều tập đoàn đa quốc gia (MNCs) và xuyên quốc gia
(TNCs) hàng đầu của thế giới đến đầu tư và kinh doanh như Intel, Samsung, Canon,
Honda, Toyota, BP, Coca-Cola, Adidas, Unilever… Bên cạnh các tác động tích cực mà
các công ty này mang lại, các công ty đa quốc gia đang ngày càng bộc lộ ra điểm tiêu
cực ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của nước ta. Bởi áp lực cạnh tranh ngày
càng cao giữa các tập đoàn, vấn đề tối đa hoá lợi nhuận vẫn luôn là mục tiêu hàng đầu
của các nhà đầu tư nước ngoài. Chuyển giá (transfer pricing) được xem là một trong
những phương pháp mà các nhà đầu tư thường áp dụng nhằm mục đích tránh thuế, từ
đó gia tăng lợi nhuận cho công ty mẹ. Những năm vừa qua, các giao dịch có yếu tố
nước ngoài ngày càng có dấu hiệu của hiện tượng chuyển giá, đặc biệt xảy ra ở các

công ty lớn thường xuyên báo lỗ nhưng vẫn có lượng vốn rót vào để mở rộng quy mô
sản xuất- kinh doanh. Hiện tượng chuyển giá không chỉ gây thiệt hại cho chính phủ
nước chủ nhà do bị thất thu thuế, giảm phần lợi nhuận của bên góp vốn của nước chủ
nhà do giá trị góp vốn của họ thấp mà còn ảnh hưởng tiêu cực đến thương mại quốc tế.
Điều này dẫn đến tình trạng cạnh tranh không lành mạnh với các công ty đa quốc gia
khác và đặc biệt là các công ty nội địa. Tuy chính phủ Việt Nam đã ban hành các quy
định liên quan đến vấn đề chuyển giá nhưng vẫn còn gặp nhiều khó khăn trong việc
quản lý, vì vậy nhóm nghiên cứu đề tài:”Thực trạng và giải pháp kiểm soát hoạt động
chuyển giá của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tại Việt
Nam” nhằm đưa ra những đánh giá khách quan về tình hình thực tế và các giải pháp
của chính phủ nhằm hạn chế tác hại của hiện tượng chuyển giá tại Việt Nam cũng như
đưa ra giải pháp trên cơ sở quan điểm cá nhân cũng như học hỏi kinh nghiệm từ các
nước trên thế giới trong cuộc đấu tranh chống chuyển giá này.
1


1.2. TỔNG QUAN MỘT SỐ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÓ
Liên quan đến đề tài chuyển giá, trước đó cũng đã có những nghiên cứu được
thực hiện như:
(1) Nguyễn Thị Quỳnh Giang (2010): “Chuyển giá tại các công ty đa quốc gia
(MNCs) ở Việt Nam”, Luận án thạc sỹ kinh tế.
Luận án đã làm nổi bật các phương pháp phổ biến mà các công ty MNC thực
hiện nhằm chuyển giá để tiết kiệm số thuế mình đã nộp, làm nổi bật các tác động của
chuyển giá đối với nền kinh tế. Phân tích các động cơ và thủ thuật thực hiện chuyển
giá của các MNC. Nêu lên kinh nghiệm của một số quốc gia từ đó rút ra được bài học
kinh nghiệm quý giá cho Việt Nam. Cũng như những chính sách về thuế quan liên
quan đến vấn đề chuyển giá.
(2) Lê Thanh Hà (2017): “Kiểm soát hoạt động chuyển giá trong các chi nhánh
công ty đa quốc gia tại Việt Nam”, Luận án tiến sỹ kinh tế.
Luận án đã khẳng định chuyển giá là một hoạt động mang tính chất chủ quan của

chi nhánh các công ty đa quốc gia, xuất hiện khi thương mại quốc tế phát triển đến một
trình độ nhất định và ngày càng có xu hướng gia tăng khi các nước tiến hành mở cửa
hội nhập và thu hút đầu tư nước ngoài. Và luận án đã nhận diện các cách thức thực
hiện chuyển giá của chi nhánh các MNCs, từ đó làm nổi bật tác động tiêu cực của hoạt
động này là làm giảm nghĩa vụ thuế đối với Nhà Nước, làm thay đổi cấu trúc của các
giao dịch thương mại, làm sai lệch giá dẫn đến sai lệch trong phân phối lợi ích, tạo ra
khả năng chiếm lĩnh, giành thị phần cũng như thôn tính đối tác với mức chi phí thấp
nhất. Ngoài ra, luận án đã phác họa bức tranh về tình hình chuyển giá tại Việt Nam
cũng như thực trạng công tác kiểm soát chuyển giá trong thời gian qua, đi sâu phân
tích một số trường hợp cụ thể, chỉ ra những kết quả tích cực cũng như những hạn chế
và nguyên nhân hạn chế của công tác kiểm soát chuyển gia , từ đó đề ra các giải pháp
có giá trị về cả mặt chính sách lẫn trên thực tế.
(3) Hội thảo Khoa học Quốc gia: “Chuyển giá và kiểm soát hoạt động chuyển
giá: Những vấn đề lý luận và bài học kinh nghiệm”(2017), Đại học Kinh Tế Quốc
Dân.
Hội thảo là cơ hội gặp gỡ, kết nối và lắng nghe những ý kiến trao đổi từ phía các
vị đại biểu liên quan đến chủ đề chuyển giá và kiểm soát chuyên giá. Hội thảo đã nhận
được rất nhiều bài viết tâm huyết và đã lựa chọn được 29 bài viết có chất lượng để
2


đăng trong kỷ yếu hội thảo. Các bài viết tập trung nghiên cứu về các phương pháp xác
định giá chuyển giao, các dấu hiệu nhận biết chuyển giá và các nhân tố ảnh hưởng đến
chuyển giá của doanh nghiệp, hay những nhận định chuyển giá gây thất thu ngân sách
nhà nước, tạo một môi trường cạnh tranh bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp, ảnh
hưởng đến sự phát triển bền vững và hội nhập kinh tế quốc tế. Nghiên cứu kinh
nghiệm quốc tế về chuyển giá, kiểm soát chuyển giá tại các nước Đông Nam Á, các
nước Châu Á có nền kinh tế chuyển đổi và các nước phát triển. Từ nghiên cứu kinh
nghiệm quốc tế, hướng tới bài học kinh nghiệm cho Việt Nam về xây dựng, hoàn thiện
khung pháp lý về kiểm soát chuyển giá cũng như về thực hiện giám sát, kiểm tra,

thanh tra hoạt động chuyển giá của các doanh nghiệp.
Có thể thấy, vấn đề chuyển giá trong các doanh nghiệp liên kết hiện nay đang
được quan tâm của các nhà hoạch định chính sách cũng như sự quan tâm nghiên cứu
của các nhà khoa học trên toàn cầu. Hầu hết các nghiên cứu trước đây đều không đồng
tình với việc định giá chuyển giao không theo giá thị trường gây ra những tác động
xấu đến bản thân doanh nghiệp. Các nghiên cứu cũng cho thấy quy mô của doanh
nghiệp trong các tập đoàn đa quốc gia và các giao dịch chuyển giao tài sản hữu hình,
tài sản vô hình, hàng hóa, dịch vụ có tác động rất lớn đến gian lận chuyển giá trong các
doanh nghiệp liên kết. Từ lý do trên nhóm chúng tôi đã chọn nghiên cứu đề tài “:
Thực trạng và giải pháp kiểm soát hoạt động chuyển giá của các doanh nghiệp có
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tại Việt Nam” với mong muốn mang đến thêm
sự hiểu biết về “vấn đề chuyển giá” và nêu ra sự tác động của chuyển giá đến các
doanh nghiệp FDI cũng như đối với nền kinh tế của Việt Nam. Từ đó đưa ra được định
hướng và giải pháp giúp kiểm soát các hoạt động chuyển gia của các doanh nghiệp có
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
1.3. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Mục tiêu tổng quát của đề tài này là tìm hiểu, nghiên cứu và phân tích hiện tượng
chuyển giá ngày càng phổ biến trong các doanh nghiệp FDI đang có mặt tại Việt Nam
trong thời gian 10 năm gần đây. Thông qua việc tìm hiểu và nghiên cứu này sẽ đề ra
một số biện pháp kiểm soát hoạt động chuyển giá nhằm đảm bảo ổn định phát triển
kinh tế tại Việt Nam và phù hợp với kinh tế các nước trong khu vực và trên thế giới.

3


Mục tiêu cụ thể:


Làm rõ thêm những vấn đề lý luận về công ty đa quốc gia và hoạt động kiểm


soát chuyển giá


Hoàn thiện khung lý thuyết về môi trường pháp lý liên quan đến hoạt động

chống chuyển giá của Nhà Nước


Phân tích thực trạng kiểm soát hoạt động chuyển giá ở Việt Nam, xem Nhà

nước đã thu được lợi ích gì từ việc đưa ra các quy định liên quan đến hoạt động kiểm
soát chuyển giá


Chỉ ra một số hạn chế vẫn còn tồn tại trong hoạt động kiểm soát chuyển giá của

Nhà Nước và đề xuất một số giải pháp cho các mặt hạn chế đó.
1.4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Thời gian: 2010 – 2019
- Không gian: Các công ty đa quốc gia (MNCs)
1.5. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài ở Việt Nam và hiện tượng chuyển giá của các doanh nghiệp này tại Việt Nam
trong 10 năm trở lại đây. Chuyển giá là một vấn đề rất nhạy cảm trong việc kinh doanh
của các doanh nghiệp cũng như là đối với cơ quan quản lý nhà nước, vì vậy trong đề
tài sẽ tập trung vào các sự kiện đã được công bố trên phương tiện truyền thông đại
chúng và trong giới hạn các nghiên cứu sẵn có
1.6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đề tài sử dụng các phương pháp phân tích và tổng hợp, so sánh - đối chiếu, vận
dụng các kết quả nghiên cứu đạt được để phân tích và tìm ra điểm mới.



Phương pháp phân tích và tổng hợp

Nhóm sẽ thu thập một số báo cáo tài chính cũng như báo cáo kết quả thanh tra
của Tổng cục Thuế và Chi cục Thuế, một số kết luận thanh tra các vi phạm về nghĩa vụ
thuế nói chung, nghi vấn chuyển giá của Thanh tra Bộ Tài chính; các văn bản quy
phạm pháp luật có liên quan. Cùng với đó là các đề án, công trình nghiên cứu khoa
học các cấp, các luận án tiến sĩ kinh tế, thạc sĩ kinh tế, các bài báo khoa học có liên
quan đến các công ty đa quốc gia và hoạt động chuyển giá. Phân tích các tài liệu này
và tổng hợp một cách khái quát, dễ hiểu phù hợp với một bài nghiên cứu cấp sinh viên


Phương pháp so sánh- đối chiếu

4


Phương pháp này được sử dụng để đối chiếu các quy định trong hệ thống pháp
luật của Việt Nam với các quy định quốc tế như OECD cũng như so sánh với chính
sách thuế, phương pháp định giá chuyển giao nội bộ cũng như các vấn đề khác có liên
quan.
Phương pháp này cũng được sử dụng để đối chiếu, phân tích sự thay đổi của các
quy định về kiểm soát chuyển giá tại Việt Nam qua các thời kỳ, rằng mỗi quy định có
các hạn chế gì, cần thiết phải sửa đổi hay không


Phương pháp nghiên cứu tình huống

Phương pháp chỉ ra một số trường hợp chuyển giá điển hình ở các công ty đa

quốc gia tại Việt Nam, đồng thời nghiên cứu cách thức mà các quốc gia trên thế giới
ứng phó với hoạt động chuyển giá và rút ra kinh nghiệm cho Việt Nam


Để có thể nhìn nhận tương đối chính xác về các vấn đề liên quan đến hiện

tượng chuyển giá, ngoài một số thông tư, văn bản quy định của nhà nước và quốc tế,
nhóm nghiên cứu thêm một số bài báo liên quan đến hoạt động kiểm soát chuyển giá.
Phương pháp nghiên cứu của đề tài là đi từ thực trạng tình hình chuyển giá và công tác
chống chuyển giá tại Việt Nam và kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới, từ đó
kiến nghị các giải pháp cho vấn đề kiểm soát hoạt động chuyển giá tại Việt Nam.
1.7. KẾT CẤU BÀI NGHIÊN CỨU
Chương 1: Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Chương 2: Các vấn đề lý thuyết về hoạt động chuyển giá ở các công ty đa quốc gia
Chương 3: Thực trạng hoạt động chuyển giá và chống chuyển giá của các công ty đa
quốc gia ở Việt Nam
Chương 4: Kiến nghị giải pháp và các phát hiện nghiên cứu

5


CHƯƠNG 2: CÁC VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT VỀ HOẠT ĐỘNG CHUYỂN GIÁ Ở
CÁC CÔNG TY ĐA QUỐC GIA
2.1. MỘT SỐ LÝ THUYẾT CƠ BẢN VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC
NGOÀI
2.1.1. Khái niệm
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (tiếng Anh: Foreign Direct Investment, viết tắt là
FDI) là hình thức đầu tư dài hạn của cá nhân hay công ty nước này vào nước khác
bằng cách thiết lập cơ sở sản xuất, kinh doanh. Cá nhân hay công ty nước ngoài đó sẽ
nắm quyền quản lý cơ sở sản xuất kinh doanh này.

2.1.2. Bản chất
- FDI mặc dù vẫn chịu sự chi phối của Chính phủ, nhưng nó ít bị lệ thuộc hơn
vào quan hệ chính trị hai bên nếu so sánh với hình thức tín dụng quan hệ quốc tế.
- Bên nước ngoài trực tiếp tham gia quá trình kinh doanh của doanh nghiệp, nên
họ trực tiếp kiểm soát sự hoạt động và đưa ra những quyết định có lợi nhất cho việc
đầu tư. Vì vậy mức độ khả thi của công cuộc đầu tư khá cao, đặc biệt trong việc tiếp
cận thị trường quốc tế để mở rộng xuất khẩu.
- Do quyền lợi của chủ đầu tư nước ngoài gắn liền với lợi ích do đầu tư đem lại
cho nên có thể lựa chọn kỹ thuật, công nghệ thích hợp, nâng cao dần trình độ quản lý,
tay nghề cho công nhân ở nước tiếp nhận đầu tư.
- FDI liên quan đến việc mở rộng thị trường của các công ty đa quốc gia và sự
phát triển của thị trường tài chính quốc tế và thương mại quốc tế.
2.1.3. Vai trò
2.1.3.1. Đối với nước đi đầu tư:
(1) Đứng trên góc độ quốc gia:
Hình thức đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là cách để các quốc gia có thể mở rộng
và nâng cao quan hệ hợp tác về nhiều mặt đối với các quốc gia khác mà mình sẽ đầu
tư. Khi một nước đầu tư sang nước khác một mặt hàng thì nước đó thường có những
ưu thế nhất định về mặt hàng như về chất lượng, năng suất và giá cả cùng với chính
sách hướng xuất khẩu của nước này; thêm vào đó là sự có một sự sẵn sàng hợp tác
chấp nhận sự đầu tư đó của nước sở tại cùng với những nguồn lực thích hợp cho sản
phẩm đó. Mặt khác, khi đầu tư FDI nước đi đầu tư có rất nhiều có lợi về kinh tế cũng
như chính trị:
6


- Thứ nhất, quan hệ hợp tác với nước sở tại được tăng cường và vị thế của nước
đi đầu tư được nâng lên trên trường quốc tế.
- Thứ hai, mở rộng được thị trường tiêu thụ sản phẩm, khi trong nước sản phẩm
đang thừa mà nước sở tại lại thiếu.

- Thứ ba, giải quyết công ăn việc làm cho một số lao động, vì khi đầu tư sang
nước khác, thì nước đó phải cần có những người hướng dẫn, hay còn gọi là các chuyên
gia trong lĩnh vực này. Đồng thời tránh được việc phải khai thác các nguồn lực trong
nước, như tài nguyên thiên nhiên hay ô nhiễm môi trường.
- Thứ tư, đó là vấn đề chính trị, các nhà đầu tư nước ngoài có thể lợi dụng những
kẻ hở của pháp luật, sự yếu kém về quản lý hay sự ưu đãi của Chính phủ nước sở tại sẽ
có những mục đích khác như làm gián điệp.
(2) Đứng trên góc độ doanh nghiệp:
Mục đích của doanh nghiệp cũng như mục đích của một quốc gia thường là lợi
nhuận, lợi nhuận càng nhiều càng tốt. Một khi trong nước hay các thị trường quen
thuộc bị tràn ngập những sản phẩm của họ và sản phẩm cùng loại của đối thủ cạnh
tranh thì họ phải đầu tư ra nước khác để tiêu thụ số sản phẩm đó. Trong khi đầu tư ra
nước ngoài, họ chắc chắn sẽ tìm thấy ở nước sở tại những lợi thế so sánh so với thị
trường cũ như lao động rẻ hay tài nguyên chưa bị khai thác nhiều.
Một nguyên nhân nữa là họ có thể bán được những máy móc và công nghệ cũ kỹ
lạc hậu hay bị hao mòn vô hình do thời gian với giá cao nhưng lại là mới đối với nước
nhận đầu tư (khi nước đầu tư là nước đang phát triển).
Thêm vào đó, là sản phẩm của họ được bán tại thị trường này sẽ ngày càng tăng
uy tín và tiếng tăm cho nó và làm tăng sức cạnh tranh đối với các đối thủ có sản phẩm
cùng loại.
2.1.3.2. Đối với nước nhận đầu tư:
(1) Những mối lợi:
Chuyển giao vốn, công nghệ và năng lực quản lý (chuyển giao nguồn lực): Đối
với một nước lạc hậu, trình độ sản xuất kém, năng lực sản xuất chưa được phát huy
kèm với cơ sở vật chất kỹ thuật nghèo nàn thì việc tiếp thu được một nguồn vốn lớn,
công nghệ phù hợp để tăng năng suất và cải tiến chất lượng sản phẩm, trình độ quản lý
chặt chẽ là một điều hết sức cần thiết.

7



Như ta đã biết thì công nghệ chính là trung tâm của sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá một đất nước đang phát triển như nước ta. Chúng ta cần có vốn và công
nghệ để có thể thực hiện được nó. Khi đầu tư trực tiếp diễn ra thì công nghệ được du
nhập vào trong đó có cả một số công nghệ bị cấm xuất theo con đường ngoại thương,
các chuyên gia cùng với các kỹ năng quản lý sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của công
nghệ này, do vậy các cán bộ bản địa có thể học hỏi kinh nghiệm của họ.
Trên thực tế có nhiều mức độ phụ thuộc khác nhau vào nguồn FDI ở các nước
đang phát triển. Từ năm 1973, khi có nhiều nước chuyển sang đi vay các nước khác,
những luồng vốn chảy vào đó đã góp phần quan trọng cho việc hình thành vốn của
một vài nước đang phát triển. Giữa năm 1979 và năm 1981, luồng vốn đầu tư trực tiếp
chiếm khoảng 25% trong tổng số vốn cố định được đầu tư của Singapore; 11% ở
Malaysia; gần 5% ở Chile và Philippines; khoảng 15% tại Brazil, Indonesia, Mexico,
còn ở Hàn Quốc, Ấn Độ và Nigeria không đáng kể. Tuy nhiên, những con số này chưa
phản ánh đủ sự đóng góp của các doanh nghiệp thuộc sở hữu nước ngoài vào tổng số
vốn được đầu tư. Lợi nhuận tái đầu tư đã không được kể đến ở một số nước đang phát
triển; ngoài ra, quỹ khấu hao của các doanh nghiệp FDI đã trang trải cho một phần cơ
bản của các khoản chi tiêu trong tổng số vốn của các nước này, mà lại không đưa vào
định nghĩa FDI.
Có những khác biệt lớn giữa các nước về mức độ thay thế của FDI cho các luồng
vốn nước ngoài khác, do những khác biệt trong cơ cấu kinh tế có những tác động đến
sức hấp dẫn của đất nước đối với các nhà đầu tư, cũng như những khác biệt trong các
yếu tố kinh tế vĩ mô đòi hỏi phải có các luồng vốn chảy vào. Các nước có thị trường
nhỏ bé, ít các nguồn lực tự nhiên, kết cấu hạ tầng yếu kém và ít khả năng xuất khẩu
hàng công nghiệp thì ít có khả năng thu hút các nguồn FDI lớn, ngay cả khi có những
quy chế tự do và những ưu đãi hào phóng. Về cơ bản, các nước đó nói chung cũng
không có khả năng vay nợ theo các điều kiện thương mại thông thường, và chủ yếu
dựa vào kết quả ưu đãi. Kết quả là những khả năng thay thế giữa tín dụng thương mại
nước ngoài và FDI chủ yếu có liên quan tới các nước lớn, có nguồn tài nguyên thiên
nhiên dồi dào, hoặc có khu vực công nghiệp khá phát triển. Các nước đã có được một

số lượng lớn các nguồn FDI nói chung cũng sẽ dễ tác động hơn tới cơ cấu tương lai
của nguồn vốn, bởi vì họ cũng có thể tác động tới hoạt động FDI thông qua cơ cấu tài
chính của các chi nhánh hiện hữu thuộc các công ty nước ngoài, và cụ thể là tới số
8


lượng vay từ các nguồn trong nước và các nguồn khác ở nước ngoài. Nhưng so với
vay nước ngoài, FDI có xu hướng tập trung nhiều hơn tại một số ít nước.
Những nguyên nhân kinh tế vĩ mô của các luồng vốn vào cũng có thể ảnh hưởng
lớn tới mức độ thay thế giữa FDI và tín dụng thương mại với tư cách là nguồn vốn
nước ngoài. Tại các nước có các thị trường vốn phát triển, các nguồn gốc mất cân bằng
kinh tế vĩ mô riêng lẻ có thể chỉ có tác động hạn chế tới cơ cấu luồng vốn vào. Tuy
nhiên, phần lớn các nước đang phát triển đều có các thị trường vốn trong nước phân
tán, và đối với các nước này, những nguyên nhân làm cho luồng vốn chảy vào có ý
nghĩa lớn hơn. Có ba loại yếu tố khiến cần thiết phải có các luồng vốn chảy vào ngày
càng nhiều, thể hiện khả năng thay thế khác nhau giữa FDI và vay nước ngoài:
- Thứ nhất là, tổng cầu có thể tăng lên tương đối so với tổng cung do chỉ tiêu tăng
thêm vào các dự án đầu tư mà chúng được coi là có khả năng thành công về mặt tài
chính. Nếu hoạt động đầu tư ấy diễn ra trong khu vực tư nhân thì khả năng thay thế sẽ
cao, miễn là các quy định về thuế khoá và quy chế tỏ ra thích hợp đối với FDI. Nếu
hoạt động đầu tư ấy được thực hiện chủ yếu bởi các doanh nghiệp nhà nước, thì tại
nhiều nước, khả năng thay thế sẽ thấp do các hàng rào thể chế ngăn cản hoạt động
FDI. Tuy nhiên, vẫn có khả năng lớn cho sự tham gia cổ phần của nước ngoài thông
qua những thỏa thuận đầu tư liên doanh với các doanh nghiệp nhà nước thích hợp, với
điều kiện những hình thức này là phù hợp với phương hướng phát triển chung của
nước nhận đầu tư. Những thoả thuận như vậy là phổ biến trong ngành thăm dò và khai
thác khoáng sản, một ngành có nhiều rủi ro với vốn cổ phần nước ngoài hoạt động liên
kết với các công ty nhà nước, nhưng chúng còn được thấy rõ trong nhiều khu vực khác
nữa. Brazil đã khuyến khích hoạt động đầu tư liên doanh, bao gồm sự kết hợp của nhà
nước với vốn cổ phần tư nhân trong nước cũng như nước ngoài, đặc biệt là trong

ngành công nghiệp hoá dầu. Kinh nghiệm của Trung Quốc, một nước hiện nay đang sử
dụng nguồn FDI nhiều hơn so với hình thức vay tín dụng thương mại nước ngoài, cho
thấy rằng hệ thống doanh nghiệp nhà nước không nên cản trở sự thay thế giữa các hình
thức khác nhau của vốn nước ngoài. Một biện pháp chính để thường xuyên thay thế đó
là việc đưa ra những bảo đảm của nhà nước đối với các khoản vay do các doanh
nghiệp nhà nước vay của ngân hàng thương mại nước ngoài. Điều này làm giảm bớt
chi phí vay tín dụng thương mại cho doanh nghiệp, vì nhà nước gánh chịu một phần sự

9


rủi ro của người cho vay, do vậy, nó trở nên tương đối hấp dẫn hơn đối với các doanh
nghiệp nhà nước, nếu so với hình thức tham gia cổ phần của phía nước ngoài.
- Thứ hai là, tổng cầu có thể tăng lên tương đối so với tổng cung, do chi tiêu
nhiều hơn cho tiêu dùng hoặc cho các dự án đầu tư được coi như không khả thi về tài
chính (bao gồm các dự án về kết cấu hạ tầng có thể đưa lại lợi nhuận kinh tế nói chung
cao hơn, nhưng lại không tạo ra một nguồn thu trực tiếp nào). Sự vượt quá của nhu cầu
như vậy thường xảy ra ở dưới dạng những thâm hụt lớn về tài chính, ví dụ như chi tiêu
nhà nước vào các khoản trợ cấp, các khoản trả lương cao hơn hoặc sự mở rộng kết cấu
hạ tầng xã hội. Trong trường hợp này, FDI khó có thể thay thế việc Chính phủ hoặc
ngân hàng TW đi vay nước ngoài. Sẽ không có những dự án đầu tư bổ xung có khả
năng thu hút các nhà đầu tư trực tiếp. Về nguyên tắc, khoản vay mượn cao hơn ở trong
nước do Chính phủ thực hiện sẽ làm tăng mức lãi suất ở trong nước và dẫn tới các
luồng vốn chảy vào hoặc đầu tư trực tiếp lớn hơn. Tuy nhiên, trong thực tế, những ảnh
hưởng gián tiếp đó tới các luồng vốn nước ngoài là có hạn, bởi vì ở nhiều nước đang
phát triển, thị trường vốn bị phân tán và không có các chính sách linh hoạt.
- Cuối cùng, một phần vốn vay nước ngoài của các nước đang phát triển thường
không dùng để trang trải cho sự gia tăng trong tổng chi phí quốc nội mà để bù vào
luồng vốn chảy ra của tư nhân. Khả năng thay thế sự vay mượn đó bằng đầu tư trực
tiếp là thấp, đặc biệt là do chính sách tỷ giá hối đoái và lãi suất không thích hợp.

Những chính sách này thường gây ra sự thất thoát vốn, và như vậy cũng thường không
thúc đẩy được hoạt động FDI.
Do đó, mức độ thay thế vay nước ngoài bằng FDI trong thập kỷ vừa qua của các
nước đang phát triển có lẽ phụ thuộc vào cách thức sử dụng khoản vay mượn đó. Phần
lớn số vốn vay sau hai lần tăng đột biến giá dầu lửa là nhằm hỗ trợ cho thâm hụt cán
cân thanh toán ngắn hạn. Đối với khoản vay đó, khả năng thay thế là rất thấp. Tuy
nhiên, phạm vi chuyển dịch giữa các hình thức vốn vào có lẽ đã tăng lên theo độ dài
của thời kỳ diễn ra sau sự mất cân đối đối ngoại ban đầu. Về vấn đề này, bằng chứng
nêu ra trên tờ Triển vọng Kinh tế Thế giới 1983 về nguồn vốn đã cho thấy rằng, đối
với hầu hết các nước vay mượn lớn nhất trong số các nước đang phát triển không sản
xuất dầu lửa, sự gia tăng nợ nước ngoài trong thập kỷ vừa qua đã gắn liền với mức đầu
tư cao hơn và phần lớn không sử dụng vào việc chi cho tiêu dùng. Tuy nhiên, một bộ

10


phận đầu tư lớn cần được dành cho các dự án về kết cấu hạ tầng, nhưng chúng không
thu hút được FDI.
Những hoạt động chuyển giao công nghệ (bao gồm cả năng lực quản lý và
marketing) khó đo lường hơn so với các luồng chảy vào, nhưng phần lớn chuyển giao
đã diễn ra ở công ty mẹ ở nước ngoài và các chi nhánh của chúng. Tuy nhiên, cũng cần
thấy rằng tầm quan trọng của các hoạt động chuyển giao công nghệ trong nội bộ các
công ty như thế tùy thuộc vào những chuyển giao từ các phía khác nhau. Tại Hàn
Quốc là nơi FDI được điều chỉnh và hướng vào các khu riêng biệt, gần 3/4 số hợp
đồng cấp giấy phép sản xuất của nước ký kết; tuy nhiên, ở Singapore là nơi có tương
đối ít những hạn chế về đầu tư trực tiếp, hầu hết các hợp đồng cấp giấy phép sản xuất
đã được ký kết bởi các công ty có ít nhất một phần thuộc quyền sở hữu nước ngoài.
Trong các ngành sử dụng kỹ thuật mới hoặc kỹ thuật đặc thù của doanh nghiệp (như
các ngành điện tử), đa số các hoạt động chuyển giao diễn ra giữa các công ty mẹ và chi
nhánh thuộc quyền sở hữu hoàn toàn hoặc sở hữu một phần lớn của công ty mẹ; do có

sự lo lắng tới việc duy trì sự kiểm soát chặt chẽ đối với kỹ thuật công nghệ có liên
quan. Tuy nhiên, trong nhiều ngành khác, các hoạt động chuyển giao công nghệ diễn
ra thông qua các hợp đồng cấp giấy phép sản xuất khác nhau đã tăng lên nhanh hơn so
với sự chuyển giao công nghệ thông qua FDI.
Các nhà đầu tư gánh chịu rủi ro: Đầu tư trực tiếp khác với đầu tư gián tiếp là nhà
đầu tư phải tự đứng ra quản lý đồng vốn của mình, tự chịu trách nhiệm trước những
quyết định đầu tư của mình, do vậy độ rủi ro cao hơn so với đầu tư gián tiếp. Các nước
nhận đầu tư trực tiếp do vậy cũng không phải lo trả nợ hay như đầu tư gián tiếp theo
mức lãi suất nào đó hay phải chịu trách nhiệm trước sự phá sản hay giải thể của nhà
đầu tư nước ngoài.
Tăng năng suất và thu nhập quốc dân; cạnh tranh hơn, hiệu quả kinh tế hơn: Do
có công nghệ cùng với trình độ quản lý được nâng lên nên đối với các ngành sản xuất
thì việc tăng năng suất là điều tất yếu. Không những thế những công nghệ này còn cho
ra những sản phẩm có chất lượng cao hơn, tính năng đa dạng hơn, bền hơn và với
những mẫu mã đa dạng, hàng hoá lúc này sẽ nhiều và tất nhiên sẽ rẻ hơn so với trước.
Điều này chính là cung tăng lên nhưng thực ra nó tăng lên để đáp ứng lại lượng cầu
cũng tăng lên rất nhanh do quá trình đầu tư có tác động vào. Tốc độ quay của vòng
vốn tăng lên nhanh hơn, do vậy sản phẩm cũng được sản xuất ra nhiều hơn và tiêu thụ
11


cũng nhiều hơn. Do sự tiêu thụ được tăng lên do vậy các ngành sản xuất, dịch vụ được
tiếp thêm một luồng sức sống mới, nhân lực, máy móc và các nguyên vật liệu được
đưa ngay vào sản xuất, từ đó sức đóng góp của các ngành này vào GDP cũng đã tăng
lên.
Việc có được những công ty có hiệu quả với khả năng cạnh tranh trên thị trường
thế giới có thể đưa lại một sự khai thông quan trọng, tiềm tàng cho việc chuyển giao
các kỹ năng quản lý và công nghệ cho các nước chủ nhà. Điều này có thể xảy ra ở bên
trong một ngành công nghiệp riêng rẽ, trong đó có những người cung ứng các đầu vào
cho các chi nhánh nước ngoài, những người tiêu dùng trong nước đối với các sản

phẩm của chi nhánh này và những đối thủ cạnh tranh của chúng, tất cả đều muốn lựa
chọn những phương pháp kỹ thuật có hiệu quả hơn. Nó cũng có thể diễn ra một cách
rộng rãi hơn trong nội bộ nền kinh tế thông qua sự tăng cường có kết quả công tác đào
tạo và kinh nghiệm của lực lượng lao động và thông qua sự khuyến khích có thể có đối
với các ngành hỗ trợ tài chính và kỹ thuật có khả năng dẫn tới sự hạ thấp toàn bộ chi
phí công nghiệp.
Khuyến khích năng lực kinh doanh trong nước: Do có các nhà đầu tư nước ngoài
nhảy vào các thị trường vốn có các nhà đầu tư trong nước chiếm giữ phần lớn thị phần,
nhưng ưu thế này sẽ không kéo dài đối với nhà đầu tư trong nước khi ưu thế về nguồn
lực của nhà đầu tư nước ngoài trội hơn hẳn. Chính vì vậy các nhà đầu tư trong nước
phải đổi mới cả quá trình sản xuất của mình từ trước từ khâu sản xuất đến khâu tiêu
thụ bằng việc cải tiến công nghệ và phương pháp quản lý để có thể trụ vững trên thị
trường đó. Đó chính là một trong những thử thách tất yếu của nền kinh tế thị trường
đối với các nhà sản xuất trong nước, không có kẻ yếu nào có thể tồn tại nếu không tự
nó làm mình mạnh lên để sống trong cơ chế đó.
Tiếp cận với thị trường nước ngoài: Nếu như trước đây khi chưa có FDI, các
doanh nghiệp trong nước chỉ biết đến có thị trường trong nước, nhưng khi có FDI thì
họ được làm quen với các đối tác kinh tế mới không phải trong nước. Họ chắc chắn sẽ
nhận thấy rất nhiều nơi cần cái họ đang có, và họ cũng đang cần thì ở nơi đối tác lại
có, do vậy cần phải tăng cường hợp tác sẽ có nhiều sản phẩm được xuất khẩu để thu
ngoại tệ về cho đất nước đồng thời cũng cần phải nhập khẩu một số loại mặt hàng mà
trong nước đang cần. Từ các việc trao đổi thương mại này sẽ lại thúc đẩy các công

12


cuộc đầu tư giữa các nước. Như vậy quá trình đầu tư nước ngoài và thương mại quốc
tế là một quá trình luôn luôn thúc đẩy nhau, hỗ trợ nhau và cùng phát triển.
Chuyển đổi cơ cấu kinh tế: Đầu tư nước ngoài góp phần tích cực trong việc
chuyển đổi cơ cấu kinh tế của nước sở tại theo chiều hướng tích cực hơn. Nó thường

tập trung vào những ngành công nghệ cao có sức cạnh tranh như công nghiệp hay
thông tin. Nếu là một nước nông nghiệp thì bây giờ trong cơ cấu kinh tế các ngành đòi
hỏi cao hơn như công nghiệp và dịch vụ đã tăng lên về tỷ trọng và sức đóng góp cho
Ngân sách, GDP và cho xã hội nói chung. Ngoài ra về cơ cấu lãnh thổ, nó có tác dụng
giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng
kém phát triển thoát khỏi tình trạng nghèo đói, phát huy tối đa những lợi thế so sánh về
tài nguyên, đưa những tiềm năng chưa khai phá vào quá trình sản xuất và dịch vụ, và
làm bàn đạp thúc đẩy những vùng khác cùng phát triển.
(2) Những thua thiệt:
Vốn nước ngoài rất hạn chế: Mặc dù tính tổng thể vốn đầu tư trực tiếp lớn hơn và
quan trọng hơn đầu tư gián tiếp, nhưng so với đầu tư gián tiếp thì mức vốn trung bình
của một dự án đầu tư là thường nhỏ hơn nhiều. Do vậy tác động kịp thời của một dự án
đầu tư trực tiếp cũng không tức thì như dự án đầu tư gián tiếp. Hơn thế nữa các nhà
đầu tư trực tiếp thường thiếu sự trung thành đối với thị trường đang đầu tư, do vậy
luồng vốn đầu tư trực tiếp cũng rất thất thường, đặc biệt khi cần vốn đầu tư trực tiếp
thì nó lại rất ít làm ảnh hưởng đến kế hoạch kinh tế chung của đất nước nhận đầu tư.
Công nghệ không thích hợp, “giá chuyển nhượng nội bộ” cùng với việc giảm
tính linh hoạt trong xuất khẩu, ảnh hưởng đến cán cân thanh toán: người ta cho rằng
các công ty có sự kiểm soát nước ngoài có thể sử dụng các kỹ thuật sản xuất sử dụng
nhiều tư bản là chủ yếu (mà chúng sẵn có, nhưng không thích hợp) dẫn tới sự chuyển
giao công nghệ không đầy đủ ở mức chi phí quá cao (để duy trì ưu thế công nghệ),
định ra những giá cả chuyển nhượng giao cao một cách giả tạo (để bòn rút lợi nhuận
quá mức), gây ra sự căng thẳng cho cán cân thanh toán (bởi vì với tư cách là một bộ
phận của các chi nhánh sản xuất đa quốc gia, các doanh nghiệp đó có thể có ít khả
năng hơn so với các công ty thuộc quyền kiểm soát trong nước trong việc mở rộng
xuất khẩu, và có thể phải lệ thuộc nhiều vào hàng nhập khẩu). Bản chất thông tin của
công nghệ được chuyển giao, cho nên nó được chuyển giao trong một thị trường
không hoàn hảo cao độ mà trong đó thường khó có thể cố định giá cả một cách chính
13



xác. Các nước đang phát triển thường xuyên ở vào vị trí thương lượng yếu hơn trong
các thị trường này, đặc biệt là khi họ thiếu lực lượng cán bộ chuyên môn để có thể giúp
xác định mức đóng góp thích hợp của hoạt động chuyển giao công nghệ cần thiết.
Điều này có thể đặc biệt đúng khi công nghệ được chuyển giao như một yếu tố trong
hệ thống các nguồn lực do FDI đưa vào, bởi vì thường không được biết rõ các chi phí
chính xác của công nghệ đó. Một số nước đang phát triển đã cố gắng tăng cường vị trí
thương lượng của họ bằng cách đặt ra những giới hạn cho các khoản tiền trả sử dụng
bản quyền phát minh (chẳng hạn trả theo tỷ lệ cố định phần trăm của doanh thu) hoặc
bằng cách thiết lập các thủ tục xem xét lại đối với toàn bộ các hợp đồng công nghệ. Sự
sẵn sàng hơn của công ty xuyên quốc gia trong việc xem xét các hình thức chuyển giao
công nghệ có thể khác nhau - bao gồm việc cấp giấy phép cho đặc quyền sử dụng và
cho bao thầu lại - có thể giúp để hạ thấp các khoản chi phí chuyển giao này, đặc biệt là
cho các nước chủ nhà mà họ có thể không cần tới các yếu tố khác trong hệ thống FDI
trọn gói, chẳng hạn như kỹ năng về quản lý và marketing.
Giá chuyển nhượng nội bộ được áp dụng trong các hoạt động giao dịch kinh
doanh nội bộ công ty như vậy có thể khác xa với giá thị trường tương ứng nằm ngoài
tầm kiểm soát của nó và nó có thể phải trả trong quan hệ buôn bán giữa các bên không
có quan hệ với nhau. Việc lập hoá đơn hàng thấp hơn hay cao hơn so với số thực có là
nhằm thay đổi mức lợi nhuận tính thuế, hay để tránh thuế ngoại thương, hoặc kiểm
soát hối đoái đều là những vấn đề chung cho mọi hoạt động thương mại. Nhưng cơ hội
cho các hoạt động như vậy rõ ràng lớn hơn trong nội bộ công ty. Điều này đặt gánh
nặng tương ứng lên khả năng kiểm soát hải quan đặc biệt là đối với các sản phẩm có
thể phân chia nhỏ được (chẳng hạn như các loại dược phẩm), hoặc đối với các cấu kiện
chuyên dùng không có một mức giá nhất định với khách hàng bên ngoài.
Và những vấn đề khác: Các vấn đề ô nhiễm môi trường cùng với tài nguyên bị
cạn kiệt và những lợi dụng về chính trị đó là một trong những điều tất yếu mà nước
chủ nhà phải hứng chịu khi quá trình FDI diễn ra.
2.2. TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY ĐA QUỐC GIA
2.2.1. Khái niệm

Tiền thân của các công ty đa quốc gia là công ty quốc gia được thành lập tại một
quốc gia nào đó. Công ty quốc gia này mang quốc tịch của một nước và có vốn đầu tư
vào công ty thuộc quyền sở hữu của các nhà tư bản nước sở tại. Việc kinh doanh của
14


họ ngày càng phát triển, hàng hóa và dịch vụ được sản xuất ra ngày càng nhiều và chất
lượng hơn. Vì vậy nhu cầu mở rộng thi trường tiêu thụ các sản phẩm của công ty là
nhu cầu tất yếu. Tại thời điểm đó, thì thị trường các nước lân cận hay các nước có nhu
cầu về sản phẩm của công ty sẽ trở nên hấp dẫn. Và các công ty này sẽ bắt đầu tiến
hành các hoạt động như tìm hiểu, hoạch định, thực thi để nhằm mở rộng thị trường tiêu
thụ sản phẩm sang các thị trường hướng tới bằng con đường xuất khẩu các sản phẩm.
Thị trường ngày càng được mở rộng, đồng nghĩa với khả năng tiếp cận sản phẩm, tiếp
cận khách hàng ngày càng lớn qua đó mà sức tiêu thụ sản phẩm sẽ lớn hơn và khả
năng đáp ứng nhu cầu sản phẩm dần trở nên quá tải khi chỉ sản xuất tại một quốc gia,
vì vậy mà các công ty quốc gia bắt đầu nghĩ đến việc mở rộng sản xuất kinh doanh
sang các nước lân cận, các nước mà có nhu cầu sản phẩm của công ty lớn. Do quá
trình phát triển của thị trường tiêu thụ, các công ty này tìm được các nguồn tài liệu và
nhân công với chi phí thấp hơn tại các quốc gia mà công ty đặt chân tới. Vì vậy mà
công ty sẽ tiến hành xây dựng các chi nhánh hay các công ty con tại các quốc gia mà
mà có những lợi thế so sánh về chi phí nguyên liệu, nhân công đầu vào hay một vài
các chi phí sản xuất khác nhằm tìm kiếm mức lợi nhuận ngày càng cao. Như vậy, do
nhu cầu phát triển và mở rộng thị trường của mình mà các công ty này đã thực hiện
hoạt động sản xuất kinh doanh trên địa bàn rộng lớn và vượt ra khỏi biên giới của một
quốc gia nên được gọi là công ty đa quốc gia. Vì vậy chúng ta có thể xây dựng khái
niệm công ty đa quốc giá như sau:
Công ty đa quốc gia – Multinational Corporations (MNC) hoặc Multinational
Enterprises (MNE) là công ty có hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc cung cấp dịch vụ
không chỉ nằm gói gọn trong lãnh thổ của một quốc gia mà hoạt động sản xuất kinh
doanh và cung cấp dịch vụ trải dài ít nhất ở hai quốc gia và có công ty có mặt lên đến

hàng trăm quốc gia.
Công ty đa quốc gia bao gồm công ty mẹ ở một nước, và thực hiện các đầu tư
FDI ra nước ngoài để hình thành các công ty con. Các công ty mẹ con này ảnh hưởng
lẫn nhau và cùng chia sẻ kiến thức, nguồn lực và trách nhiệm lẫn nhau.
2.2.2. Cơ cấu tổ chức của công ty đa quốc gia
Các công ty quốc gia thành lập các chi nhánh và các công ty con tại các quốc gia
khác sẽ trở thành công ty đa quốc gia. Các công ty đa quốc gia này với hoạt động sản
xuất và kinh doanh ngày càng phát triển, chúng sản xuất ra ngày càng nhiều hàng hóa
15


và vật chất, khai thác các thị trường hiện tại một cách hiệu quả và tìm kiếm các thị
trường mới. Mục tiêu của các MNC này còn bao hàm cả việc tìm kiếm các nguồn
nguyên liệu, nhân công với giá cả so sánh, tìm kiếm những ưu đãi về thuế, ưu đãi về
kinh tế nhằm phục vụ cho mục tiêu to lớn của các công ty là tối đa hóa lợi nhuận và tối
đa hóa giá trị tài sản công ty.
Các MNC có thể xếp vào 3 nhóm lớn theo cấu trúc phương tiện sản xuất như sau:
Công ty đa quốc gia “theo chiều ngang” là các công ty đa quốc gia mà có hoạt
động sản xuất kinh doanh các sản phẩm cùng loại hoặc tương tự tại các quốc gia mà
công ty này có mặt. Một công ty điển hình với cấu trúc này là công ty KFC.
Công ty đa quốc gia “theo chiều dọc” là các công ty đa quốc gia mà có các cơ sở
sản xuất hay các chi nhánh, công ty con tại một số quốc gia sản xuất ra các sản phẩm
mà các sản phẩm này lại là đầu vào để sản xuất ra sản phẩm của các công ty con hay
tại các chi nhánh tại các quốc gia khác. Một ví dụ điển hình cho loại hình cấu trúc
công ty “theo chiều dọc” là công ty Nike.
Công ty đa quốc gia “ nhiều chiều” là công ty có chi nhánh hay công ty con tại
nhiều quốc gia khác nhau mà các công ty này phát triển và hợp tác với nhau cả chiều
ngang lẫn chiều dọc. Một ví dụ điển hình cho loại công ty có cấu trúc như trên là
Apple.
2.2.3. Các nghiệp vụ mua bán nội bộ của công ty đa quốc gia

Các nghiệp vụ chuyển giao nội bộ của MNC là những hoạt động mua bán qua lại
giữa công ty mẹ và công ty con hoặc giữa các công ty con của MNC với nhau. Do quy
mô hoạt động rộng lớn và dàn trải trên một phạm vi địa lý bao gồm nhiều quốc gia với
nhiều chính sách, phong tục tập quán khác nhau mà các nghiệp vụ chuyển giao nội bộ
trong MNC rất đa dạng, phức tạp với khối lượng ngày càng lớn. Vì vậy mà các cơ
quan thuế riêng lẻ của từng quốc gia sẽ rất khó khăn trong việc quản lý và khó kiểm
soát. Các nghiệp vụ này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến chiến lược phát triển của các MNC.
Do tính bảo mật, tầm ảnh hưởng quan trọng của các nghiệp vụ chuyển giao nội
bộ công ty vì các nghiệp vụ chuyển giao nội bộ thường được thực hiện theo ý muốn,
chủ trương theo chiến lược phát triển công ty của các nhà quản lý cao cấp. Trong thực
tế đã có các nghiệp vụ chuyển giao nội bộ được thực hiện theo các chỉ thị của các nhà
quản trị cao cấp với các giá trị rất lớn nhưng các giá trị này không được ghi nhận hoặc
chỉ được thể hiện một số rất nhỏ. Các chứng từ, chứng cứ kèm theo không thể hiện
16


chính xác các giá trị và bản chất của nghiệp vụ vì vậy đã gây khó khăn cho các cơ
quan thuế trong việc đưa ra bằng chứng chứng minh các MNC đã thực hiện hành vi
chuyển giá.
Dựa vào tính chất và các đặc điểm của các nghiệp vụ mua bán nội bộ phổ biến
trên thị trường, chúng ta có thể phân chia các nghiệp vụ mua bán nội bộ ra thành các
nhóm như sau:
– Các nghiệp vụ mua bán nội bộ liên quan nguyên vật liệu có tính chất đặc thù
cao, hay các nguyên vật liệu mà một công ty con đặt tại một quốc gia có các lợi thế
riêng làm cho giá của nguyên vật liệu ấy thấp.
– Các nghiệp vụ mua bán nội bộ liên quan đến các thành phẩm, các công ty con
tại các quốc gia khác nhau có thể mua thành phẩm được sản xuất tại một quốc gia và
sau đó bán lại mà không cần phải đầu tư máy móc hay nhân công cho sản xuất.
– Các giao dịch liên quan việc dịch chuyển một lượng lớn máy móc, thiết bị cho
sản xuất mà đặc biệt hơn là điểm đến của các giao dịch này là các quốc gia đang phát

triển.
– Các giao dịch liên quan đến các tài sản vô hình như nhượng quyền, bản quyền,
thương hiệu, nhãn hàng, các chi phí liên quan đến nghiên cứu và phát triển sản phẩm.
– Có sự cung cấp các dịch vụ quản lý, dịch vụ tài chính hay chi phí cho các
chuyên gia vào làm việc tại nước nhận chuyển giao.
– Có sự tài trợ và nhận tài trợ về các nguồn lực như tài lực và nhân lực.
– Có các khoản đi vay và cho vay nội bộ các công ty con của MNC hay giữa
công ty mẹ và các công ty con.
Các nghiệp vụ chuyển giao nội bộ này diễn ra thường xuyên với giá trị lớn, vì
vậy mà để hạn chế các tác động tiêu cực của các nghiệp vụ này thì cần phải có một
nguyên tắc áp dụng chung và thống nhất trên các quốc gia. Nguyên tắc này được lập
ra nhằm đảm bảo tính công bằng trong thương mại, là cơ sở cho các nghiệp vụ mua
bán, trao đổi hàng hóa và cung cấp dịch vụ giữa các quốc gia. Nguyên được áp dụng
đó là nguyên tắc dựa trên căn bản giá thị trường ALP ( The Arm’s Length Principle).
Theo nguyên tắc này, các bên có quan hệ liên kết phải định giá chuyển giao cho các
giao dịch nội bộ như thể họ là các đối tác độc lập. Điều này có nghĩa là khi các công ty
trong MNC có quan hệ trao đổi buôn bán với nhau thì các điều kiện thương mại và tài

17


chính trong hợp đồng kinh tế (giá cả hàng hóa, dịch vụ, điều khoản về tín dụng,..) đều
được định hướng và chi phối bởi các tác động khách quan của thị trường.
2.3. CHUYỂN GIA TRONG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ QUỐC TẾ
2.3.1. Khái niệm
Chuyển giá là việc thực hiện chính sách giá đối với sản phẩm (hàng hóa, dịch vụ)
được chuyển dịch giữa các bên có quan hệ liên kết không theo giá giao dịch thông
thường trên thị trường (giá thị trường), nhằm tối thiểu hóa tổng số thuế phải nộp của
doanh nghiệp trên toàn cầu (Thông tư 66/TT-BTC ngày 22/04/2010 của Bộ Tài chính).
2.3.2. Các hình thức chuyển giá

Nguyên tắc chung của chuyển giá là tối thiểu hoá số thuế phải nộp nếu có chi phí
cao thì đầu tư vào nơi nào có thuế cao và ngược lại. Một số hình thức chuyển giá chủ
yếu:
- Chuyển giá qua việc tăng chi phí đầu vào hoặc nâng khống giá trị tài sản : thiết
bị, máy móc, vật tư hoặc đẩy giá các tài sản sở hữu trí tuệ dưới dạng nhãn hiệu thương
mại, nhượng quyền giấy phép sản xuất, phí bản quyền, chi trả lãi vay vốn trong quá
trình sản xuất kinh doanh….
- Chuyển giá thông qua hạ thấp giá bán sản phẩm: (thường được các DN FDI
thực hiện) bằng các hợp đồng xuất khẩu cho công ty mẹ hoặc các đối tác liên kết của
công ty mẹ ở nước ngoài.
- Chuyển giá thông qua cơ chế giá cung cấp dịch vụ: thông qua hoạt động cung
cấp dịch vụ nội bộ cho các đơn vị thành viên. Do dịch vụ thường đa dạng và đặc thù
nên rất khó định giá như dịch vụ kế toán, tài chính, tư vấn…các tập đoàn thường tính
giá ở mức rất cao để chuyển lợi nhuận từ DN thành viên tại Việt Nam sang bên liên kết
nước ngoài nhằm giảm nghĩa vụ thuế thu nhập doanh nghiệp của DN thành viên tại
Việt Nam, gây thất thu cho ngân sách nhà nước.
- Chuyển giá thông qua các hợp đồng độc quyền về nhập khẩu, phân phối hàng
hóa…ký với các DN nước ngoài nhằm tối đa hoá lợi nhuận do có được các nguồn lực
trong nước.
2.3.3. Động cơ thực hiện hoạt động chuyển giá
Thực tế cho thấy, chuyển giá là hiện tượng phổ biến trong nền kinh tế thị trường,
do nhiều nguyên nhân sau:

18


Một là, các chủ thể kinh doanh trong nền kinh tế thị trường đầu tư vào kinh
doanh vì mục đích lợi nhuận. Chủ thể thực hiện hành vi chuyển giá chủ yếu nhằm mục
đích giảm hoặc tránh mức thuế phải nộp để mang lại lợi nhuận cao nhất. Trong khi
việc kiểm soát hành vi chuyển giá lại không dễ dàng, do vậy, nhiều chủ thể kinh doanh

đã lợi dụng điều đó để chuyển giá.
Chủ thể thực hiện hành vi chuyển giá còn nhằm tối đa hóa lợi ích của mình trong
các quan hệ góp vốn, quan hệ kinh doanh… trên cơ sở làm giảm lợi ích của các chủ
thể khác.
Hai là, trong điều kiện nền kinh tế thị trường các chủ thể kinh doanh có quyền tự
định đoạt, quyền tự chủ trong kinh doanh. Do đó, việc thỏa thuận với nhau về giá cả
hàng hóa, tài sản, dịch vụ là do các bên tham gia quan hệ hợp đồng thỏa thuận. Lợi
dụng điều này mà hành vi chuyển giá trở nên phổ biến.
Ba là, xuất phát từ mối quan hệ gắn bó chung về lợi ích kinh tế giữa các thành
viên trong nhóm liên kết (giữa các công ty trong cùng tập đoàn, giữa công ty mẹ với
công ty con, giữa các thành viên liên doanh…). Khi thực hiện chuyển giá giữa các
thành viên này sẽ không làm thay đổi tổng nghĩa vụ thuế của cả nhóm, làm lợi ích kinh
tế trong nhóm sẽ tăng. Thông qua hành vi chuyển giá mà nghĩa vụ thuế của các bên
chuyển giá bị chuyển từ nơi điều tiết cao sang nơi điều tiết thấp hơn và ngược lại.
Bốn là, hệ thống pháp luật hiện hành còn nhiều bất cập, chưa đủ cơ sở pháp lý
cho việc xác định các hành vi chuyển giá và chế tài áp dụng còn yếu và thiếu. Mặt
khác, hệ thống pháp luật hiện hành còn có quá nhiều khe hở, chưa đồng bộ, từ đó tạo
điều kiện cho hành vi chuyển giá dễ dàng được thực hiện.
Năm là, cơ chế kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán còn nhiều bất cập, chưa
đủ sức phát hiện để xử lý tất cả các hành vi chuyển giá.
Sáu là, vai trò quản lý của Nhà nước còn yếu, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ
của một bộ phận cán bộ quản lý chưa cao. Bên cạnh đó, trình độ của một số doanh
nhân khi cùng góp vốn với đối tác cũng còn nhiều hạn chế, do vậy thường bị yếu thế
trong kinh doanh, đối tác lợi dụng để chuyển giá.
2.3.4. Hệ quả của chuyển giá
Nếu như chuyển giá giữa các công ty liên kết có tác động chính đến thu ngân
sách nhà nước (NSNN), thì việc chuyển giá từ doanh nghiệp FDI có tác động rộng lớn

19



hơn đối với nền kinh tế, chủ yếu là kinh tế của nước nhận vốn FDI. Các tác động chính
của chuyển giá tới nền kinh tế của nước nhận vốn FDI bao gồm:
Chuyển giá được hiểu là một hoạt động được sắp đặt trước bởi các chủ thể kinh
doanh có mối quan hệ liên kết nhằm thay đổi mức giá trong quan hệ mua, bán, trao đổi
hàng hóa, dịch vụ, vốn, tài sản... tạo ra sự khác biệt so với giá thị trường, nhằm tối đa
hóa lợi nhuận của cả một nhóm có quan hệ liên kết, trên cơ sở giảm thiểu nghĩa vụ về
thuế.
Chuyển giá đã tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh với các doanh nghiệp trong
nước, tác động không tốt đến môi trường đầu tư, ảnh hưởng đến chính sách quản lý và
điều hành nền kinh tế của Chính phủ:
- Thứ nhất, làm thất thu NSNN từ thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế chuyển lợi
nhuận ra nước ngoài. Quy mô các khoản thu ngân sách nhà nước này không nhỏ khi
các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam hiện nay đã chiếm tỷ trọng lớn trong GDP, trong
tổng kim ngạch nhập khẩu và trong tổng thu ngân sách nhà nước. Không chỉ trốn thuế,
các doanh nghiệp FDI dưới hình thức công ty liên doanh còn chiếm đoạt cả vốn và lợi
nhuận của phía đối tác trong nước chuyển ra nước ngoài, từ đó tạo ra dòng chảy vốn
ngược trở về nước đã xuất khẩu FDI.
- Thứ hai, gây ra tình trạng lỗ giả. Chuyển giá đối với máy móc, thiết bị đầu tư
hoặc góp vốn liên doanh và chuyển giá qua việc công ty mẹ ở nước ngoài cung cấp
nguyên liệu, phụ liệu, vật tư, phụ tùng… cho công ty con tại Việt Nam với giá cao, làm
cho giá trị vốn đầu tư, giá trị vốn góp tăng cao, dẫn tới thu hồi vốn khống (qua khấu
hao), khiến cho doanh nghiệp FDI bị thua lỗ giả tạo trốn thuế. Mặt khác, các doanh
nghiệp FDI thường mua máy móc thiết bị cũ, lạc hậu nhằm thực hiện chuyển giá dễ
dàng hơn (khi so sánh với máy móc hiện đại thì giá có vẻ thấp hơn, nhưng thực tế so
giá trị thật của những thiết bị lạc hậu này thì giá mua lại quá cao). Việc nhập khẩu các
máy móc công nghệ cũ, lạc hậu làm cho trình độ phát triển của nền kinh tế đi ngang
hoặc đi xuống, sau khi doanh nghiệp FDI kết thúc hoạt động, chuyển giao lại cho Việt
Nam thì chỉ còn giá trị là rác thải.
Những hoạt động chuyển giá nêu trên là nguyên nhân chính làm sụt giảm hiệu

quả sử dụng vốn nói chung, sử dụng vốn FDI nói riêng, khiến cho ICOR của khu vực
FDI rất cao, làm cho hệ số ICOR của cả nền kinh tế tăng cao không hợp lý, làm giảm
khả năng cạnh tranh của nền kinh tế.
20


- Thứ ba, tác động đến mặt bằng giá cả hàng hóa, dịch vụ nhập khẩu ở trong
nước.
Đầu tư FDI một mặt góp phần tạo ra nhiều sản phẩm hàng hoá, dịch vụ có chất
lượng cao. Tuy nhiên, do chuyển giá nên thị trường trong nước, cả thị trường tư liệu
sản xuất và thị trường tư liệu tiêu dùng, đều phải chịu mức giá cao bất hợp lý, thậm chí
có một số hàng hoá, dịch vụ có mức giá tại Việt Nam còn cao hơn nhiều so với tại các
nước trong khu vực. Mặt khác, giá nhập khẩu cao do chuyển giá còn hạn chế khả năng
cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước có sử dụng các nguồn nguyên liệu bị
chuyển giá so với các doanh nghiệp nước ngoài. Mặt dù kim ngạch xuất khẩu của khu
vực FDI tăng nhanh, song kim ngạch nhập khẩu cũng tăng không kém, từ đó tác động
tiêu cực đến cán cân thương mại và cán cân vãng lai của Việt Nam.
- Thứ tư, tác động tới hoạt động của các doanh nghiệp trong nước.
Do chuyển giá là cách thức nhanh nhất để đạt mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, giảm
số nộp NSNN, nên các doanh nghiệp FDI không quan tâm khai thác, sử dụng các các
yếu tố đầu vào từ thị trường trong nước, mà duy trì sử dụng nguồn nhập khẩu. Nói
cách khác, doanh nghiệp FDI phát triển, nhưng không kéo theo sự phát triển của doanh
nghiệp trong nước. Công nghiệp phụ trợ không phát triển theo các hoạt động đầu tư
nước ngoài, mục tiêu tăng tỷ lệ nội địa hóa các ngành công nghiệp không đạt được
(như công nghiệp ô tô, điện tử, cơ khí…). Ngược lại, nhiều trường hợp doanh nghiệp
FDI còn chèn ép các doanh nghiệp trong nước khi kinh doanh trong cùng ngành nghề.
2.4. MỘT SỐ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM
2.4.1. Kinh nghiệm của Mỹ
Theo báo cáo của Cơ quan thuế nội địa Mỹ (IRS), từ năm 1998 đến 2005, khoảng
2/3 các công ty Mỹ và khoảng 68% các công ty nước ngoài hoạt động kinh doanh tại

Mỹ trốn thuế thu nhập doanh nghiệp thông qua việc chuyển một lượng lớn thu nhập ra
nước ngoài để tránh một khoản tiền thuế lên đến 8 tỷ USD mỗi năm. Thực tế cho thấy,
thuế suất ở Mỹ khoảng 40% cao hơn nhiều quốc gia khác, vì vậy hiện tượng chuyển
giá của các tập đoàn đa quốc gia hoạt động tại Mỹ là khá phổ biến. Nhằm chống lại
hiện tượng trên, Mỹ đã có một số biện pháp chống chuyển giá tương đối nghiêm ngặt.
Đạo luật cơ bản và đầy đủ nhất về việc chống chuyển giá Mỹ ban hành đạo luật IRS
Sex. Đạo luật này quy định nguyên tắc căn bản giá thị trường là cơ sở cho thực hiện
định giá chuyển giao giữa các MNC với nhau nhưng đồng thời là cổ vũ cho việc vận
21


×