A. đặt vấn đề
I. lời nói đầu
Sự nghiệp giáo dục có vị trí quan trọng trong chiến lợc xây dựng con ngời, chiến lợc
phát triển kinh tế - xã hội củađất nớc. Hội nghị lần II BCH TW Đảng khoá VIII đã xác định
: " Nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản giáo dục là xây dựng con ngời thiết tha gắn bó với lí tởng
độc lập dân tộc và CNXH, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cờng và bảo vệ tổ quốc,
CNH- HĐH đất nớc, giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá của dân tộc; có năng lực tiếp
thu tinh hoa văn hoá nhân loại; phát huy tiềm năng của dân tộc và con ngời Việt Nam, có
ý thức cộng đồng; có t duy sáng tạo; có kĩ năng thực hành giỏi; có tác phong công nghiệp;
có tính tổ chức và kỉ luật; có sức khoẻ; là những ngời kết thừa xây dựng CNXH vừa "hồng"
vừa "chuyên" nh lời căn dặn của Bác Hồ "
Bên cạnh mục tiêu giáo dục chung thì môn GDCD trong trơng THCS còn có những
mục tiêu riêng đó là: trang bị kiến thức cho công dân trên các lĩnh vực chính trị ,t tởng, đạo
đức, pháp luật; hình thành ý thc công dân; ý thức quyền và nghĩa vụ, giáo dục tinh thần
trách nhiệm; tình cảm lành mạnh của ngời công dân; rèn luyện thành vi thói quen, ý thức
tình cảm đạo đức, phù hợp với chuẩn mực xã hội, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức đã
tích luỹ vào cuộc sống hàng ngày.
Thực tiễn dạy học môn GDCD hiện nay trong trờng THCS còn có nhiều bất cập.Việc
dạy học còn mang tính chất thụ động, cha phát huy tính chủ động, sáng tạo của học sinh.
Hiệu quả dạy và học cha cao cha đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ của môn học.
Điều đó thể hiện ở chỗ các giờ học diễn ra còn khô khan, nghèo nàn về phơng pháp,
nặng về thuyết trình, giảng giải, vấn đáp... trong giờ học, học sinh rất ít họat động, ít có cơ
hội tìm tòi khám phá, thể hiện mình, chủ yếu là nghe giảng một cách thụ động. Các phơng
tiện dạy học cũng ít đợc sử dụng, tình trạng dạy chay vẫn phổ biến. Hình thức tổ chức dạy
học còn nghèo nàn, chỉ bó hẹp trong khuôn khổ lên lớp đại trà, học sinh ít đợc tổ chức học
tập theo nhóm, tổ cá nhân. Các hình thức hoạt động ngoại khoá và thực hành cha đợc coi
trọng. Nhìn chung các giờ học GDCD cha gây đợc hứng thú học tập và rèn luyện cho học
sinh.
Mặt khác, môn GDCD với những kiến thức đạo đức, pháp luật khô khan, khó hiểu,
phần lớn học sinh có tâm lí ngại học. Do đó vấn đề đặt ra cần phải đổi mới các phơng pháp
dạy học để tạo cho học sinh sự hứng thú, niềm say mê, phát huy khả năng t duy, sáng tạo
của mình trong quá trình chiếm lĩnh tri thức môn GDCD đồng thời biết vận dụng linh hoạt
những kiến thức đó xử lí các tình huống xảy ra trong cuộc sống hàng ngày. Luật giáo dục
năm 2005 điều 5 nêu rõ: "Phơng pháp giáo dục phát huy tính tích cực tự giác, chủ động t
duy sáng tạo của ngời học, bồi dỡng cho ngời học năng lực tự học khả năng thực hành,
lòng say mê học tập và ý chí vơn lên"
Làmột giáo viên trực tiếp giảng dạy môn GDCD lớp 9, đợc tiếp xúc gần gũi với đối
tợng học sinh hiểu rõ hơn về thực trạng dạy và học môn GDCD hiện nay, nên tôi đã nghiên
cứu và thử nghiệm " Phơng pháp phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học môn
GDCD 9" và đã có kết quả khả quan, đã giúp cho học sinh hiểu rõ cần phải trang bị cho
mình những kiến thức về bộ môn GDCD đê có đủ hành trang sau này bơc vào cuộc sống
mới.
II. Thực tiễn vấn đề nghiên cứu.
1. Thực trạng.
Môn GDCD làmôn học mà các tri thức, chuẩn mực, kĩ năng của nó đều gắn chặt với các sự
kiện và chất liệu của cuộc sống hiện thực. Đólà những vấn đề đạo đức và pháp luật của đời
sống hàng ngày, là tác động qua lại giữa con ngời với con ngời, giữa con ngời với các thể
chế xã hội. Môn học có nhiệm vụ dạy cho học sinh vừa biết làm một cong dân có ích trong
tơng lai, nhng cũng vừa biết sống hoà nhập với đời sống nh một thành viên xã hộivới
những yêu cầu đạo đức, pháp luật, văn hoá hiện tại. Vì vậy, dạy hoạ môn GDCD phải gắn
bó chặt chẽ với cuộc sống thực tiễn và nội dung dạy học, phải mang chất liệu của đời sống
xã hội, của đời sống học sinh.
Năm học 2007- 2008 tôi đợc phân công dạy môn GDCD 9, học sinh khối 9 của tr-
ờng có 189 em sống rãi rác ở hầu khắp các thôn trong địa bàn xã. Đây là một xã đang phát
triển, đời sống nhân dân còn gặp nhiều khó khăn, Một số hộ gia đình bỏ mặc con em ở nhà
để đi làm ăn xa. Điều đó đã ảnh hởng không nhỏ đến việc học của học sinh. Nhiều em cha
có đủ sách vở, đồ dùng học tập, cha có thời gian cho việc học ở nhà, vì thế rất khó khăn
cho học sinh khi tiếp thu bài giảng của giáo viên. Bên cạnh đó năng lực học tập của các em
còn nhiều hạn chế, số học sinh học yếu và ngại học môn GDCD còn nhiều. Ngoài ra, nhận
thức của phụ huynh không đồng đều, họ coi môn GDCD là môn phụ nên không quan tâm,
từ đó ảnh hởng không nhỏ đến suy nghĩ của học sinh. Hơn nữa đồ dùng học tập của học
sinh còn thiếu, học sinh không nắm vững kiến thức, khả năng vận dụng, liên hệ thực tế yếu.
Vì vậy chất lợng dạy và học cha cao, học sinh cha có niềm say mê, hứng thú với môn học.
Trớc thực trạng đó tôi chọn đề tài:" Phơng pháp phát huy tính tích cực của học sinh
trong dạy học môn GDCD 9", với mong muốn nâng cao hiệu quả dạy và học, giúp học sinh
yêu thích môn học hơn.
2. Công tác điều tra.
Để có kế hoạch và biện pháp giảng dạy đạt hiệu quả cao, sát với mục tiêu chơng trình
toi thực hiện công tác điều tra chất lợng thực tế của học sinh qua các tiết giảng dạy, dự giờ,
theo dõi chất lợng để có biện pháp phù hợp.
Thời gian điều tra: tiến hành từ đầu năm
Quy mô điều tra: 5 lớp ( 9A
1
, 9A
2
, 9A
3
9A
4
, 9A
5
)
Đối tợng học sinh: tất cả học sinh từ yếu đến giỏi
Lớp Sĩ số Điểm
Giỏi Khá Trung bình Yếu
SL % SL % SL % SL %
9A
1
38 1 0.3 8 21 23 60 6 16
9A
2
37 0 0 7 19 22 59 8 22
9A
3
39 0 0 8 21 25 64 6 15
9A
4
38 0 0 7 18 23 61 8 21
9A
5
38 2 0.5 10 26 22 55 5 13
Với kết quả điều tra trên, khiến tôi không khỏi băn khoăn, trăn trở làm thế nào để
học sinh có nhận thức đúng đắn hơn về môn học, có niềm tin sự say mê hứng thú, yêu thích
hơn đối với môn GDCD.Do đó tôi mạnh dạn đa ra phơng pháp phát huy tính tích cực của
học sinh.
B. Giải quyết vấn đề
I.Cơ sở lí luận
Giảng dạy bất cứ môn học nào trong nhà trờng cũng có nội dung giáo dục. Môn
GDCD ở trờng THCS đợc phân bố 1tiết/tuần, những giờ dạy trên lớp nhằm cung cấp cho
học sinh những kiến thức cơ bản, phổ thông, thiết thực phù hợp với lứa tuổi học sinh THCS
trong các quan hệ với bản thân, với ngời khác, với công việc, với môi trờng sống( gia đình,
cộng đồng) với lí tởng của dân tộc. Giúp học sinh có thái độ đúng đắn, rõ ràng trớc các
hiện tợng, sự kiện đạo đức, pháp luật, văn hoá trong đời sống hàng ngày có tình cảm trong
sáng lành mạnh đối với mọi ngời, đối với gia đình, nhà trờng, quê hơng, đất nớc. Có niềm
tin vào tính đúng đắn của các chuẩn mực đã học vad hớng tới nhứng giá trị xã họi tốt đẹp,
có trách nhiệmvới hành động của bản thân có nhu cầu tự điều chỉnh, tự hoàn thiện để trở
thành một chủ thể xã hội tích cực năng động - xứng đáng là chủ nhân tơng lai của đất nớc.
Phơng pháp dạy học môn GDCD cũng giống nh các môn học khác là lấy học sinh
làm nhân vật trung tâm, kích thích sự hứng thú chủ động, sáng tạo củangời học. Để đạt đ-
ợc yêu cầu trên cần phải đổi mới phơng pháp dạy học. Làm thế nào để bộ môn GDCD hấp
dẫn với ngời học, gây hứng thú say mê và phát huy tính chủ động tích cực của học sinh.
II. Giải pháp thực hiện
Đổi mới phơng pháp dạy học môn GDCD theo hớng phát huy tính tích cực chủ động
sáng tạo của học sinh trong quá trình học tập.Trong dạy học giáo viên phải biếtvận dụng
cácphơng pháp vào việc tổ chức hoạt động kích thích học sih nổ lực suy nghĩ và tự tìm tòi,
phát hiện. Những chuẩn mực đạo đức và pháp luật cần hình thành ở học sinh không phải là
những khuôn mẫu cho sẵn trong quá trình học tập.học sinh tự khai thác thông tin, tự kiến
tạo tri thức và kĩ năng, qua đó phát triển nhận thức, niềm tin và tình cảm đạo đức pháp luật.
Phải đa dạng hoá các phơng pháp và hình thức tổ chức dạy học bộ môn, khắc phục
tính đơn điệu, nghèo nàn trong việc áp dụng các phơng pháp và hình thức tổ chức dạy học.
Hiệu quả của việc sửdụng phơng pháp dạy học môn GDCD phụ thuộc vào việc lựa chọn và
kết hợp một cách hài hoà hợp lí các phơng pháp dạy học cụ thể, phù hợp với nội dung bài
học,với khả năng học tập và thái độ của học sinh, phù hợp với từng tình huống dạy học cụ
thể để tạo ra một thái độ tích cực, sẵn sàng đáp ứngnhiệm vụ học tập và có sự nổ lực cao
trong hoạt động. Kết hợp một cách linh hoạt, hợp lí nhiều phơng pháp cảphơng pháp truyền
thóng và các phơng pháp hiện đại, không phủ địn hoàn toàn hoặc lạm dụng, tuyệt đối hoá
vai trò vạn năng của một phơng pháp nào, tuỳ từng bài, từng phần, tuỳ điều kiện dạy học
của nhà trờn, khả năng của học sinh và năng lực, sở trờng của giáo viên mà lựa chọn phơng
pháp.
Những kiến thức môn GDCD thờng khô khan cứng nhắc, đặc biệt môn GDCD 9
những chuẩn mực đạo đức pháp luật tronng nội dung chơng trình học khó hơn, phức tạp
hơn, do đó học sinh rất ngại học. Chính vì vậy, bên cạnh các phơng pháp dạy học truyền
thống( đàm thoại, thuyết trình, trực quan, kể chuyện...), tôi luôn chú trọng đến cácphơng
pháp hiện đại( thảo luận nhóm, đóng vai, tổ chức trò chơi hay phơng pháp tình huống...).
Bởi các phơng pháp dạy học này ngoài việc tăng cờng hứng thú cho học sinh, nâng cao sự
chú ý làm giảm trạng thái tâm lí mệt mỏi thì nó còn rèn kĩ năng ứng xử, giao tiếp, khả năng
trình bày suy nghĩ trớc tập thể lớp của học sinh, các em đợc giao lu, đợc bày tỏ ý kiến của
mình với bạn học, giúp các em tự tin hơn trong học tập và các hoạt động xã hội.
*Phơng pháp thảo luận nhóm:
Phơng pháp thảoluận nhómlà giáo viên tổ chức chia học sinh thành các nhóm nhỏ
(từ 4 đến 8 học sinh) để thảo luận những vấn đề của bài học dới sự hớng dẫn của giáo viên.
Đây là phơng pháp đợc sử dụng rộng rãi nhằm giúp học sinh tham gia một cách chủ
động vào quá trình học tập, học sinh có thể chia sẻ kinh nghiệm, ý kiến hay để giải quyết
một vấn đề, một tình huống đạo đức, pháp luật nào đó.
Cách thực hiện:
- Giáo viên giới thiệu chủ đề thảo luận, quy định thời gian thảo luận.
- Nêu các câu hỏi có liên quan đến chủ đề
- Chia học sinh thành các nhóm, giao nhiệm vụ để các nhóm tiến hành thảo luận và
ghi kết thảo luận ra giấy khổ lớn, phân công vị trí làm việc cho các nhóm.
(Nếu không khí thảo luận trầm có thể bắt dầu cuộc thảo luận bằng một câu chuyện hoặc
một bức tranh gợi ý)
- Cần khích lệ mọi học sinh cùng tha gia đóng góp ý kiến không nên chê bai vào ý
kiến nào.
- Nhóm trởng quán xuyến điều hành cuộc thảo luận và th kí có nhiệm vụ ghi chép
kết quả thảo luận trớc lớp.
- Đại diện nhóm trình bày kết quả thảo luận
Ví dụ: Khi dạy bài : " làm việc có năng suất, chất lợng hiệu quả"sau khi cho học sinh tìm
hiểu truyện đọc trong phần đặt vấn đề tôi chia học sinh thành 3 nhóm thảo luận 3 câu hỏi
sau:
Nhóm1: em có nhận xét gì về việc làm của giáo s Lê Thế Trung?
Nhóm 2: Em hãy tìm những chi tiết trong chuyện chứng tỏ giáo s Lê Thế Trung là
ngời làm việc có năng suất chất lợng hiệu quả?
Nhóm 3: Việc làm của giáo s Lê Thế Trung dợc nhà nớc ghi nhận nh thế nào? em
học tập đợc điều gì ở ông?
Sau khi học sinh các nhóm thảo luận khai thác phần đặt vấn đề tôi cho học sinh khái
quát tìm hiểu nội dung bài học.
Với 3 câu hỏi này từng nhóm sẽ tập trung thảo luận và đa ra ý kiến, đại diện cho
nhóm sẽ trình bày trớc lớp, giáo viên làm trọng tài và kết luận thông qua ý kiến của các em.
Cách tổ chức lớp học áp dụng theo phơng pháp này tôi nhận thấy học sinh tiếp thu
bài tốt và lớp học sôi nổi, các em rất hứng thú học tập. Nhờ không khí thảo luận cởi mở nên
học sinh đặc biệt những em nhút nhác trở nên bạo dạn hơn. Kĩ năng giao tiếp, kĩ năng hợp
tác của học sinh đợc phát triển.
Tuy nhiên sử dụng phơng pháp này giáo viên cần lu ý:
- Chủ đề thảo luận phải sát với nội dung bài học, trình độ học sinh
- Cách chia nhóm phải hét sức linh hoạt, luôn thay đổi đẻ tạo điều kiện cho mỗi
học sinh đợc giao lu với tất cả học sinh trong lớp, tránh chỉ giới hạn trong một
nhóm cố định.
- Kết quả thảo luận có thể đợc trình bày bằng nhiều hình thức( bằnglời, bằng tranh
vẽ, bằng tiểu phẩm, bằng văn bản viết trên giấy lớn...)
- Cử nhóm trởng, th kí cũng nên luân phiên để từng học sinh đều đợc rèn luyện các
kĩ năng cần thiết.
*Phơng pháp trò chơi:
`Tổ chức trò chơi làmột phơng pháp rất hiệu quả để thuhút sự tham gia của học sinh.
Trong cuộc chơi mọi ngời đều bình đẳng và đều cố gắng thể hiện"hết mình". Vì vậy tổ
chức trò chơi không những là biện pháp để tăng cờng hứng thú học tập, nâng cao sự chú ý,
thay đổi trạng thái tâm lí mệt mỏi trong quá trình nhận thức mà còn là biện pháp rèn luyện
các kĩ năng ứng xử, giao tiếp, cũng cố và phát triển khả năng tự tin của các em.
- Giáo viên có thể sử dụng các trò chơi dân gian có nội dung phù hợp với yêu cầu
nội dung bài học.
- Cũng có thể dựa trênnội dung bài học để sáng tạo ra trò chơi mới.
Thông qua trò chơi giáo viên gợi ý cho học sinh thảo luận, khai thác yêu cầu bài
học.
Ví dụ: Khi dạy bài 2 "Tự chủ" ởphần nội dung bài học sau khi giáo viên hớng dẫn học sinh
rút ra đợc khái niệm tự chủ thì giáo viên có thể tổ chức trò chơi tiếp sức cho học sinh.
Giáo viên chia lớp thành hai nhóm các nhóm cử đại diện lần lợt lên bảng tìm những
bông hoa mang nội dung tự chủ dán vào ô tự chủ, những bông hoa mang nội dung trái với
Tự chủ dàn vào ô trái với Tự chủ...mỗi nhóm chỉ có một ngời ở trên bảng dán xong thì bạn
khác mới đựơc lên.. Nếu nhóm nào có hai ngời cùng lên bảng thì nhóm đó phạm luật chơi
và bị trừ điểm. Sau khi kết thúc trò chơi giáo viên phải tổng kết, đánh giá và cho điểm từng
nhóm.
Hoặc khi dạy bài 7 " Kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc". Sau khi
hớng dẫn học sinh nắm đợc toàn bộ phần nôih dung bài học tôi hớng dẫn học sinh trò
chơi : thi hát những làn điệu dân ca của quê hơng mình và mọi miền đấtnớc cũng có thẻ tổ
chức trò chi tiếp sứcvới chủ đề: Viết một đoạn văn ngắn nói về tình cảm yêu quê hơng đất
nớc học sinh phát biểu và lần lợt ghi nối tiếp nhau cho tới khi hoàn thành đoạn văn.