Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Chế định persona non grata trong luật ngoại giao lãnh sự những vấn đề lí luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (988 KB, 86 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRẦN THANH HẢI

CHẾ ĐỊNH PERSONA NON GRATA TRONG LUẬT NGOẠI GIAO
LÃNH SỰ: NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2020


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRẦN THANH HẢI

CHẾ ĐỊNH PERSONA NON GRATA TRONG LUẬT NGOẠI GIAO
LÃNH SỰ: NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

Chuyên ngành: Luật Quốc tế
Mã số: 8380101.06

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Lan Nguyên

Hà Nội – 2020


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung
thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài
chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo
vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƢỜI CAM ĐOAN

Trần Thanh Hải


MỤC LỤC

Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƢƠNG 1 - TỔNG QUAN CHẾ ĐỊNH PERSONA NON GRATA TRONG
LUẬT NGOẠI GIAO LÃNH SỰ ............................................................................5
1.1. Khái niệm và lịch sử hình thành và phát triển của chế định Persona non grata
trong luật ngoại giao, lãnh sự ...................................................................................... 5
1.1.1. Khái niệm Persona non grata ............................................................................5
1.1.2. Lịch sử phát triển của chế định Persona non grata trong luật ngoại giao,
lãnh sự ............................................................................................................ 7
1.2. Đặc điểm của chế định Persona non grata trong quan hệ ngoại giao, lãnh sự ...14
1.2.1. Chủ thể của chế định Persona non grata trong luật ngoại giao, lãnh sự .........14
1.2.2. Thời điểm và phạm vi áp dụng của chế định Persona non grata trong luật

ngoại giao, lãnh sự ....................................................................................................17
1.2.3. Tính không bắt buộc của việc đưa ra lý do cho tuyên bố Persona non grata
trong luật ngoại giao, lãnh sự .................................................................................... 20
1.3. Vai trò, ý nghĩa của chế định Persona non grata trong quan hệ ngoại giao,
lãnh sự .......................................................................................................... 22
CHƢƠNG 2 - PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VỀ CHẾ ĐỊNH ....................................26
PERSONA NON GRATA ...................................................................................... 26
2.1. Quyền ưu đãi và miễn trừ ngoại giao, lãnh sự và mối quan hệ giữa quyền ưu
đãi, miễn trừ ngoại giao, lãnh sự với chế định Persona non grata ............................ 26
2.1.1. Quyền ưu đãi và miễn trừ ngoại giao, lãnh sự ................................................26
2.1.2. Mối quan hệ giữa quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại giao, lãnh sự với chế định
Persona non grata ......................................................................................................31
2.2. Pháp luật quốc tế về chế định Persona non grata trong luật ngoại giao, lãnh sự .......... 34


2.2.1. Hiến chương Liên Hợp Quốc và chế định Persona non grata ......................... 34
2.2.2. Các Công ước Viên về ngoại giao, lãnh sự ..................................................... 36
2.2.3. Lý do và khoảng thời gian hợp lý tuyên bố Persona non grata trong quan hệ
ngoại giao, lãnh sự ....................................................................................................38
2.2.4. Hệ quả pháp lý của tuyên bố Persona non grata trong quan hệ ngoại giao,
lãnh sự .............................................................................................................. 45
CHƢƠNG 3 - THỰC TIỄN ÁP DỤNG CHẾ ĐỊNH PERSONA NON GRATA
VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ .................................................................50
3.1. Thực tiễn áp dụng chế định Persona non grata trong quan hệ ngoại giao, lãnh sự
trên thế giới ...............................................................................................................50
3.1.1. Môt số vụ việc cụ thể ...................................................................................... 50
3.1.2. Nhận xét về thực tiễn áp dụng.........................................................................57
3.2. Thực tiễn áp dụng chế định Persona non grata trong quan hệ ngoại giao, lãnh sự
tại Việt Nam ..............................................................................................................61
3.2.1. Một số vụ việc cụ thể ...................................................................................... 62

3.2.2. Các quy định pháp luật Việt Nam về chế định Persona non grata ..................62
3.2.3. Nhận xét về thực tiễn áp dụng.........................................................................63
3.3. Những khó khăn của việc áp dụng chế định Persona non grata trong thực tiễn 65
3.4. Một số đề xuất khuyến nghị nhằm hoàn thiện chế định Persona non grata trong
quan hệ ngoại giao, lãnh sự ....................................................................................... 68
KẾT LUẬN ..............................................................................................................72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 74


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong bối cảnh toàn cầu hoá như hiện nay, các chủ thể của luật quốc tế tham
gia ngày càng nhiều vào các quan hệ pháp luật quốc tế khác nhau từ dân sự, thương
mại, lao động cho tới hôn nhân gia đình. Các mối quan hệ này bao trùm lên nhiều
nhóm chủ thể, ảnh hưởng tới quyền và lợi ích của nhiều bên trên tất cả các lĩnh vực
chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và an ninh quốc phòng.
Chính vì vậy mà hơn bao giờ hết, ngoại giao, việc giao hảo giữa các quốc
gia, đang ngày càng được xem trọng và có tầm ảnh hưởng lớn trong công cuộc giữ
gìn nền hòa hữu giữa các Quốc gia trên thế giới. Bằng con đường quan hệ ngoại
giao, mỗi quốc gia không chỉ thực hiện các chính sách, bảo vệ lợi ích, quyền hạn
của riêng mình, của người dân mình trong và ngoài nước mà còn góp phần giải
quyết vấn đề quốc tế chung bằng con đường hoà bình.
Với ý nghĩa và tầm quan trọng của nó, luật ngoại giao, lãnh sự cũng ngày
càng phát triển lên tầm cao mới với nhiều nguyên tắc mới, quy phạm pháp luật mới
để điều chỉnh tốt hơn quan hệ hoạt động đối ngoại của các cơ quan trong nước cũng
như ở nước ngoài. Một trong số đó có thể kể tới chế định “Persona non grata” được
hiểu là “người không được chào đón”, quy định tại Điều 9 Công ước Vienna về
quan hệ ngoại giao năm 1961. Tuy là một chế định có từ lâu nhưng nó lại được áp
dụng rất phổ biến cho tới ngày nay trên thế giới. Các nhà ngoại giao được quyền
miễn trừ ngoại giao khi làm việc tại nước sở tại, ngay cả khi họ đã phạm pháp

nhưng với chế định “ Persona non grata” thì nước sở tại có thể yêu cầu bất kì một
viên chức ngoại giao rời khỏi sau khi tuyên bố “Persona non grata” mà không cần
giải thích nguyên do và nước cử đại diện ngoại giao phải có nghĩa vụ triệu hồi đại
diện của mình theo thời gian được yêu cầu mà nguyên nhân của nó có thể là do mâu
thuẫn chính sách; vi phạm pháp luật, chủ quyền; trả đũa hoặc nghi làm gián điệp,…
Điển hình một số vụ việc sau:

1


Trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, Persona non grata thường xuyên được dùng
để trả đũa nhau theo kiểu ăn miếng trả miếng (tit for tat) giữa Khối cộng sản và các
nước tư bản. Và họ đã dùng nó quá thường xuyên, đến nỗi trong thập niên 1960, đã
có hẳn một công ty bảo hiểm - J. N. Dobbin & Co. - chuyên phụ trách các hợp đồng
bảo hiểm cho nhân viên, quan chức của các Ngoại giao đoàn trong trường hợp họ bị
trục xuất.
Gần đây, ngày 29/12/2016, Hoa Kỳ đã áp dụng Persona non grata đối với 35
nhân viên, quan chức ngoại giao các cấp của Đại sứ quán và Tổng lãnh sự Nga vì
nghi ngờ họ có dính líu đến vụ việc chính quyền Putin đã tìm cách thao túng mùa
bầu cử tổng thống năm 2016, cũng như đã tìm cách xâm nhập vào các cơ sở dữ liệu
của các tổ chức chính trị tại Mỹ.
Hoặc theo thông cáo báo chí ngày 02/08/2017, việc “bắt cóc” Trịnh Xuân
Thanh tại Đức đã được thực hiện trái với luật pháp của Đức và của quốc tế. Có thể
xem là Đức đã áp dụng Persona non grata với quan chức Việt Nam vì lý do vi phạm
pháp luật.
Như vậy, chế định Persona non grata có thật sự là vũ khí sắc bén trong quan
hệ ngoại giao hay nó làm ảnh hưởng xấu tới quan hệ giữa hai nước. Luận văn: “Chế
định “Persona non grata” trong luật ngoại giao, lãnh sự: Những vấn đề lí luận và
thực tiễn” sẽ nghiên cứu và bàn luận về vấn đề này.
2. Tình hình nghiên cứu

Đến thời điểm hiện nay, vấn đề nghiên cứu pháp luật về ngoại giao, lãnh sự
đã được các nhà nghiên cứu, các chuyên gia đề cập đến nhiều góc độ khác nhau. Có
nhiều công trình, dự án, đề tài khoa học, bài viết, bài tham luận cấp trường, cấp
quốc gia đưa ra những quan điểm và những kiến nghị, giải pháp về khía cạnh pháp
luật thực thi trong quan hệ ngoại giao, lãnh sự.
Tuy nhiên, đi sâu về chế định Persona non grata thì hầu như chưa có một bài
viết, công trình cụ thể nào. Đây là vấn đề khá mới mẻ trong bàn luận tuy chế định
này đã được các quốc gia khắp thế giới sử dụng ngày càng phổ biến, trong đó có

2


Việt Nam. Bởi tính phổ biến, rộng rãi nên chúng ta cần nghiên cứu chuyên sâu từ đó
có thể đưa ra các đánh giá cũng như kiến nghị hữu ích hoàn thiện luật ngoại giao,
lãnh sự. Vì lý do trên, việc nghiên cứu chế định Persona non grata trong luật ngoại
giao, lãnh sự: Những lí luận và thực tiễn là hết sức cần thiết.
3. Mục tiêu nghiên cứu
3.1.

Mục tiêu tổng quát

Hệ thống lại những lý luận cơ bản có liên quan trong luật ngoại giao, lãnh sự
trên quốc tế và trong phạm vi Việt Nam;
Đánh giá thực trạng thực hiện (thực thi) chế định Persona non grata trên thế
giới và liên hệ thực tiễn với Việt Nam;
Đưa ra những kiến nghị nhằm tháo gỡ những khó khăn, bất cập, vướng mắc
của chế định Persona non grata đồng thời đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện
chế định này.
3.2.


Mục tiêu cụ thể

Để đạt được mục tiêu tổng quát trên, luận văn sẽ thực hiện các mục tiêu cụ
thể như sau:
- Tìm hiểu về lịch sử hình thành và phát triển, đặc điểm cũng như vai trò, ý
nghĩa của chế định Persona non grata;
- Làm sáng tỏ các quy định của pháp luật về chế định Persona non grata, từ đó
đánh giá các quy phạm đó trên những tiêu chí nhất định và quá trình thực hiện
chúng trên thực tế để làm sáng tỏ nội dung cũng như chỉ ra những hạn chế, những
điểm bất hợp lý trong các quy định của pháp luật và việc thực hiện chúng trên thực
tế;
- Đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và
nâng cao hiệu quả thực hiện trong lĩnh vực ngoại giao ở Việt Nam và trên thế giới
hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

3


Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận về chế định Persona
non grata và thực tiễn thực thi chế định đó trong quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam
với các nước trên thế giới, từ đó đề ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực
hiện luật về ngoại giao, lãnh sự trong giai đoạn hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là tập trung nghiên cứu những vấn đề
sau đây:
Về mặt thời gian: Luận văn nghiên cứu lịch sử hình thành chế định Persona
non grata từ trước khi chế định được pháp điển hoá và khi chúng được áp dụng một
cách rộng rãi cho tới ngày nay.
Về mặt không gian: Luận văn nghiên cứu chế định Persona non grata trong
luật ngoại giao, lãnh sự quốc tế cũng như luật ngoại giao, lãnh sự của một số quốc

gia cụ thể. Việc nghiên cứu cũng được nhìn nhận trên nhiều khía cạnh như pháp
luật, chính trị, kinh tế, văn hoá.
5. Tính mới và những đóng góp của đề tài
- Phân tích làm rõ hơn về chế định Persona non grata trong luật ngoại giao,
lãnh sự.
- Đánh giá một cách khái quát tổng thể về chế định Persona non grata, nêu lên
một số nguyên nhân dẫn tới việc áp dụng chế định này trên thế giới cũng như hạn
chế khi áp dụng nó.
- Đưa ra kiến nghị nhằm hoàn thiện chế định Persona non grata.

4


CHƢƠNG 1 - TỔNG QUAN CHẾ ĐỊNH PERSONA NON GRATA TRONG
LUẬT NGOẠI GIAO LÃNH SỰ
1.1. Khái niệm và lịch sử hình thành và phát triển của chế định Persona
non grata trong luật ngoại giao, lãnh sự
1.1.1. Khái niệm Persona non grata
Trong lịch sử khoa học pháp lý, khái niệm Persona non grata đã tồn tại từ rất
lâu, tuy nhiên tùy thuộc vào điều kiện cụ thể của từng thời kỳ và quan điểm riêng
của từng quốc gia, mà tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm này.
Thuật ngữ “Persona non grata” có nghĩa đen thông thường là nhân vật không
được chào đón. Đây là một cụm từ Latinh được sử dụng để nói về việc ai đó được
cho là không thể được chấp nhận hoặc không được chào đón ở một nơi nhất định.
Từ điển luật học Black‟s Law định nghĩa Persona non grata là “người không được
chào đón, một viên chức ngoại giao mà không được chấp nhận bởi quốc gia chủ
nhà” [35, tr.1260].
Trong luật ngoại giao và lãnh sự, thuật ngữ này được dùng để chỉ một nhà
ngoại giao, lãnh sự không còn được chào đón đối với chính phủ và lãnh thổ của
quốc gia mà người đó từng được công nhận. Giáo sư Gamboa trong cuốn Từ điển

về Luật quốc tế và Ngoại giao đã định nghĩa Persona non grata là “một thuật ngữ để
chỉ một nhà ngoại giao không còn được chào đón ở chính phủ mà người đó được
công nhận sau khi đã tiếp nhận và thực hiện nghĩa vụ, hoặc trước khi đến lãnh thổ
của Quốc gia tiếp nhận”[46, tr.210]. Căn cứ để một nước tuyên bố các nhà ngoại
giao của nước khác là Persona non grata được Gamboa cho là do các nhà ngoại giao
này đã đưa ra những phát ngôn chống lại chính quyền, vi phạm luật pháp hoặc can
thiệp vào chính trị và các vấn đề của nước sở tại, sử dụng ngôn ngữ xúc phạm hoặc
chỉ trích người đứng đầu nhà nước sở tại hoặc các căn cứ khác tương tự [46, tr.211].
Một cách hiểu cụ thể hơn được đưa ra là:
Persona non grata là một thuật ngữ Latinh để chỉ một đại diện ngoại giao của
một quốc gia bị tuyên bố không thể được chấp nhận đối với quốc gia tiếp nhận.
Điều này có thể diễn ra trước khi đại diện ngoại giao đó chính thức tiếp nhận chức

5


vụ, nghĩa là người đó không thể chấp nhận đối với quốc gia sở tại và sẽ không được
tiếp nhận chức vụ; hoặc sau khi đại diện ngoại giao đó tiếp nhận chức vụ nhưng có
những hành vi không phù hợp và không thể chấp nhận được đối với quốc gia sở
tại.[36, tr.112].
Việc tuyên bố một nhà ngoại giao là Persona non grata thường xuất phát từ
thái độ không thân thiện của quốc gia tiếp nhận hoặc sắp tiếp nhận, sự vi phạm luật
pháp nước này hoặc luật pháp quốc tế, hoặc hành vi ngoại giao không đúng đắn, tuy
nhiên quốc gia tiếp nhận cũng có thể tuyên bố Persona non grata mà không cần đưa
ra bất kỳ lý do nào. Quốc gia cử đi sau đó sẽ phải triệu hồi đại diện ngoại giao của
mình hoặc, nếu không, quốc gia tiếp nhận có thể bỏ qua sự hiện diện của đại diện
ngoại giao hoặc trục xuất nhà ngoại giao này ra khỏi lãnh thổ nước mình [36,
tr.112].
Theo luật pháp quốc tế, từ lâu, mọi quốc gia đều có quyền quyết định liệu họ
có tiếp nhận một đại sứ ngoại giao từ một quốc gia khác hay không và liệu họ có

tiếp tục tiếp nhận và làm việc với người đại sứ đã được chấp nhận trước đó hay
không [44, tr.40].
Tuyên bố của Persona non grata được xem là một quyết định rất thận trọng
của Quốc gia tiếp nhận. Vì các mối quan hệ quốc tế rất phức tạp và dựa trên lợi ích
chung mà chính phủ Quốc gia tiếp nhận ngần ngại khi sử dụng quyền này ngay cả
khi họ có bằng chứng rằng các nhà ngoại giao nước ngoài đã lạm dụng chức vụ của
mình và gây hại cho Quốc gia tiếp nhận. Có thể giải thích cho vấn đề này bằng ví
dụ rằng nếu có một cộng đồng người đáng kể của Quốc gia tiếp nhận đang sống tại
Quốc gia cử đi thì mức độ mà chính phủ Quốc gia tiếp nhận phản ứng với sự vi
phạm của đại diện ngoại giao sẽ phụ thuộc phần lớn vào thực tế khả nằng tổn hại
đến cộng đồng người của mình đang sống tại Quốc gia tiếp nhận. Tình trạng này
thực tế đã xảy ra trong vụ việc Đại sứ quán Libya tại Anh năm 1984. Fletcher, một
nữ cảnh sát đã thiệt mạng sau khi bị trúng đạn bắn ra từ Đại sứ quán Libya trong
một cuộc biểu tình chống ông Gaddafi, nhà lãnh đạo Libya lúc bấy giờ. Tranh cãi

6


nổ ra khiến quan hệ ngoại giao của hai nước bị phá vỡ. Ba mươi người Libya trong
đại sứ quán bị trục xuất bằng Persona non grata và không ai bị buộc tội giết người.
Đại sứ quán Anh ở Tripoli phải sơ tán và bị người Libya cướp phá, một số người bị
bắt làm con tin. Vương quốc Anh đã phải kiềm chế những động thái mạnh tay hơn
với Đại sứ quán Libya để đảm bảo sự an toàn cho hơn 8.000 người Anh đang sống
ở Libya [67, tr.645].
Chế định về Persona non grata được pháp điển hoá và chính thức được luật
hoá thành văn bản tại Điều 9 Công ước Vienna 1961 về Quan hệ ngoại giao và
tương tự tại Điều 23 Công ước Vienna 1963 về Quan hệ lãnh sự.
Tóm lại, có thể hiểu rằng, Persona non grata có nghĩa là một người đại diện
ngoại giao không được hoan nghênh ở quốc gia mà người này nhận nhiệm vụ đại
sứ. Chế định Persona non grata là một chế định quan trọng trong trong hệ thống luật

về ngoại giao, lãnh sự, được áp dụng khi Quốc gia tiếp nhận cho rằng không thể
chấp nhận quan hệ ngoại giao với một nhà ngoại giao của nước khác, tuyên bố
người này là Persona non grata và gửi yêu cầu triệu hồi đến Quốc gia cử đi.
1.1.2. Lịch sử phát triển của chế định Persona non grata trong luật ngoại
giao, lãnh sự
Nguyên tắc cơ bản về việc Quốc gia tiếp nhận không cần thiết phải duy trì
quan hệ ngoại giao đối với một cá nhân mà nước này cho là không thể chấp nhận
được đã tồn tại ngay từ thời kỳ đầu tiên của thực tế ngành ngoại giao, được hình
thành và phát triển cùng với sự phát triển của các mối quan hệ quốc tế [47]. Trong
hầu hết các trường hợp ở giai đoạn đầu, động thái tuyên bố một nhà ngoại giao là
Persona non grata được đưa ra do hệ quả của mối quan hệ không tốt đẹp với Quốc
gia cử đi [58, tr.65-71]. Các nhà chức trách đã đồng ý rằng Quốc gia tiếp nhận hoàn
toàn có quyền „trục xuất‟ một nhà ngoại giao trong thời gian ngắn và vấn đề tranh
luận ở đây chỉ liên quan đến việc liệu nước này có thẩm quyền xét xử nhà ngoại
giao đó về tội hình sự hay không.

7


Một trường hợp sớm và nổi tiếng về Persona non grata được ghi nhận là Don
Bernardino de Mendoza, Đại sứ Tây Ban Nha tại Anh. Năm 1584, người này được
lệnh buộc phải rời khỏi London trong vòng mười lăm ngày kể từ khi các cuộc điều
tra tiết lộ sự liên quan của ông trong một âm mưu nhằm hạ bệ Nữ hoàng Elizabeth I
và thay thế bà bằng Nữ hoàng Mary người Scotland [55, tr.157]. Mendoza được vua
Philip II của Tây Ban Nha cử làm đại sứ ở London từ năm 1578. Ông đã bị trục xuất
khỏi Anh vào năm 1584, sau khi sự tham gia của ông vào âm mưu chống lại
Elizabeth I được tiết lộ. Mặc dù Nữ hoàng Elizabeth I cho rằng việc trục xuất này
không liên quan đến chính quyền Tây Ban Nha nhưng sự thật cho thấy Mendoza và
vua Phillip II đã sử dụng một mật mã mà chỉ hai người biết thông qua các bản báo
được nhà ngoại giao này gửi về nước. Như vậy, tại Anh, Mendoza không chỉ hoạt

động như một nhà ngoại giao mà còn là một điệp viên cho chính quyền Tây Ban
Nha. Nữ hoàng Elizabeth I đã lệnh cho một sứ giả tới Tây Ban Nha để thể hiện quan
điểm rằng đây là vấn đề giữa bà với cá nhân Mendoza chứ không phải với chính
quyền Tây Ban Nha và rằng sẽ tiếp nhận nếu nước này cử một nhà ngoại giao khác
tới Anh [43, tr.49]. Mặc dù nỗ lực để tiếp tục mối quan hệ với Tây Ban Nha này đã
không thành công, nhưng việc trục xuất một nhà ngoại giao có hành vi sai trái vì lí
do cá nhân mà không liên quan đến Quốc gia cử đi từ đó đã trở nên phổ biến [38].
Một trường hợp nổi tiếng khác được ghi nhận là Bruneau, Thư ký cho Đại sứ
Tây Ban Nha, người đã bị trục xuất bởi vua Henri IV của Pháp vào năm 1605.
Bruneau đã bị bắt tại Pháp do có tham gia vào âm mưu đưa thành phố Marseilles
vào tay người Tây Ban Nha. Nhà ngoại giao này đã được đưa ra xét xử tại Nghị
viện Pháp tuy nhiên cơ quan này đã không kết tội mà đệ trình trường hợp này lên
nhà vua lâm thời là Henry IV, với điều kiện là nhà vua giao Bruneau cho Đại sứ
Tây Ban Nha và yêu cầu Đại sứ gửi Thư ký của mình về nước ngay lập tức. Đại sứ
Tây Ban Nha sau đó đã chỉ trích quyết định này của chính quyền Pháp, tuy nhiên
sau đó, nhà vua đã đáp trả rằng “pháp luật quốc gia không cấm việc bắt giữ một nhà
ngoại giao nhằm ngăn chặn hành vi sai trái của người này”. Nhà vua còn nói thêm
rằng, một nhà nước thậm chí còn có quyền thực hiện mọi biện pháp cần thiết để

8


chống lại một nhà ngoại giao với mục đích tránh những hành động làm tổn hại đến
đất nước. Chính quyền Pháp hoàn toàn có quyền thẩm vấn Bruneau để tìm ra những
thành phần của âm mưu nguy hiểm này [45, tr. 480-481].
Antonio del Giudice, một Đại sứ khác của Tây Ban Nha cũng bị trục xuất ra
khỏi biên giới Pháp vào năm 1718 sau khi sự thật rằng nhà ngoại giao này tham gia
vào một âm mưu chống lại Nhiếp chính Pháp bấy giờ là Philippe d'Orléans bị phát
hiện [34]. Antonio del Giudice được bổ nhiệm làm Đại sứ Tây Ban Nha bởi Tòa án
Pháp năm 1715 dưới triều đại Louis XIV của Pháp. Tuy nhiên, tháng 9 năm đó, vua

Louis XIV qua đời và người kế vị ông, vua Louis XV lúc đó mới năm tuổi lên ngôi.
Năm 1718, Antonio và đại sứ quán của mình muốn phế truất Nhiếp chính Philippe
d'Orléans, người chăm sóc và thay mặt vua Louis XV trị vì đất nước lúc bấy giờ và
biến Philip V, chú của vua Louis XV và cũng là vua của Tây Ban Nha trở thành
Nhiếp chính cho vị vua nhỏ tuổi. Âm mưu này được hỗ trợ rất nhiều bởi một số kẻ
thù khác của Philippe d'Orléans tuy nhiên sau đó bị bại lộ do sơ suất. Ngày 9 tháng
12, Antonio bị bắt và trục xuất về Tây Ban Nha, những người khác tham gia vào âm
mưu lật đổ cũng bị bắt và lưu đày.
Vào năm 1750, khi quyền miễn trừ ngoại giao đối với trách nhiệm hình sự đã
trở thành một quy tắc được công nhận trong quan hệ ngoại giao, Emer de Vattel
nhấn mạnh rằng Quốc gia tiếp nhận chỉ nên trục xuất một nhà ngoại giao sau khi
gửi thông cáo cho Quốc gia cử đi về việc xét xử hoặc về việc triệu hồi nhà ngoại
giao được cho là Persona non grata [45, tr. 93-98]. Quan điểm của Vattel đã trở nên
phổ biến hơn trong bầu không khí chính trị ảm đạm của thế kỷ XIX. Các trường hợp
trục xuất đã không còn và thay vào đó là các yêu cầu triệu hồi được gửi đi một cách
thận trọng mà không yêu cầu công khai lý do, tuy nhiên các trường hợp này cũng
chỉ thường được biết đến và xuất hiện trong sổ tay ngoại giao. Hoa Kỳ đã tuân thủ
thông lệ này bằng cách triệu hồi đại sứ ngoại giao của mình tại Lima, Peru về nước
vào năm 1846 sau khi ông này đưa ra phát ngôn về một sắc lệnh chính thức được
Bộ Ngoại giao Peru thông báo đến ông là “một sự biến dạng về mặt đạo đức và
pháp lý thể hiện một tầm nhìn không chỉ không đáng xem trọng, mà còn thô tục và

9


sai lầm” [44, tr.62]. Bộ trưởng Bộ Ngoại giao đã bình luận trong thông điệp ông
Jewett rằng:
Nếu các đại diện ngoại giao tự mình thực hiện những hành động không thể
chấp nhận được đến mức phải nhận yêu cầu triệu hồi về nước từ chính quyền quốc
gia mà họ đang được công nhận nghĩa vụ ngoại giao, thì đó là trường hợp rất hiếm

và cực kỳ nghiêm trọng, yêu cầu triệu hồi là một hệ quả tất yếu. Việc từ chối thực
hiện yêu cầu này có thể được xem sự chống lại mục đích hoạt động ngoại giao
nhằm xây dựng mối quan hệ hữu nghị giữa các quốc gia độc lập [49, tr.447].
Tuy nhiên, Vương quốc Anh lại không sẵn lòng tuân theo quan điểm mới
này, nước này cho rằng cần có lý do cho việc Quốc gia tiếp nhận đưa ra yêu cầu
triệu hồi đối với các nhà ngoại giao và Quốc gia gửi đi có quyền xem xét lý do đó.
Henry Bulwer, Đại sứ Vương quốc Anh đã bị yêu cầu rời khỏi Quốc gia tiếp nhận là
Tây Ban Nha năm 1848 [60, tr.611]. Henry Bulwer nhận nhiệm vụ là Đại sứ của
Vương quốc Anh tại Madrid từ năm 1844. Đến năm 1848, ông bị Thủ tướng Tây
Ban Nha lúc bấy giờ là Narváez yêu cầu rời khỏi nước này sau khi có liên quan đến
phong trào tự do trỗi dậy chống lại chính quyền bảo thủ đương nhiệm. Henry
Bulwer bị chính quyền Tây Ban Nha buộc tội do chứa chấp những người có liên
quan đến cuộc nổi dậy trong Đại sứ quán Anh tại Madrid. Sự kiện này đã gây ra sự
căng thẳng trong quan hệ ngoại giao giữa chính quyền hai nước Tây Ban Nha và
Vương quốc Anh. Sau sự kiện này, Lord Palmerston, lúc bấy giờ là Bộ trưởng Bộ
ngoại giao, đã tỏ rõ quan điểm và động thái của Anh đối với vấn đề này:
Công tước xứ Sotomayor (Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Tây Ban Nha lúc bấy
giờ), khi đề cập đến vấn đề này, dường như cho rằng mọi chính phủ đều có quyền
đưa ra yêu cầu triệu hồi với bất kỳ đại sứ ngoại giao nào bất kể khi nào và vì lý do
gì có thể trục xuất người này; nhưng đây là một học thuyết mà ông không thể nào
đồng ý. Chính phủ Anh có quyền xác định liệu có hay không bất kỳ lý do chính
đáng nào chống lại đại sứ ngoại giao của mình, và liệu việc triệu hồi hay tiếp tục để

10


người này giữ chức vụ của mình sẽ đảm bảo được lòng tự tôn cũng như lợi ích của
Vương quốc Anh [60, tr.454].
Những quan điểm luật học khác nhau này đã xảy ra xung đột trực tiếp vào
năm 1888 khi Lord Sackville, Bộ trưởng Anh tại Washington, trở thành Persona

non grata đối với Chính phủ Hoa Kỳ sau khi ông này viết một lá thư khuyên một
người gốc Anh nên bỏ phiếu như thế nào trong cuộc bầu cử đang diễn ra ở Hoa Kỳ
lúc bấy giờ [77]. Vụ bê bối chính trị này còn được gọi là Bức thư Murchison. Trong
cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm 1888 giữa Grover Cleveland của New York,
tổng thống Đảng Dân chủ đương nhiệm, và ứng cử viên đảng Cộng hòa Benjamin
Harrison. Bức thư được Sir Lionel Sackville-West gửi đến Charles F. Murchison
(thực ra là một chính trị gia đóng giả là người nước ngoài người Anh); trong bức
thư, Sir Lionel cho rằng Cleveland là tổng thống được chính phủ Anh ủng hộ. Đảng
Cộng hòa sau đó đã công bố bức thư này chỉ hai tuần trước cuộc bầu cử, và khiến
nhiều cử tri người Mỹ gốc Ailen phản đối Cleveland. Cleveland đã thua bầu cử ở
New York và Indiana và cuối cùng đã không giữ được ghế tổng thống. SackvilleWest sau đó bị cách chức đại sứ Anh tại Hoa Kỳ. Hầu tước Salisbury tỏ rõ quan
điểm của chính phủ Anh trong vụ bê bối này:
Một điều tất nhiên là chính phủ một quốc gia có thể tự do chấm dứt quan hệ
ngoại giao với bất kỳ quốc gia nào khác, hoặc với một đại sứ ngoại giao nhất định
của bất kỳ quốc gia nào khác. Nhưng quốc gia này không có quyền yêu cầu Quốc
gia kia tham gia vào quá trình chấm dứt quan hệ đó, hoặc đồng tình với quá trình
đó, trừ khi Quốc gia đó công nhận những lý do được đưa ra cho việc chấm dứt quan
hệ ngoại giao đó là đúng và hợp lý [44, tr.63].
Trên thực tế, Hoa Kỳ đã cung cấp các lý do cho yêu cầu triệu hồi của mình,
nhưng họ vẫn cho rằng Anh có nghĩa vụ phải tuân thủ yêu cầu đó và dẫn chứng một
quy tắc quốc tế:
Khi Quốc gia tiếp nhận cho rằng cần sa thải đại sứ ngoại giao của một Quốc
gia khác vì hành vi không phù hợp của người này, thì theo thông lệ, chính phủ Quốc

11


gia tiếp nhận sẽ thông báo cho chính phủ Quốc gia gửi đi rằng đại diện ngoại giao
họ không còn được chấp nhận được và yêu cầu triệu hồi. Nếu hành vi phạm tội của
đại diện ngoại giao đó là nghiêm trọng, anh ta có thể bị cách chức mà không cần

đến sự triệu hồi của Quốc gia gửi đi. Chính phủ yêu cầu thu hồi có thể hoặc không,
theo ý muốn của mình, đưa ra các lý do cho yêu cầu của mình [37, tr.213].
Sau này kết luận được đưa ra là bất kỳ chính phủ nào cũng có quyền yêu cầu
triệu hồi một đại diện ngoại giao của Quốc gia khác đang làm việc trong lãnh thổ
nước này và chính phủ Quốc gia gửi đi có quyền bình đẳng từ chối triệu hồi đại diện
ngoại giao của mình [69, tr.406].
Một nghiên cứu của đại học Harvard năm 1932 đã đưa ra các nguyên tắc
tương tự, nhưng đã bổ sung thêm một điều kiện quan trọng rằng: “Nếu Quốc gia gửi
đi từ chối, hoặc sau một thời gian hợp lý triệu hồi đại diện ngoại giao của mình theo
yêu cầu của Quốc gia tiếp nhận, thì Quốc gia tiếp nhận có thể tuyên bố chấm dứt
chức vụ của đại diện ngoại giao đó trên lãnh thổ quốc gia mình” [74, tr.79]. Tuy
nhiên, Quốc gia tiếp nhận chỉ có thể từ chối chấp nhận một đại diện ngoại giao của
nước khác trong lãnh thổ của mình mà không có quyền sa thải hay tuyên bố chấm
dứt chức vụ của đại diện ngoại giao đó. Tuy nhiên, nội dung chính của nghiên cứu
này là phù hợp với thực tiễn chung, theo đó, yêu cầu triệu hồi của Quốc gia tiếp
nhận chiếm ưu thế và có hiệu lực bất kể mọi sự phản đối của Quốc gia gửi đi.
Chế định về Persona non grata được công nhận chính thức tại Công ước
Vienna năm 1961 về Quan hệ Ngoại giao. Trong quá trình đàm phán, việc có cần
thiết hay không việc đưa ra lý do cho yêu cầu triệu hồi lại được các quốc gia đề cập
đến. Theo đó, quan điểm được ủng hộ hơn trong Ủy ban Luật pháp Quốc tế và tại
Hội nghị Vienna là yêu cầu triệu hồi phải được thực thi và không cần thiết phải đưa
ra lý do cho yêu cầu này. Hội nghị chỉ tranh luận về việc liệu quy định về việc
không cần đưa ra lý do có nên được nêu rõ như trong dự thảo ban đầu của Báo cáo
viên và trong văn bản cuối cùng của Điều 9 hay không [51, tr.12-15].

12


Có nhiều ý kiến liên quan đến vấn đề này được đưa ra tại Hội nghị. Một văn
bản sửa đổi được đệ trình lên Ủy ban năm 1958 và được Uỷ ban chấp nhận rằng

không cần đề cập đến việc không cần đưa ra lý do cho yêu cần triệu hồi, Ủy ban
cũng chú thích rằng điều này có nghĩa là việc đưa ra lý do hay không phụ thuộc vào
ý chí của Quốc gia tiếp nhận [52, tr.6]. Đại diện của Pháp tại Hội nghị lại lập luận
rằng một khi Điều 4 của Công ước Vienna đã tuyên bố rõ ràng rằng những lý do
không cần phải đưa ra để từ chối tiếp nhận đại diện ngoại giao khi người này được
bổ nhiệm (agrément) thì sẽ không chặt chẽ nếu điều khoản tương tự không được
được đưa ra trong Điều 9 khi đại điện ngoại giao bị cho là Persona non grata.
Điều 9 Công ước Vienna 1961 cuối cùng đã không quy định rõ về việc Quốc
gia tiếp nhận không cần đưa ra lý do cho yêu cầu triệu hồi thành một điều khoản
riêng như Điều 4 mà chỉ quy định rằng “Nước tiếp nhận có thể, vào bất cứ lúc và
không cần phải giải thích cho quyết định của mình, báo cho Nước cử đi rằng người
đứng đầu cơ quan đại diện hay bất cứ một cán bộ ngoại giao nào của cơ quan đại
diện là Persona non grata hoặc bất cứ một thành viên nào khác của cơ quan đại
diện là người không được chấp nhận”.
Như vậy mặc dù đã tồn tại từ khá lâu trong thực tế tập quán quốc tế nhưng
đến Công ước Vienna 1961, chế định về Persona non grata mới được hoàn thiện,
pháp điển hoá và công nhận chính thức trong hệ thống luật về ngoại giao, lãnh sự
quốc tế. Chế định về Persona non grata cũng được công nhận rộng rãi trong các
Công ước khác của Liên Hợp Quốc trong lĩnh vực ngoại giao và lãnh sự. Có thể kể
đến Điều 23 Công ước Vienna 1963 về Quan hệ lãnh sự, Điều 12 Công ước Vienna
1969 về Phái đoàn đặc biệt. Công ước Vienna 1975 về Cơ quan đại diện của quốc
gia tại các tổ chức quốc tế phổ cập tuy không ghi nhận cụ thể về Persona non grata,
nhưng Điều 77 Công ước có cho phép quốc gia nhận thực hiện các hành vi tương tự.
Đây đều là các Công ước quốc tế quan trọng trong pháp luật ngoại giao, lãnh sự
quốc tế. Chúng đều có lịch sử khá lâu đời và được áp dụng rộng khắp, trở thành các
tập quán quốc tế có giá trị phổ quát.

13



1.2. Đặc điểm của chế định Persona non grata trong quan hệ ngoại giao,
lãnh sự
1.2.1. Chủ thể của chế định Persona non grata trong luật ngoại giao, lãnh
sự
Chủ thể chính trong hoạt động ngoại giao là các quốc gia và thành viên của
cơ quan đại diện ngoại giao, lãnh sự, một chủ thể không thể tách rời khỏi lịch sử
phát triển của ngành ngoại giao, lãnh sự. Đại diện ngoại giao có thể được xem là
biểu hiện cho mối quan hệ song phương giữa các quốc gia ở nhiều phương diện.
Các chủ thể trong chế định về Persona non grata trong quan hệ ngoại giao, lãnh sự
vì thế cũng bao gồm các quốc gia, trong đó có Quốc gia cử đi và Quốc gia tiếp
nhận, và một chủ thể chính là nhà ngoại giao được xem là Persona non grata –
“người không được chào đón”.
Quốc gia cử đi và Quốc gia tiếp nhận là các cụm từ được sử dụng trong mối
quan hệ ngoại giao giữa hai quốc gia, trong đó, Quốc gia cử đi là quốc gia đã trao
chức vụ và cử đại diện của mình đi thực hiện nhiệm vụ ngoại giao tại một quốc gia
khác; Quốc gia tiếp nhận theo đó là quốc gia công nhận và cho phép người đại diện
ngoại giao đó được sống và thực hiện nhiệm vụ trên lãnh thổ của nước mình.
Việc cử đại diện ngoại giao, lãnh sự tới làm việc tại một nước khác có ý
nghĩa lớn đối với một nhà nước trong mối quan hệ chặt chẽ với các quốc gia khác cả
trong lĩnh vực chính trị, kinh tế và xã hội. Thông thường, các cơ quan đại diện thực
hiện chức năng đại diện chính thức của một quốc gia trong quan hệ với các quốc
gia, vùng lãnh thổ khác và các tổ chức quốc tế bao gồm cơ quan đại diện ngoại giao
là Đại sứ quán, cơ quan đại diện lãnh sự là Tổng Lãnh sự quán và Lãnh sự quán, cơ
quan đại diện tại tổ chức quốc tế là Phái đoàn thường trực, Phái đoàn, Phái đoàn
quan sát viên thường trực và cơ quan có tên gọi khác thực hiện chức năng đại diện
của một quốc gia tại tổ chức quốc tế liên chính phủ.
Tuy đều đại diện cho Quốc gia cử đi nhưng các cơ quan này có những
nhiệm vụ và chức năng trong các lĩnh vực ngoại giao khác nhau. Trong khi đại diện

14



ngoại giao đảm nhận các các vấn đề chính trị, thì đại diện lãnh sự có chức năng chủ
yếu trong các vấn đề liên quan đến thương mại, kinh tế, văn hóa và hành chính, liên
quan đến lợi ích của công dân [62, tr.304]. Một viên chức lãnh sự không có thẩm
quyền thực hiện một nhiệm vụ chính trị, vì các nhiệm vụ đó chỉ có thể được thực
hiện bởi các nhà ngoại giao. Một sự khác biệt khác là chức năng đại diện chính thức
cho Quốc gia cử đi tại Quốc gia tiếp nhận sẽ được thực hiện bởi một viên chức
ngoại giao mà không phải bởi một viên chức lãnh sự (Điều 3, khoản 1.a của Công
ước Vienna năm 1961 về Quan hệ Ngoại giao).
Tuy nhiên khi quy định về chức năng của cơ quan đại diện ngoại giao, Điều
3 Công ước Vienna 1961 sử dụng cụm từ „inter alia‟ (không kể những cái khác),
nghĩa là Công ước cho rằng cơ quan đại diện ngoại giao còn có các chức năng khác
nữa. Các chức năng này tùy thuộc vào tập quán và các thông lệ khác phù hợp với
điều kiện của Quốc gia tiếp nhận. Ví dụ, khi Quốc gia tiếp nhận không có đại diện
lãnh sự, người đảm nhận nhiệm vụ thực hiện đăng ký khai sinh, kết hôn và tử vong
của các công dân của Quốc gia cử đi sống tại Quốc gia tiếp nhận, đại diện ngoại
giao có thể thực hiện các chức năng hoặc nhiệm vụ này của đại diện lãnh sự. Mặt
khác, khi một quốc gia chưa có đại diện ngoại giao ở Quốc gia tiếp nhận nhưng có
đại diện lãnh sự, đại diện lãnh sự có thể tự động thực hiện các nhiệm vụ hoặc chức
năng của đại diện ngoại giao tại Quốc gia tiếp nhận [50, tr.302]. Điều này được
khẳng định tại Điều 3, khoản 2 của Công ước Vienna 1961 “Không một điều khoản
nào của Công ước này có thể được giải thích như có ý ngăn cản cơ quan đại diện
ngoại giao thi hành các chức năng lãnh sự.”
Các đối tượng khác có thể bị áp dụng tuyên bố Persona non grata là đại diện
hoặc bất kì thành viên nào thuộc phái đoàn ngoại giao đặc biệt (Điều 12 Công ước
Vienna 1969 về Phái đoàn đặc biệt), đại diện cho một quốc gia đến một quốc gia
khác thực hiện một nhiệm vụ tạm thời là đàm phán một vấn đề cụ thể hoặc thực
hiện nhiệm vụ liên quan đến một vấn đề cụ thể nào đó (Điều 1 Công ước Vienna về
1969 về Phái đoàn đặc biệt); hoặc bất kì thành viên nào thuộc cơ quan đại diện của

quốc gia tại các tổ chức quốc tế phổ cập, kể cả nhân viên phái đoàn, nhân viên hành

15


chính, công nghệ, dịch vụ và nhân viên phục vụ, những người được hưởng quyền
ưu đãi và miễn trừ ngoại giao (Điều 77 Công ước Vienna về Cơ quan đại diện của
quốc gia tại các tổ chức quốc tế phổ cập).
Để đảm bảo cho các đại diện ngoại giao, lãnh sự có thể hoạt động hiệu quả
của trên lãnh thổ của một quốc gia khác, quyền ưu đãi và miễn trừ ngoại giao đã
được áp dụng. Ngoài việc được hưởng quyền ưu đãi và miễn trừ, các đại diện ngoại
giao còn được hưởng nguyên tắc bất khả xâm phạm, nghĩa là họ sẽ bất khả xâm
phạm bởi bộ máy nhà nước ở Quốc gia tiếp nhận với bất kỳ giá nào, nghĩa vụ của
quyền ưu đãi và miễn trừ này sẽ chấm dứt khi chức năng của người đại diện ngoại
giao, lãnh sự chấm dứt.
Các chức năng của một đại diện ngoại giao sẽ được chấm dứt trong hai
trường hợp, được quy định tại Điều 43 Công ước Vienna 1961 (tương tự Điều 25
Công ước Vienna 1963), đó là:
“a) Quốc gia cử đi thông báo cho Quốc tiếp nhận rằng những chức năng của
viên chức ngoại giao, lãnh sự đó đã chấm dứt; hoặc khi người đó bị thu hồi Giấy
chấp nhận lãnh sự;”
Thông thường, chức năng của một đại diện ngoại giao, lãnh sự kết thúc khi
hết nhiệm kỳ làm việc. Bên cạnh đó, chức năng cũng có thể kết thúc do chiến tranh
hoặc quyết định thu hồi hoặc bãi nhiệm của Quốc gia cử đi. Những động thái như
vậy thường được thực hiện trên cơ sở bất hòa chính trị, và là kết quả của sự cắt đứt
quan hệ ngoại giao giữa hai quốc gia [57, tr.496].
“b) Quốc gia tiếp nhận thông báo cho Quốc gia cử đi rằng nước này không
còn thừa nhận việc viên chức ngoại giao, lãnh sự đó là thành viên của cơ quan đại
diện.”
Đây là trường hợp Quốc gia tiếp nhận áp dụng chế định về Persona non

grata. Quyết định về Persona non grata thường được ban hành khi một đại diện
ngoại giao có hành động gây bất lợi và gây tổn hại cho lợi ích của Quốc gia tiếp
nhận, như thực hiện các hoạt động gián điệp, phạm tội hoặc các hành động khác mà

16


Quốc gia tiếp nhận không chấp nhận được. Đại diện ngoại giao đó sẽ không còn
được công nhận và Quốc gia tiếp nhận sẽ thông báo cho Quốc gia gửi đi về tuyên
bố của Persona non grata, theo đó chức năng ngoại giao của người này sẽ kết thúc.
Lúc này, quyền ưu đãi và miễn trừ mà đại diện ngoại giao được hưởng sẽ không còn
hiệu lực.
Bên cạnh đó việc tuyên bố một nhà ngoại giao là Persona non grata cũng ảnh
hưởng trực tiếp đến gia đình người đó, vì việc cư trú của họ thường tùy thuộc vào
địa vị ngoại giao của thân nhân. Nếu một đại diện ngoại giao, lãnh sự bị tuyên bố là
Persona non grata và mất quyền ưu đãi và miễn trừ, những thành viên trong gia đình
của người này cũng sẽ bị bãi bỏ các quyền mà họ từng được trao khi đến sống tại
lãnh thổ Quốc gia tiếp nhận
1.2.2. Thời điểm và phạm vi áp dụng của chế định Persona non grata trong
luật ngoại giao, lãnh sự
Điều 9 Công ước Vienna 1961 về Quan hệ ngoại giao cũng như các điều
khoản về Persona non grata trong các Công ước Vienna khác quy định “Quốc gia
tiếp nhận có thể, vào bất cứ lúc nào... báo cho Quốc gia cử đi rằng người đứng đầu
cơ quan đại diện hay bất cứ một cán bộ ngoại giao nào của cơ quan đại diện là
"Persona non grata" hoặc bất cứ một thành viên nào khác của cơ quan đại diện là
người không được chấp nhận” và “Một người có thể bị tuyên bố "Persona non
grata" hoặc không được chấp nhận trước khi đến lãnh thổ Quốc gia tiếp nhận.” Như
vậy, thời điểm để tuyên bố một người là Persona non grata có thể là trước hoặc sau
khi người này đến thực hiện nhiệm vụ ngoại giao, lãnh sự ở Quốc gia tiếp nhận.
Đối với trường hợp nhà ngoại giao đã nhận chức vụ và chuyển đến Quốc gia

tiếp nhận để thực hiện nhiệm vụ ngoại giao, lãnh sự của mình, người này có thể bị
Quốc gia tiếp nhận tuyên bố là Persona non grata vào bất cứ thời điểm nào nếu
Quốc gia này cho rằng người đại diện ngoại giao đã có những hành động không thể
chấp nhận được. Hậu quả pháp lý của trường hợp này là Quốc gia gửi đi sẽ bị yêu
cầu triệu hồi đại diện ngoại giao này về nước đồng thời mọi quyền ưu đãi và miễn

17


trừ mà người này được trao khi thực hiện nhiệm vụ ngoại giao, lãnh sự tại Quốc gia
tiếp nhận sẽ bị chấm dứt (Khoản 1 Điều 9 và Điều 43 Công ước Vienna 1961 về
Quan hệ ngoại giao).
Trong khi đó, hệ quả pháp lý trong trường hợp một người đại diện ngoại giao
bị tuyên bố Persona non grata ngay từ trước khi đến lãnh thổ Quốc gia tiếp nhận
không được quy định rõ trong Điều 9 Công ước Vienna 1961. Việc không công
nhận này có thể được thể hiện dưới hình thức Quốc gia tiếp nhận không công nhận
một người được giới thiệu trong quốc thư mà Quốc gia gửi đi gửi tới. Như vậy, có
thể hiểu rằng chức năng ngoại giao của người này tại Quốc gia tiếp nhận sẽ bị huỷ
bỏ và người này sẽ không được phép nhập cảnh Quốc gia tiếp nhận với chức năng
là một nhà ngoại giao đại diện cho Quốc gia cử đi nữa.
Trên thực tế hầu hết các trường hợp tuyên bố Persona non grata trên thế giới
đều xảy ra trong quá trình người đại diện ngoại giao đang làm việc tại Quốc gia tiếp
nhận, trong khi trường hợp xảy ra trước khi nhà ngoại giao đến lãnh thổ Quốc gia
tiếp nhận là rất hiếm. Thực tế này xuất phát từ việc lý do một nhà ngoại giao bị
tuyên bố là Persona non grata ngay từ trước khi đến nhận nhiệm vụ thường không
phải do cá nhân nhà ngoại giao mà do mối quan hệ ngoại giao bất hoà giữa Quốc
gia cử đi và Quốc gia tiếp nhận xảy ra trong khoảng thời gian từ lúc nhà ngoại giao
được bổ nhiệm chức vụ đến trước khi người này đến nhận nhiệm vụ tại Quốc gia
tiếp nhận.
Một vụ việc hiếm thấy và tiêu biểu cho trường hợp này là Arthur H. Davis,

Jr., nhà ngoại giao Hoa Kỳ đã bị Hội đồng Quốc gia Panama tuyên bố Persona non
grata vào năm 1987 trong khi đang chuẩn bị đến làm đại sứ tại nước này. Manuel
Noriega, nhà độc tài quân sự, lãnh đạo thực tế của Panama lúc bấy giờ đưa ra tuyên
bố này trong bối cảnh làn sóng phản đối những tội ác mà ông này gây ra tăng cao ở
cả Panama và Wasington cùng với việc Thượng viện Mỹ với số phiếu gần như tuyệt
đối yêu cầu Noriega từ chức vào ngày 26/07/1987 [56, tr.554].

18


Ngoài ra, Persona non grata không chỉ được áp dụng trong lĩnh vực ngoại
giao, lãnh sự mà nó còn được áp dụng đối với những cá nhân khác mà một quốc gia
“không hoan nghênh”. Một trường hợp nổi tiếng là vào tháng 7 năm 2017, chính
quyền Venezuela của Tổng thống Nicolás Maduro đã tuyên bố năm cựu lãnh đạo
Mỹ Latinh là Persona non gratae (Dạng số nhiều của Persona non grata trong tiếng
Latinh) do năm người này đã tham gia trưng cầu dân ý không chính thức của
Venezuela do phe đối lập tổ chức với tư cách là quan sát viên quốc tế [28]. Sau cái
chết của Tổng thống Hugo Chávez năm 2013, Venezuela phải đối mặt với một cuộc
khủng hoảng kinh tế xã hội trầm trọng trong suốt nhiệm kỳ của người kế
nhiệm Nicolás Maduro, do chính sách của Chávez và sự tiếp tục chính sách này của
Maduro. Do bạo lực đô thị ở mức cao, lạm phát và tình trạng thiếu hụt nghiêm trọng
hàng hoá cơ bản do các chính sách kinh tế như kiểm soát giá cả nghiêm ngặt, cuộc
nổi dậy dân sự ở Venezuela đã kéo dài từ năm 2014 đến năm 2017. Trong bối cảnh
đó, phe đối lập ở nước này đã tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý không chính thức
vào ngày 16/07/2017. Hơn bảy triệu người dân Venezuela đã tham gia và 98% trong
số đó bỏ phiếu để vô hiệu hóa chế độ cai trị của Tổng thống Nicolas Maduro đương
nhiệm. Ông Maduro cáo buộc cuộc bỏ phiếu là vi hiến và bác bỏ kết quả của nó.
Căng thẳng và khủng hoảng ở Venezuela vẫn kéo dài đến thời điểm hiện tại. Năm
nhà cựu lãnh đạo bị tuyên bố Persona non grata gồm cựu Tổng thống Mexico
Vicente Fox đã bị cấm vào ngày 16 tháng 7. Cựu Tổng thống Colombia Andrés

Pastrana, cựu Tổng thống Bolivia Jorge Quiroga và cựu Tổng thống Costa Rica
Laura Chinchilla và Miguel Ángel Rodríguez đã bị cấm vào ngày 18 tháng 7 [40].
Một trường hợp khác là vào ngày 08/04/2012, Israel tuyên bố nhà thơ Đức Günter
Grass, người đã nhận giải thưởng Nobel Văn học năm 1999, là Persona non grata vì
bài thơ "What Must Be Said" của ông này cảnh báo rằng Israel đang đe dọa một
"nền hòa bình thế giới vốn đã mong manh" [76].
Bên cạnh đó, Persona non grata không chỉ được chính phủ các quốc gia áp
dụng đối với nhân viên, quan chức ngoại giao mà ngay cả chính quyền một thành
phố cũng có thể áp dụng chế định này với những cá nhân người nước ngoài mà họ

19


“không hoan nghênh”. Có thể kể đến trường hợp của Tổng thống Hoa Kỳ Donald J.
Trump. Vào tháng 03/2011, Trump đã bị chính quyền thành phố Panama đồng
thuận bỏ phiếu áp dụng Persona non grata vì những phát ngôn của Trump liên quan
đến kênh đào Panama [63]. Trong một phát biểu của mình với CNN, Trump đã nói
rằng Hoa Kỳ "ngu ngốc" chuyển giao quyền kiểm soát tuyến đường thủy quan trọng
nối Đại Tây Dương và Thái Bình Dương "để đổi lấy không có gì”. Thực tế quyền
kiểm soát khu vực kênh đào đã được chuyển đến Panama vào năm 1999 theo các
điều khoản của một hiệp ước được ký kết trong chính quyền tổng thống Carter.
Như vậy, ngoài lĩnh vực ngoại giao, lãnh sự, trong thực tế Persona non grata
được áp dụng phổ biến như một cách để một quốc gia hoặc một thành phố thể hiện
sự trừng phạt đối với một hoặc nhiều cá nhân có hành vi làm tổn hại đến quốc gia
và thành phố đó. Tuyên bố Persona non grata trong các trường hợp này chỉ bao gồm
hai chủ thể, nó hoàn toàn xuất phát từ quan hệ giữa quốc gia hoặc thành phố đưa ra
tuyên bố và cá nhân bị tuyên bố Persona non grata mà không liên quan đến quốc gia
mà cá nhân đó mang quốc tịch.
1.2.3. Tính không bắt buộc của việc đƣa ra lý do cho tuyên bố Persona non
grata trong luật ngoại giao, lãnh sự

Khi một quốc gia đưa ra tuyên bố một đại diện ngoại giao, lãnh sự “không
được chào đón” ở lãnh thổ của mình, theo quy định tại các điều khoản về chế định
Persona non grata ở các Công ước Vienna về ngoại giao và lãnh sự, chính quyền
quốc gia này sẽ không cần phải đưa ra lý do hay giải thích về tuyên bố của mình với
Quốc gia cử đi. Khoản 1 Điều 9 Công ước Vienna 1961 về Quan hệ ngoại giao quy
định rằng “Quốc gia tiếp nhận có thể,... không phải giải thích cho quyết định của
mình, báo cho Quốc gia cử đi rằng người đứng đầu cơ quan đại diện hay bất cứ một
cán bộ ngoại giao nào của cơ quan đại diện là Persona non grata...”. Trong khi,
Công ước Vienna 1963 về Quan hệ lãnh sự quy định rõ về vấn đề này tại khoản 4
Điều 23 rằng “... Quốc gia tiếp nhận không bắt buộc phải cho Quốc gia cử đi biết lý
do quyết định của mình.”

20


×