Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Tiểu luận cao học QUẢN lý báo CHÍ đối NGOẠI và TRUYỀN THÔNG QUỐC tế4 công tác thông tin đối ngoại của việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.99 KB, 20 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC.........................................................................................................1
MỞ ĐẦU...........................................................................................................2
PHẦN NỘI DUNG...........................................................................................3
Chương 1: Quan điểm của Đảng, Nhà nước về công tác thông tin đối
ngoại............................................................................................................3
1.1. Tổng quan về đường lối Đổi mới trong công tác đối ngoại...........3
1.2. Chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về đổi mới công tác thông
tin đối ngoại trong giai đoạn hiện nay...................................................6
Chương 2: Tổ chức thực hiện công tác thông tin đối ngoại của báo chí ở
Việt nam hiện nay......................................................................................11
2.1. Phương thức thông tin đối ngoại của Đảng và Nhà nước hiện nay
.............................................................................................................11
2.2. Công tác thông tin đối ngoại thông qua kênh phương tiện thông
tin đại chúng........................................................................................13
2.3. Công tác thông tin đối ngoại thông qua kênh phóng viên nước
ngoài....................................................................................................16

1


MỞ ĐẦU
Thông tin đối ngoại, theo đó cũng có vai trò hết sức quan trọng đối với
sự phát triển của mỗi quốc gia. Thông tin đối ngoại là sự tiếp tục của công tác
tư tưởng - văn hóa trên phạm vi quốc tế và là một nhiệm vụ, mảng việc quan
trọng của chính sách đối ngoại. Trong các nội dung của thông tin đối ngoại có
nội dung rất quan trọng là nội dung thông tin về văn hóa Việt Nam. Do vậy, ở
một khái niệm rộng hơn, thông tin tuyên truyền đối ngoại bao gồm cả thông
tin đối ngoại và văn hóa đối ngoại. Các quốc gia đều coi trọng công tác tuyên
truyền đối ngoại. Khi hoạch định chính sách đối ngoại, các quốc gia đều đề ra
chủ trương về tuyên truyền đối ngoại


Công tác thông tin đối ngoại là một bộ phận trong chiến lược thông tin
để phục vụ cho lợi ích quốc gia. Ngày nay, trong quan hệ quốc tế hiện đại,
khái niệm "quyền lực mềm" và "ngoại giao công chúng" ngày càng trở nên
phổ biến. Theo đó, thông tin đối ngoại và văn hóa đối ngoại được coi là công
cụ quan trọng mà các quốc gia đều ra sức triển khai nhằm ảnh hưởng tới dư
luận quốc tế phục vụ cho những mục tiêu chung hay cụ thể của chính sách đối
ngoại. Nhiều nước coi đó là bộ phận thiết yếu, không tách rời của chính sách
đối ngoại và cũng quan trọng như sức mạnh quân sự và kinh tế.
Thông tin tuyên truyền đối ngoại không chỉ làm rõ đường lối chính
sách đối ngoại mà còn hỗ trợ cho các hoạt động ngoại giao. Đó là: cung cấp
thông tin về các hoạt động ngoại giao cho báo chí và cho công chúng, chuẩn
bị dư luận, tránh những bất ngờ không cần thiết trong phản ứng của dư luận,
vận động dư luận ủng hộ quan điểm, chính sách của ta, đồng thời phản đối,
đấu tranh dư luận, chống lại những luận điệu sai trái thù địch, phản bác những
thông tin xuyên tạc, sai lệch về tình hình Việt Nam.
Với lý do đó, tôi lựa chọn vấn đề: “Công tác thông tin đối ngoại của
Việt Nam hiện nay” làm đề tài tiểu luận
Tiểu luận gồm: Phần mở đầu, 2 chương, kết luận và tài liệu tham khảo.

2


PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Quan điểm của Đảng, Nhà nước về công tác thông tin đối
ngoại
1.1. Tổng quan về đường lối Đổi mới trong công tác đối ngoại
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI Đảng Cộng sản Việt Nam (121986) là một thời điểm lịch sử đáng ghi nhớ, đánh dấu một bước ngoặt rất cơ
bản trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta với việc đưa ra
đường lối đổi mới toàn diện đất nước, mở ra một giai đoạn mới với những
chuyển biến quan trọng trong đời sống chính trị, kinh tế, xã hội.

Nước ta bước vào công cuộc đổi mới trong bối cảnh quốc tế có những
biến động hết sức phức tạp, nhất là sau khi chế độ xã hội chủ nghĩa bị xóa bỏ
ở các nước Đông Âu, Liên Xô. Lúc này, trên thế giới và trong quan hệ quốc tế
nổi lên một số xu thế mới, đặc điểm mới. Đại hội VI nhận định: "Một đặc
điểm nổi bật của thời đại là cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật đang diễn ra
mạnh mẽ, tạo thành bước phát triển nhảy vọt của lực lượng sản xuất và đẩy
nhanh quá trình quốc tế hóa các lực lượng sản xuất".
Cùng với những tiến bộ vượt bậc của khoa học - công nghệ, xu thế khu
vực hóa và toàn cầu hóa cũng phát triển mạnh mẽ, lôi cuốn ngày càng nhiều
nước tham gia và làm gia tăng các hoạt động kinh tế thương mại quốc tế, tạo
ra những cơ hội và xung lực cho quá trình phát triển, đồng thời cũng đặt ra
những thách thức gay gắt đối với tất cả các nước, trước hết là các nước đang
phát triển và chậm phát triển.
Cục diện chính trị thế giới thay đổi nhanh chóng, phức tạp. Cuối năm
1989 các thiết chế xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu lần lượt sụp đổ. Tháng 121991, Liên Xô tan rã. Trật tự thế giới hai cực chấm dứt. Các nước lớn điều
chỉnh chiến lược mạnh mẽ, đẩy mạnh hòa hoãn và cải thiện quan hệ với nhau,
chú trọng phát triển nội lực, tăng cường cạnh tranh và chạy đua kinh tế. Nguy
cơ chiến tranh thế giới không xảy ra nhưng mâu thuẫn về dân tộc, sắc tộc, tôn
giáo, lãnh thổ vẫn diễn ra gay gắt; xung đột vũ trang và chiến tranh cục bộ
3


xảy ra ở nhiều nơi. Cuộc đấu tranh chính trị vẫn tiếp diễn gay gắt, quyết liệt
dưới những hình thức mới: "diễn biến hòa bình" và chống "diễn biến hòa
bình", vừa hợp tác vừa đấu tranh, vừa đối thoại vừa đối đầu. Thêm vào đó là
những vấn đề toàn cầu về môi trường sinh thái, bùng nổ dân số, ma túy, các
căn bệnh thế kỷ, chủ nghĩa ly khai, chủ nghĩa phục hưng tôn giáo, tội phạm
xuyên quốc gia, chủ nghĩa khủng bố... trở nên gay gắt. Tình hình châu Á Thái Bình Dương nói chung và Đông Nam Á nói riêng cũng có nhiều biến đổi
sâu sắc. Đông Á trở thành khu vực có tốc độ tăng trưởng cao hàng đầu trên
thế giới. Các nước đều điều chỉnh chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và

chiến lược đối ngoại của mình cho phù hợp với xu thế chung đang diễn ra
mạnh mẽ trên thế giới. Đông Nam Á là khu vực phát triển năng động với
những bước tiến triển lớn đầy hứa hẹn. Quan hệ giữa hai nhóm nước ASEAN
và Đông Dương thay đổi cơ bản, chuyển từ trạng thái đối đầu sang đối thoại,
thúc đẩy hòa bình, hữu nghị và hợp tác. Tuy nhiên, môi trường hòa bình, ổn
định và phát triển của khu vực chưa thật vững chắc. Vẫn còn tiềm ẩn một số
nhân tố có thể gây mất ổn định.
Ở trong nước, sau giải phóng miền nam, do tư tưởng chủ quan, nóng
vội duy ý chí, cộng với những khuyết điểm của mô hình kế hoạch hóa tập
trung quan liêu, bao cấp đã làm cho tình hình kinh tế - xã hội nước ta bị rơi
vào trì trệ, khủng hoảng nghiêm trọng kéo dài, lạm phát cao ở mức 3 con số
(774,7% vào năm 1986). Thêm vào đó, các thế lực thù địch bên ngoài chống
phá ta quyết liệt xung quanh vấn đề Campuchia, siết chặt bao vây, cấm vận
đối với nước ta.
Xuất phát từ những nhận thức mới về thời đại và những xu thế chủ yếu
trên thế giới, từ yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đưa đất
nước thoát khỏi tình cảnh khó khăn, Đại hội lần thứ VI của Đảng ta đã đề ra
đường lối đổi mới toàn diện về kinh tế - xã hội. Đổi mới về đối ngoại là một
bộ phận rất quan trọng trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước. Đại hội
lần thứ VI đã đề ra đường lối đối ngoại mềm dẻo và linh hoạt, trong đó chú
4


trọng đến việc "ra sức kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời
đại, phấn đấu giữ vững hòa bình ở Đông Dương, góp phần tích cực giữ vững
hòa bình ở Đông Nam Á và trên thế giới".
Bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng ta coi việc giữ vững môi trường hòa
bình, ổn định để phát triển kinh tế - xã hội là lợi ích cao nhất của đất nước.
Nhằm cụ thể hóa và đổi mới toàn diện chính sách đối ngoại, ngày 20 tháng 5
năm 1988, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI ra Nghị

quyết Trung ương 13 với chủ đề "Giữ vững hòa bình, phát triển kinh tế". Nghị
quyết cũng nhấn mạnh chính sách "thêm bạn, bớt thù", đa dạng hóa quan hệ
trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, cùng có lợi.
Tiếp đó, tháng 3 năm 1989, tại Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành
Trung ương khóa VI, Đảng ta đã xác định cần chuyển mạnh hoạt động đối
ngoại sang phục vụ kinh tế, kết hợp ngoại giao chính trị với ngoại giao kinh
tế. Đại hội lần thứ VII của Đảng, tháng 6 năm 1991, đã đánh dấu bước phát
triển mới của sự nghiệp đổi mới, đặc biệt trong lĩnh vực đối ngoại. Tại Đại
hội này, Đảng ta đã khẳng định quyết tâm đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, đề ra
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và
chính sách đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại, hợp tác bình đẳng
và cùng có lợi với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị, xã hội
khác nhau; đưa phương châm "thêm bạn, bớt thù" lên mức độ cao hơn, có tính
khẳng định mạnh mẽ hơn với tuyên bố "Việt Nam muốn làm bạn với tất cả
các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát
triển". Việc Đảng ta đề ra chính sách đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ
đối ngoại lúc này, khi tình hình thế giới đã thay đổi căn bản, là hết sức đúng
đắn và kịp thời, đã góp phần làm xoay chuyển thế đối ngoại của ta: chủ động
chuyển từ tình trạng đối đầu sang hợp tác cùng tồn tại hòa bình, phá vỡ thế bị
bao vây, cô lập.
Đường lối và chính sách đối ngoại đổi mới tiếp tục được Đảng ta khẳng
định, bổ sung và từng bước hoàn thiện tại các Đại hội lần thứ VIII (tháng 6
5


năm 1996), Đại hội lần thứ IX của Đảng (tháng 4 năm 2001), Đại hội X
(tháng 4 năm 2006). Qua mỗi kỳ Đại hội, chính sách đối ngoại rộng mở, đa
dạng hóa, đa phương hóa quan hệ được Đảng ta bổ sung và nâng lên một
bước với nội dung mới, "chúng ta thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại
độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở,

đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Việt Nam là bạn, là đối tác
tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình
hợp tác quốc tế và khu vực"
Như vậy, đổi mới chính sách đối ngoại là một quá trình từ đánh giá,
nhìn nhận và nắm bắt xu thế thời đại, xác định mục tiêu và định hướng phát
triển cho đất nước, từ đó đề ra vai trò và nhiệm vụ đối ngoại cũng như chính
sách để thực hiện được những mục tiêu ấy.
1.2. Chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về đổi mới công tác thông tin
đối ngoại trong giai đoạn hiện nay
Công tác thông tin đối ngoại là một nhiệm vụ của công tác đối ngoại.
Theo đó, cùng với việc đổi mới về đường lối, chính sách đối ngoại, công tác
thông tin đối ngoại cũng có những đổi mới rất sâu sắc và kịp thời nhằm phục
vụ lợi ích của quốc gia trong tình hình mới. Ngày 13 tháng 6 năm 1992 Ban
Bí thư Trung ương Đảng (khóa VII) ra Chỉ thị số 11/CT-TW về: "Đổi mới và
tăng cường công tác thông tin đối ngoại", định hướng chỉ đạo hoạt động thông
tin đối ngoại của ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Chỉ thị của Ban Bí thư đã chỉ ra những nội dung chủ yếu của công tác
thông tin đối ngoại là:
+ Thông tin đường lối, chính sách và thành tựu đổi mới toàn diện của
nước ta, những chủ trương quan trọng của ta nhằm giải quyết một số vấn đề
lớn hoặc đáng chú ý về kinh tế, chính trị, xã hội… kịp thời bác bỏ những
thông tin xuyên tạc, sai lệch về tình hình Việt Nam, nhất là về tình hình dân
chủ, nhân quyền, ngăn chặn việc truyền bá vào nước ta những quan điểm, tư
tưởng, lối sống, văn hóa phản động, đồi trụy, kích động bạo lực.
6


+ Thông tin về chính sách đối ngoại, kể cả chính sách kinh tế đối ngoại
của Đảng và Nhà nước ta, những khả năng to lớn của Việt Nam trong quan hệ
hợp tác với các nước.

+ Thông tin về đất nước, con người, lịch sử và nền văn hóa lâu đời hết
sức phong phú của các dân tộc anh em trong cộng đồng dân tộc Việt Nam.
Tùy từng địa bàn, đối tượng và yêu cầu từng lúc mà xác định nội dung và
hình thức thông tin cho thích hợp, có trọng tâm, trọng điểm. Những thông tin
đó cần phải chân thật, chính xác, sinh động, kịp thời và phù hợp từng đối
tượng để có sức thuyết phục.
Sau khi ban hành chỉ thị, việc hình thành một cơ chế chỉ đạo thống nhất
hoạt động thông tin đối ngoại về nội dung, phương thức hoạt động, phối hợp
lực lượng và phân bổ các nguồn lực là hết sức cần thiết. Những văn bản pháp
quy do các cơ quan nhà nước ban hành sẽ giúp các lực lượng làm thông tin
đối ngoại có được hành lang pháp lý cần thiết, tạo điều kiện để họ mạnh dạn,
chủ động, sáng tạo trong hoạt động, đồng thời các cơ quan quản lý nhà nước
cũng có cơ sở pháp lý để kiểm tra, đánh giá hoạt động của các lực lượng làm
công tác này.
Tiếp đó, ngày 29 tháng 12 năm 1998 Thường vụ Bộ Chính trị khóa VIII
đã ra Thông báo số 188-TB/TW về công tác thông tin đối ngoại trong tình
hình mới. Thông báo đã bổ sung, nhấn mạnh những đối tượng, lực lượng, địa
bàn ưu tiên, định hướng vào những nhiệm vụ trọng tâm. Chất lượng và số
lượng sản phẩm thông tin đối ngoại ngày càng được tăng cường và đổi mới.
Thông báo yêu cầu chỉ đạo tiếp tục thực hiện tốt Chỉ thị 11-CT/TW, đồng thời
chú trọng một số việc:
+ Ngoài việc tiếp tục quan hệ và chủ động xúc tiến công tác thông tin
tuyên truyền hướng vào các đối tượng và địa bàn đã được xác định tại Chỉ thị
11, ưu tiên cung cấp thông tin định hướng cho người nước ngoài đến Việt
Nam sống, làm việc, du lịch, học tập và các nhà Việt Nam học trên thế giới.
Tranh thủ họ để qua đó đưa thông tin giới thiệu về Việt Nam ra thế giới.
7


+ Tiếp tục đầu tư và nâng cao chất lượng hệ thống báo chí, xuất bản

quốc gia như Thông tấn xã Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng
nói Việt Nam, một số báo và nhà xuất bản lớn để làm nòng cốt cho công tác
thông tin đối ngoại. Từng bước tổ chức chặt chẽ việc đưa các bộ phận chính
của hệ thống này chuyển ngữ lên mạng internet, nhằm cập nhật tin tức về Việt
Nam trên thế giới.
+ Kết hợp chặt chẽ việc tổ chức lực lượng trong nước với việc triển
khai thông tin ở nước ngoài, giữa thông tin đối nội với thông tin đối ngoại,
giữa chính trị đối ngoại và kinh tế đối ngoại, văn hóa đối ngoại, giữa ngoại
giao nhà nước, đối ngoại Đảng và đối ngoại nhân dân, tạo và phát huy sức
mạnh tổng hợp của các lực lượng làm công tác thông tin đối ngoại.
Quán triệt Chỉ thị số 11-CT/TW và Thông báo số 188-TB/TW nói trên,
để làm tốt công tác thông tin đối ngoại, đáp ứng đòi hỏi của tình hình mới,
ngày 26/4/2000, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 10/2000/CTTTg "về tăng cường quản lý và đẩy mạnh công tác thông tin đối ngoại". Trong
Chỉ thị, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các Bộ, ngành, địa phương, các cấp
thấu suốt và thực hiện các chủ trương, nhiệm vụ lớn được giao. Chỉ thị nêu rõ:
công tác thông tin đối ngoại là một bộ phận rất quan trọng của công tác đối
ngoại của Đảng và Nhà nước ta nhằm làm cho người nước ngoài (bao gồm cả
người nước ngoài đang sinh sống, công tác tại Việt Nam), người Việt Nam
sinh sống và làm việc ở nước ngoài hiểu về đất nước, con người Việt Nam,
đường lối, chủ trương, chính sách và thành tựu đổi mới của ta, trên cơ sở đó
tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân thế giới, sự đóng góp của cộng đồng người
Việt Nam ở nước ngoài cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thế giới bước vào thế kỷ 21 với nhiều biến chuyển mau lẹ, phức tạp và
nhiều mặt khó lường. Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn. Nhiều
nước đang tận dụng những lợi ích mà toàn cầu hóa kinh tế và thành tựu của
cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đem lại, đồng thời tìm cách ứng phó

8



với những thách thức nảy sinh. Tình hình đó đã tác động trực tiếp và sâu sắc
tới công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của chúng ta.
Nghị quyết Đại hội IX tháng 4 năm 2001 tiếp tục nhấn mạnh nhiệm vụ:
Tăng cường hơn nữa công tác thông tin đối ngoại và văn hóa đối ngoại... Phối
hợp chặt chẽ hoạt động ngoại giao của Nhà nước, hoạt động đối ngoại của
Đảng và hoạt động đối ngoại nhân dân. Hoàn thiện cơ chế quản lý thống nhất
các hoạt động đối ngoại, tạo thành sức mạnh tổng hợp thực hiện có kết quả
nhiệm vụ công tác đối ngoại, tạo thành sức mạnh tổng hợp thực hiện có kết
quả nhiệm vụ công tác đối ngoại, làm cho thế giới hiểu rõ hơn đất nước, con
người, công cuộc đổi mới của Việt Nam, đường lối, chính sách của Đảng và
Nhà nước ta, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và hợp tác ngày càng rộng rãi của
thế giới.
Thực tế này cho thấy, Đảng và Nhà nước ta luôn đặt ra yêu cầu tăng
cường sự lãnh đạo và phối hợp ở tầm chiến lược của công tác thông tin đối
ngoại trong bối cảnh quốc tế và trong nước có nhiều thay đổi. Để cụ thể hóa
tinh thần Đại hội IX, ngày 27 tháng 12 năm 2001 đã ban hành Quyết định số
16 của Ban Bí thư về việc thành lập Ban chỉ đạo công tác thông tin đối ngoại
và Quy chế phối hợp chỉ đạo hoạt động thông tin đối ngoại được ban hành
cùng Quyết định số 16. Ban Chỉ đạo công tác thông tin đối ngoại gồm các
thành viên đến từ hầu hết các cơ quan của Đảng và Nhà nước đang hoạt động
trong lĩnh vực đối ngoại, tư tưởng - văn hóa, an ninh, quốc phòng và thông tin
đại chúng. Từ khi được thành lập, Ban Chỉ đạo công tác thông tin đối ngoại
đã giúp lãnh đạo Đảng và Nhà nước nhiều đề xuất quan trọng để chỉ đạo
thông tin tình hình trong nước ra nước ngoài, thông tin tình hình quốc tế phức
tạp, đẩy mạnh thông tin hội nhập kinh tế quốc tế, giao lưu văn hóa đối ngoại...
Ban chỉ đạo cũng đã phối hợp hiệu quả hoạt động giữa các cơ quan trung
ương trong việc xử lý các vấn đề nhạy cảm. Hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, kiểm tra công tác trong nước, thông qua Bản tin nội bộ và Tạp chí thông
tin đối ngoại để chỉ đạo tình hình... đã được tiến hành đều đặn. Nhiều tỉnh,
9



thành phố đã quan tâm chỉ đạo công tác thông tin đối ngoại của địa phương
mình, tập trungcung cấp, tuyên truyền thông tin kinh tế đối ngoại, góp phần
giới thiệu hình ảnh của địa phương ra quốc tế.
Các đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng, Nhà nước, lãnh đạo các
ngành, các cấp, các doanh nghiệp đều tranh thủ mọi cơ hội để tiếp xúc, tuyên
truyền, vận động các đối tượng và báo chí nước ngoài. Các địa phương và
doanh nghiệp, với nhận thức vai trò quan trọng và đi trước của thông tin đối
ngoại, đã dành những chi phí nhất định để thông tin và đặt quan hệ hợp tác
với các đối tác nước ngoài trên những kênh thông tin hiện đại nhất.
Tiếp đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng tháng 4 năm
2006 thành công tốt đẹp đã đánh dấu một mốc quan trọng trong việc xác định
đường lối, chính sách đối ngoại nói chung và phương hướng công tác thông
tin đối ngoại nói riêng. Nhằm thực hiện thắng lợi những mục tiêu và nhiệm vụ
do Đại hội đề ra, hoạt động đối ngoại và công tác thông tin đối ngoại cần phải
được đặt trên một tầm cao mới, góp phần giữ vững môi trường hòa bình, tạo
các điều kiện quốc tế thuận lợi hơn nữa cho công cuộc đổi mới, đẩy mạnh
phát triển kinh tế quốc tế và khu vực, nâng cao hơn nữa vị thế của nước ta
trên trường quốc tế. Nghị quyết Đại hội đã chỉ rõ:
Đẩy mạnh công tác văn hóa - thông tin đối ngoại, góp phần tăng cường
sự hợp tác, tình hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân dân các nước... Bảo đảm
sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nước đối với
các hoạt động đối ngoại. Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của Đảng,
ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân; chính trị đối ngoại và kinh tế đối
ngoại; đối ngoại quốc phòng và an ninh; thông tin đối ngoại và thông tin trong
nước
Để triển khai có hiệu quả công tác thông tin đối ngoại theo tinh thần
của Nghị quyết Đại hội X, Ban Bí thư đã ra Thông báo Kết luận số 85TB/TW ngày 28/6/2007 của Ban Bí thư về "Đề án nâng cao chất lượng, hiệu
quả công tác thông tin đối ngoại trong tình hình hiện nay", Ban Chấp hành

10


Trung ương Đảng tại Hội nghị Trung ương 5 khóa X về công tác tư tưởng, lý
luận và báo chí trước yêu cầu mới cũng ra Nghị quyết số 16-NQ/TW ngày
1/8/2007. Tiếp đó, Chỉ thị số 26-CT/TW ngày 10/9/2008 của Ban Bí thư nhấn
mạnh: "Công tác thông tin đối ngoại cần phải được tiếp tục đổi mới và tăng
cường mạnh mẽ trên mọi lĩnh vực".
Kết luận số 16-KL/TW, ngày 14/2/2012 của Bộ Chính trị (khóa XI) về
Chiến lược phát triển thông tin đối ngoại giai đoạn 2011- 2020, nhấn mạnh:
“Công tác thông tin đối ngoại là một bộ phận rất quan trọng trong công tác
tuyên truyền và công tác tư tưởng của Đảng, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng,
sự quản lý của Nhà nước, là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài của hệ thống
chính trị, trong đó lực lượng chuyên trách là nòng cốt, thông tin đối ngoại cần
xác định đối tượng có trọng tâm, trọng điểm, nhất là các nước láng giềng, các
nước lớn, các nước trong khối ASEAN, Mỹ, Liên minh châu Âu, Nhật Bản,
đồng bào ta ở nước ngoài, đặc biệt là giới trẻ”. Như vậy, việc tăng cường công
tác thông tin đối ngoại trong tình hình mới thể hiện rõ đường lối đổi mới của
Đảng ta về đối ngoại, nhằm thúc đẩy sự hội nhập sâu rộng trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội để phát triển kinh tế - xã hội đất nước.
Có thể nói, trong thời kỳ đổi mới, công tác thông tin đối ngoại đã được
lãnh đạo các cấp, các ngành quan tâm và chú trọng sử dụng như là một công
cụ đắc lực để giới thiệu hình ảnh mới của Việt Nam phù hợp với xu thế phát
triển của thời đại, thân thiện và hội nhập.
Chương 2: Tổ chức thực hiện công tác thông tin đối ngoại của báo chí ở
Việt nam hiện nay
2.1. Phương thức thông tin đối ngoại của Đảng và Nhà nước hiện nay
Trong vài thập niên gần đây, chúng ta được chứng kiến những bước
thay đổi mạnh mẽ chưa từng thấy của các phương tiện truyền thông đại
chúng. Các tiến bộ kỹ thuật trong lĩnh vực ấn loát, xuất bản, tin học, viễn

thông đã giúp cho các phương tiện truyền thông đại chúng phát triển và xâm
nhập vào hầu hết mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Sự phát triển của khoa học
11


– công nghệ, kinh tế - xã hội, đặc biệt là sự ra đời của hệ thống báo điện tử
phát triển khắp toàn cầu đã tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị có thể thực
hiện công tác thông tin đối ngoại theo nhiều phương thức khác nhau. Và
chúng ta đã phần nào tận dụng thế mạnh của công cụ này để mở rộng thông
tin đối ngoại, đồng thời có biện pháp hạn chế mặt tiêu cực của nó. Nhìn tổng
thể, hoạt động thông tin đối ngoại của ta được thực hiện thông qua các
phương thức sau:
a. Tuyên truyền đối ngoại thông qua con đường ngoại giao, các cơ
quan phát ngôn chính thức của Đảng và Nhà nước
Đây là một kênh tương đối lớn, thông tin đối ngoại được thực hiện
thông qua hoạt động ngoại giao, trao đổi, giao lưu ở các cấp độ khác nhau của
các cơ quan Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ, các Bộ, Ban, Ngành,
đoàn thể, địa phương. Thực hiện chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa các
mối quan hệ quốc tế, hiện nay Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với
trên 170 nước thuộc tất cả các châu lục và có quan hệ bình thường với tất cả
các nước lớn, các ủy viên thường trực của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc, có
quan hệ kinh tế, thương mại và đầu tư với 224 nước và vùng lãnh thổ trên thế
giới.Việt Nam hiện là thành viên của 63 tổ chức quốc tế và khu vực, có quan
hệ với hơn 650 tổ chức phi chính phủ. Hiện nay Đảng Cộng sản Việt Nam có
quan hệ ở mức độ khác nhau với 222 chính đảng và phong trào ở 115 nước
trên thế giới trong đó có 93 Đảng cộng sản và công nhân, 83 đảng cánh tả,
phong trào độc lập dân tộc, cách mạng tiến bộ, 40 đảng cầm quyền, 43 đảng
tham chính hoặc tham gia liên minh cầm quyền.
b. Tuyên truyền đối ngoại thông qua đoàn ra, đoàn vào
Các cơ quan, ban, ngành chức năng như: Ban Đối ngoại Trung ương,

Bộ Ngoại giao, Liên hiệp các Tổ chức hữu nghị, Phòng Thương mại và Công
nghiệp Việt Nam cùng nhiều đơn vị khác thường xuyên tổ chức, trao đổi các
chuyến thăm chính thức, hữu nghị với các nước, chính đảng trên thế giới và
trong khu vực. Đối tượng của đoàn ra, đoàn vào thường là chính giới, lãnh
12


đạo, quan chức các cấp, các nhà đầu tư, doanh nghiệp lớn. Vì vậy thông tin
đối ngoại triển khai qua hình thức này rất có hiệu quả, một phần nào tác động
đến việc hoạch định chính sách đối ngoại của các nước đối với ta, thu hút
được các nhà đầu tư, tập đoàn, doanh nghiệp lớn của các nước.
c. Tuyên truyền đối ngoại thông qua các cơ quan đại diện của ta ở
nước ngoài
Các cơ quan đại diện của nưóc ta ở nước ngoài là một trong những lực
lượng quan trọng triển khai công tác thông tin đối ngoại thông qua các cuộc
gặp mặt đại diện các chính khách, các cơ quan báo chí, các tổ chức ngoại
giao, khoa học ở nước sở tại. Các cơ quan đại diện ngoại giao của ta ở nước
ngoài là cầu nối giữa nhà nước, nhân dân ta với nhà nước, nhân dân nước sở
tại, là trạm trung chuyển những ấn phẩm văn hóa cũng như tổ chức các cuộc
giao lưu văn hóa nghệ thuật của ta ở nước sở tại. Ở các sứ quán và cơ quan
đại diện của ta đều có sách báo, băng hình bằng ngoại văn để cung cấp cho
các độc giả nước ngoài. Ngoài ra, ở mỗi sứ quán đều có các tùy viên văn hóa,
tùy viên báo chí phụ trách công tác thông tin đối ngoại. Mặt khác, số lượng
đoàn đi công tác nước ngoài ngày càng tăng, thông tin từ các đoàn ra, đoàn
vào được coi là kênh thông tin đối ngoại chính thức.
2.2. Công tác thông tin đối ngoại thông qua kênh phương tiện thông tin
đại chúng
Báo chí là một lĩnh vực của hoạt động tư tưởng, văn hóa, xuất phát từ
nhu cầu thông tin của con người, có vai trò quan trọng trong việc tạo ra dư
luận xã hội, góp phần thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Truyền thông đại

chúng là một hiện tượng mới được sử dụng trong thế kỷ 20. Sự phát triển
mạnh mẽ của các phương tiện truyền thông đã giúp nối dài các giác quan của
con người, giúp con người nghe và thấy được những việc xảy ra ngoài tầm
khả năng bình thường của giác quan. Bằng phương tiện truyền thông, người
ta, dù ở bất cứ nơi đâu cũng có thể tận mắt chứng kiến nạn đói ở châu Phi,
thiên tai ở Nam Á, những cuộc đình công ở Tây Âu, những khủng bố và bạo
13


lực đẫm máu ở Trung Đông hay những diễn biến bất thường về môi trường ở
Nam Cực... Và ở bất cứ thể chế chính trị nào, các phương tiện truyền thông
đại chúng cũng là kênh chủ yếu cung cấp thông tin thời sự, kiến thức và giải
trí cho người dân, là công cụ hữu hiệu để quản lý, điều hành và cải cách xã
hội. Nó đã trở thành một định chế xã hội với những quy tắc và chuẩn mực
riêng, có quan hệ mật thiết với các định chế cơ bản khác về kinh tế, chính trị,
dân tộc, văn hóa trong xã hội. Chức năng cơ bản của các phương tiện truyền
thông đại chúng là đáp ứng nhu cầu thông tin và nhu cầu giải trí của người
dân. Nhưng nó lại có những hệ lụy và mối quan hệ tương tác hết sức quan
trọng đối với các định chế chính trị và kinh tế trong xã hội. Nó đóng vai trò
quan trọng trong việc hình thành và phản ánh dư luận xã hội, mang thế giới
đến với các cá nhân và tái tạo hình ảnh xã hội. Đây cũng là lý do để Edmund
Burke viết rằng: "Ngoài ba quyền lực thuộc về nghị viện, còn có quyền lực
thứ tư, quan trọng hơn cả, nằm trong tay các nhà báo".
Chính phủ sử dụng báo chí để tuyên truyền, đưa ra các thông điệp gây
ảnh hưởng tới dư luận và thăm dò dư luận của công chúng cũng như phản ứng
các chính phủ khác. Báo chí ngày nay là một bộ phận không thể thiếu trong
quá trình ra quyết sách của chính phủ, và ngược lại, chính phủ cũng trở thành
một đối tác trong hoạt động của báo chí. Trong mối quan hệ này, thực thể này
kích thích thực thể kia thay đổi và phản ứng lại trước những thay đổi của bên
kia.

Có thể nói báo chí ngày nay là một thế lực quan trọng trong đời sống xã
hội, phản ảnh các vấn đề của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội qua lăng kính
của phóng viên, theo định hướng của ban biên tập, chủ bút, chủ sở hữu của
các công ty truyền thông đại chúng và chịu sự theo dõi, giám sát, quản lý và ở
một mức độ nhất định, bị ảnh hưởng chi phối về quyền lực bởi một số cơ
quan và cá nhân trong cơ quan nhà nước.
Là một bộ phận cấu thành quan trọng của thông tin đối ngoại, trong
những năm qua, các phương tiện thông tin đại chúng đối ngoại đã quán triệt
14


các chỉ thị, thông báo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng như Chỉ
thị 11-CT/TW, Thông báo 188-TB/TƯ..., của Ban Chỉ đạo công tác thông tin
đối ngoại, kịp thời triển khai các chương trình tuyên truyền có hiệu quả về các
chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước cũng như về tình hình phát triển
kinh tế - xã hội chung, hội nhập quốc tế của đất nước.
Hiện nay ở nước ta có 4 loại hình báo chí đang hoạt động. Đó là báo in,
báo nói, báo hình, báo điện tử trên Internet. Ngoài các cơ quan báo chí in,
toàn quốc có 1 Hãng Thông tấn quốc gia, 1 Đài Truyền hình, 1 Đài Phát thanh
quốc gia, 4 đài truyền hình khu vực, có Đài phát thanh truyền hình ở tất cả 63
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Nhờ có hệ thống báo chí phong phú,
đa dạng tạo điều kiện thuận lợi trong việc chuyển tải các thông tin quan trọng
của Đảng và Nhà nước cũng như thông tin về tình hình trong nước đưa ra
nước ngoài ngày càng kịp thời, toàn diện hơn, giúp cho chính phủ và nhân
dân thế giới có được những hiểu biết đúng đắn về tình hình Việt Nam, tranh
thủ ngày càng rộng rãi sự đồng tình ủng hộ của họ đối với công cuộc đổi mới
và sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta, cũng như quá trình
hội nhập quốc tế của Việt Nam hiện nay.
Theo báo cáo tổng kết 15 năm thực hiện Chỉ thị 11-CT/TW của Ban Bí
thư, Thông tấn xã Việt Nam có 9 đơn vị làm công tác thông tin đối ngoại,

trung bình mỗi ngày phát hơn 100 tin bài đối ngoại bằng 4 thứ tiếng trên
mạng internet. Các tờ báo của Thông tấn xã như Việt Nam News, Le Courier
du Vietnam, Báo ảnh (4 thứ tiếng), Tạp chí Outlook... các báo điện tử, bản tin
kinh tế điện tử ECONET, điểm báo Press Hilights... đều được bạn đọc nước
ngoài quan tâm đón nhận. Đài Tiếng nói Việt Nam có 6 cơ quan thường trú ở
nước ngoài, đưa lên mạng internet 4 hệ phát thanh là VOV1, VOV2, VOV3
và VOV6. Các chương trình này đã phục vụ có hiệu quả đối với kiều bào ta ở
nước ngoài. Đài tiếng nói Việt Nam không ngừng tăng cường hợp tác quốc tế
và trao đổi các chương trình phát thanh với các nước như: Lào, Trung Quốc,
Nhật Bản, Nga và một số nước Đông Âu, Canada, đài ABC của Úc, AIBD
15


(Viện phát thanh, truyền hình châu Á - Thái Bình Dương), ABU (Hiệp hội
Phát thanh truyền hình châu Á - Thái Bình Dương), CIRTEF (Hội đồng Quốc
tế các đài phát thanh, Truyền hình có sử dụng tiếng Pháp, và nhiều tổ chức
quốc tế khác... Bên cạnh đó, Đài cũng nâng cao chất lượng 1 chương trình
phát thanh bằng 12 thứ tiếng ra nước ngoài, cải tiến báo điện tử VOV News,
tăng thời lượng phát sóng các buổi phát thanh VOV5 (kênh phục vụ đối tượng
là người nước ngoài tại Việt Nam phát 10giờ/ngày). Đài Truyền hình Việt
Nam đã lập Ban biên tập đối ngoại từ năm 2002, chủ động sản xuất biên tập
chương trình VTV4, thời lượng 8 giờ mỗi ngày (được phát lại 24/24 giờ mỗi
ngày qua 3 vệ tinh phủ sóng hầu hết khắp thế giới); năm 2003 thực hiện nhiều
chuyên mục mới, tăng phụ đề tiếng Anh lên 40 phút/ngày. Tăng cường chất
lượng bản tin, trực tiếp sản xuất, khai thác và phát sóng 4 bản tin tiếng Anh và
tiếng Pháp trên kênh VTV1, VTV2, kênh VTV 4 phục vụ đối tượng là người
Việt Nam ở nước ngoài, được phát sóng đến hầu hết khu vực có người Việt
Nam sinh sống, làm việc như ở châu Á, châu Phi, Bắc Mỹ, một phần Tây
Úc... Đài cũng đã mở rộng phát sóng trên 5 kênh quảng bá và nhiều kênh trên
hệ thống truyền hình cáp.

Đây là những kênh thông tin toàn diện và chính thức của Nhà nước về tình
hình Việt Nam, là lực lượng tuyến đầu trong công tác tuyên truyền đối ngoại,
chú trọng tuyên truyền ra bên ngoài các chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước, đất nước, con người Việt Nam và các sự kiện lớn tổ chức tại Việt
Nam như ASEM 5, SEAGAMES 22, APEC, VESAK...
2.3. Công tác thông tin đối ngoại thông qua kênh phóng viên nước ngoài
Phóng viên nước ngoài hoạt động tại Việt Nam là một kênh thông tin
quan trọng trong điều kiện các phương tiện thông tin đại chúng của ta còn
nhiều hạn chế. Họ có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao, hiểu đối tượng bên
ngoài cần thông tin gì, có phương thức phù hợp để chuyển tải những nội dung
phù hợp với các đối tượng đó. Bên cạnh đó, họ còn có các phương tiện kỹ
thuật hiện đại, thông tin do họ truyền tải ra bên ngoài rất nhanh chóng và kịp
16


thời với chất lượng cao về âm thanh và hình ảnh, do vậy tính thuyết phục khá
cao. Tuy nhiên, cũng có mặt tiêu cực, hạn chế nếu có một số người định kiến
xen vào hoặc có dụng ý xuyên tạc.
Phóng viên nước ngoài hoạt động tại Việt Nam có thể chia ra làm hai
nhóm: nhóm phóng viên thường trú và nhóm phóng viên không thường
xuyên. Cho đến nay, lực lượng phóng viên Nhà nước hoạt động tại Việt Nam
khá đông đảo, tập trung các hãng thông tấn, báo chí lớn trên thế giới thuộc
nhiều loại hình khác nhau, có đặc điểm hoạt động khác nhau... Theo thống kê
của Vụ Thông tin và Báo chí Bộ Ngoại giao, hiện nay có 26 văn phòng
thường trú tại Việt Nam, như Reuteurs (Anh), AP (Mỹ), AFP (Pháp), Novosti
(Nga), NHK (Nhật Bản), Tân Hoa Xã (Trung Quốc)... Đa số phóng viên
thường trú có thời hạn công tác tại nước ta từ 1 năm đến 3 năm. Họ là những
người am hiểu tình hình nước ta, các văn phòng đều có các trợ lý, phiên dịch
là người Việt Nam, khá thành thạo nghiệp vụ báo chí. Bên cạnh đó, nhóm
phóng viên vào nước ta hoạt động trong khoảng thời gian ngắn thường tập

trung vào chủ đề nhất định hoặc vào đưa tin nhân dịp có các sự kiện quan
trọng. Mục đích hoạt động, tôn chỉ của từng hãng có sự khác nhau tùy theo
quan điểm chính trị của từng hãng. Song nhìn nhận một cách khách quan, họ
là một kênh thông tin rất quan trọng gián tiếp phục vụ công tác thông tin đối
ngoại của ta vì hàng ngày, thậm chí hàng giờ phóng viên phát đi các tin tức về
mọi mặt đời sống của Việt Nam và các tin tức này đến với nhân dân nhiều
nước, dưới nhiều hình thức phong phú, đa dạng, giúp họ hiểu nhiều hơn về
đất nước, con người Việt Nam. Do vậy, bên cạnh công tác quản lý làm cho
hoạt động của phóng viên nước ngoài tại Việt Nam tuân thủ đúng luật lệ, công
tác tranh thủ lực lượng này cần phải được chú trọng và tăng cường hơn nước.
Hiện nay, phóng viên nước ngoài thường tập trung quan tâm đến những vấn
đề như đường lối đổi mới của Việt Nam, cuộc sống đối ngoại, quan hệ Việt
Nam với các nước, quan điểm của Việt Nam về một số vấn đề quốc tế, các
biện pháp, chủ trương cụ thể về kinh tế, các vấn đề nội bộ như tôn giáo, dân
17


chủ, nhân quyền, vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam. Việc tạo điều kiện và
chủ động cung cấp thông tin có định hướng cho họ sẽ giúp cho bài viết của họ
có thái độ tích cực có lợi cho ta.
Có thể nói, phóng viên nước ngoài hoạt động tại Việt Nam là một đối
tượng quan trọng của công tác tuyên truyền đối ngoại. Nếu tranh thủ được họ,
hiểu được họ, tạo điều kiện cho hoạt động của họ, và chủ động cung cấp
thông tin định hướng thì đây sẽ là một kênh thông tin quan trọng, góp phần
thực hiện nhiệm vụ công tác thông tin đối ngoại của ta. Với phóng viên
thường trú tại Việt Nam, họ thường có tâm lý tránh gây căng thẳng, đối đầu
với các cơ quan chức năng nước sở tại để không bị thiệt hại về nghề nghiệp
cũng như uy tín của phóng viên, của hãng. Còn đối với phóng viên vào Việt
Nam hoạt động ngắn hạn, mục tiêu của họ thường là thực hiện các yêu cầu đặt
ra một cách hiệu quả nhất cả về nội dung, tài chính và thời gian nên ít xảy ra

trường hợp có nội dung quá xấu. Tuy nhiên cũng có những người không thiện
chí, chỉ chú ý khai thác mặt yếu kém của ta, thậm chí xuyên tạc tình hình
nước ta. Do vậy, để tranh thủ được phóng viên nước ngoài hoạt động tại Việt
Nam, chúng ta cần phải hiểu rõ xu hướng chính trị của hãng, quy mô, tầm cỡ
của hãng và bản thân phóng viên.

18


KẾT LUẬN
Trải qua các giai đoạn phát triển khác nhau của đất nước, thông tin đối
ngoại luôn luôn có vị trí quan trọng trong việc phát huy sức mạnh tổng hợp
của cuộc đấu tranh chính nghĩa của chúng ta, phát huy sức mạnh nội lực, tận
dụng tối đa sức mạnh của sự hợp tác và hỗ trợ quốc tế, giành thắng lợi ngày
càng to lớn hơn. Nhờ làm tốt công tác thông tin đối ngoại mà thế giới hiểu
được về Việt Nam, vị trí địa lý, lịch sử, truyền thống tốt đẹp, yêu hòa bình của
dân tộc Việt Nam, qua đó đã đồng tình ủng hộ, giúp đỡ, cổ vũ Việt Nam, góp
phần quan trọng vào những thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Hiện nay, sự bùng nổ thông tin mang tính chất toàn cầu đã thúc đẩy sự
phát triển của giao lưu kinh tế, văn hóa xã hội, khoa học - kỹ thuật giữa các
quốc gia dân tộc. Thế giới như được thu hẹp lại. Sự phát triển của thông tin
ngày càng đóng góp lớn hơn vào quá trình phát triển nhân loại, xóa bỏ hàng
rào ngăn cách giữa các quốc gia. Thông tin chính là chiếc cầu nối trong sự
giao lưu giữa các quốc gia, là phương tiện giúp cho sự hiểu biết lẫn nhau giữa
các cộng đồng. Với đặc thù nhiều đối tượng phức tạp và đa dạng, chủ yếu là
người nước ngoài, bao gồm nhiều loại tầng lớp, giai cấp, thành phần xã hội
với trình độ nhận thức, hiểu biết khác nhau và có mối quan tâm khác nhau đến
Việt Nam, công tác thông tin đối ngoại chỉ có thể tiến hành một cách có hiệu
quả với sự tham gia rộng rãi của tất cả các cơ quan, ban, ngành đoàn thể từ
trung ương đến địa phương, gồm các tổ chức thuộc nhiều lĩnh vực, nhiều

thành phần kinh tế và đông đảo nhân dân.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế hiện nay, yêu cầu đặt ra
đối với từng cơ quan, từng cán bộ làm công tác thông tin đối ngoại là phải ý
thức đầy đủ trách nhiệm chính trị - xã hội, thấm nhuần sâu sắc đường lối,
quan điểm của Đảng, không ngừng trau dồi tri thức và năng lực chuyên môn.
Từ đó, công tác thông tin đối ngoại được thực hiện và triển khai có hiệu quả
hơn, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Thông báo Kết luận số 85-TB/TW
ngày 28/6 của Ban Bí thư về Đề án nâng cao chất lượng, hiệu quả
công tác thông tin đối ngoại trong tình hình hiện nay, Hà Nội.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5
khóa IX về nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong tình
hình mới, Hà Nội.
4. Lê Thanh Bình (2005), Báo chí truyền thông và kinh tế, văn hóa - xã
hội, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
5. Dương Văn Quảng (2002), Báo chí và Ngoại giao, Nxb Thế giới, Hà
Nội.
6. Tạ Ngọc Tấn (2004), Truyền thông đại chúng, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.

20




×