Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận tổ quốc Việt Nam quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.44 MB, 88 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
----------------

BÙI THỊ THIÊN KIM

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH GIÁM SÁT VÀ
PHẢN BIỆN XÃ HỘI CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC
VIỆT NAM QUẬN NGŨ HÀNH SƠN,
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

HÀ NỘI - 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
----------------

BÙI THỊ THIÊN KIM

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH GIÁM SÁT VÀ
PHẢN BIỆN XÃ HỘI CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC
VIỆT NAM QUẬN NGŨ HÀNH SƠN,
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Chuyên ngành

: Chính sách công


Mã số

: 8.34.04.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Người hướng dẫn khoa học:
TS Tống Đức Thảo

HÀ NỘI - 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn
của TS Tống Đức Thảo. Các số liệu, tư liệu được sử dụng trong Luận văn là trung
thực, có xuất xứ rõ ràng. Những phát hiện đưa ra trong Luận văn là kết quả nghiên
cứu của chính tác giả Luận văn.
Tác giả Luận văn

Bùi Thị Thiên Kim


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ THỰC HIỆN CHÍNH
SÁCH GIÁM SÁT VÀ PHẢN BIỆN XÃ HỘI CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC
VIỆT NAM................................................................................................................. 8
1.1. Địa vị chính trị - pháp lý của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hệ thống
chính trị ở nước ta hiện nay......................................................................................... 8
1.2. Khái niệm, đặc điểm, vai trò giám sát và phản biện xã hội của MTTQVN ...... 14

1.3. Nội dung, hình thức giám sát, phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam ............... 20
1.4. Các điều kiện bảo đảm cho hoạt động giám sát và phản biện xã hội của
MTTQVN .................................................................................................................. 38
Chương 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH GIÁM SÁT VÀ
PHẢN BIỆN XÃ HỘI CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM QUẬN
NGŨ HÀNH SƠN, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG HIỆN NAY ................................. 43
2.1. Khái quát đặc điểm tự nhiên và dân số của quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà
Nẵng .......................................................................................................................... 43
2.2. Thực trạng tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam quận Ngũ
Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng.................................................................................. 44
2.3. Thực trạng thực hiện chính sách giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận
Tổ quốc quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng................................................... 54
Chương 3. QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC
HIỆN CHÍNH SÁCH GIÁM SÁT VÀ PHẢN BIỆN XÃ HỘI CỦA MẶT
TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM QUẬN NGŨ HÀNH SƠN HIỆN NAY ............. 65
3.1. Quan điểm cơ bản .............................................................................................. 65
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách giám sát và phản biện xã
hội của MTTQVN quận Ngũ Hành Sơn hiện nay. .................................................... 69
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (MTTQVN) ra đời ngày 18 tháng 11 năm 1930
với tên gọi ban đầu là Hội Phản đế đồng minh - hình thức tổ chức đầu tiên của Mặt
trận dân tộc thống nhất, tổ chức liên minh giữa giai cấp công nhân, nông dân, đội
ngũ trí thức và các lực lượng yêu nước có mục tiêu chung là giải phóng dân tộc.
Ngày nay, MTTQVN được Hiến pháp Việt Nam năm 2013 và pháp luật ghi nhận là
thành viên hệ thống chính trị nước Cộng hoà XHCN Việt Nam. Là liên minh chính

trị, liên hiệp tự nguyện của các tầng lớp nhân dân, MTTQVN trở thành một “điểm
tựa” của chế độ dân chủ ở nước ta: Mặt trận vừa đại diện cho lợi ích của mọi tầng
lớp nhân dân vừa là cơ sở của chính quyền nhân dân, là tổ chức dân vận của Đảng.
Ngày nay, trong giai đoạn phát triển mới của đất nước, MTTQVN đã và đang phát
huy vai trò của mình trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, góp một phần tích
cực vào quá trình thực thi dân chủ ở nước ta hiện nay. Với tiến trình dân chủ hóa ở
nước ta hiện nay, Mặt trận Tổ quốc luôn khẳng định là phương thức hữu hiệu thực
hành dân chủ, hiện thực hóa quyền làm chủ của nhân dân. Hoạt động phản biện xã
hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chính là cách thức hữu hiệu nhất khẳng định vai
trò quan trọng mang tính quyết định đến chất lượng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở
nước ta.
Chính sách giám sát và phản biện xã hội tuy đã có ở nước ta với những
mức độ và hình thức khác nhau và chính thức được ghi nhận tại Văn kiện Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ X (năm 2006) “Xây dựng quy chế giám sát và phản biện
xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị xã hội và nhân dân
đối với việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách, quyết định lớn của
Đảng và việc tổ chức thực hiện, kể cả đối với công tác tổ chức và cán bộ” [11,
tr.135]. Điều này thể hiện quan điểm thống nhất của Đảng ta về Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và khẳng định vai trò chính thức của Mặt trận Tổ quốc trong việc phản
biện xã hội đối với quyền lực nhà nước, đối với tổ chức và hoạt động của bộ máy
nhà nước.
MTTQVN có vai trò và khả năng rất lớn trong việc thực hiện chức năng
phản biện xã hội. Tuy nhiên, thực tiễn triển khai hoạt động này trong nhiều năm qua
cho thấy, Mặt trận còn tỏ ra lúng túng về nội dung, phương pháp thực hiện dẫn đến
1


hiệu quả rất hạn chế, chưa ngang tầm vị trí pháp lý - chính trị của mình. Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VII đã nhân định về hạn chế này: "Mặt trận chưa làm tốt vai
trò phát huy quyền làm chủ của nhân dân, chưa đóng góp xứng đáng vào việc xây

dựng chủ trương, chính sách, pháp luật; chưa tham mưu xây dựng cơ chế, cũng như
chưa thực hiện tốt chức năng giám sát và phản biện xã hội" [13, tr.51].
Như vậy, có thể thấy rằng, hoạt động giám sát và phản biện xã hội của
MTTQVN là đòi hỏi cấp bách và tất yếu của việc xây dựng nhà nước pháp quyền và
nền dân chủ XHCN ở nước ta. Nó thực sự là công cụ kiểm soát quyền lực của nhân
dân. Thực hiện tốt hoạt động phản biện xã hội, MTTQVN sẽ góp phần vào việc giải
quyết nhiều vấn đề bức xúc vi phạm quyền lực của nhân dân hiện nay. Phản biện xã
hội của MTTQVN và các tổ chức chính trị - xã hội mà Nghị quyết Đại hội X của
Đảng nêu ra “là nhiệm vụ mới, rất quan trọng và nhạy cảm, cần được nghiên cứu
thận trọng và tổ chức triển khai có hiệu quả” như nhận định của Bộ Chính trị tại
Thông báo số 73 ngày 10 tháng 5 năm 2007.
Đối với nước ta hiện nay, thực tế cho thấy, trong điều kiện duy nhất một Đảng
cộng sản cầm quyền, có chế quyền lực nhà nước tập quyền xã hội chủ nghĩa không tổ
chức theo nguyên tắc "Tam quyền phân lập". Những đặc điểm ấy của hệ thống chính trị
nước ta đã đặt sự lãnh đạo của Đảng và hoạt động của nhà nước nói riêng, nền dân chủ
XHCN của chúng ta nói chung vào trạng thái phát triển không có đối trọng. Trong bối
cảnh đó không thể không nói đến nguy cơ chủ quan, tiềm ẩn mà Đảng phải đối mặt, đó
là lạm quyền và quan liêu, độc đoán, vi phạm dân chủ trong bộ mát Đảng và Nhà nước.
Đây cũng chính là một trong những lý do khiến cho bộ máy nhà nước ta tồn tại dai
dẳng nhiều vấn đề bức xúc như nạn tham nhũng, tệ quan liêu cửa quyền của các cơ
quan và công chức hành chính, tình trạng lãng phí ngân sách và tài nguyên quốc gia,
tình trạng vi phạm dân chủ … Tình hình này đặt ra yêu cầu cần nghiên cứu lại hệ thống
kiểm soát quyền lực trong đó có vấn đề giám sát và phản biện xã hội.
Hoạt động giám sát và phản biện xã hội tuy đã được các văn kiện của Đảng
và pháp luật của Nhà nước quy định nhưng nhìn chung chưa phát huy tác dụng góp
phần kiểm soát quyền lực. Bởi lẽ, vấn đề mấu chốt là hoạt động của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam bị nhà nước hóa, hành chính hóa nên thực sự chưa phát huy được
vai trò tích cực, chưa thực sự khách quan và phản biện xã hội hiệu quả đối với tổ
chức và hoạt động của Đảng và Nhà nước.


2


Vì vậy vấn đề cấp bách hiện nay là cần phải nghiên cứu lại hệ thống kiểm
soát quyền lực, trong đó có vấn đề phản biện xã hội của MTTQVN. Với vai trò là
một tổ chức đại diện cho ý chí và nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân , phản
biện xã hội của MTTQVN sẽ tạo ra yếu tố "kiềm chế" thay cho cơ chế "đối trọng"
trong hệ thống chính trị của nước ta. Để thực hiện vai trò của yếu tố "kiềm chế"
nhằm giới hạn quyền lực, tránh xu hướng lạm quyền, vi phạm dân chủ, đòi hỏi
MTTQVN phải thực hiện tốt chức năng phản biện xã hội của mình. Đặc biệt, trong
điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì
dân, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Quận Ngũ Hành Sơn nằm về phía Đông Nam thành phố Đà Nẵng, cách trung
tâm thành phố 8km; phía Đông giáp biển Đông với bờ biển dài 12km, phía Tây giáp
huyện Hòa Vang, Cẩm Lệ và quận Hải Châu, phía Bắc giáp quận Sơn Trà, phía
Nam giáp Phường Điện Ngọc, Thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam; là quận có địa
hình tương đối bằng phẳng, đất đai khá đồng nhất về tính chất lí - hóa học, cấu tạo
địa chất chủ yếu là cát; nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa nên chế độ nhiệt, lượng
mưa, độ ẩm tương đối thuận lợi cho sự phát triển sản xuất cây lương thực và thực
phẩm, nhiệt độ trung bình: 25,60C/năm, quanh năm nắng lắm mưa nhiều nhưng
lượng mưa phân bổ không đồng đều, chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc và Tây
Bắc khu vực Duyên hải miền Trung và các cơn bão đổ vào. Quận có sông Cổ Cò
chạy từ sông Hàn đến phía Nam giáp địa phận tỉnh Quảng Nam, nối Đà Nẵng với
thành phố cổ Hội An theo chiều dài của quận gắn liền với núi đá vôi tạo thêm vẻ
đẹp danh thắng Ngũ Hành Sơn; ruộng đồng, sông nước tạo nên nét dáng của làng
quê Việt Nam, hội đủ các yếu tố phát triển du lịch sinh thái gắn với làng đá mỹ nghệ
truyền thống tạo nên cảnh đẹp "Sơn thủy hữu tình và thơ mộng". Đối với quận Ngũ
Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng, trong những năm qua, MTTQVN đã từng bước triển
khai thực hiện hoạt động giám sát và phản biện xã hội. Đặc biệt là từ khi có Luật
MTTQ Việt Nam, hoạt động giám sát và phản biện xã hội là một nội dung mới, song

MTTQ cũng đã có nhiều cố gắng trong tham gia các ý kiến vào việc hoạch định các
chủ trương, đường lối, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Nhiều ý kiến
của MTTQ đã được các cấp uỷ Đảng, chính quyền tôn trọng tiếp thu, điều chỉnh,
đem lại nhiều lợi ích thiết thực cho nhân dân.
Tuy nhiên, thực tiễn triển khai hoạt động này trong nhiều năm qua cho thấy,

3


mặc dù chính sách giám sát và phản biện xã hội của MTTQ đã được đặt lên tầm hiến
định, song đến nay vẫn còn tỏ ra lúng túng về nội dung, phương pháp thực hiện, dẫn
đến hiệu quả rất hạn chế, chưa ngang tầm với vị trí chính trị pháp lý của mình. Giám
sát và phản biện xã hội là một nhiệm vụ mới, rất quan trọng, khó khăn và nhạy cảm,
nhưng chưa có cơ chế phản biện xã hội cụ thể, chưa có quy định thật rõ về mục đích,
yêu cầu, nguyên tắc, chủ thể, đối tượng, nội dung giám sát và phản biện xã hội. Do vậy
chính sách giám sát và phản biện của MTTQVN của quận còn gặp nhiều khó khăn,
hiệu quả chưa cao, chưa thực sự phát huy vai trò giám sát và phản biện xã hội đáp ứng
yêu cầu của quy định pháp lý cũng như thực tiễn phát triển đất nước nói chung và của
thành phố nói riêng. Vì những lý do trên, tác giả chọn “Thực hiện chính sách giám sát
và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam quận Ngũ Hành Sơn, thành phố
Đà Nẵng” làm đề tài cho Luận văn thạc sỹ chuyên ngành Chính sách công.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Chính sách giám sát và phản biện xã hội của MTTQ là một đề tài được nhiều
nhà nghiên cứu thuộc các chuyên ngành chính sách công, chính trị học, luật học,
triết học và các nhà chính trị, các nhà quản lý tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau.
Trong thời gian vừa qua, có các công trình nghiên cứu tiêu biểu sau:
- Đề tài KX 10 - 06/06 - 10, (2009) "Các hình thức và giải pháp thực hiện
giám sát xã hội và phản biện xã hội đối với hệ thống chính trị" (của PGS.TS Trần
Hậu làm chủ nhiệm),
- Luận văn tốt nghiệp Đại học Chính trị (2008), "Nâng cao hiệu quả phản

biện xã hội của MTTQ Việt nam" (Nguyễn Trọng Bình, Học viện Chính trị - Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh).
- Hoàng Văn Tuệ (2006), "Vấn đề phản biện xã hội với yêu cầu thực tế hiện
nay", (Tạp chí Triết học, số 4).
- Hoàng Hải (2007), "Về phản biện và giám sát xã hội", (Tạp chí Xây dựng
Đảng, số 9).
- Nguyễn Thọ Ánh (2012), Thực hiện chức năng giám sát và phản biện xã hội
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hiện nay (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia – Sự thật).
- Tống Đức Thảo (2009), “Tính tất yếu khách quan trong việc xây dựng xã
hội công dân ở nước ta hiện nay”, (Tạp chí Khoa học chính trị số 3).
- Tống Đức Thảo (2012), Tăng cường giám sát nhân dân đối với chính quyền

4


nhà nước và các cơ quan dân cử, (Nhân dân điện tử, cập nhật 25 tháng 3).
- “Vai trò giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể chính trị - xã hội (qua thực tiễn huyện Mê Linh thành phố Hà Nội)”, Kỷ yếu đề
tài khoa học cấp cơ sở Viện Xây dựng Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh - Hà Nội, 2009.
Cuốn kỷ yếu tập hợp 3 bài viết tiêu biểu: “Quan niệm về giám sát và phản
biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội” của tác giả
Ngô Bích Ngọc và Nguyễn Xuân Thủy; “Những nhân tố tác động và những yêu cầu
đặt ra trong giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
chính trị - xã hội” của tác giả Tô Duy Nghĩa; “Những giải pháp chủ yếu nhằm phát
huy vai trò giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
nhân dân” của tác giả Ngô Bích Ngọc và Nguyễn Xuân Thủy.
- “Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với việc thực hiện quyền làm
chủ của nhân dân ở nước ta hiện nay”, luận án Tiến sĩ của tác giả Nguyễn Thị Hiền
Oanh, 2005.

- “Thực hiện chức năng phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam”,
luận văn Thạc sĩ của tác giả Lê Thị Mộng Diễm, 2008.
Trên cơ sở kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình đi trước, luận văn
tiếp tục hướng nghiên cứu làm rõ chức năng, nhiệm vụ, đặc điểm, tính chất của
chính sách giám sát và phản biện xã hội của MTTQVN. Trên cơ sở đó kiến nghị các
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của thực hiện chính sách giám sát và phản biện
xã hội của MTTQVN.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích cơ sở lý luận và pháp lý, đánh giá thực trạng thực hiện
chính sách giám sát và phản biện xã hội của MTTQVN quận Ngũ Hành Sơn, thành
phố Đà Nẵng, luận văn kiến nghị quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả của thực
hiện chính sách giám sát và phản biện của MTTQVN quận Ngũ Hành Sơn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để hoàn thành mục tiêu nghiên cứu nêu trên, luận văn xác định các nhiệm
vụ cơ bản sau đây:
- Làm rõ địa vị pháp lý của MTTQVN, cơ sở pháp lý về thực hiện chính sách

5


giám sát và phản biện xã hội của MTTQVN, làm rõ địa vị pháp lý của MTTQVN
quận Ngũ Hành Sơn.
- Đánh giá thực trạng thực hiện chính sách giám sát và phản biện xã hội của
MTTQVN quận Ngũ Hành Sơn.
- Đề xuất quan điểm và kiến nghị các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện
chính sách giám sát và phản biện xã hội của MTTQVN quận Ngũ Hành Sơn, thành
phố Đà Nẵng hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu

Hoạt động giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam quận
Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu chính sách giám sát và phản biện xã hội của
MTTQVN quận Ngũ Hành Sơn giai đoạn 2014 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn vận dụng quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về dân chủ và hoạt động của Mặt trận, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
vai trò của nhân dân, của MTTQVN và các đoàn thể chính trị - xã hội trong việc
thực hiện giám sát và phản biện xã hội trong quá trình hình thành đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành mục tiêu và các nhiệm vụ nghiên cứu, luận văn sử dụng các
phương pháp nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn, khoa học chính sách. Cụ thể
là các phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa, trừu tượng hóa, so sánh,
phương pháp định tính và định lượng để giải quyết mục tiêu và nhiệm vụ.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn cung cấp cơ sở lý luận về phản biện xã hội, góp phần vào nghiên
cứu, đổi mới hệ thống chính trị trong điều kiện một đảng duy nhất lãnh đạo và cầm
quyền, trong đó có việc đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với MTTQ nói chung và
hoạt động phản biện xã hội của MTTQ nói riêng, góp phần nâng cao chất lượng hoạt
động phản biện xã hội của MTTQ quận Ngũ Hành Sơn thành phố Đà Nẵng hiện nay.

6


- Luận văn góp phần nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của MTTQ trong
tình hình mới, đặc biệt là vai trò của MTTQ trong quá trình dân chủ hoá đời sống xã
hội ở nước ta, trong đó có vai trò giám sát và phản biện xã hội.

- Luận văn có thể dùng làm tài tài liệu tham khảo, phục vụ nghiên cứu, giảng dạy,
học tập lý luận cho cán bộ Mặt trận và các đoàn thể trong việc thực hiện hoạt động giám
sát và phản biện xã hội.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương.
Chương 1. Cơ sở lý luận và pháp lý về thực hiện chính sách giám sát và
phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Chương 2. Thực trạng thực hiện chính sách giám sát và phản biện xã hội của
mặt trận tổ quốc Việt Nam quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng hiện nay.
Chương 3. Quan điểm, giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách
giám sát và phản biện xã hội của mặt trận tổ quốc Việt Nam Quận Ngũ Hành Sơn
hiện nay.

7


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
GIÁM SÁT VÀ PHẢN BIỆN XÃ HỘI CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC
VIỆT NAM
1.1. Địa vị chính trị - pháp lý của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hệ
thống chính trị ở nước ta hiện nay
1.1.1. Vị trí của MTTQVN trong hệ thống chính trị
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chính là hình thức của Mặt trận Dân tộc Thống
nhất Việt Nam ngày nay. Từ khi ra đời cho đến khi hợp nhất, Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam đã trải qua các giai đoạn lịch sử khác nhau với các tổ chức tiền thân:
Ngay khi Đảng vừa ra đời, một yêu cầu cấp thiết đặt ra cho cách mạng Việt
Nam là cần tập hợp các lực lượng yêu nước thành một tổ chức đoàn kết, thống nhất,
phát huy tối đa sức mạnh đại đoàn kết toàn dân để chiến thắng kẻ địch. Ngày

18/11/1930, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương (tên gọi từ
tháng 10/1930) ra chỉ thị thành lập Hội Phản đế Đồng minh, hình thức đầu tiên của
Mặt trận Dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng, một hình thức liên minh
chính trị của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và các lực lượng yêu nước khác
nhằm đánh đổ đế quốc, giành độc lập dân tộc, giải phóng đồng bào ta khỏi xiềng
xích thực dân và phong kiến.
Tháng 11/1936, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông
Dương quyết định thành lập Mặt trận Thống nhất Nhân dân Phản đế Đông Dương.
Tháng 6/1938, đổi tên thành Mặt trận Thống nhất Dân chủ Đông Dương, gọi tắt
là Mặt trận Dân chủ Đông Dương. Tháng 11/1939, với chủ trương tạm gác khẩu
hiệu ruộng đất, Mặt trận Dân tộc Thống nhất Phản đế Đông Dương được thành lập.
Ngày 19/05/1941, Việt Nam Độc lập Đồng minh Hội, gọi tắt là Mặt trận Việt
Minh, được thành lập với mục tiêu tập hợp các tổ chức yêu nước vào một Mặt trận
thống nhất nhằm thực hiện nhiệm vụ cách mạng giải phóng dân tộc.
Ngày 29/05/1946, Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam, gọi tắt là Hội Liên
Việt được thành lập, cùng với Mặt trận Việt Minh trở thành chỗ dựa vững chắc cho
chính quyền cách mạng non trẻ vừa mới ra đời, đối phó với thù trong giặc ngoài.
Ngày 07/03/1951, Mặt trận Liên Việt được thành lập từ sự thống nhất của hai
tổ chức Mặt trận Việt Minh và Hội Liên Việt, phát huy vai trò động viên sức lực của
toàn Đảng, toàn dân làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử.
Ngày 10/09/1955, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được thành lập tiếp tục sự
nghiệp đoàn kết dân tộc của Mặt trận Việt Minh và Mặt trận Liên Việt, nhằm đấu

8


tranh chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai.
Ngày 20/12/1960, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam được
thành lập nhằm đoàn kết toàn dân thực hiện mục tiên kháng chiến chống chiến tranh
xâm lược của Mỹ, đánh đổ Ngụy quyền tay sai ở miền Nam, tiến tới giải phóng

miền Nam, thống nhất đất nước.
Ngày 20/04/1968, sau chiến thắng Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu
Thân, Liên minh các Lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hoà bình Việt Nam được
thành lập nhằm tập hợp những lực lượng yêu nước ở thành thị miền Nam như trí
thức, học sinh, sinh viên, công nhân, thương gia, làm tăng thêm sức mạnh cho khối
Đại đoàn kết toàn dân chống Mỹ cứu nước.
Từ ngày 31/01 đến ngày 04/02/1977, Đại hội Mặt trận Dân tộc Thống
nhất Việt Nam diễn ra tại thành phố Hồ Chí Minh đã thống nhất ba tổ chức Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam; Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam; Liên
minh các Lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hoà bình Việt Nam thành Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam.
Trải qua các thời kỳ cách mạng với những hình thức tổ chức và tên gọi khác
nhau, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã không ngừng phát triển và trưởng thành, đóng
góp to lớn vào những thắng lợi vĩ đại của dân tộc. Mặt trận Dân tộc thống nhất ra
đời vì yêu cầu liên minh để chống ngoại xâm, giành độc lập dân tộc và đã hoàn
thành sứ mệnh lịch sử đó từ sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Ngày nay, Mặt trận Tổ quốc là liên minh chính trị thực hiện chiến lược đại đoàn kết
dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, là cơ sở
chính trị của Đảng và chính quyền nhân dân, là nòng cốt của xã hội dân sự. Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam là chỗ dựa vững chắc để đất nước tiến lên con đường công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, hòa nhập với xu thế phát triển của thế giới.
Điều 9 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 chỉ
rõ: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện
của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân
tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo và người Việt Nam
định cư ở nước ngoài”.
Tính chất liên minh của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thể hiện Mặt trận không
phải là một đoàn thể, tổ chức của một giai cấp nào đó mà là liên minh chính trị - xã
hội của tất cả các lực lượng chính trị - xã hội trong nước. Liên minh chính trị - xã
hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam bao gồm:

- Tổ chức chính trị: Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Các tổ chức chính trị - xã hội: Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Đoàn

9


Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội Nông dân
Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam.
- Ngoài ra, tham gia Mặt trận còn có: các tổ chức xã hội (Hội chữ thập đỏ
Việt Nam, Hội người cao tuổi Việt Nam, Hội Người mù Việt Nam, Hội Kế hoạch
hóa gia đình Việt Nam. Hội Khuyến học Việt Nam, Hội Y học cổ truyền Việt Nam,
v.v..); Quân đội nhân dân Việt Nam - tiền thân là Đội Việt Nam Tuyên truyền giải
phóng quân - là thành viên của Mặt trận Việt Minh, nay kế tục truyền thống đó, là
thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp,
tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Như vậy, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam không có hội viên, chỉ có các thành
viên bao gồm các thành viên tổ chức và các thành viên cá nhân. Hoạt động của Mặt
trận được thể hiện qua hoạt động của các thành viên là chủ yếu. Các thành viên
tham gia Mặt trận đều có địa vị bình đẳng và độc lập với nhau.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là bộ phận cấu thành hệ thống chính trị của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân.
Điều này xuất phát từ thực tiễn và yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng,
xuất phát từ thể chế chính trị: nước ta là nước dân chủ, mọi quyền lực thuộc về nhân
dân. Đây còn là vấn đề lịch sử, từ khi có Đảng là có Mặt trận. Sau khi giành được
chính quyền, Đảng, Nhà nước, Mặt trận là những bộ phận hợp thành hệ thống chính
trị. Tuy vai trò, vị trí, chức năng và phương thức hoạt động khác nhau nhưng đều là
công cụ thực hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; đều có chung mục đích
là phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ,
giàu mạnh, có vị trí xứng đáng trên trường quốc tế. Mối quan hệ giữa Đảng, Nhà
nước và Mặt trận là mối quan hệ hữu cơ, tác động lẫn nhau, vì mục tiêu chung.

Mặt trận Tổ quốc với Đảng Cộng sản Việt Nam: Trong mối quan hệ giữa
Đảng và Mặt trận, Đảng vừa là thành viên, vừa là người lãnh đạo Mặt trận.
Là thành viên, Đảng tham gia Mặt trận bình đẳng và có nghĩa vụ như mọi
thành viên khác. Đại diện cấp uỷ Đảng tham gia Uỷ ban Mặt trận có trách nhiệm
sinh hoạt đầy đủ, thực hiện hiệp thương dân chủ và phối hợp thống nhất hành động.
Cấp uỷ Đảng phải giáo dục đảng viên gương mẫu thực hiện chương trình hành động
chung đã được các tổ chức thành viên thoả thuận và tích cực tham gia công tác Mặt
trận tại khu dân cư.
Để lãnh đạo Mặt trận, Đảng không thể ở ngoài hay đứng trên Mặt trận mà
phải ở trong Mặt trận, là một bộ phận của Mặt trận. Đảng thực hiện vai trò lãnh đạo
Mặt trận bằng cách đề ra đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn, đáp ứng yêu
cầu, nguyện vọng và lợi ích chính đáng của các tầng lớp nhân dân; bằng công tác

10


tuyên truyền, vận động, thuyết phục, tổ chức kiểm tra và bằng sự gương mẫu của
đảng viên. Đảng lãnh đạo Mặt trận thông qua Đảng đoàn Mặt trận, thông qua Đảng
đoàn các tổ chức thành viên của Mặt trận và thông qua đại diện của cấp uỷ Đảng
tham gia Uỷ ban Mặt trận cùng cấp. Đảng chăm lo bồi dưỡng cán bộ và giới thiệu
những Đảng viên ưu tú làm công tác Mặt trận. Đảng lãnh đạo sự phối hợp và thống
nhất hành động giữa các thành viên, sự phối hợp giữa Mặt trận với chính quyền. Sự
lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận là vấn đề có tính nguyên tắc, đảm bảo cho Mặt
trận không ngừng được củng cố và mở rộng.
Mặt trận Tổ quốc là cơ sở quần chúng của Đảng, góp phần phát huy sức mạnh
bộ máy tổ chức Đảng, tăng cường mối liên hệ chặt chẽ giữa Đảng và nhân dân. Mặt
trận phối hợp hành động của các tổ chức thành viên thực hiện tốt chủ trương, nghị
quyết của Đảng; vận động nhân dân phát huy tính tích cực chính trị trong xây dựng
và bảo vệ Đảng; giám sát hoạt động của cấp ủy Đảng và đảng viên; góp phần xây
dựng các chủ trương, nghị quyết của Đảng, đảm bảo tính đúng đắn, hiệu quả thực tiễn

trong chủ trương, chính sách của Đảng thông qua hoạt động phản biện.
Mặt trận với chính quyền:
Quan hệ giữa Mặt trận với chính quyền là quan hệ hợp tác bình đẳng, tôn
trọng lẫn nhau, phối hợp trong hoạt động. Sự phối hợp giữa Mặt trận Tổ quốc và Nhà
nước là một tất yếu và xuất phát từ nhu cầu tự thân của cả Mặt trận lẫn Nhà nước.
Đối với Nhà nước, Mặt trận tham gia xây dựng, giám sát và bảo vệ Nhà nước,
góp phần phát huy sức mạnh tổ chức và hoạt động của Nhà nước:
- Vận động, tổ chức nhân dân thực hiện tốt quyền làm chủ của mình, tham
gia xây dựng bộ máy nhà nước: bầu ra cơ quan dân cử; tổ chức hiệp thương với các
tổ chức thành viên, giới thiệu những người đủ tiêu chuẩn làm hội thẩm nhân dân
của tòa án nhân dân các cấp; giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, đại biểu
dân cử, cán bộ, công chức Nhà nước.
- Tham gia vào hoạt động hành pháp của Nhà nước; phát huy sức mạnh của
hệ thống các cơ quan quản lý hành chính; tham gia xây dựng pháp luật, chính sách,
kế hoạch của Nhà nước: tổ chức tiếp xúc, lấy ý kiến nhân dân tham gia xây dựng
Hiến pháp, sửa đổi bổ sung các văn bản luật và dưới luật, các chương trình, dự án,
chính sách, kế hoạch, thông qua các kỳ họp Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân.
Mặt trận tham gia tuyên truyền, phổ biến pháp luật trong nhân dân, đấu tranh chống
tệ quan liêu, cửa quyền, tham nhũng, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của dân.
- Vận động, tổ chức nhân dân tham gia các phong trào quần chúng, thực hiện
tốt các chương trình kinh tế - xã hội của đất nước.
Nhà nước dựa vào Mặt trận và các đoàn thể để phát huy quyền làm chủ và

11


sức mạnh có tổ chức của nhân dân, tôn trọng và tạo điều kiện để nhân dân trực tiếp
hoặc thông qua đoàn thể của mình tham gia xây dựng, quản lý và bảo vệ Nhà nước.
Hoạt động của Nhà nước mang tính quyền lực từ trên xuống, hoạt động của Mặt
trận mang tính chất vận động quần chúng từ cơ sở. Nhà nước phối hợp với Mặt trận

trong việc chăm lo lợi ích chính đánh của nhân dân, trong việc vận động các tầng
lớp nhân dân thực hiện thắng lợi các chương trình kinh tế - xã hội. Nhà nước tạo
điều kiện để Mặt trận Tổ quốc hoạt động có hiệu quả. Có thể nói, Mặt trận Tổ quốc
là thành viên chiến lược của hệ thống chính trị, trung tâm của khối đại đoàn kết toàn
dân tộc. Thiếu vắng Mặt trận, Đảng sẽ mất đi cơ sở quần chúng của mình, chính
quyền nhà nước cũng mất đi cơ sở chính trị, các chủ thể trong hệ thống chính trị khi
thực hiện các quan hệ chính trị sẽ trở nên phức tạp, thiếu ổn định, từ đó làm suy yếu
vai trò lãnh đạo của Đảng và hoạt động quản lý của Nhà nước, hạn chế việc thực thi
dân chủ.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam vì thế có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội,
cùng với các tổ chức chính trị - xã hội thực hiện đoàn kết, tập hợp lực lượng; xây
dựng đồng thuận xã hội; chăm lo lợi ích cho các tầng lớp nhân dân. Mặt trận Tổ
quốc không chỉ là phương thức tổ chức qua đó nhân dân thực hiện quyền lực chính
trị của mình, mà còn là môi trường để nhân dân thực hành quyền làm chủ. Trong
những điều kiện cụ thể, Mặt trận thay mặt và đại diện nhân dân đấu tranh với các
biểu hiện vi phạm dân chủ.
1.1.2. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của MTTQ Việt Nam.
Về nguyên tắc tổ chức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam:
- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ Hiến
pháp, pháp luật và Điều lệ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
- Tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được thực hiện theo
nguyên tắc tự nguyện, hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống nhất hành động giữa
các thành viên.
Các thành viên gia nhập Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trên cơ sở tự nguyện,
tán thành Điều lệ Mặt trận, được Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp xem xét, công
nhận. Quan hệ giữa các thành viên trong Mặt trận là hợp tác, bình đẳng, đoàn kết,
tôn trọng lẫn nhau để cùng thực hiện các nhiệm vụ của Nhà nước và các chương
trình của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Trong sinh hoạt và hoạt động của Ủy ban Mặt
trận Tổ quốc, các thành viên đều có quyền trình bày ý kiến của mình, cùng trao đổi,
bàn bạc, hiệp thương dân chủ để đạt sự nhất trí, không dùng mệnh lệnh, áp đặt.

- Khi phối hợp và thống nhất hành động, các tổ chức thành viên của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam tuân theo Điều lệ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đồng thời vẫn giữ

12


tính độc lập của tổ chức mình.
- Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là tổ chức thành viên, vừa lãnh đạo Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam.
Về cơ cấu tổ chức:
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được tổ chức theo cấp hành chính, từ trung ương
tới cơ sở. Ở mỗi cấp hành chính đều có Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Dưới
cấp xã còn có Ban công tác Mặt trận ở khu dân cư.
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ quan chấp hành giữa hai kỳ đại hội
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, có trách nhiệm tổ chức thực hiện nhiệm vụ của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Ở trung ương có Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đoàn Chủ
tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Ban Thường trực Ủy ban
trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Ở địa phương có Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương (gọi chung là cấp tỉnh); Ủy ban Mặt trận Tổ quốc huyện, quận, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh và đơn vị hành chính tương đương (gọi chung là cấp huyện); Ủy ban
Mặt trận Tổ quốc xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã). Ở mỗi cấp có Ban
Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc. Ngoài ra, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cấp xã
thành lập Ban công tác Mặt trận ở thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc, tổ dân phố,
khu phố, khối phố và cộng đồng dân cư khác (gọi chung là khu dân cư).
1.1.3. Chức năng, nhiệm vụ của MTTQ Việt Nam.
Tuy chưa có văn bản pháp luật nào quy định rõ ràng về chức năng của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam, tuy nhiên Điều 9 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa 2013 đã khẳng định: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính

quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân
dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng
cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà
nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Ngoài
ra Điều 3 Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam 2015 có quy định về Quyền và trách
nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Trên cơ sở đó, có thể khái quát về chức
năng cơ bản của Mặt trận Tổ quốc trên một số điểm sau:
- Đại diện lợi ích cho nhân dân, phản ánh trung thực tâm tư, nguyện vọng và
bảo vệ quyền lợi hợp pháp, chính đáng cho các tầng lớp nhân dân.
- Tập hợp lực lượng, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, vì mục tiêu “dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, tăng cường đồng thuận
xã hội.

13


- Tuyên truyền, thuyết phục, tổ chức, vận động nhân dân thực hiện quyền
làm chủ, thực hiện nghiêm chỉnh chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền nhân dân.
- Thực hiện giám sát và phản biện xã hội đối với các cơ quan và cán bộ trong
hệ thống chính trị.
- Tham gia phát triển tình hữu nghị hợp tác giữa nhân dân Việt Nam với nhân
dân các nước trong khu vực và trên thế giới.
Với vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ như vậy, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
là tổ chức rất phù hợp để thực hiện phản biện xã hội. Phản biện xã hội được xem là
một trong những chức năng cơ bản và quan trọng của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
qua đó góp phần giúp Mặt trận Tổ quốc hoàn thành nhiệm vụ do Đảng và nhân dân
giao phó, trở thành cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, là nơi đại diện cho
tiếng nói của nhân dân, nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng, tập hợp khối đại đoàn kết

toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
1.2. Khái niệm, đặc điểm, vai trò giám sát và phản biện xã hội của
MTTQVN
1.2.1. Quan niệm về phản biện và phản biện xã hội
Để hiểu về chức năng phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
trước hết cần làm rõ hai thuật ngữ “phản biện” và “phản biện xã hội”.
Phản biện đã được đề cập đến từ lâu trong các cuộc hội thảo, trong các tài
liệu, văn bản, trong hoạt động chính trị - xã hội và trong nghiên cứu khoa học. Đặc
biệt, phản biện xã hội là chủ đề được nói đến nhiều trong thời kỳ Đảng, Nhà nước
có chủ trương mở rộng dân chủ và tạo cơ chế để Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
nhân dân tham gia giám sát và phản biện xã hội. Đó là khi người dân ngày càng ý
thức được quyền làm chủ của mình và đòi hỏi thực hiện dân chủ thực sự.
Tuy nhiên, nếu “phản biện” là một thuật ngữ đã khá phổ biến, nhất là trong
hoạt động khoa học, thì “phản biện xã hội” lại là khái niệm chưa xuất hiện trong từ
điển tiếng Việt.
Trước hết, nói về phản biện, tuy là đã xuất hiện từ lâu và khá phổ biến song
cũng có rất nhiều cách hiểu về khái niệm này.
Theo âm Hán Việt, phản là phê phán cái đã có, biện là nói có lập luận. Từ
điển Hán Việt của tác giả Trần Văn Chánh giải thích: phản có các nghĩa: chuyển
biến, lật lại, đảo ngược, trái lại, nghĩ lại, xét lại; biện có nghĩa là tranh luận, giải
thích. Từ điển Hán Việt của Thiều Chiểu cũng nói: phản biện là tranh luận theo cái
nhìn ngược lại. Như vậy, theo nghĩa Hán Việt thì phản biện là tranh luận với những

14


ý kiến có trước bằng cách lập luận theo chiều hướng ngược lại. Cách định nghĩa này
đơn thuần xét trên phương diện ngữ nghĩa học.
Còn theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học do Hoàng Phê chủ biên
thì phản biện là “đánh giá chất lượng một công trình khoa học khi công trình đó được

đưa ra bảo vệ để lấy học vị trước hội đồng chấm thi” [55, tr.342]
Từ điển bách khoa Việt Nam cũng đưa ra cách hiểu:
Phản biện là nhận xét và đánh giá về một công trình khoa học...Người (hay
cơ quan) phản biện nhận định về tính cấp thiết và ý nghĩa của đề tài, nội dung và
hình thức thể hiện của công trình nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, kết luận,
đóng góp, hạn chế...cuối cùng đánh giá chung là đạt hay không đạt những yêu cầu
đề ra, xếp loại [48, tr.407]
Cách hiểu như trên đã chỉ ra các dấu hiệu của phản biện, nhưng mới chỉ giới
hạn hoạt động này trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học, trong khi có nhiều lĩnh vực
khác chúng ta cũng dùng khái niệm phản biện. Điều đó phản ánh một thực tế là ở Việt
Nam vấn đề phản biện chưa được nhìn nhận một cách thực sự khoa học và đầy đủ.
Theo quyết định số 22/2002/QĐ-TTg ngày 30/01/2002 của Thủ tướng Chính
phủ về hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội của Liên hiệp các Hội khoa
học và Kỹ thuật Việt Nam, phản biện được hiểu là “hoạt động cung cấp các thông
tin, tư liệu, cùng các ý kiến phân tích đánh giá tính khả thi và các kiến nghị về sự
phù hợp của nội dung đề án đối với mục tiêu và các điều kiện ràng buộc ban đầu
hoặc thực trạng đặt ra”
Theo cách giải thích trong “Tìm hiểu một số thuật ngữ trong Văn kiện Đại
hội X của Đảng” thì phản biện là “nhận xét, đánh giá, bình luận, thẩm định công
trình khoa học, dự án, đề án trong các lĩnh vực khác nhau” [8, tr.182]. Đây chỉ là
cách hiểu đơn giản nhất về thuật ngữ này bằng cách so sánh với những thuật ngữ
tương đồng khác, mà chưa làm rõ nội hàm chủ yếu của nó.
Tác giả Nguyễn Trần Bạt thì cho rằng:
Phản biện là một hành vi xác định tính khoa học của hành động của con
người, xuất hiện khi con người chuẩn bị hành động. Phản biện làm mỗi hành vi
được tiến hành trên cơ sở một sự xác nhận có chất lượng khoa học đối với nó. Nếu
không có phản biện nghĩa là con người mặc nhiên hành động mà không đếm xỉa đến
sự xác nhận của xã hội về tính phù hợp, đúng đắn của hành động đó...Phản biện
trong một xã hội dân chủ là một loại “phản hành động” chứ không phải “phản
động”. Nó xuất hiện song song cùng với các hành động, nó xuất hiện đối lập với tất

cả các hành động [2, 28/02/2007]
Tác giả Lê Đức Tiết lại đưa ra quan niệm:

15


Phản biện là việc dùng chứng cứ, lập luận để bác bỏ chứng cứ, lập luận đã
được đưa ra trước đó hoặc dùng chứng cứ lập luận để bác bỏ lại sự phản biện đã nêu
ra sau đó. Về mặt triết học, phủ định sự khẳng định hoặc phủ định sự phủ định
chính là sự phản biện. Phản biện được thực hiện bằng hai dạng hành động cơ bản là
biện luận và phản biện hoặc chứng minh hoặc chứng minh ngược lại [43, tr.42]
Có thể thấy, tùy vào điều kiện, quan hệ và lĩnh vực cụ thể mà người ta xác
định loại hình và các mức độ của phản biện, đưa ra những cách hiểu về phản biện.
Dưới góc độ chính trị học, tôi đồng tình với cách hiểu về phản biện như sau:
Là một phạm trù triết học chính trị dùng để chỉ sự nhận xét, khẳng định và
phê phán của một cá nhân hoặc tổ chức đối với tất cả các quan điểm, chủ trương,
chính sách của một cá nhân hay tổ chức khác. Đó là hoạt động đưa ra các lập luận,
chứng cứ, phân tích, đánh giá về một vấn đề nào đó mang tính góp ý, bổ sung, đặt
lại vấn đề hoặc phản bác một phần hoặc cả dự án, cả quyết định hay công trình nào
đó [40, tr.16]
Phản biện nói chung không phân biệt lĩnh vực và không giới hạn đối tượng
phản biện. Chúng ta có thể cụ thể hóa hoạt động phản biện đối với bất kỳ vấn đề gì,
với bất kỳ ai. Đó là sự phủ định của phủ định nhằm đạt tới chân lý của tri thức con
người trong đời sống nhân loại [40, tr.17]
Phản biện xã hội là hoạt động phổ biến trong xã hội hiện đại. Ở nước ta,
phản biện xã hội là hoạt động đã tồn tại trong nhiều năm dù chúng ta chưa gọi tên
nó là “phản biện xã hội”. Cho đến Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng,
khái niệm “phản biện xã hội” mới được chính thức ghi nhận trong Văn kiện Đảng.
Nói về phản biện xã hội, cũng có rất nhiều quan niệm khác nhau, chủ yếu
được xây dựng trên cơ sở nội hàm khái niệm phản biện. Tuy nhiên, có thể thấy,

phản biện xã hội thường được nói đến như là một khái niệm chính trị, phản biện xã
hội hướng tới các lực lượng lãnh đạo và quản lý xã hội, hướng tới các chủ thể thực
thi quyền lực của nhân dân.
Trong cuốn “Tìm hiểu một số thuật ngữ trong văn kiện Đại hội X của Đảng”,
phản biện xã hội được hiểu là:
Sự phản biện nói chung, nhưng có quy mô và lực lượng rộng rãi hơn của
xã hội, của nhân dân và các nhà khoa học về nội dung, phương hướng, chủ
trương, chính sách, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội, khoa học - công nghệ,
giáo dục, y tế, môi trường, trật tự an ninh chung toàn xã hội của Đảng, Nhà nước
và các tổ chức liên quan [8, tr.182-183]
Các tác giả cho rằng:
Phản biện xã hội là phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của

16


nhân dân. Nhân dân không chỉ có quyền mà còn có trách nhiệm tham gia hoạch định
và thi hành các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Phản biện xã hội là
nhu cầu cần thiết và là đòi hỏi bắt buộc của quá trình lãnh đạo và điều hành đất nước.
Việc lãnh đạo các cấp đối thoại trực tiếp với nhân dân, các đại biểu dân cử tiếp xúc
lắng nghe ý kiến cử tri, việc chất vấn và trả lời chất vấn tại kỳ họp Quốc hội và Hội
đồng nhân dân, lấy ý kiến nhân dân về dự thảo văn kiện, dự án và chính sách kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước, việc trưng cầu ý dân qua các phương tiện thông tin đại
chúng... đều là những cách phát huy tốt phản biện xã hội [8, tr.182]
Tác giả Lê Thị Mộng Diễm đưa ra quan niệm về phản biện xã hội:
Là hoạt động bày tỏ ý kiến, chính kiến, đánh giá, nhận xét, phê bình, bình
luận, tranh luận, thảo luận, thẩm định của xã hội, thường thông qua các tổ chức
chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, các cá nhân tiêu biểu... đối với quá
trình hoạch định và thực thi các quyết sách chính trị của Đảng cầm quyền và các cơ
quan quyền lực nhà nước, nhằm thực thi dân chủ, phát huy trí tuệ của toàn xã hội,
làm cho các quyết sách chính trị phản ánh đúng quy luật khách quan, đáp ứng lợi

ích của các đối tượng chịu sự tác động của quyết sách chính trị [7, tr.19]
Tác giả Nguyễn Thọ Ánh nêu ngắn gọn:
Phản biện xã hội là hoạt động của một chủ thể xã hội dùng các luận chứng
khoa học để nhận xét, đánh giá, nêu quan điểm để cơ quan có thẩm quyền xem xét
khi ban hành các quyết sách chính trị [1, tr.36]
Nhưng cũng cần lưu ý rằng, thực chất của hoạt động lãnh đạo, quản lý, điều
hành của các chủ thể quyền lực là ban hành các quyết sách chính trị. Quá trình này
bao gồm cả khâu dự thảo và điều chỉnh (sửa đổi, bổ sung) các quyết sách chính trị.
Vì vậy, phản biện xã hội bao hàm cả quá trình khởi thảo, hoạch định lẫn quá trình
xem xét, đánh giá và đề xuất quan điểm, ý kiến trong quá trình thực thi các quyết
sách chính trị.
Các quan niệm về phản biện xã hội nêu ra trên đây hầu như đều giới hạn hoạt
động phản biện xã hội trong quá trình hoạch định và tổ chức thực thi các quyết sách
chính trị, bao gồm chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật, chương
trình, kế hoạch, dự án, đề án, các biện pháp điều hành của Nhà nước. Phản biện xã
hội là phản biện đối với chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Nếu vậy,
phản biện xã hội vô hình chung đã trở thành phản biện chính sách, đơn thuần trở
thành một khâu trong chu trình chính sách. Do đó, nên chăng, quan niệm về phản
biện xã hội cần được mở rộng hơn: không chỉ được tiến hành đối với chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước mà còn bao hàm cả công tác tổ chức và cán bộ,
bao hàm tất cả những hành vi, hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm

17


quyền. Phản biện xã hội là phản biện đối với tất cả những vấn đề thuộc về các chủ
thể thực thi quyền lực của nhân dân có liên quan đến lợi ích chung của xã hội, đến
quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân.
Khi phản biện, người phản biện phải hội tụ đầy đủ các luận cứ thực tiễn,
khoa học. Mục đích của phản biện xã hội là bằng những căn cứ khoa học và thực tiễn

để làm sáng tỏ bản chất của vấn đề, những ưu điểm, hạn chế, đảm bảo lựa chọn được
phương án hợp lý, khả thi và tối ưu nhất.
Góp ý, bổ sung là để hoàn thiện hơn. Khi góp ý, bổ sung thì không đòi hỏi
người góp ý phải có đủ căn cứ thực tiễn, khoa học để chứng minh. Bên được góp ý,
bổ sung cũng không nhất thiết phải chấp nhận. Ở một phương diện nào đó, có thể
coi góp ý, bổ sung là mức độ thấp của phản biện xã hội.
Cốt lõi của phản biện là xem xét vấn đề từ nhiều góc độ khác nhau để có cái
nhìn tổng thể, toàn diện và khách quan; từ nhiều cách làm khác nhau để tìm ra cách
làm hợp lý nhất, đạt được kết quả tốt nhất; đảm bảo kết hợp hài hoà giữa các lợi ích:
lợi ích trước mắt với lợi ích lâu dài, lợi ích tập thể và lợi ích cá nhân.
Trong phản biện không phải lúc nào người phản biện cũng giữ vai trò là
người phản bác mà có trường hợp người phản biện ủng hộ, tán thành. Phản biện xã
hội bao hàm các khả năng: có chấp nhận, có bổ sung, có đồng tình, hoặc phản bác.
Phản biện có thể dẫn đến phản bác. Nhưng phản bác cũng chỉ là một khả năng, một
tình huống có thể xảy ra trong phản biện. Có thể coi phản bác là mức độ cao nhất
của phản biện.
Phản biện, kể cả trong trường hợp dẫn tới phản bác, vẫn là một hoạt động có
tính chất xây dựng. Phản biện xã hội hướng đến việc lựa chọn được phương án xã
hội chính xác nhất, phục vụ mục tiêu xã hội.
Còn phản đối, chống đối, phản kháng xảy ra khi có mâu thuẫn gay gắt hoặc
đối kháng về quyền lợi. Phản kháng thường hướng đến sự đả kích, gạt bỏ phương
án, do có sự khác biệt về mục tiêu giữa hai phía. Phản kháng không dừng lại ở việc
đối chọi về lập luận, ý kiến mà có thể biểu hiện dưới nhiều hình thức như: biểu tình,
tẩy chay, bất hợp tác, bao vây, hoặc những biện pháp cực đoan khác.
Tác giả Nguyễn Trần Bạt cũng nhấn mạnh rằng phản biện không phải là
chống đối mà trái lại khất lần phản biện mới tức là khuyến khích chống đối. Tác giả
khẳng định rằng:
Phản đối, chống đối không phải là công việc của phản biện...Lẽ phải đơn
thuần cũng không phải đối tượng của phản biện. Phản biện là tìm ra các ranh giới,
các mức độ hợp lý của cái gọi là lẽ phải [3, 08/06/2011]

Dư luận xã hội:

18


Dư luận xã hội có thể hiểu là tập hợp ý kiến, thái độ có tính chất đánh giá,
bình luận của xã hội nói chung đối với những vấn đề có tính chất thời sự liên quan
đến lợi ích chung, thu hút sự quan tâm của nhiều người và được thể hiện trong các
nhận định hoặc các hành động thực tiễn của họ.
Phản biện xã hội và dư luận xã hội đều thể hiện dưới những ý kiến đánh giá,
nhận xét của các nhóm xã hội đối với những vấn đề nhất định trong đời sống xã hội.
Tuy nhiên dư luận xã hội có thể nảy sinh đối với tất cả những gì liên quan đến lợi
ích cộng đồng; còn phản biện xã hội theo nghĩa cụ thể chỉ hướng tới những hoạt
động của lực lượng lãnh đạo và quản lý xã hội.
Dư luận xã hội thể hiện tính quần chúng rộng lớn và thường nghiêng về các
giá trị đạo đức, văn hóa - xã hội chung của cộng đồng. Trong khi đó, phản biện xã
hội mang ý nghĩa chuyên môn khoa học về những lĩnh vực đặc thù.
Dư luận xã hội thường chú trọng đến việc bày tỏ thái độ (tán đồng hoặc phản
đối) của công chúng trước sự kiện; còn phản biện xã hội nghiêng về phân tích, lập
luận, dựa trên cơ sở khoa học và thực tiễn để đưa ra nhận định khách quan, nhằm tư
vấn cho các cơ quan công quyền.
Phản biện khoa học là loại hình phản biện được thực hiện khi tiến hành
nghiệm thu các công trình nghiên cứu khoa học. Phản biện khoa học và phản biện
xã hội đều đòi hỏi tính khách quan, khoa học, nhưng nội dung, mục tiêu, cơ chế
hoạt động khác nhau.
Phản biện khoa học nhằm vào các phát minh, sáng kiến khoa học. Phản biện
xã hội nhằm vào các quyết sách chính trị, các hành vi chính trị.
Mục đích của phản biện khoa học là khẳng định tính đúng đắn của các lý
thuyết, phát minh khoa học, đảm bảo hành động phù hợp với quy luật khách quan
của tự nhiên và xã hội.

Phản biện xã hội mặc dù cũng coi trọng tính khách quan, nhưng còn có thuộc
tính xã hội. Mục đích của phản biện xã hội là đảm bảo quyền lợi tối đa và lợi ích hài
hoà của Tổ quốc và nhân dân.
Tuy nhiên, ranh giới giữa phản biện khoa học và phản biện xã hội cũng
tương đối mong manh. Trong phản biện xã hội, có thể sử dụng các tiêu chí của phản
biện khoa học, kết quả phản biện khoa học để tăng sức thuyết phục.
Từ những luận giải trên cho thấy, phản biện xã hội theo nghĩa rộng được thể
hiện ở toàn bộ cách thức nhìn nhận, đánh giá, nhận xét từ phía xã hội đối với hoạt
động của các chủ thể thực thi quyền lực. Trên cơ sở đó, xin được đưa ra cách hiểu
về phản biện xã hội như sau:
Phản biện xã hội là hoạt động của các lực lượng xã hội đưa ra lập luận,

19


phân tích, chứng minh trên cơ sở khoa học và thực tiễn, từ đó rút ra nhận xét, đánh
giá, bày tỏ quan điểm, đề xuất kiến nghị đối với các vấn đề thuộc nội dung, phương
hướng, chủ trương, chính sách, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội của Đảng, Nhà
nước và các tổ chức liên quan; nhằm thực thi dân chủ, phát huy trí tuệ nhân dân
trong xây dựng Đảng và Nhà nước, đảm bảo lợi ích chính đáng của các tầng lớp
nhân dân.
Phản biện xã hội có thể được thực hiện bởi nhiều chủ thể khác nhau: từ cá
nhân, tổ chức, tập thể, các giới, các hội, các nhóm lợi ích, các tầng lớp xã hội, v.v..
Đặc biệt là vai trò phản biện của báo chí, của các nhà khoa học, của đội ngũ trí thức,
phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân. Trong
đó, Mặt trận Tổ quốc là một chủ thể phản biện xã hội đặc biệt quan trọng.
1.3. Nội dung, hình thức giám sát, phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam
1.3.1. Khái niệm phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
1.3.1.1. Khái niệm
Phản biện xã hội được thực hiện thông qua nhiều kênh khác nhau, bởi những

chủ thể khác nhau, và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một trong số đó. Nhưng Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam là chủ thể phản biện xã hội đặc biệt quan trọng. Tuy phản
biện xã hội có thể được thực hiện bằng nhiều cách, nhưng để phản biện diễn ra một
cách chuyên nghiệp và khoa học, nhất thiết phản biện phải được thực hiện trong
một tổ chức nhất định và những ý kiến phản biện cần phải được thống nhất từ trong
những tổ chức đó trước khi đưa ra công khai đối thoại với Nhà nước. Ở Việt Nam,
tổ chức được Đảng và Nhà nước giao nhiệm vụ tổ chức thực hiện phản biện xã hội
chính là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Là tổ chức lớn nhất của đông đảo quần chúng nhân dân, nên chỉ có Mặt trận
Tổ quốc mới có thể thực hiện tốt công việc phản biện, giúp Đảng và Nhà nước
chống tham nhũng, chống đói nghèo, chống tụt hậu có hiệu quả và làm trong sạch
bộ máy nhà nước [40, tr.88]
Nói về phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, theo các tác giả Thang Văn
Phúc, Nguyễn Minh Phương, trong cuốn “Đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt
trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội ở nước ta hiện nay” thì đây là hoạt
động “yêu cầu Mặt trận đứng ở vị trí người dân để bình luận, nhận xét, đánh giá quá
trình hoạch định và thực thi các chủ trương, chính sách, pháp luật liên quan đến lợi
ích của người dân [32, tr.356]
Còn theo tác giả Trần Ngọc Nhẫn thì phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc là:
Việc góp ý của Mặt trận đối với dự thảo đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước liên quan đến quyền và nghĩa vụ cơ bản của

20


người dân; đến tổ chức và cán bộ; đến quyền và trách nhiệm của Mặt trận và các tổ
chức chính trị - xã hội để khẳng định tính đúng đắn của dự thảo, đồng thời kiến nghị
những điểm sơ hở, thiếu sót để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Các cơ quan, tổ chức,
cá nhân có thẩm quyền có trách nhiệm xem xét, tiếp thu và trả lời chủ thể phản biện
xã hội nhằm góp phần đảm bảo cho các chủ trương, chính sách, pháp luật khi được

ban hành sát thực tiễn, hợp lòng dân, tạo sự đồng thuận trong xã hội và sớm đi vào
cuộc sống [30, tr.30]
Theo khoản 2 Điều 1 Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội (Ban hành kèm theo Quyết định số
217-QĐ/TW, ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị): Phản biện xã hội của Mặt trận Tổ
quốc là việc nhận xét, đánh giá, nêu chính kiến, kiến nghị của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội đối với dự thảo các chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước.
Theo Quy chế này thì phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chỉ
áp dụng đối với quá trình hoạch định, xây dựng dự thảo chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước.
Tại khoản 1 Điều 32 Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam 2015 cũng nêu:
Phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là việc Ủy ban Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam các cấp trực tiếp hoặc đề nghị các tổ chức thành viên của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam nhận xét, đánh giá, nêu chính kiến, kiến nghị đối với dự thảo văn
bản pháp luật, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án, đề án (gọi chung là dự
thảo văn bản) của cơ quan Nhà nước.
Như vậy, theo quy định của Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam mới ban hành
2015 thì phạm vi đối tượng phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc thậm chí còn hẹp
hơn, chỉ bao gồm dự thảo văn bản của cơ quan Nhà nước.
Rõ ràng, về mặt pháp lý, quan niệm về phản biện xã hội của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam hiện nay là tương đối hẹp.
Trên cơ sở cách hiểu về phản biện xã hội đã nêu trước đó, đồng thời xét
trong thực tiễn, quan niệm này cần được mở rộng hơn. Phải phản biện cả trong quá
trình chuẩn bị khởi thảo, cả trong quá trình thực thi chứ không phải chỉ phản biện
trong thời điểm hình thành tư tưởng, đường lối. Trên thực tế thời gian qua đã chứng
minh nhiều chủ trương, chính sách sau khi đã ban hành và áp dụng trong thực tiễn
rồi vẫn được đưa ra phản biện và đã được thay đổi.
Trở lại với tinh thần của Đại hội X của Đảng về “Xây dựng quy chế giám sát
và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân

đối với việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách, quyết định lớn của Đảng

21


×