Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Phân tích môi trường kinh doanh việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (316.14 KB, 18 trang )

Phân tích môi trường kinh doanh ở Việt Nam hiện nay
MỤC LỤC
I. Đánh giá môi trường kinh doanh ở Việt Nam
1. Các yếu tố vĩ mô
a, Yếu tố nhân khẩu học
b, Yếu tố kinh tế
c, Yếu tố chính trị­ pháp luật
d, Yếu tố văn hóa
e, Yếu tố công nghệ
f, Yếu tố địa lý
2. Các yếu tố vi mô
a, Yếu tố khách hàng
b, Yếu tố đối thủ cạnh tranh
c, Yếu tố cung ứng sản xuất
d, Yếu tố năng lực của doanh nghiệp
3. Cơ hội và thách thức đối với các doanh nghiệp
II. Phân tích cụ thể về Beeline
1. Thị trường viễn thông ở Việt Nam hiện nay
2. Giới thiệu về Beeline
3. Các yếu tố môi trường vĩ mô
4. Các yếu tố môi trường vi mô
5. Phân tích mô hình SWOT
6. Các chiến lược Marketing cụ thể


I. Đánh giá về môi trường kinh doanh Việt Nam
1) Các yếu tố vĩ mô
a, Yếu tố nhân khẩu học
Có nguồn gốc từ vùng đất hiện nằm ở phía nam Trung Quốc và 
miền bắc Việt Nam, người Việt đã tiến về phía nam trong tiến trình 
kéo dài hơn hai nghìn năm để chiếm lấy các vùng đất bờ biển phía 


đông bán đảo Đông Dương
 Tổng dân số: ~ 86 triệu người (2010)
 Tỷ số giới tính: 98,1 nam trên 100 nữ
 Tỷ lệ tăng dân số: 1,2% (2009)
 Số dân sống ở khu vực thành thị: 25.374.262 người (chiếm 29,6% 
dân số cả nước).
Cơ cấu độ tuổi:
0­14 tuổi: 29,4%
15­64 tuổi: 65%
trên 65 tuổi: 5,6%
b, Yếu tố kinh tế
­ Tốc độ tăng trưởng kinh tế: GDP 6 tháng đầu năm đạt 6­ 6.1%
­ Thu nhập bình quân đầu người: trên 1.100 USD/năm (2010)
­ Giá trị sản xuất công nghiệp tăng 13.8%
­ Lạm phát đang được kiềm chế và được kiểm soát ở mức 0.1 – 
0.3% hàng tháng.
­ Lượng kiều hối đạt 3.6 tỷ USD. Giải ngân vốn đầu tư trực tiếp từ 
nước ngoài (FDI) đạt 5.4 tỷ USD, cao hơn 6% so với cùng kỳ năm 
ngoái.
­ Các ngân hàng đồng ý hạ lãi suất cho vay VND từ mức 14% xuống 
còn 12% ­ 12.5% trong tháng 7, giảm lãi suất mức tiền gửi hiện 
nay từ 11.5% xuống còn 10.2% trong 3 tháng tới


­ Cơ sở hạ tầng ngày càng được nâng cao: đại lộ Thăng Long, hầm 
Kim Liên…
 Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển biến từ nền kinh tế hàng 
hoá kém phát triển, mang nặng tính tự cấp tự túc sang thành nền kinh tế hàng hoá  
phát triển từ thấp đến cao. Do nền kinh tế nước ta có cơ cấu hạ tầng vật chất.và hạ
 tầng xã hội thấp kém. Trình độ cơ sở vật chất và công nghệ trong các.doanh.nghiệ

plạc hậu, không có khả năng cạnh tranh. Hầu như không có đội ngũnhà doanh        
nghiệp có tầm cỡ.
Thu nhập của người làm công ăn lương và nông dân thấp kém, sức mua hàng hoá
 của xã hội và dân cư thấp nên nhu cầu tăng chậm, dung lượng thị trường trong       
nước còn hạn chế. Các biểu hiện trên một mặt phản ánh trình độ thấp kém về dung 
lượng cung cầu hàng hoá và khả năng cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường. Mặt
khác nó cũng tạo ra áp lực buộc chúng ta phải vượt qua thực trạng đó và đưa nền   
kinh tế phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng.
Nền kinh tế hàng hóa dựa trên cơ sở nền kinh tế tồn tại nhiều thành phần. Tiếp  
cậnđặc điểm này của kinh tế hàng hoá theo các khía cạnh sau :
­ Nền kinh tế nhiều thành phần với nhiều hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu 
sản xuất là cơ sở kinh tế gắn liền với sự tồn tại và phát triển kinh tế hàng hoá.
­ Thực trạng kinh tế hàng hoá ở nước ta kém phát triển là do nhiều nhân tố, nhưng 
nhân tố gây hậu quả nặng nề nhất là sự nhận thức không đúng dẫn đến nôn nóng    
xoá bỏ nhanh các thành phần kinh tế.
Nền kinh tế nhiều thành phần là nguồn lực tổng hợp về nhiều mặt, có khả năng đưa
nền kinh tế vượt khỏi tình trạng thấp kém.
­ Nền kinh tế hàng hoá chịu tác động của sự thay đổi cơ cấu ngành theo hướng 
nền kinh tế dịch vụ phát triển nhanh chóng. Đặc điểm này gắn liền với hai khía 
cạnh sau :
   + Nó đảm bảo cho mọi người, mọi doanh nghiệp dù ở thành phần kinh tế nào 


cũng đều được tự do kinh doanh theo pháp luật, được pháp luật bảo hộ quyền sở    
hữu và quyền thu nhập hợp pháp.
   + Các chủ thể kinh tế đều được hoạt động theo cơ chế tự chủ, hợp tác, cạnh 
tranh với nhau và đều bình đẳng trước pháp luật.
­ Nền kinh tế hàng hoá phát triển theo cơ cấu kinh tế “mở” giữa nước ta với các 
nước trên thế giới.
­ Sự ra đời nền kinh tế hàng hoá tư bản chủ nghĩa đã làm cho thị trường dân tộc 

hoạt động trong sự gắn bó với thị trường thế giới.
­ Nền kinh tế hàng hoá với cơ cấu “mở” ra đời bắt nguồn từ quy luật phân bố và 
phát triển không đều về tài nguyên thiên nhiên, sức lao động và thế mạnh giữa 
các nước.
­ Nền kinh tế hàng hoá theo cơ cấu “mở”, thích ứng với chiến lược thị trường 
“hướng ngoại”.
­ Phát triển kinh tế hàng hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa với vai trò chủ đạo 
của kinh tế nhà nước và sự quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước.
­ Vai trò định hướng xã hội chủ nghĩa của kinh tế nhà nước trong cơ cấu kinh tế 
nhiều thành phần, kinh tế nhà nước với bản chất vốn có của nó, lại nắm giữ các     
ngành, lĩnh vực then chốt và trọng yếu nên trở thành nhân tố kinh tế bảo đảm cho  
kinh tế hàng hoá của các thành phần kinh tế khác phát triển theo định hướng xã 
hội chủ nghĩa. Tính hiện thực của vai trò định hướng xã hội chủ nghĩa của kinh tế  
nhà nước chỉ được khẳng định khi nó phát huy được sức mạnh tổng hợp của các     
thành phần kinh tế khác.
­ Vai trò quản lý của nhà nước, nhân tố đảm bảo cho định hướng xã hội chủ nghĩa 
của kinh tế hàng hoá :
   + Sự phát triển kinh tế hàng hoá bên cạnh mặt tích cực, đem lại sự phát triển lực 
lượng sản xuất, tăng trưởng kinh tế cao của nó, mặt khác nó không tránh khỏi        
những khuyết tật nhất định về mặt xã hội như : phá sản, khủng hoảng, tàn phá môi 
trường ... Những khuyết tật này cần phải có sự quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước.
   + Nền kinh tế hàng hoá giữa các nước , ngoài sự khác nhau về trình độ phát 


triển và sự phân phối lợi ích kinh tế giữa các tầng lớp dân cư do kinh tế đem lại     
nhằm mục đích gì? có lợi cho ai? Còn có sự khác nhau không kém phần quan trọng
là ở trình độ quản lý theo cơ chế thị trường của nhà nước.
   + Nước ta do chịu ảnh hưởng lâu ngày cuả cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan 
liêu , bao cấp... Nên vai trò quản lý của nhà nước ta là nhân tố đảm bảo cho định   
hướng XHCN của kinh tế hàng hoá.Một nền kinh tế hàng hoá kém phát triển, mang

nặng tính chất tự cung tự cấp, chuyển sang một nền kinh tế hàng hoá phát triển từ 
 thấp đến cao đòi hỏi nhà nước phải sử dụng có hiệu quả các công cụ pháp luật, tài 
chính, tiền tệ, tín dụng ... Mặt khác phải tạo ra môi trường và điều kiện cho sản      
xuất kinh doanh trên cơ sở khai thác tiềm năng của các thành phần kinh tế, thực     
hiện các chính sách xã hội đảm bảo cho sự thống nhất giữa kinh tế và xã hội.
c, Yếu tố chính trị­ pháp luật
­ Tình hình chính trị­ an ninh ổn định
­ Hệ thống pháp luật ngày càng được sửa đổi phù hợp với nền kinh tế hiện nay
­ Nền kinh tế mở sau khi nước ta gia nhập WTO, các chính sách kinh tế phù hợp 
hơn không những với các doanh nghiệp Việt Nam mà còn với cả doanh nghiệp      
nước ngoài muốn đầu tư vào nước ta.
­ Cơ chế điều hành của nước ta hiện nay: chủ trương đường lối theo Đảng Cộng 
Sản Việt Nam
Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền. Hệ thống      
chính trị hiện nay ra đời từ khi thiết lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa,     
gồm các cấu thành quyền lực chính trị sau: Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước   
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa, Nhân dân trong hệ thống chính trị, Hiến pháp.  Đảng  
Cộng sản Việt Nam: Là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu trung         
thành lợi   ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, vừa là 
lực lượng hợp thành, vừa là lực lượng lãnh đạo hệ thống chính trị XHCN, bảo đảm
cho hệ thống chính trị giữ được bản chất giai cấp công nhân và bảo đảm mọi quyền
lực thuộc về nhân dân.


Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa: là tổ chức trung tâm và là trụ cột của hệ        
thống chính trị, thực hiện ý chí, quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân, chịu   
trách nhiệm trước nhân dân quản lý toàn bộ hoạt động của đời sống xã hội và thực 
hiện chức năng đối nội, đối ngoại.Các tổ chức chính trị­xã hội và đoàn thể nhân 
dân: Đây là những tổ chức đại diện cho lợi ích của các cộng đồng xã hội khác nhau 
tham gia vào hệ thống chính trị theo tôn chỉ, mục đích, tính chất của từng tổ chức. 

Ở Việt Nam hiện có 5 tổ chức chính trị­xã hội gồm: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, 
Công đoàn, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí   
Minh, Hội Cựu chiến binh. Ngoài ra còn có nhiều tổ chức xã hội và các đoàn thể   
nhân dân khác.
Nhân dân trong hệ thống chính trị: Với tư cách là người sáng tạo lịch sử, nhân dân 
là lực lượng quyết định trong quá trình biến đổi xã hội, hình thành nên hệ thống     
chính trị hiện nay ở Việt Nam. Mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân và họ thực    
hiện quyền lực của mình chủ yếu thông qua Nhà nước; Nhà nước quản lý xã hội    
bằng pháp luật dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hiến Pháp: Hiến pháp Việt Nam hiện nay được Quốc hội khóa VIII thông qua năm
1992 (bổ sung, sửa đổi vào năm 2001 tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa X). Hiến    
Pháp năm 1992 là sự kế thừa và phát triển các bản Hiến Pháp trước đó (1946,1959,
1980). Sự ra đời của Hiến pháp 1992 là bước phát triển quan trọng trong lịch sử lập
pháp Việt Nam. Hiến pháp 1992 là văn bản pháp luật nền tảng và có giá trị cao      
nhất, thể chế hóa những quan điểm cơ bản của Đảng Cộng sản Việt Nam về đổi    
mới kinh tế,chính trị, khẳng định mục tiêu XHCN, thể chế hóa nền dân chủ XHCN
và các quyền tự do của công dân. Hiến pháp năm 1992 bao gồm Lời nói đầu, 7      
chương và 147 điều quy định rõ Chế độ chính trị; Chế độ kinh tế; Văn hóa­giáo dụ
c, khoa học­ công nghệ; Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; Quốc 
hội, Chủ tịch nước, Chính phủ; Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân; Tòa án     
nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân; Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca, Quốc khánh,   
Thủ đô; Sửa đổi Hiến pháp.


Hiến pháp chỉ rõ quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân; Nhà nước là của nhân 
dân, do nhân dân, vì nhân dân; Nhà nước bảo đảm và không ngừng phát huy quyền
làm chủ về mọi mặt của nhân dân; thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương
trợ giữa các dân tộc. Nhân dân sử dụng quyền lực Nhà nước thông qua Quốc hội   
và Hội đồng nhân dân. Đây là những cơ quan do nhân dân bầu ra, đại diện cho ý    
chí và nguyện vọng của nhân dân.

d, Yếu tố văn hóa
­ Luôn luôn gìn giữ và phát huy truyền thống văn hóa dân tộc
­ Phương tiện truyền thông được phủ sóng khắp vùng miền, kể cả vùng sâu vùng 
xa, giúp người dân tiếp cận được những kiến thức văn hóa mới nhất
­ Trình độ văn hóa của người dân đang ngày càng nâng cao
­ Văn hóa doanh nghiệp, yếu tố vàng của thành công:
Văn hoá doanh nghiệp chính là tài sản vô hình của mỗi doanh nghiệp. Cùng với sự 
phát triển của nền kinh tế thị trường thì việc xây dựng văn hoá doanh nghiệp là một
việc làm hết sức cần thiết nhưng cũng không ít khó khăn. 
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về văn hoá. Theo E.Heriôt thì “Cái gì còn lại kh
i tất cả những cái khác bị quên đi ­ cái đó là văn hoá”. Còn UNESCO lại có một 
định nghĩa khác về văn hoá: “Văn hoá phản ánh và thể hiện một cách tổng quát, số
ng động mọi mặt của cuộc sống (của mỗi cá nhân và của mỗi cộng đồng) đã diễn   
ra trong quá khứ, cũng như đang diễn ra trong hiện tại, qua hàng bao nhiêu thế kỷ  
nó đã cấu thành một hệ thống các giá trị, truyền thống, thẩm mỹ và lối sống và dựa
trên đó từng dân tộc khẳng định bản sắc riêng của mình”. 
Vậy văn hoá doanh nghiệp là gì? Văn hoá doanh nghiệp là toàn bộ các giá trị văn  
hoá được gây dựng nên trong suốt quá trình tồn tại và phát triển của một doanh      
nghiệp, trở thành các giá trị, các quan niệm và tập quán, truyền thống ăn sâu vào   


hoạt động của doanh nghiệp ấy và chi phối tình cảm, nếp suy nghĩ và hành vi của 
mọi thành viên của doanh nghiệp trong việc theo đuổi và thực hiện các mục đích. 
Cũng như văn hoá nói chung, văn hoá doanh nghiệp có những đặc trưng cụ thể       
riêng biệt. Trước hết, văn hoá doanh nghiệp là sản phẩm của những người cùng      
làm trong một doanh nghiệp và đáp ứng nhu cầu giá trị bền vững. Nó xác lập một  
hệ thống các giá trị được mọi người làm trong doanh nghiệp chia sẻ, chấp nhận, đề 
cao và ứng xử theo các giá trị đó. Văn hoá doanh nghiệp còn góp phần tạo nên sự  
khác biệt giữa các doanh nghiệp và được coi là truyền thống của riêng mỗi doanh  
nghiệp.

Nhìn nhận một cách tổng quát, chúng ta thấy văn hoá trong các cơ quan và doanh  
nghiệp ở nước ta còn có những hạn chế nhất định: Đó là một nền văn hoá được xây
dựng trên nền tảng dân trí thấp và phức tạp do những yếu tố khác ảnh hưởng tới;  
môi trường làm việc có nhiều bất cập dẫn tới có cái nhìn ngắn hạn; chưa có quan   
niệm đúng đắn về cạnh tranh và hợp tác, làm việc chưa có tính chuyên nghiệp; còn 
bị ảnh hưởng bởi các khuynh hướng cực đoan của nền kinh tế bao cấp; chưa có sự 
giao thoa giữa các quan điểm đào tạo cán bộ quản lý do nguồn gốc đào tạo;chưa có
cơ chế dùng người,có sự bất cập trong giáo dục đào tạo nên chất lượng chưa cao. 
Mặt khác văn hoá doanh nghiệp còn bị những yếu tố khác ảnh hưởng tới như: Nền 
sản xuất nông nghiệp nghèo nàn và ảnh hưởng của tàn dư đế quốc, phong kiến. 
Văn hoá doanh nghiệp có vị trí và vai trò rất quan trọng trong sự phát triển của mỗi
doanh nghiệp, bởi bất kỳ một doanh nghiệp nào nếu thiếu đi yếu tố văn hoá, ngôn 
ngữ, tư liệu, thông tin nói chung được gọi là tri thức thì doanh nghiệp đó khó có   
 thể đứng vững và tồn tại được. Trong khuynh hướng xã hội ngày nay thì các nguồ
nlực của một doanh nghiệp là con người mà văn hoá doanh nghiệp là cái liên kết v
à nhân lên nhiều lần các giá trị của từng nguồn lực riêng lẻ. Do vậy, có thể khẳng   
định văn hoá doanh nghiệp là tài sản vô hình của mỗi doanh nghiệp. Theo ông      
Trần Hoàng Bảo (1 trong số 300 nhà doanh nghiệp trẻ) nhận xét: Văn hoá của 


doanh nghiệp được thể hiện ở phong cách lãnh đạo của người lãnh đạo và tác         
phong làm việc của nhân viên. Cũng theo ông Bảo, đối tác khi quan hệ thì ngoài    
việc quan tâm tới lợi nhuận của công ty họ còn đánh giá doanh nghiệp qua văn hoá
của doanh nghiệp đó. 
Sự thành công của mỗi doanh nghiệp, đặc biệt là ở các nước châu á thường được   
dựa trên mối quan hệ cá nhân của người lãnh đạo, còn các nước Tây Âu thì thành  
công của doanh nghiệp lại được dựa trên các yếu tố như khả năng quản lý các        
nguồn lực, năng suất làm việc, tính năng động của nhân viên… Ngoài những yếu   
tố chủ quan, để xây dựng văn hoá doanh nghiệp còn phải chú trọng tới những yếu  
tố khách quan. Đó là việc tạo lập thị trường, lợi ích của người tiêu dùng, được thể  

hiện qua “Các nguyên tắc chỉ đạo để bảo vệ người tiêu dùng”, là quá trình hội nhập
vào nền kinh tế khu vực và thế giới. 
Trước hết chúng ta phải có quan điểm cụ thể về vai trò của văn hoá doanh nghiệp. 
Sự thắng thế của bất cứ một doanh nghiệp nào không phải ở chỗ là có bao nhiêu    
vốn và sử dụng công nghệ gì mà nó được quyết định bởi việc tổ chức những con   
người như thế nào. Con người ta có thể đi lên từ tay không về vốn nhưng không    
bao giờ từ tay không về văn hoá. Văn hoá chỉ có nền tảng chứ không có điểm mốc 
đầu cuối. Do vậy, xuất phát điểm của doanh nghiệp có thể sẽ là rất cao nếu như nó 
được xây dựng trên nền tảng văn hoá. Các doanh nghiệp khi xây dựng đều phải có 
nhận thức và niềm tin triệt để, lúc đó văn hoá sẽ xuất hiện. Mọi cải cách chỉ thực   
sự có tính thuyết phục khi nó tách ra khỏi lợi ích cá nhân, còn văn hoá doanh         
nghiệp thì phải bảo vệ cho mọi quyền lợi và lợi ích của cá nhân. 
Khi xây dựng văn hóa doanh nghiệp cần phải có những biện pháp cụ thể. Biện       
pháp đầu tiên là phải xây dựng một hệ thống định chế của doanh nghiệp, bao gồm: 
Chính danh, tự kiểm soát, phân tích các công việc, các yêu cầu. Sau đó xây dựng   
các kênh thông tin; xây dựng các thể chế và thiết chế tập trung và dân chủ như: Đa 
dạng hoá các loại hình đào tạo và phát triển nguồn nhân lực; tiêu chuẩn hoá các     


chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn; xây dựng cơ chế kết hợp hài hoà các lợi ích để do
anh nghiệp trở thành ngôi nhà chung, là con thuyền vận mệnh của mọi người. 
­ Các hạt nhân văn hóa doanh nghiệp 
Đây là cơ sở để hình thành văn hóa doanh nghiệp. Các hạt nhân văn hóa là kết quả 
của sự tác động qua lại giữa các thành viên trong doanh nghiệp với nhau. Khi        
doanh nghiệp bắt đầu hoạt động, nền văn hóa doanh nghiệp xuất hiện, phát triển và
tự bảo vệ. Văn hóa doanh nghiệp có tính đặc thù nên các hạt nhân văn hóa được    
hình thành cũng có tính chất riêng biệt. Văn hóa của các tập đoàn đa quốc gia khác 
với văn hóa của các doanh nghiệp liên doanh hoặc văn hóa của doanh nghiệp gia   
đình. Hạt nhân văn hóa doanh nghiệp bao gồm triết lý, niềm tin, các chuẩn mực      
làm việc và hệ giá trị. 

­ Phát triển văn hóa giao lưu của các doanh nghiệp 
Các doanh nghiệp thường có xu hướng liên doanh, liên kết với nhau. Để tồn tại      
trong môi trường kinh doanh phức tạp, đa văn hóa, các doanh nghiệp không thể     
duy trì văn hóa doanh nghiệp mình giống như những lãnh địa đóng kín của mà phải
mở cửa và phát triển giao lưu về văn hóa. Việc phát triển văn hóa giao lưu sẽ tạo   
điều kiện cho các doanh nghiệp học tập, lựa chọn những khía cạnh tốt về văn hóa  
của các doanh nghiệp khác nhằm phát triển mạnh nền văn hóa của doanh nghiệp  
mình và ngược lại. 
­ Xây dựng các tiêu chuẩn về văn hóa doanh nghiệp 
Để hình thành một nền văn hóa mạnh và có bản sắc riêng, hầu hết các doanh          
nghiệp thường xây dựng cho mình những tiêu chuẩn về văn hóa và buộc mọi người
khi vào làm việc cho doanh nghiệp phải tuân theo. Tuy nhiên, các tiêu chuẩn này   
có thể thay đổi khi không còn phù hợp hoặc hiệu quả thấp. Trong trường hợp như  
vậy, việc sáng tạo ra những tiêu chuẩn mới là cần thiết. 


Trong điều kiện toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới và quá trình cạnh tranh quốc tế   
ngày càng gay gắt thì văn hóa doanh nghiệp được chú trọng xây dựng và phát triển.
Nó trở thành một loại tài sản vô hình đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong kho tài  
sản doanh nghiệp và là một trong những công cụ cạnh tranh khá sắc bén. Những    
doanh nghiệp không có nền văn hóa mạnh khó có thể cạnh tranh cao trên thị           
trường. Đồng thời, doanh nghiệp có thể tạo ra và tăng uy tín của mình trên thị         
trường thông qua việc xây dựng và phát triển một nền văn hóa doanh nghiệp mạnh. 
­ Văn hóa tập đoàn đa quốc gia 
Các tập đoàn đa quốc gia có nhiều chi nhánh hoạt động ở nhiều nước trên thế giới, 
thường phải đối mặt với môi trường kinh doanh đa sắc tộc, đa quốc tịch và đa văn 
hóa. Để tăng cường sức mạnh và sự liên kết giữa các chi nhánh của các công ty đa 
quốc gia ở các nước khác nhau, các tập đoàn phải có một nền văn hóa đủ mạnh.    
Hầu như tập đoàn đa quốc gia nào cũng có bản sắc văn hóa riêng của mình và đây 
được coi là một trong những điều kiện sống còn, một loại vũ khí cạnh tranh lợi hại.

Các công ty đa quốc gia có mục đích kinh doanh chiến lược, nhãn hiệu hàng hóa   
nổi tiếng và danh tiếng cao về chất lượng sản phẩm và dịch vụ trên thị trường thế  
giới. Những kết quả này có thể coi là sản phẩm của quá trình vận động của văn hóa
tập đoàn. Tuy nhiên, để đạt được những đỉnh cao của sự thành công đó, các tập      
đoàn phải mất nhiều thời gian và tiền bạc. Chẳng hạn, để có nhãn hiệu Pepsi Cola 
nổi tiếng với màu xanh tươi trẻ, Tập đoàn Pepsi phải chọn cách tiếp cận văn hóa    
phương Đông ­ sản xuất loại đồ uống mang nhãn hiệu Pepsi Cola với biểu tượng 
thiếu âm và thiếu dương (biểu tượng của những người theo Phật giáo) để đến với   
khách hàng là những tín đồ của Phật giáo. Để bảo hộ cho biểu tượng này, Tập đoàn
phải chi tới 500 triệu USD và giá của nhãn hiệu Pepsi đã lên tới 55 tỷ USD. Đối     
thủ cạnh tranh của Pepsi Cola là Tập đoàn Coca Cola. Tập đoàn này có nền văn     
hóa hùng mạnh và với những ưu thế về danh tiếng, uy tín cũng như nghệ thuật kinh
doanh đã chiến thắng Pepsi Cola trên thương trường mặc dù đồ uống Coca Cola    
chỉ được xếp thứ 7 trong số 12 loại đồ uống hàng đầu của nước Mỹ về chất lượng  
và đồ uống này đã bị người tiêu dùng châu Âu tẩy chay vào năm 1999. 
­ Văn hóa doanh nghiệp gia đình 


Các doanh nghiệp gia đình được xem là một loại định chế độc đáo trong đó một gi
ađình là hạt nhân của doanh nghiệp. Văn hóa doanh nghiệp gia đình chịu ảnh hưởn
gcủa truyền thống gia đình, sự kế tục giữa các thế hệ và lòng trung thành với nhữn
g triết lý kinh doanh, kinh nghiệm, bí quyết được gia đình đúc rút được trong quá   
trình kinh doanh. Thông thường, trong gia đình, người chủ gia đình thường nắm    
được bí quyết về một nghề nghiệp nào đó và dựa vào nghề nghiệp đó để thành lập 
doanh nghiệp gia đình. Vì thế, văn hóa doanh nghiệp gia đình chịu ảnh hưởng rất   
lớn tác động của phong cách lãnh đạo của người chủ gia đình. Kỷ luật trong doanh 
nghiệp gia đình thường được đề cao vì họ vừa là người chủ sở hữu vừa là người sử 
dụng các tài sản của gia đình. Chẳng hạn, doanh nghiệp sản xuất giày dép Biti’s     
(Việt Nam) là một biến thể của doanh nghiệp gia đình. Doanh nghiệp này có một  
nền văn hóa mạnh và các thành viên của doanh nghiệp đều thấm nhuần được         

những giá trị và chuẩn mực của văn hóa doanh nghiệp. Doanh nghiệp này đang có 
triển vọng trở thành một trong những công ty đa quốc gia đầu tiên của Việt Nam.  
Có thể nói, Văn hoá doanh nghiệp là nhằm tạo ra quy tắc ứng xử cho doanh nghiệp
mà không phải tạo ra tác dụng chỉ đạo. Cách làm này của các doanh nghiệp không 
chỉ có tác dụng thúc đẩy cho doanh nghiệp mình thực hiện được phương thức kinh 
doanh "lấy con người làm trung tâm", mà còn làm cho năng lực phát triển sản        
phẩm và năng lực đoàn kết hiệp đồng tập thể của doanh nghiệp trở nên phồn vinh,  
tăng thêm sự gắn bó của nhân viên với doanh nghiêp, nâng cao hiệu quả kinh         
doanh.
e, Yếu tố công nghệ
­ Hệ thống nghiên cứu công nghệ­ kĩ thuật đang được chú ý và ngày càng được cải 
tiến cho phù hợp với trình độ công nghệ kĩ thuật nước ngoài.
­ Nhà nước đang ngày càng chú trọng vào việc đầu tư Khoa học­ kĩ thuật cao như 
công nghệ biển, công nghệ vũ trụ...
­ Công nghệ thông tin ngày càng chứng tỏ bước phát triển phi thường.
­ Số người dùng mạng Internet đã vượt ngưỡng 22 triệu.
­ Hơn 50% dân số đang dùng điện thoại di động.


Đây là nhân tố ảnh hưởng mạnh, trực tiếp đến doanh nghiệp. Các yếu tố công nghệ
thường biểu hiện như phương pháp sản xuất mới, kĩ thuật mới, vật liệu mới, thiết  
bị sản xuất, các bí quyết, các phát minh, phần mềm ứng dụng...Khi công nghệ phát 
triển, các doanh nghiệp có điều kiện ứng dụng các thành tựu của công nghệ để tạo  
ra sản phẩm, dịch vụ có chất lượng cao hơn nhằm phát triển kinh doanh, nâng cao 
năng lực cạnh tranh. Tuy vậy, nó cũng mang lại cho doanh nghiệp nguy cơ tụt hậu,
giảm năng lực cạnh tranh nếu doanh nghiệp không đổi mới công nghệ kịp thời. 
Khoa học kỹ thuật và công nghệ có ảnh hưởng to lớn tới sản xuất, kinh doanh và cả
sự tiêu thụ. Các phát minh mới, các tiến bộ của khoa học kỹ thuật sẽ làm ra các sản
phẩm mới, đồng thời làm này sinh các nhu cầu mới và làm triệt tiêu cá công nghệ  
cụ hay nhu cầu cũ. Ví dụ, phát minh ra máy ảnh kỹ thuật số gây ảnh hưởng năng    

cho việc chụp hình dùng phim cổ điển, máy photo copy và máy tính làm biến mất 
những chiếc máy chữ cũ kỹ…
Khoa học kỹ thuật và công nghệ cũng giúp chúng ta khám phá các khả năng vô tận
như: công nghệ sinh học, robot, nghiên cứu vũ trụ….
Ngày nay,để thành công, các công ty phải không ngừng đầu tư cho R&D (Research
and Development: Nghiên cứu và Phát triển) để phát minh hay tiếp cận và vận       
dụng các công nghệ và kỹ thuật mới để không ngừng cải tiến sản phẩm, nâng cao 
tính cạnh tranh.
Ở Việt nam, công nghệ còn lạc hậu, nên nguy cơ tụt hậu là rất lớn, vì thế chúng ta 
cần đầu tư hơn cho giáo dục và thu hút chất xám để có thể phát triển một đội ngũ   
chuyên gia kỹ thuật và công nghệ giỏi.
Cả thế giới vẫn đang trong cuộc cách mạng của công nghệ, hàng loạt các công       
nghệ mới được ra đời và được tích hợp vào các sản phẩm, dịch vụ. Nếu cách đây   
30 năm máy vi tính chỉ là một công cụ dùng để tính toán thì ngày nay nó đã có đủ  


chức năng thay thế một con người làm việc hoàn toàn độc lập. Trước đây chúng ta 
sử dụng các máy ảnh chụp bằng phim thì hiện nay không còn hãng nào sản xuất    
phim cho máy ảnh. Đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ thông tin, công nghệ truyền  
thông hiện đại đã giúp các khoảng cách về địa lý,phương tiện truyền tải.
+ Đầu tư của chính phủ, doanh nghiệp vào công tác R&D: Trong thập niên 60­70 
của thế kỷ trước. Nhật Bản đã khiến các nước trên thế giới phải thán phục với bước
nhảy vọt về kinh tế trong đó chủ yếu là nhân tố con người và công nghệ mới. Hiện 
nay Nhật vẫn là một nước có đầu tư vào nghiên cứu trên GDP lớn nhất thế giới.    
Việc kết hợp giữa các doanh nghiệp và chính phủ nhằm nghiên cứu đưa ra các       
công nghệ mới, vật liệu mới... sẽ có tác dụng tích cực đến nền kinh tế.
+ Tốc độ, chu kỳ của công nghệ, tỷ lệ công nghệ lạc hậu: nếu trước đây các hãng   
sản xuất phải mất rất nhiều thời gian để tăng tốc độ bộ vi xử lý lên gấp đôi thì hiện 
nay tốc độ này chỉ mất khoảng 24 năm. Xuất phát từ các máy tính Pen II, Pen III,   
chưa đầy 10 năm hiện nay tốc độ bộ vi xử lý đã tăng với chip set thông dụng hiện  

nay là Core Dual tốc độ 2.8 GB/s. Một bộ máy tính mới tinh chỉ sau nửa năm đã tr
ở nên lạc hậu với công nghệ và các phần mềm ứng dụng.
+ Ảnh hưởng của công nghệ thông tin, internet đến hoạt động kinh doanh. Ngoài 
các yếu tố cơ bản trên, hiện nay khi nghiên cứu thị trường, các doanh nghiệp phải  
đưa yếu tố toàn cầu hóa trở thành một yếu tố vĩ mô tác động đến ngành.
f, Yếu tố địa lý
­ Khí hậu: Nhiệt đới gió mùa ẩm
­ Nguồn tài nguyên phong phú
­ Tình hình ô nhiễm đang gia tăng nhanh chóng
♦ Ô nhiễm nguồn nước
♦ Ô nhiễm nguồn đất
♦ Ô nhiễm không khí


Như chúng ta đã biết nền kinh tế thế giới là một thể thống nhất bao gồm các nền     
kinh tế khu vực và quốc gia rất đa dạng, phát triển không đều, chứa đựng nhiều    
mâu thuẫn. Theo trình độ phát triển của lý luận sản xuất và phân công lao động xã 
hội, có thể phân các nước trên thế giới thành các nhóm: nước phát triển, nước đan 
phát triển và nước chậm phát triển.Trong đó,Việt Nam là một nước đang phát triển.
Với vị trí địa lý : 
 Nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, ở ngã tư nơi gặp gỡ của những luồng gió     
xuất phát từ các trung tâm lớn bao quanh. Nằm phía Đông của bán đảo Đông 
Dương gần trung tâm Đông Nam Á, nên đã trở thành một đầu mối giao thông quan
trọng đi từ Ấn Độ Dương sang Thái Bình Dương và Châu Úc Đại Dương hoặc      
ngược lại, có vùng biển chủ quyền rộng lớn và giàu tiềm năng. Đặc biệt, Việt Nam 
nằm trong khu vực đang diễn ra các hoạt động kinh tế sôi động nhất thế giới trước 
ngưỡng cửa của thế kỷ XXI. Hồng Kông, Đài Loan, Hàn Quốc, Singapore đã trở    
thành "4 con Rồng" Châu Á cũng đang có những chuyển động mới đáng kể trong  
phát triển kinh tế. Nhìn chung các nước ASEAN đang ngày càng chiếm vị trí cao  
hơn trong nền kinh tế của khu vực Châu Á Thái Bình Dương cũng như của thế       

giới. Như tốc độ tăng trưởng bình quân GDP của thế giới là 35%, thì trong khu vực
đã đạt được tốc độ bình quân là 6­9%.Với vị trí địa lý như trên và với thực trạng 
nền kinh tế của các nước trong khu vực đã và đang tạo ra cho Việt Nam nhưng lợi  
thế quan trọng và cơ hội lớn trong việc hợp tác và tiếp thu những kinh nghiệm quý 
báu về phát triển kinh tế­ xã hội. Đồng thời tranh thủ tối đa nguồn vốn, kỹ thuật –
công nghệ tiên tiến và hiện đại từ các nước trong khu vực, xuất nhập khẩu nhiều     
loại hàng hóa thế mạnh của nước ta.
 Việt Nam là một đất nước đầy tiềm năng, dân số trẻ, sức tiêu thụ ngày một tăng.  
Mặc dù bị tụt hậu do chiến tranh nhưng VN giờ đây là một trong những nơi dễ tiếp
cận nhất để mở rộng kinh doanh ở châu Á. Đáng chú ý là thị trường bán lẻ ở VN    
tăng trưởng tới 30% mỗi năm trong hơn một thập niên qua và tiếng tăm toàn cầu    
của Việt Nam đã mở ra những cơ hội lớn trong các lĩnh vực cơ sở hạ tầng, trường  
học, sân bay, hải cảng và các lĩnh vực khác.


Trong thời gian qua, VN có nhiều thay đổi về môi trường pháp lý, góp phần cải      
thiện đáng kể môi trường kinh doanh, nâng cao mức độ thuận lợi trong kinh doanh 
và thu hẹp khoảng cách với các quốc gia đứng đầu trong khu vực Đông Á ­ Thái 
Bình Dương. VN đã tạo điều kiện thuận lợi hơn cho doanh nghiệp tiếp cận tín dụng
bằng việc mở rộng phạm vi tài sản có thể sử dụng để thế chấp.Và tạo mọi điều kiện
thuận lợi cho việc hợp tác đầu tư, nhất là trên các lĩnh vực mà các nước bạn có thế 
mạnh và VN có nhu cầu như giao thông, xây dựng, y tế, hóa chất...Các mối quan   
hệ hợp tác này cùng có lợi, phù hợp với tiềm năng, lợi thế của mỗi nước, tạo điều  
kiện thuận lợi cho hàng hóa của mỗi nước thâm nhập vào thị trường của nhau.
Với những thế mạnh về nhân lực và chính sách trong lĩnh vực công nghệ thông tin,
Việt Nam là điểm đến hấp dẫn cho các công ty phần mềm trên thế giới muốn tìm   
kiếm nguồn lực ở bên ngoài. Và với môi trường thông thoáng, hợp lý tạo điều kiện 
cho các nước có nền giáo dục tiên tiến tham gia và hỗ trợ VN thực hiện đổi mới    
giáo dục đại học trong các lĩnh vực quản trị đại học, đổi mới tài chính giáo dục đại 
học, đào tạo giảng viên có trình độ tiến sĩ... nhằm đưa giáo dục đại học Việt Nam  

vươn lên vị thế mới.
Để thu hút được nhiều vốn đầu tư, đó là nhờ yếu tố con người, chất lượng nguồn n
hân lực, sự ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội. Trong số 11 nước Đông Nam
Á, VN được coi là nước có môi trường đầu tư thuận lợi nhất ở khía cạnh ổn định   
chính trị và xã hội. Con người luôn có thái độ hợp tác chân thành và muốn làm bạn
với tất cả các nước. Đó là điều cơ bản và then chốt để rạo niềm tin hợp tác với       
nước ta. Mặt khác nước ta có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng, 
trong đó nhiều loại có giá trị kinh tế lớn nhưng chưa được khai thác hoặc mới khai 
thác ở mức độ thấp, việc sử dụng cũng chưa thật hợp lý. Đây là những nguồn lực   
bên trong để phát triển kinh tế, đồng thời là đối tượng đầu tư của Tư bản nước       
ngoài. Và nước ta là một nước đang phát triển đông dân, trở thành  thị trường tiêu  
thụ hàng hoá và dịch vụ rộng lớn nên đã là tiền đề và yếu tố kích thích thu hút vốn 
đầu tư của nước ngoài, mở rộng các quan hệ kinh tế đối ngoại.


2. Các yếu tố vi mô
a, Yếu tố khách hàng
b, Yếu tố đối thủ cạnh tranh
c, Yếu tố cung ứng sản xuất
d, Yếu tố năng lực của doanh nghiệp
3. Cơ hội và thách thức đối với cách doanh nghiệp
Việt Nam nộp đơn xin gia nhập WTO vào tháng 1­1995 và được công nhận là 
quan sát viên của tổ chức này. Tháng 7­1998, Việt Nam bắt đầu tiến hành phiên 
đàm phán gia nhập WTO đầu tiên. Sau hơn 10 năm, Việt Nam đã trải qua 11 phiên 
đàm phán đa phương (trong đó có một phiên trù bị) và hàng trăm cuộc đàm phán   
song phương với sự tham gia của tất cả các bộ, ngành. Việc nước ta gia nhập WTO
sẽ có ảnh hưởng sâu rộng đến tình hình kinh tế, xã hội nói chung và cuộc sống của 
mỗi người nông dân nói riêng. Nước ta phấn đấu sớm gia nhập WTO xuất phát từ  
nhu cầu hội nhập quốc tế của chính chúng ta, chứ không phải từ sức ép bên ngoài.
a. Mở rộng thị trường và tăng xuất khẩu

Khi gia nhập WTO, theo nguyên tắc tối huệ quốc, nước ta sẽ được tiếp cận mức độ
tự do hoá này mà không phải đàm phán hiệp định thương mại song phương với      
từng nước. Hàng hoá của nước ta vì vậy sẽ có cơ hội lớn hơn và bình đẳng hơn       
trong việc thâm nhập và mở rộng thị trường quốc tế.
Do điều kiện tự nhiên và chi phí lao động rẻ, Việt Nam có lợi thế trong một số       
ngành, đặc biệt là trong ngành nông nghiệp và dệt may. Đây là hai ngành được    
WTO rất quan tâm và đã đề ra nhiều biện pháp để xoá bỏ dần các rào cản thương 
mại. Chẳng hạn, theo Hiệp định Dệt may của WTO (ATC), mọi hạn chế định         
lượng đối với mặt hàng dệt may được xoá bỏ từ ngày 1/1/2005. Gia nhập WTO,   
Việt Nam sẽ được hưởng lợi ích này nếu có mối quan hệ thương mại "như thế nào 
đó" đối với các nước thành viên WTO. Đối với thương mại hàng nông sản, các       
thành viên WTO cũng đã và đang đưa ra nhiều cam kết về cắt giảm trợ cấp, giảm   


thuế và loại bỏ hàng rào phi thuế quan, từ đó mang lại cơ hội mới cho những nước 
xuất khẩu nông sản như Việt Nam. 
b. Tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Gia nhập WTO sẽ giúp chúng ta có được một môi trường pháp lý hoàn chỉnh và   
minh bạch hơn, có sức hấp dẫn hơn đối với đầu tư trực tiếp của nước ngoài. Gia    
nhập WTO cũng là thông điệp hết sức rõ ràng về quyết 

Nguồn: />


×