Tải bản đầy đủ (.pdf) (40 trang)

Sử dụng các phương pháp dạy học tích cực trong tổ chức hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh ở các trường THPT trên địa bàn huyện hưng nguyên nghệ an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.99 MB, 40 trang )

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Giáo dục phổ thông nước ta những năm vừa qua đã được đổi mới cả về mục
tiêu, nội dung và phương pháp dạy học gắn với bốn trụ cột giáo dục của thế kỉ
XXI: Học để biết, học để làm, học để tự khẳng định mình, học để cùng chung
sống, mà thực chất là một cách tiếp cận kĩ năng sống. Luật giáo dục 2005 đã xác
định: “ Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp cho học sinh phát triển tồn diện
về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản nhằm hình thành nhân
cách con người Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công
dân…” (Điều 23-Luật giáo dục).
Trong thời gian qua, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức một số hoạt động
hướng tới việc rèn luyện năng lực cho học sinh như: Tổ chức Chương trình đánh
giá học sinh quốc tế PISA với cách đánh giá kỹ năng vận dụng kiến thức vào giải
quyết các vấn đề thực tiễn trong cuộc sống; tổ chức cuộc thi vận dụng kiến thức
liên môn giải quyết các vấn đề thực tiễn; Đề án đổi mới căn bản và toàn diện giáo
dục và đào tạo, mục tiêu giáo dục đang chuyển hướng từ trang bị kiến thức nặng lý
thuyết sang trang bị những năng lực cần thiết và phẩm chất cho người học. Điều đó
cũng khẳng định thêm tầm quan trọng và yêu cầu thiết yếu đưa giáo dục KNS vào
trường học cùng với các mơn học và các hoạt động giáo dục. Theo đó, nội dung,
phương pháp dạy học, phương pháp kiểm tra đánh giá đều phải hướng tới năng lực
tự học, năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề trong học tập, trong cuộc sống; coi
trọng rèn luyện kỹ năng sống.
Đối với học sinh THPT nói chung và học sinh lớp 10 nói riêng là lứa tuổi học
sinh đang hình thành những giá trị nhân cách, giàu ước mơ, ham hiểu biết, thích
tìm tịi, khám phá song thiếu hiểu biết sâu sắc về xã hội, thế hệ trẻ còn thiếu kinh
nghiệm sống, dễ bị lơi kéo, kích động …. Đặc biệt trong bối cảnh hội nhập quốc tế
và cơ chế thị trường hiện nay thường xuyên chịu tác động đan xen của những yếu
tố tích cực và tiêu cực, ln được đặt trong hoàn cảnh phải lựa chọn, ra quyết định
đối với những hành vi của mình, phải đương đầu với những khó khăn thách thức,
những áp lực tiêu cực. Nếu khơng được giáo dục kỹ năng sống, thiếu kỹ năng sống
các em dẽ bị lôi kéo vào các hành vi tiêu cực, bạo lực, vào lối sống ích kỷ, thực
dụng, dễ bị phát triển lệch lạc vè nhân cách. Hiện nay, một bộ phận khơng nhỏ các


em HS có các hiện tượng tiêu cực như: nghiện game, bạo lực học đường, mang
thai sớm, theo bạn bè xấu ….chính là do các em thiếu các kỹ năng cần thiết như:
Kỹ năng xác định giá trị, kỹ năng từ chối, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng kiên định, kỹ
năng nhận diện và kiểm sốt cảm xúc…. Thực tế cho thấy, tình trạng học sinh
thiếu KNS vẫn xảy ra, biểu hiện qua hành vi ứng xử khơng phù hợp trong xã hội,
sự ứng phó hạn chế với các tình huống trong cuộc sống như: ứng xử thiếu văn hóa
trong giao tiếp nơi cơng cộng; thiếu lễ độ với thầy cô giáo, cha mẹ và người lớn
tuổi; chưa có ý thức bảo vệ mơi trường, giữ gìn vệ sinh cơng cộng, gây gỗ đánh
nhau...nhiều em cịn có biểu hiện của bệnh trầm cảm trong xã hội hiện nay. Vì vậy
việc giáo dục kĩ năng sống được cho là điều hết sức cần thiết cho tương lai các em.
Việc Giáo dục KNS cho học sinh chính là trang bị cho các em những kiến thức, giá
1


trị, thái độ và kỹ năng phù hợp, trên cơ sở đó hình thành những năng lực cần thiết,
đặc biệt là năng lực hành động, năng lực thực tiễn, hành vi, thói quen lành mạnh,
tích cực, ứng xử có văn hóa phù hợp với đạo lý dân tộc, với độ tuổi; phát huy tính
tích cực, chủ động, sáng tạo, giáo dục tình thân ái, hình thành và phát triển nhân
cách, xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với gia đình, bạn bè và mọi người; sống tích
cực, chủ động, an tồn, hài hịa và lành mạnh, có kĩ năng tránh xa các tệ nạn xã
hội, các hành vi tiêu cực, bạo lực, tránh xa lối sống ích kỉ, thực dụng, tạo cơ hội
thuận lợi để các em thực hiện tốt quyền và bổn phận của mình, phát triển hài hồ
về thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức, nâng cao ý thức tổ chức kỉ luật trong học
tập, rèn luyện, trong công việc và tinh thần trách nhiệm với bản thân, với những
người xung quanh.
Giáo dục Kỹ năng sống cho học sinh THPT là hoạt động đã được tổ chức ở
nhiều trường. Nhưng tổ chức học tập, rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh như thế
nào cho hiệu quả, thu hút được các em tham gia để giúp các em rèn luyện hành vi
có trách nhiệm đối với bản thân, gia đình, cộng đồng, ứng phó tích cực trước các
vấn đề của cuộc sống luôn là vấn đề trăn trở của cá nhân tôi cũng như các đồng

nghiệp trong quá trình giảng dạy.
Thực tế từ các trường hiện nay, theo ông Nguyễn Trọng Bé (Sở GD&ĐT Nghệ
An) cho biết “chương trình, nội dung giáo dục KNS hiện nay chủ yếu đang ở dạng
tích hợp, lồng ghép trong một số mơn học nên chưa có nhiều thời gian để học sinh
vận dụng vì vậy các nhà trường lúng túng trong việc lựa chọn, tổ chức nhiều mơ
hình. Các hoạt động tập thể cơ bản mới đảm bảo về chiều rộng cung cấp thông tin,
lý thuyết nhưng chưa đi vào các tình huống thực tế. Mặc dù có sự chỉ đạo chung từ
Sở GD&ĐT nhưng ở mỗi cơ sở giáo dục lại có những cách làm khác nhau chưa
đồng bộ về mặt hiệu quả và tiến trình” ( Hội thảo về thực trạng và giáo dục KNS
trong trường học, Nghệ An,10/2018).
Bên cạnh đó, một số giáo viên làm cơng tác giáo dục kỹ năng sống tại nhiều
trường học hiện nay còn hạn chế về năng lực và thiếu về kinh nghiệm tổ chức các
hoạt động, đa số chỉ tập trung vào việc cung cấp lý thuyết cho học sinh về kỹ năng
sống mà chưa đa dạng hóa các hoạt động giúp cho các em trải nghiệm, tự rèn luyện
các kỹ năng sống cho bản thân…
Để khắc phục những hạn chế nêu trên, bản thân tơi và các đồng chí trong nhóm
chun mơn đã tiến hành xây dựng một số hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho
học sinh từ năm học 2017-2018 đến nay và đã thu được một số kết quả khả quan.
Xuất phát từ lí do trên, tơi xin trình bày sáng kiến kinh nghiệm về: “Sử dụng
các phương pháp dạy học tích cực trong tổ chức hoạt động giáo dục kỹ năng
sống cho học sinh ở các trường THPT trên địa bàn huyện Hưng Nguyên - Nghệ
An”

2


B. NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Lý luận chung về phương pháp dạy học tích cực
Phương pháp dạy học tích cực (PPDH tích cực) là một thuật ngữ rút gọn,

được dùng ở nhiều nước để chỉ những phương pháp giáo dục, dạy học theo hướng
phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học.
"Tích cực" trong PPDH - tích cực được dùng với nghĩa là hoạt động, chủ
động, trái nghĩa với không hoạt động, thụ động chứ khơng dùng theo nghĩa trái với
tiêu cực.
PPDH tích cực hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động nhận
thức của người học, nghĩa là tập trung vào phát huy tính tích cực, chủ động sáng
tạo thơng qua tổ chức thực hiện các hoạt động học tập của người học chứ khơng
phải là tập trung vào phát huy tính tích cực của người dạy, tuy nhiên để dạy học
theo phương pháp tích cực thì giáo viên phải nỗ lực nhiều so với dạy theo phương
pháp thụ động.
PPDH tích cực thực chất là PPDH được người dạy lựa chọn nhằm phát huy
tối đa tính tích cực nhận thức của người học nhằm tạo ra hiệu quả cao nhất của quá
trình dạy học. Dạy học tích cực lấy học trị làm trọng tâm cịn có một số thuật ngữ
tương đương như: dạy học căn cứ vào người học, dạy học hướng vào người học…
Các thuật ngữ này có chung một nội hàm là nhấn mạnh hoạt động học và vai trò
của học trị trong qúa trình dạy học, khác với cách tiếp cận truyền thống lâu nay là
nhấn mạnh hoạt động dạy và vai trị của giáo viên.
Q trình dạy học tích cực là một q trình thực hành nhiều lần. Để người
học có thể nhớ lâu, hiểu sâu và có kỹ năng vận dụng chúng vào các tình huống
thực tiễn thì q trình dạy học tích cực cần tạo ra cho người học nhiều cơ hội thực
hành, lặp đi, lặp lại những gì đang được học. Việc thực hành nhiều lần không chỉ
giới hạn trong một vài tiết học riêng lẻ hay vào cuối mỗi bài học, mỗi chương, mỗi
khoá học… mà nó là một q trình thường xun, liên tục trong dạy học tích
cực. “Dạy học bằng hoạt động thông qua hoạt động của học sinh để học sinh tự
lực, tích cực chiếm lĩnh kiến thức”. Dạy học chủ yếu thông qua các hoạt động của
học sinh. Chú trọng đến những phương pháp tự học. Với phương pháp dạy học tích
cực, giáo viên sẽ hướng dẫn cho học sinh những phương pháp tự học và rèn luyện
để tìm ra một phương pháp học tốt nhất để học sinh có thể tự mình nắm bắt những
kiến thức mới. Và đương nhiên những kiến thức mới được tiếp thu sẽ được giáo

viên kiểm định lại để chắc chắn rằng những kiến thức đó đã là kiến thức chuẩn hay
chưa?
Yêu cầu của PPDH tích cực cần có các phương tiện dạy học, học sinh chuẩn
bị bài kỹ ở nhà trước khi đến lớp và phải mạnh dạn, tự tin bộc lộ ý kiến, quan
điểm. Giáo viên phải chuẩn bị kỹ bài giảng, thiết kế giờ dạy, lường trước các tình
3


huống để chủ động tổ chức giờ dạy có sự phối hợp nhịp nhàng giữa hoạt động của
thầy và hoạt động của trị.
2. Một số phương pháp dạy học tích cực trong tổ chức hoạt động giáo dục kỹ

năng sống
Trong tổ chức hoạt động giáo dục KNS, phương pháp dạy học tích cực có
tầm quan trọng đặc biệt bởi thay đổi lối dạy học truyền thụ một chiều sang dạy
học đa dạng hóa các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học nhằm giúp học sinh
phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo, rèn luyện thói quen và khả năng
tự học, tinh thần hợp tác, kỹ năng vận dụng kiến thức vào những tình huống khác
nhau trong học tập và thực tiễn, tạo niềm tin, niềm vui hứng thú trong học tập.
Các phương pháp dạy học tích cực được sử dụng trong tổ chức hoạt động
giáo dục kỹ năng sống như:
Phương pháp đóng vai
Phương pháp thảo luận nhóm
Phương pháp trị chơi
Phương pháp giải quyết vấn đề
Phương pháp nghiên cứu trường hợp điển hình…
3. Giáo dục kỹ năng sống
Giáo dục kỹ năng sống là quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch đến
học sinh nhằm giúp học sinh có những kiến thức về cuộc sống, có những thao tác,
hành vi ứng xử đúng mực trong các mối quan hệ xã hội, giúp cho nhân cách mỗi

học sinh được phát triển đúng đắn đồng thời thích ứng tốt nhất với môi trường
sống. Việc giáo dục những kỹ năng cuộc sống chính là sự bổ sung về kiến thức và
năng lực cần thiết cho các cá nhân thanh thiếu niên học sinh để họ có thể hoạt động
độc lập và giúp họ chủ động tránh được những khó khăn trong thực tế đời sống.
Đối với học sinh, nhất là học sinh bậc trung học phổ thông, giáo dục kỹ năng
sống là môn học trang bị những tri thức giúp học sinh hình thành những kỹ năng
sống cần thiết, phù hợp với từng giai đoạn phát triển của con người với môi trường
sống. Thông qua hoạt động giáo dục kỹ năng sống sẽ trang bị thêm cho học sinh
những kỹ năng tự chủ, kỹ năng từ chối, khả năng tự đưa ra quyết định và thích
nghi, biết chấp nhận, hóa giải được những tác động tiêu cực trong cuộc sống chung
quanh.
Giáo dục kỹ năng sống là hoạt động giúp người học có khả năng về tâm lý
xã hội để phán đốn và ra quyết định tích cực, nghĩa là để “nói khơng với cái xấu”.
Nhưng giáo dục KNS cho học sinh không phải là đưa ra những lời giải đơn giản
cho những câu hỏi thông thường mà giáo dục KNS phải nhằm hướng đến thay đổi
hành vi. Giáo dục KNS cho học sinh là giáo dục những kỹ năng mang tính cá nhân
và xã hội nhằm giúp các em có thể chuyển tải những gì mình đã biết (nhận thức),
những gì mình cảm nhận (thái độ) và những gì mình quan tâm (giá trị) thành
những khả năng thực thụ giúp học sinh biết làm gì và làm như thế nào (hành vi)
trong những tình huống khác nhau của cuộc sống.
4


Công tác giáo dục kỹ năng sống cho học sinh chỉ đạt được kết quả tốt khi nó
có sự tác động đồng thời của các lực lượng giáo dục: Nhà trường, gia đình và các
lực lượng xã hội.
Như vậy, giáo dục kỹ năng sống là q trình tác động có mục đích, có kế
hoạch đến học sinh nhằm giúp học sinh có những kiến thức về cuộc sống, có
những thao tác, hành vi ứng xử đúng mực trong các mối quan hệ xã hội như quan
hệ của cá nhân với xã hội, của cá nhân với lao động, của cá nhân với mọi người

chung quanh và của cá nhân với chính mình, giúp cho cá nhân mỗi học sinh được
phát triển đúng đắn đồng thời thích ứng tốt với mơi trường sống.
Cuộc sống hiện đại đã thúc đẩy mọi hoạt động của con người trở nên gấp
gáp hơn, làm việc trong hối hả, nghỉ ngơi trong rộn ràng, thần kinh luôn căng thẳng
và đặc biệt chứa đựng nhiều yếu tố khôn lường. Để sống, hội nhập kinh tế quốc tế
và góp phần tích cực cho cuộc sống cá nhân và cộng đồng tốt đẹp hơn, con người
nói chung và học sinh nói riêng khơng thể khơng quan tâm đến việc rèn luyện kĩ
năng sống nhằm thích ứng với mọi biến động phức tạp của hoàn cảnh.
4. Một số KNS giáo dục cho học sinh THPT
Trong trường phổ thông cần giáo dục cho học sinh một số KNS cơ bản như sau:
– Kỹ năng sống về sức khoẻ: Chế độ dinh dưỡng, phòng ngừa bệnh tật và tai nạn,
sức khoẻ sinh sản, tác hại của chất gây nghiện, HIV/AIDS, thư giãn, giải tỏa
stress…
– Kỹ năng sống về mơi trường: Phịng tránh thiên tai, chăm sóc và bảo vệ mơi
trường sống, sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên…
– Kỹ năng sống về bản thân: Kiểm soát cảm xúc, tự nhận thức, tự tin, xây dựng
nhân cách, ứng phó với căng thẳng xác định giá trị cuộc sống (tơn trọng, hịa bình,
hợp tác, hạnh phúc, chân thật, nhân đạo, tình thương, trách nhiệm, giản dị, khoan
dung, tự do, đoàn kết)… kiên định.
– Kỹ năng sống về nghề nghiệp: Giao tiếp, đặt mục tiêu lắng nghe tích cực, so
sánh, phân tích, tổng hợp, sáng tạo, từ chối ra quyết định, đảm nhận trách nhiệm
giải quyết vấn đề, lập kế hoạch, quản lý thời gian, làm việc nhóm, diễn đạt, giải
quyết mâu thuẫn, đàm phán, soạn thảo văn bản, quản trị cơng việc, tìm kiếm sự hỗ
trợ, thể hiện sự cảm thông tư duy phê phán tìm kiếm và xử lí thơng tin
5. Một số khái niêm cơ bản
* Phương pháp dạy học tích cực
- Phương pháp là con đường, là cách thức để đạt mục đích nhất định. Phương pháp
dạy học là tổ hợp cách thức hoạt động của thầy và trò trong q trình dạy học, được
tiến hành dưới vai trị chủ đạo của thầy, nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ dạy học.
Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4 tháng 11 năm 2013 về đổi mới căn bản,

toàn diện giáo dục và đào tạo ghi rõ “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy
và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận
dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều,
ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ
sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực.
5


Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các
hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học.”
Định hướng đổi mới phương pháp dạy và học đã được xác định trong Nghị
quyết Trung ương 4 khóa VII (1 - 1993), Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII (12 1996), được thể chế hóa trong Luật Giáo dục (12 - 1998), được cụ thể hóa trong các
chỉ thị của Bộ Giáo dục và Đào tạo, đặc biệt là chỉ thị số 15 (4 - 1999).

Luật Giáo dục, điều 24.2, đã ghi: "Phương pháp giáo dục phổ thơng phải phát
huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm
của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận
dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú
học tập cho học sinh".Có thể nói cốt lõi của đổi mới dạy và học là hướng tới hoạt
động học tập chủ động, chống lại thói quen học tập thụ động.
Tính tích cực (TTC) là một phẩm chất vốn có của con người, bởi vì để tồn tại
và phát triển con người ln phải chủ động, tích cực cải biến mơi trường tự nhiên,
cải tạo xã hội. Vì vậy, hình thành và phát triển TTC xã hội là một trong những
nhiệm vụ chủ yếu của giáo dục.
Tính tích cực học tập - về thực chất là TTC nhận thức. TTC học tập biểu hiện
ở những dấu hiệu như: hăng hái trả lời các câu hỏi của giáo viên, bổ sung các câu
trả lời của bạn, thích phát biểu ý kiến của mình trước vấn đề nêu ra; hay nêu thắc
mắc, địi hỏi giải thích cặn kẽ những vấn đề chưa đủ rõ; chủ động vận dụng kiến
thức, kỹ năng đã học để nhận thức vấn đề mới; tập trung chú ý vào vấn đề đang
học; kiên trì hồn thành các bài tập, khơng nản trước những tình huống khó khăn…

Như vậy, phương pháp dạy học tích cực chính là một phương pháp dạy học
mà giáo viên sẽ đóng vai trị là người đưa ra những gợi ý mở về một vấn đề nào đó,
sau đó sẽ thảo luận cùng với học sinh để tìm được ra mấu chốt của vấn đề này và
những thứ liên quan. Nền tảng của phương pháp này là sự sự chủ động tìm tịi,
sáng tạo, tư duy của học sinh, giáo viên hoặc gia sư chỉ là một người gợi mở ra vấn
đề và dẫn dắt học sinh. Nói theo một cách khác, với phương pháp dạy học này giáo
viên sẽ không truyền đạt hết tất cả kiến thức mà mình có cho học sinh mà sẽ chỉ
truyền đạt kiến thức thông qua những dẫn dắt sơ khai để kích thích học sinh tìm
hiểu và khám phá những kiến thức đó. Muốn dạy học theo phương pháp này thì
giáo viên phải là những người thực sự có bản lĩnh, giỏi chun mơn và có cả sự
nhiệt tình, hoạt động hết công suất trong công tác giảng dạy.
* Tổ chức
Tổ chức có nghĩa là q trình sắp xếp và bố trí các cơng việc, xác định
những cơng việc phù hợp với từng nhóm, từng bộ phận và giao phó các bộ phận
cho các nhà quản trị hay người chỉ huy với chức năng nhiệm vụ và quyền hạn nhất
định để thực hiện nhiệm vụ được giao sao cho chúng đóng góp một cách tích cực
và có hiệu quả vào mục tiêu chung.
* Hoạt động
Mọi hoạt động của con người đều có tính mục đích. Con người hiểu được
mục đích hoạt động của mình, từ đó mới định rõ chức năng, nhiệm vụ, động lực
của hoạt động để đạt hiệu quả trong công việc. K.Marx cho rằng, hoạt động của
6


con người là hoạt động có mục đích, có ý thức; mục đích, ý thức ấy như một quy
luật, quyết định phương thức hoạt động và bắt ý chí con người phụ thuộc vào nó.
K. Marx viết: “Cơng việc đòi hỏi một sự chú ý bền bỉ, bản thân sự chú ý đó chỉ có
thể là kết quả của một sự căng thẳng thường xuyên của ý chí”. Trong lịch sử của
nhân loại, tính mục đích trong hoạt động và tầm nhìn về lợi ích của hoạt động con
người thể hiện rõ trong nền giáo dục của các dân tộc và quốc gia từ xưa đến nay.

Hoạt động của con người dành cho việc dạy và học luôn được chú trọng và đề cao.
Theo quan điểm lý thuyết về hoạt động, A.N.Leontiev cho rằng hoạt động “là
một tổ hợp các quá trình con người tác động vào đối tượng nhằm đạt mục đích
thỏa mãn một nhu cầu nhất định và chính kết quả của hoạt động là sự cụ thể hóa
nhu cầu của chủ thể” . Như vậy, nhờ có hoạt động, con người làm ra sản phẩm đáp
ứng nhu cầu cụ thể của mình.
* Kỹ năng sống ( KNS)
Kỹ năng sống đươc hiểu theo nhiều quan niệm khác nhau. Theo UNICEF,
kỹ năng sống là cách tiếp cận giúp thay đổi hoặc hình thành hành vi mới. Cách tiếp
cận này lưu ý đến sự cân bằng về tiếp thu kiến thức, hình thành thái độ và kĩ năng.
Theo Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc (UNESCO),
kĩ năng sống gắn với bốn trụ cột của giáo dục, đó là : Học để biết (Learning to
know) gồm các kĩ năng tư duy như tư duy phê phán, tư duy sáng tạo, ra quyết định,
giải quyết vấn đề, nhận thức được hậu quả... ; Học làm người (Learning to be) gồm
các kĩ năng cá nhân như : Ứng phó với căng thẳng, kiểm sốt cảm xúc, tự nhận
thức, tự tin, ... ; Học để sống với người khác (Learning to live together) gồm các kĩ
năng xã hội như giao tiếp, thương lượng, tự khẳng định, hợp tác, làm việc theo
nhóm, thể hiện sự cảm thơng... ; Học để làm (Learning to do) gồm các kĩ năng thực
hiện công việc và các nhiệm vụ như kĩ năng đặt mục tiêu, đảm nhận trách nhiệm...
Từ những quan niệm trên đây, có thể thấy kĩ năng sống bao gồm một loạt
các kĩ năng cụ thể, cần thiết cho cuộc sống hàng ngày của con người. Bản chất của
kĩ năng sống là kĩ năng tự quản lí bản thân và kĩ năng xã hội cần thiết để cá nhân
tự lực trong cuộc sống, học tập và làm việc có hiệu quả. Nói cách khác, kĩ năng
sống là khả năng làm chủ bản thân của mỗi người, khả năng ứng xử phù hợp với
những người khác và với xã hội, khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống
của cuộc sống. Đó là những khả năng tâm lí xã hội của mỗi cá nhân thể hiện trong
hành vi thích nghi tích cực để xử trí một cách hiệu quả các địi hỏi và thử thách của
cuộc sống thường ngày.
Hiện nay, chưa có khái niệm hoàn chỉnh về tổ chức hoạt động giáo dục kỹ
năng sống. Trên cơ sở các khái niệm bộ phận trên, tôi đề xuất cách hiểu về tổ chức

hoạt động giáo dục kỹ năng sống như sau:
Tổ chức hoạt động giáo dục kỹ năng sống là cách thức tiến hành các hoạt
động giáo dục KNS bao gồm xây dựng kế hoạch, thực hiện kế hoạch giáo dục kỹ
năng sống (GDKNS), sắp xếp và bố trí các hoạt động, xác định những hoạt động
phù hợp với từng nhóm, từng đối tượng học sinh. Cách thức này được xác đinh
7


căn cứ vào mục tiêu nội dung GDKNS cách đưa nội dung vào kế hoạch hoạt
đông của nhà trường.
Ðể tổ chức thực hiện GDKNS cần tiến hành nhiều hoạt đông cụ thể và được
đảm bảo bằng nhưng điều kiện nhất định.
Phương thức tổ chức GDKNS trong trường THPT hiện nay khơng bố trí
thành một mơn học riêng bởi KNS phải được giáo dục ở mọi lúc, mọi nơi khi có
điều kiện có điều kiện phù hợp do đó GDKNS phải thực hiện thông qua từng môn
học và trong các hoạt động giáo dục. Vì vậy, có thể tổ chức thực hiện hoạt động
GDKNS với nhiều hình thức như: Thơng qua dạy học các môn học; Thông qua
chủ đề tự chọn; Thơng qua hoạt động giáo dục ngồi giờ lên lớp, Thơng qua hoạt
động ngoại khóa; Thơng qua hoạt động thăm quan du lịch..

`

8


II. CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.Thực trạng giáo dục kỹ năng sống cho học sinh ở các trường THPT nói
chung và giáo dục kỹ năng sống ở trường THPT Thái Lão nói riêng
Qua thực tiễn giảng dạy ở trường THPT Thái Lão, tôi và các đồng nghiệp
nhận thấy những thuận lợi và khó khăn trong giáo dục, rèn luyện kỹ năng sống cho

học sinh như sau
1.1. Thuận lợi
Hiện nay, nhìn chung hoạt động giáo dục Kỹ năng sống ở các trường THPT
huyện Hưng Nguyên đã được tổ chức dưới nhiều hình thức đa dạng phong phú,
như: Thi tìm hiểu về ma túy, mại dâm, HIV/AIDS, an tồn giao thơng, tìm hiểu sức
khỏe sinh sản vị thành niên; hành trình tìm các địa chỉ Đỏ, tìm hiểu về lịch sử nhà
trường hay địa danh nơi trường đóng; thi tìm hiểu về Đảng, Bác Hồ, Đồn TNCS
Hồ Chí Minh, tổ chức các buổi nói chuyện chuyên đề, tham quan dã ngoại...thu hút
được nhiều HS tham gia.
Bộ và Sở Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức nhiều lớp tập huấn, bồi dưỡng cho
cán bộ quản lý, giáo viên về giáo dục KNS cho học sinh phổ thơng; hướng dẫn tích
hợp giáo dục KNS vào các địa chỉ qua một số môn học và hoạt động giáo dục ở
các cấp học phổ thơng. Nhìn chung cán bộ quản lý và giáo viên trong các trường
phổ thông đã bước đầu làm quen với thuật ngữ “kỹ năng sống”, mặc dù mức độ
hiểu biết có khác nhau. Một số hoạt động giáo dục KNS đã được đa số các trường
chú ý thực hiện trong khuôn khổ và yêu cầu của Phong trào “Xây dựng trường học
thân thiện, học sinh tích cực” do Bộ Giáo dục và Đào tạo phát động. Giáo dục
KNS từ nhà trường cũng như qua các phương tiện thông tin đại chúng đã thu hút
được sự chú ý và hưởng ứng của xã hội, của phụ huynh học sinh. Hình thức tổ
chức giáo dục KNS đã bước đầu được thực hiện tích hợp trong một số mơn học
văn hóa, thơng qua hoạt động ngoại khoá và các hoạt động trải nghiệm với nội
dung khá đa dạng. “Hầu hết hơn 97% các trường ở từ bậc mầm non đến THPT và
các trường đại học, cao đẳng đều đang đưa nội dung giáo dục KNS được tích hợp
vào trong các mơn học chính khóa của chương trình phổ thơng (mơn Đạo đức,
Giáo dục Cơng dân, Ngữ văn, Sinh học, Địa lý...); các hoạt động ngoài giờ Đồn Đội; mơ hình các câu lạc bộ... học sinh bước đầu đã có nền tảng kiến thức rộng
hơn, được trang bị và hiểu biết, thực hành tốt hơn các kỹ năng sống thiết yếu trong
học tập, cuộc sống, tự tin giao tiếp và khả năng hội nhập quốc tế tốt hơn nhiều... là
những kết quả hiện thực rõ nét nhất từ sự thành công ban đầu của chương trình”
( Đánh giá tại hội thảo giáo dục KNS trong trường học. Nghệ An,10/2018).
Ở trường THPT Thái Lão, những năm gần đây, việc tổ chức các hoạt động

ngoại khóa, ngồi giờ lên lớp, giáo dục KNS cho HS luôn được sự quan tâm của
lãnh đạo nhà trường cũng như các thầy cô giáo đồng nghiệp trong tập thể hội đồng
sư phạm nhà trường nên chất lượng được tăng lên rõ nét. Bản thân tơi cũng như
một số đồng chí được tham gia lớp tập huấn về giáo dục KNS cho học sinh, tổ
chức được nhiều các hoạt động ngoài giờ lên lớp theo từng chủ đề nhằm giáo dục
rèn luyện KNS cho HS như tổ chức các hoạt động VHVN-TDTT, các cuộc thi tìm
9


hiểu về ATGT, địa danh lịch sử; các hoạt động trải nghiệm như “Hành trình Đỏ”,
mời chun gia về nói chuyện; tổ chức các giờ ngoại khóa ngồi giờ lên lớp tập
trung ngoài trời; thi kể chuyện về tấm gương đạo đức Bác Hồ…. chúng tôi rút
được nhiều kinh nghiệm hơn trong quá trình giảng dạy, tổ chức các hoạt động. Học
sinh hào hứng, tích cực, chủ động sáng tạo trong thực hiện các nhiệm vụ được
giao. Bên cạnh đó, hằng tháng, nhà trường vẫn dành thời lượng trong các tiết sinh
hoạt đầu giờ, sinh hoạt dưới cờ để định hướng, giáo dục KNS cho HS thông qua
hoạt động của Đồn thanh niên. Mặt khác, học sinh hiện nay có xu hướng thích tìm
tịi, khám phá, mong muốn được tham gia các hoạt động. Giáo viên GDCD tâm
huyết với nghề nghiệp, ln có ý thức học hỏi trau dồi chun môn, các em học
sinh say mê học tập hơn trước, hứng thú hơn trong các giờ học ngoại khóa của bộ
mơn.Vì vậy, đã giúp tơi thêm say mê, tìm tịi những phương pháp dạy học tích cực
nhằm giáo dục rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh không chỉ trong giảng dạy bộ
mơn mà trong các giờ học ngoại khóa.
1.2. Khó khăn
Ở các trường THPT hiện nay, việc lồng ghép tích hợp giáo dục kỹ năng sống
cho học sinh khá phổ biến nhưng do nội dung, phương pháp, cách thức truyền tải...
chưa phù hợp với tâm sinh lý của HS nên hiệu quả lồng ghép chưa cao, kết quả
mang lại chưa khả quan. cùng với việc lồng ghép giáo dục KNS trong các môn
Giáo dục công dân, Địa lý, Văn học, Sinh học... Thế nhưng, hiệu quả giáo dục
KNS vẫn còn hạn chế. do phải chạy theo thời gian, phải chuyển tải nhiều nội dung

trong khi thời gian có hạn, giáo viên có khuynh hướng tập trung cung cấp kiến
thức mà ít quan tâm rèn luyện kỹ năng cho học sinh, nhất là kỹ năng ứng xử với xã
hội, ứng phó và hịa nhập với cuộc sống.
Ngun nhân của thực trạng này là do thiếu nhân lực, cơ sở vật chất và kinh
phí để tổ chức. Bên cạnh đó, thời gian để HS thực hành ít, một bộ phận giáo viên
vẫn nặng về dạy văn hóa, chưa thực sự quan tâm đến giáo dục KNS cho các em.
thiếu tài liệu phục vụ giảng dạy. Để giáo dục KNS trong các giờ ngoại khóa trên
lớp, hoặc lồng ghép trong mơn học, giáo viên đứng lớp phải tự mày mị tìm hiểu,
xây dựng các nội dung phương pháp truyền đạt, áp dụng các phương tiện, thiết bị
giảng dạy phù hợp nên một số giáo viên ngại tổ chức mà việc thực hiện giảng dạy
cịn nặng về hình thức. Mặt khác thời gian dạy một tiết rất ngắn nên việc tích hợp
cũng chỉ trong một thời gian hạn hẹp, vì vậy, giáo viên khó kết hợp được nếu
khơng khéo léo.
Sau nhiều năm thực hiện chủ trương của Bộ Giáo dục và Đào tạo, lồng ghép
chương trình giáo dục KNS vào các giờ học, các trường đã thực hiện có hiệu quả
nội dung này và tự tổ chức nhiều hoạt động ngoại khóa để HS nhà trường được trải
nghiệm thực tế. Tuy nhiên, để tổ chức một hoạt động ngoại khóa trang bị cho HS
kiến thức KNS là việc làm không đơn giản, khi nguồn kinh phí khơng cho phép,
thời gian có hạn. Cùng với đó, khơng phải giáo viên nào cũng có kỹ năng, năng lực
điều hành, tổ chức các hoạt động giáo dục KNS cho HS.
10


Huyện Hưng Nguyên là một vùng quê nghèo. Học sinh các trường THPT
trên địa bàn huyện nói chung và học sinh trường THPT Thái Lão nói riêng chủ
yếu là con em gia đình nơng dân có điều kiện kinh tế cịn khó khăn, ít được tham
gia các hoạt động trải nghiệm nhiều như học sinh ở thành phố. Một số em chưa hịa
nhập với mơi trường mới, đứng trước đám đơng cịn rụt rè, ít tham gia các hoạt
động, sống khép kín thu mình lại, thờ ơ vơ cảm với những người xung quanh mình,
đắm chìm trong thế giới ảo của game online, internet mà qn mất chính mình,

thiếu ý thức trong quan hệ cộng đồng, thiếu niềm tin trong cuộc sống. Học sinh của
trường đa số xuất thân từ nơng thơn nên khả năng thích ứng với xã hội hiện đại của
các em còn yếu, các hiểu biết về kĩ năng mềm ở các em hầu như chưa được trang
bị tốt.
Đối với việc tổ chức các hoạt động giáo dục kỹ năng sống ở trường THPT trên
địa bàn huyện Hưng Nguyên đã được thực hiện theo quy định của Bộ GD-ĐT. Việc
tổ chức triển khai áp dụng giáo dục KNS cho học sinh được thực hiện thông qua
nhiều nội dung, bằng nhiều hình thức như: Dạy tích hợp trong các môn GDCD, Văn,
Sinh… Giáo dục KNS cho các em thông qua hoạt động NGLL, qua các hoạt động
VHVN-TDTT…
Tuy nhiên việc tổ chức thực hiện giáo dục KNS trong các Nhà trường cịn
gặp nhiều khó khăn như: Nhà trường chưa có phịng tư vấn tâm lý cho học sinh mà
chủ yếu còn tập trung vào vai trò của giáo viên chủ nhiệm. Cách hình thức và
phương pháp giáo dục KNS nêu trên đã thực hiện theo đúng quy định nhưng tính
thực tiễn chưa cao: Trong q trình giảng dạy, mặc dù trong giáo án có nội dung
tích hợp KNS cho học sinh nhưng nhiều giáo viên chỉ chú trọng đến nội dung bài
học mà quên mất phần giáo dục KNS cho học sinh. Mặt khác có nhiều giáo viên
khơng biết triển khai như thế nào, vào thời điểm nào là hợp lý. Trong một số tiết
ngoại khóa GDCD trước đây chủ yếu còn vận dụng các phương pháp truyền thống
như vấn đáp, thuyết trình, xem một số video và đưa ra kết luận. Nội dung chủ yếu
tập trung vào việc trang bị kiến thức về các loại kỹ năng sống cho học sinh mà
chưa chú trọng vào việc thay đổi các phương pháp truyền thụ, chưa kích thích,
khơi dậy được khả năng tư duy sáng tạo trong học sinh. Việc tổ chức các giờ học
ngoại khóa, hoạt động NGLL ở trường THPT Thái Lão trước đây chủ yếu giao cho
Đoàn thanh niên phụ trách với thời lượng cịn ít, nội dung cũng mới chỉ dừng lại ở
việc tổ chức các cuộc thi tìm hiểu như: Cuộc thi “Rung chng vàng” về bình
đẳng giới, về ATGT…….trong khi đó việc giáo dục KNS cho học sinh là hoạt
động phải được tổ chức thường xuyên mới giúp học sinh nhận diện và thực hành
tốt về kỹ năng sống.
Từ năm học 2017-2018 đến nay, cùng với việc thay đổi nhận thức về vai trò

của công tác giáo dục KNS trong trường học, do yêu cầu đổi mới các phương pháp
dạy học theo hướng phát huy năng lực học sinh, trường THPT Thái Lão đã tổ chức
nhiều hoạt động nhằm giáo dục KNS, lôi cuốn giáo viên và học sinh tham gia.
Phân công nhiệm vụ, giao trách nhiệm cho các giáo viên, cử giáo viên có khả năng
đi tập huấn theo chương trình của Bộ, của Sở Giáo dục về bồi dưỡng giáo dục kỹ
11


năng sống cho học sinh. Mặt khác, bản thân các giáo viên giảng dạy bộ môn
GDCD trong nhà trường đã đổi mới, vận dụng các phương pháp dạy học tích cực
nhằm giáo dục kỹ năng sống cho học sinh và đã thu được nhiều kết quả tích cực. Hiện
nay có rất nhiều phương pháp dạy học tích cực và nhiều loại kỹ năng sống được vận
dụng trong dạy học cũng như giáo dục kỹ năng sống cho học sinh. Trong quá trình tổ
chức giáo dục KNS cho học sinh ở các trường THPT trên địa bàn huyện Hưng
Nguyên, tôi đã vận dụng thành cơng các phương pháp dạy học tích cực.
Sau đây, tơi xin trình bày một số phương pháp dạy học tích cực mà tơi đã sử
dụng nhằm tổ chức giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 10.
2. Sử dụng các phương pháp dạy học tích cực trong tổ chức hoạt động giáo
dục kỹ năng sống cho học sinh ở các trường THPT trên địa bàn huyện Hưng
Nguyên- Nghệ An
2.1. Sử dụng phương pháp đóng vai trong tổ chức hoạt động giáo dục kỹ
năng sống
Đóng vai là phương pháp tổ chức cho học sinh thực hành, làm thử một số cách
ứng xử nào đó trong tình huống giả định. Đây là phương pháp nhằm giúp học sinh
suy nghĩ sâu sắc về một vấn đề bằng cách tập trung vào một sự việc cụ thể mà các
em vừa thực hiện, hoặc quan sát được.
Phương pháp đóng vai thường được sử dụng trong các tình huống do giáo
viên đặt ra nhằm rèn luyện cho học sinh những kỹ năng ứng xử hoặc bày tỏ thái độ
của mình trước một vấn đề nào đó trong thực tiễn cuộc sống. Từ đó giúp các em
thảo luận và rút ra ý nghĩa giáo dục liên quan đến bài học.

Trong tổ chức hoạt động giáo dục kỹ năng sống, tôi áp dụng phương pháp
này trong giáo dục kỹ năng từ chối, kỹ năng giao tiếp và một số kỹ năng khác.
Khi sử dụng phương pháp đóng vai trong tổ chức giáo dục KNS cho học sinh,
tơi nhận thấy phương pháp này có nhiều ưu điểm như:
- Học sinh được rèn luyện, thực hành những kỹ năng ứng xử, biết phân tích và
giải quyết vấn đề và bày tỏ thái độ trong môi trường an toàn trước khi thực hành
trong thực tiễn.
- Tạo điều kiện phát triển tính sáng tạo của học sinh, từ đó gây được sự chú ý
và hứng thú cho học sinh.
- Đóng vai giúp học sinh thực hành những kĩ năng trong mơi trường an tồn,
được giám sát trước khi xảy ra các tình huống thực tiễn.
- Đóng vai khích lệ thay đổi thái độ, hành vi của người học theo hướng tích
cực.
- Rèn luyện cho học sinh tính tự tin, mạnh dạn khi đứng trước đông người
* Khi sử dụng phương pháp đóng vai trong giáo dục KNS người giáo viên cần
phải lưu ý những vấn đề sau:
Sử dụng phương pháp đóng vai trong giáo dục KNS cung cấp cơ hội để học
sinh thực hiện các kỹ năng, kinh nghiệm ứng phó với những tình huống trong cuộc
sống, nâng cao khả năng hiểu và cảm thông với người khác, cơ hội để hiểu rõ hơn
về bản thân mình.
12


Tình huống đóng vai, hoặc vở kịch phải phù hợp với nội dung của kỹ năng
cần được giáo dục cho học sinh. Giáo viên nên khích lệ tất cả học sinh cùng tham
gia nhất là những em học sinh nhút nhát. Tình huống nên mở khơng cho kịch bản
trước như vậy mới có thể phát huy được tính tích cực và sáng tạo của học sinh
cũng như nắm bắt được thái độ và hành vi ứng xử của các em. Giáo viên phải dành
thời gian hợp lý cho học sinh chuẩn bị phân vai và chuẩn bị lời thoại. Tình huống
đóng vai khơng nên q dài và phức tạp, vượt quá thời gian cho phép. Có thể dùng

một số đạo cụ đơn giản để tăng tính hấp dẫn của vở kịch hoặc tình huống đóng vai.
Sau khi các em diễn xong tiểu phẩm giáo viên cần tổ chức cho các em thảo luận về
cách ứng xử đó xem có phù khơng?
Sử dụng phương pháp đóng vai trong giáo dục KNS khác với sử dụng
phương pháp này trong dạy học ở chỗ: Tình huống đóng vai có thể là tình huống
mở, do giáo viên gợi ý để học sinh thảo luận tham gia, hoặc tình huống được sân
khâú hóa thành vở kịch, hoạt cảnh...tùy vào thời gian, địa điểm, kỹ năng cần giáo
dục. Đạo cụ trang phục phục vụ việc đóng vai có thể được chuẩn bị chu đáo hơn.
Chủ đề đóng vai cũng có thể được chuẩn bị trước ở nhà.
Để sử dụng phương pháp đóng vai, giáo viên thực hiện các bước như sau:
Bước 1: GV nêu chủ đề, chia nhóm, giao tình huống. Trong đó có quy định
rõ thời gian chuẩn bị, thời gian đóng vai của mỗi nhóm.
Bước 2: Các nhóm thảo luận, phân vai, đưa ra yêu cầu cho mỗi vai diễn
Bước 3: Các nhóm lên đóng vai.
Bước 4: Lớp nhận xét về cách ứng xử, cảm xúc của các vai diễn.
Cuối cùng, giáo viên kết luận, định hướng cho HS về cách ứng xử tích cực
trong tình huống đã cho.
* Ví dụ : Sử dụng phương pháp đóng vai để giáo dục kỹ năng từ chối cho
học sinh.
Kỹ năng từ chối là nghệ thuật nói “ Không” với những điều người khác đề
nghị nhưng bản thân minh khơng thích, khơng muốn, khơng có khả năng thực hiện,
nhưng lại không muốn làm tổn thương đến những cảm xúc và quyền lợi của người
khác.
Đối với học sinh THPT cần được trang bị rất nhiều kỹ năng đặc biệt là kỹ
năng từ chối, bởi ngày nay thế hệ trẻ đang phải đối mặt với nhiều thách thức của
cuộc sống. Các em dễ bị lôi kéo vào các hành vi tiêu cực, bạo lực, vào lối sống ích
kỉ, lai căng, thực dụng, dễ bị phát triển lệch lạc về nhân cách. Nếu không được
trang bị về kỹ năng từ chối học sinh sẽ gặp nhiều khó khăn trong giao tiếp, khơng
thể giải quyết được những tình huống đặt ra cho các em trong cuộc sống, trong các
mối quan hệ xã hội như trong quan hệ giữa tình bạn và tình u; quan hệ thầy cơ,

gia đình…
Cách thức thực hiện:
+ Giáo viên giao tình huống đóng vai cho các nhóm.
Nhóm 1, 2: Đóng vai về tình huống từ chối lời mời đi chơi
Nhóm 3,4: Đóng vai về tình huống từ chối quan hệ tình cảm
13


Tình huống nhóm 1,2: Đang bận rộn với số bài tập cô giao, A được B mời
đi dự sinh nhật B tối hôm nay. Dù vậy A vẫn cố gắng đến dự sinh nhật B. Bữa tiệc
sinh nhật diễn ra rất vui vẻ. Đến 9 giờ tối mọi người cũng đã về hết. Chợt B nảy ra
ý định rủ A đi sàn nhảy. A khơng đồng ý vì chỉ xin mẹ đi đến 9 giờ nhưng lại sợ
bạn giận.
Hãy đóng vai tình huống và thể hiện từ chối lời mời đi chơi của nhân vật A
trong tình huống trên.
Tình huống nhóm 3,4: Quen nhau được một thời gian, C học sinh lớp 11
ngỏ ý muốn thiết lập quan hệ tình cảm với D học sinh lớp 10, nhưng D không đồng
ý. Tuy vậy C rất vui vẻ và tình bạn của C và D ngày càng bền chặt hơn.
Hãy đóng vai tình huống và thể hiện lời từ chối quan hệ tình cảm với nhân
vật C
+ Thời gian chuẩn bị 3 phút.
+ Học sinh tiến hành đóng vai trong 5 phút.
+ Cả lớp cùng thảo luận, nhận xét về khả năng ứng xử, lời từ chối của các thành
viên trong nhóm.
+ Giáo viên kết luận, nhận xét về các cách ứng xử, lời từ chối của học sinh, kịp
thời uốn nắn những cách ứng xử không phù hợp để các em biết áp dụng vào cuộc
sống, đồng thời biểu dương tinh thần đóng vai của học sinh.
Đây là tình huống gần gũi với các em trong cuộc sống, ngắn gọn, rất dễ thực
hiện. Thơng qua tình huống, các em sẽ phát huy được tính tích cực, sáng tạo của
mình trong thể hiện .....Từ đó các em rút ra được những yêu cầu cơ bản của kỹ

năng từ chối như: Từ chối rất khó, nhất là từ chối những người mà bạn yêu mến,
kính trọng hay mang ơn. Phải biết từ chối một cách khéo léo tránh làm tổn hại đến
người khác. Kỹ năng từ chối không chỉ là biết “ nói khơng” khi được đề nghị, mà
phải làm sao cho người khác khơng dám hay khơng có cơ hội đề nghị.“Không
muốn” và “không nên” là hai vấn đề khác nhau. Từ chối điều không muốn dễ hơn
từ chối điều bạn cũng muốn, cũng thích, nhưng khơng nên...Mỗi người cần học
cách từ chối một cách khéo léo để vừa nói lên được lời từ chối, vừa giữ được sự
tôn trọng từ phía người đối diện cũng như duy trì được các mối quan hệ tốt đẹp
trong cuộc sống.
Kỹ năng từ chối đảm bảo ngun tắc: Khơng muốn điều gì thì đừng bao giờ
trao đổi về điều đó. Khơng hứa hẹn dịp khác, khơng nói lý do vịng vo. Thơng cảm
và hiểu biết. Không phê phán và miệt thị, dạy dỗ người khác. Đừng nói “khơng”
ngay khi người ta vừa cất lời. Đừng “trầm trọng hố vấn đề”: Hãy bình tĩnh trước
vẻ tức giận và thất vọng của đối phương, chú ý những gì họ nói ngồi những từ
ngữ khơng đẹp mà họ nói. Đừng “nhiễm” cơn nóng của họ hoặc đừng “đổ dầu vào
lửa”. Biết rằng không dễ từ chối, nhưng trước khi từ chối, hãy đặt mình vào hồn
cảnh của họ và hiểu sự ảnh hưởng đối với họ khi bạn từ chối. Khi họ nhận thấy bạn
vẫn quan tâm và cảm thông, họ sẽ dễ chấp nhận lời từ chối của bạn hơn.
* Kết quả đạt được
Sau tiết dạy có sử dụng phương pháp này tơi thấy học sinh hứng thú, tích cực hoạt
14


động hơn, khơng khí lớp học sơi nổi hơn so với khi tôi áp dụng các phương pháp
trước đây. Hiệu quả là học sinh đã bước đầu đã nhận diện được về kỹ năng từ chối
và đã biết vận dụng khả năng của mình trong thực hành kỹ năng. Đặc biệt, đây là
một phương pháp giúp học sinh có điều kiện rèn luyện khả năng giao tiếp cũng
như cách ứng xử của bản thân, giải quyết vấn đề, nhận diện và kiểm sốt được cảm
xúc trong những tình huống nhất định của cuộc sống.
2.2. Sử dụng phương pháp trò chơi trong tổ chức hoạt động giáo dục kỹ năng

sống
Phương pháp trò chơi là phương pháp tổ chức cho học sinh tìm hiểu một vấn
đề hay thể nghiệm những hành động, những thái độ, những việc làm thơng qua một
trị chơi nào đó.
Trong tổ chức giáo dục KNS có nhiều trị chơi có thể áp dụng với nhiều hình
thức chơi khác nhau như: trò chơi đối mặt, trò chơi tiếp sức, trị chơi đuổi hình bắt chữ,
trị chơi chiếc nón kỳ diệu, trị chơi tập làm phóng viên, tun truyền viên.....Tùy vào
đặc điểm, nội dung của từng bài học, từng hoạt động, địa điểm giáo viên có thể thiết kế
các loại trò chơi cho phù hợp với nội dung bài học, để kích thích tư duy của học sinh,
giải tỏa những căng thẳng, mệt mỏi trong học tập nhưng không làm mất thời gian của
giờ học.
Trong quá trình tổ chức hoạt động giáo dục KNS tơi thường sử dụng các trị
chơi như: trò chơi tiếp sức, trò chơi đối mặt, trò chơi đuổi hình bắt chữ, trị chơi tập
làm phóng viên, trị chơi tun truyền viên, trị chơi giải ơ chữ, trò chơi hiểu ý bạn,
thi vẽ tranh…
Sử dụng phương pháp trò chơi trong tổ chức hoạt động giáo dục KNS có
những ưu điểm như:
Qua trị chơi, học sinh có cơ hội để thể nghiệm, thực hành rèn luyện các loại
KNS, người học có cơ hội để thể nghiệm những thái độ, hành vi, bởi con người thể
hiện như thế nào trong trị chơi thì phần lớn nó thể hiện như thế trong cuộc sống
thực. Chính nhờ sự thể nghiệm này, sẽ hình thành được ở họ niềm tin vào những
thái độ, hành vi tích cực, tạo ra động cơ bên trong cho những hành vi ứng xử trong
cuộc sống.
Qua trò chơi, người học sẽ được rèn luyện khả năng quyết định lựa chọn cho mình
cách ứng xử đúng đắn, phù hợp trong tình huống.
Qua trị chơi, người học được hình thành năng lực quan sát, được rèn luyện kỹ
năng nhận xét, đánh giá hành vi.
Trò chơi còn giúp tăng cường khả năng giao tiếp giữa người học với người học,
giữa người dạy với người học, trong đó mối quan hệ giữa các thành viên trong
nhóm có một vai trị hết sức quan trọng.

Trò chơi giúp việc tổ chức các hoạt động KNS được tiến hành một cách nhẹ
nhàng, sinh động, tránh khô khan, nhàm chán, lôi cuốn học sinh vào quá trình thực
hành luyện tập KNS một cách tự nhiên, hứng thú đồng thời tiếp thu được nội dung
cơ bản của kỹ năng cần rèn luyện cho học sinh.
15


Trong tổ chức giáo dục KNS cho học sinh, phương pháp trò chơi được tổ
chức khác so với trong dạy học. Cụ thể, trong dạy học trò chơi được áp dụng với
mục đích tạo khơng khí lớp học nhằm giúp học sinh khám phá, lĩnh hội tri thức
khoa học qua trò chơi. Địa điểm chủ yếu trong lớp, thời gian ngắn. Mỗi tiết học chỉ
có thể tổ chức tối đa một trò chơi.
Trong tổ chức hoạt động giáo dục KNS hay tiết học ngoại khóa, phương pháp
trị chơi thường được tổ chức với thời lượng nhiều hơn, địa điểm có thể trong lớp
hoặc ngoài trời tùy vào nội dung hoạt động. Có thể tổ chức nhiều trị chơi cùng
một thời gian, mục đích rèn luyện kỹ năng sống được giáo dục. Sử dụng trò chơi
trong giáo dục KNS sẽ phát huy tính sáng tạo; hấp dẫn; gây hứng thú cho người
học; giúp cho người học dễ tiếp thu kiến thức mới, tạo bầu khơng khí thân thiện;
tạo cho người học có tác phong nhanh nhẹn, giúp tăng cường khả năng giao tiếp
giữa học sinh với học sinh, giữa giáo viên với học sinh, tính nhút nhát từ đó sẽ
được cải thiện. Vì thế mơi trường sư phạm sẽ trở nên hịa đồng, thân thiện hơn.
*Ví dụ : Sử dụng phương pháp trò chơi để giáo dục kỹ năng nhận diện và kiểm
soát cảm xúc cho học sinh.
Cảm xúc được thể hiện bằng nhiều cách khác nhau: Lời nói, cử chỉ, hành
động, các trạng thái cơ thể, ánh mắt, nhịp thở...thể hiện các trạng thái vui, buồn,
hưng phấn, lo âu, căng thẳng, tức giận...mách bảo chúng ta thích hoặc ko thích
điều gì đó. Nhận diện được cảm xúc giúp chúng ta có thể chia sẻ, đồng cảm cũng
như phải thận trọng trước một tình huống nào đó trong cuộc sống. Kỹ năng kiểm
sốt cảm xúc khơng có nghĩa là phải tìm mọi cách để loại bỏ, khống chế hay kìm
hãm cảm xúc của bản thân. Mà đó là việc phải học cách kiểm soát cảm xúc để làm

chủ cảm xúc của bản thân trong mọi tình huống giao tiếp cho dù hồn cảnh thực tế
có tiêu cực như thế nào đi nữa. Khi chúng ta không quản lý được cảm xúc của
mình sẽ tạo nên những thói quen tiêu cực như hay than vãn về cuộc sống, thường
cảm thấy bất lực về một vấn đề gì đó, vì vậy phải giữ được cảm xúc của mình ở thể
tích cực để có thể thành công trong tương lai.
Đối với học sinh THPT việc nhận diện và kiểm sốt được cảm xúc vơ cùng
quan trọng, bởi theo đặc điểm tâm lý lứa tuổi sự hình thành và phát triển nhân cách
của lứa tuổi này diễn ra khá mạnh mẽ. Những cảm xúc của học sinh nảy sinh và
biến đổi liên tục trong quá trình tham gia học tập, quan hệ xã hội, bạn bè...
Kiểm soát cảm xúc của học sinh thể hiện ở khả năng làm chủ bản thân khi
cảm xúc nảy sinh, biết cách giải tỏa cảm xúc một cách hiệu quả nhất và có khả
năng nhận diện cảm xúc của người khác. Nếu không tự xác định được cảm xúc của
bản thân, sẽ khiến các em có nguy cơ rơi vào trạng thái bị dồn nén, tê liệt hoặc
bùng nổ cảm xúc. Khơng kiểm sốt được hành vi, thái độ cảm xúc thì học sinh có
những quyết định sai lầm, những hành động bốc đồng, những lời nói bột phát gây
tổn thương bản thân, tổn hại đến các mối quan hệ, sẽ dễ bị đánh mất bản thân, gây
ra lỗi lầm khơng đáng có.
Cách thức thực hiện
16


Để giúp học sinh hiểu, nhận diện được kỹ năng nhận diện và kiểm sốt cảm
xúc, tơi tổ chức qua hai trò chơi
* Trò chơi thứ nhất: “ Hiểu ý bạn”
- Mục đích: Tăng cường khả năng nhận diện và bộc lộ cảm xúc.
- Công cụ, phương tiện: Thẻ bốc thăm viết sẵn các cảm xúc khác nhau.
- Luật chơi: Các cặp đôi xếp thành hàng dọc. Trong thời gian 3 phút và có 5
thẻ. Các thành viên của nhóm lần lượt lên bốc thăm và sau đó mơ tả nội dung cảm
xúc được ghi trong thẻ để thành viên cịn lại đốn được tên cảm xúc được ghi trong
thẻ.

Lưu ý: Chỉ được phép mô tả cảm xúc bằng cử chỉ, điệu bộ cơ thể, khơng đựơc
phép dùng lời nói hay chữ viết. Nếu phạm luật sẽ mời cặp đôi khác.
Đội nào trong thời gian quy định nêu được nhiều đáp án nhất thì đội đó thắng
cuộc.
- Cách thức tổ chức trị chơi như sau:
Giáo viên cơng bố luật chơi cho học sinh
Chia lớp thành 2 đội. Mỗi đội có 3- 5 cặp đôi tham gia trò chơi.
Giáo viên hưỡng dẫn học sinh tham gia trò chơi. Cho học sinh bắt thăm đội
nào chơi trước. Tiến hành bấm thời gian. Từng cặp đôi lần lượt mô tả cảm xúc và
nêu đáp án cho đến khi hết thời gian quy định.
Đội nào mô tả được cảm xúc đúng với tên gọi của cảm xúc nhiều nhất là đội
thắng cuộc.
Sau trò chơi, giáo viên nhận xét, nêu một số câu hỏi:
+ Điều gì khiến em đốn được đó là cảm xúc vui vẻ/ tức giận/ lo âu?
+ Bạn đã mô tả cảm xúc tức giận/ lo lắng/ vui vẻ….qua những cử chỉ nào
+ Theo em, làm sao để nhận thức được cảm xúc của bản thân cũng như nhận
biết được cảm xúc của người khác?
+ Khi có biểu hiện của những cảm xúc nêu trên, em thường có những suy
nghĩ và hành động như thế nào? Điều đó tác động như thế nào đến bản thân em?
Sản phẩm dự kiến: Học sinh tham gia trò chơi và trả lời được các câu hỏi của giáo
viên
+ Điều khiến em đốn được đó là cảm xúc vui vẻ/ tức giận/ lo âu do nhìn thấy
bạn có cảm xúc vui vẻ thì nét mặt rạng rỡ, ánh mắt sáng long lanh…
+ Bạn mô tả cảm xúc tức giận/ lo lắng/ vui vẻ….qua những cử chỉ: Tức giận
có thể ném đồ đạc, lo lắng có thể đi lại nhiều lượt trong phịng, vui vẻ có thể cười
nói…
+ Để nhận thức được cảm xúc của bản thân cũng như nhận biết được cảm xúc
của người khác em quan sát biểu hiện của cơ thể: ánh mắt, nét mặt, tư thế, dáng vẻ,
nhịp thở…
+ Khi có biểu hiện của những cảm xúc nêu trên, em thường có những suy

nghĩ và hành động khơng thể kiểm sốt được. Điều đó tác động rất lớn đến bản
thân em. Có thể giúp em có trạng thái hưng phấn, kích thích em làm nhiều việc tốt.
17


Ngược trở lại làm cho em có những lời nói và hành động thiếu suy nghĩ, bồng bột,
làm ảnh hưởng đến các mối quan hệ, để lại hậu quả xấu.
Từ đó giúp học sinh hiểu được vai trị của việc phải nhận diện và kiểm soát cảm
xúc bản thân và người khác.
* Trò chơi thứ 2: Tiếp sức, tiêu đề “Ai nhanh hơn”
- Mục đích : Nhận diện biểu hiện cảm xúc ở người khác qua hình ảnh
- Cơng cụ, phương tiện: Giáo viên chuẩn bị 2 bức tranh có hình ảnh những
đơi mắt biểu hiện những cảm xúc của con người, được đánh dấu theo ô.
- Luật chơi. Chia lớp thành 2 đội, đặt tên cho mỗi đội.
+ Mỗi đội chơi có từ 5 – 7 em.
+ Các em đứng thành 2 hàng dọc.
+ Mỗi em lần lượt thay nhau lên bảng ghi đáp án, mỗi em chỉ được đưa ra một
đáp án, sau đó về vị trí để người kế tiếp lên ghi. Nếu đội nào có từ 2 đáp án trở lên
được coi là bị phạm quy, sẽ bị loại khỏi đội và khơng tính đáp án vừa ghi trên
bảng. Sau thời gian quy định, đội nào có số đáp án đúng, số lượng nhiều sẽ thắng
trong cuộc thi.
+ Thời gian thực hiện trò chơi 2 phút.
- Cách thức tổ chức trò chơi như sau :
Đầu tiên, giáo viên cơng bố luật chơi cho học sinh.
Sau đó tiến hành chọn đội chơi, bấm thời gian, học sinh 2 đội cùng một lúc
bắt đầu lần lượt nêu tên cảm xúc theo từng ơ trên hình ảnh cho đến khi thời gian
hết thì trị chơi kết thúc.
Sản phẩm dự kiến
Học sinh tham gia trò chơi, nhận diện được cảm xúc qua hình ảnh và nêu tên
được các loại cảm xúc

Sau khi trò chơi kết thúc giáo viên nhận xét, kết luận ý nghĩa của trò chơi
nhằm giúp các em nhận diện được cảm xúc của con người. Từ đó giúp học sinh tìm
ra các biện pháp để kiểm sốt, làm chủ cảm xúc bản thân.
Để củng cố, khắc sâu kỹ năng nhận diện và kiểm soát được cảm xúc, tôi cho
học sinh xem 2 video sau đây:
Video “ Câu chuyện về những cái Video “ Bài học cuộc sống – Học cách
đinh”
kiểm soát cảm xúc” – Học viện CEO

VN.mp4
Đây là một trị chơi rất dễ tổ chức, nó có thể được thực hiện ở nhiều tiết học
khác nhau cả trong chương trình chính khóa cũng như trong các hoạt động tổ chức
giáo dục KNS ở trong và ngoài lớp. Khâu tổ chức không mất nhiều thời gian nên
không làm ảnh hưởng đến các hoạt động khác của tiết học. Tuy nhiên khi tổ chức
giáo viên cần phải lưu ý: Chủ đề trò chơi phải phù hợp với nội dung bài học và lứa
tuổi, giáo viên cần giới hạn thời gian của trò chơi, tránh kéo dài dễ dẫn đến nhàm
chán....Đội chơi khơng nên q ít vì có thể làm cho trò chơi kết thúc quá nhanh
18


nhưng đội chơi cũng không nên quá nhiều dễ kéo dài thời gian gây nhàm chán.
Trong quá trình chơi, tránh ồn áo làm ảnh hưởng đến lớp khác. Sau khi chơi, giáo
viên cần nhận xét, đánh giá sự tham gia của các thành viên 2 đội chơi, đồng thời
tổng kết, giúp học sinh thấy được ý nghĩa giáo dục của trị chơi.
Phương pháp trị chơi có thể được sử dụng trong giáo dục một số kỹ năng
sống khác như: Kỹ năng giao tiếp, kỹ năng làm chủ, kỹ năng thân thiện...
* Kết quả đạt được
Việc vận dụng phương pháp trò chơi vào tổ chức hoạt động giáo dục kỹ năng
sống cho học sinh đã có một số giáo viên áp dụng. Tuy nhiên, vấn đề là ở chỗ, giáo
viên sử dụng trò chơi nào, sử dụng giáo dục kỹ năng sống nào cho phù hợp để khai

thác có hiệu quả những ưu điểm của phương pháp này. Bản thân tôi, khi sử dụng
trò chơi tiếp sức “Ai nhanh hơn”, trò chơi “ Hiểu ý bạn” vào rèn luyện kỹ năng
nhận diện và kiểm sốt cảm xúc giúp tơi đã tạo được khơng khí lớp học thoải mái,
giờ học thêm sinh động, vừa làm thay đổi hình thức học tập đồng thời giúp rèn
luyện kỹ năng học tập hợp tác và kỹ năng phản ứng nhanh cho học sinh, học sinh
bước đầu nhận diện được các cảm xúc và biết kiểm soát cảm xúc bản thân.
2.3. Sử dụng phương pháp thảo luận nhóm trong tổ chức hoạt động giáo dục kỹ
năng sống
Thảo luận nhóm là phương pháp tổ chức cho học sinh bàn bạc, trao đổi trong
nhóm nhỏ. Đây là phương pháp học sinh gặp mặt, trao đổi với nhau về một chủ đề
được đặt ra dưới dạng câu hỏi, bài tập tình huống, giải quyết một vấn đề nào đó
trong bài học. Trong phương pháp này học sinh giữ vai trị tích cực, chủ động tham
gia thảo luận, giáo viên giữ vai trò nêu vấn đề, gợi ý, thiết kế và tổng kết.
Phương pháp thảo luận nhóm là một dạng dạy học hợp tác với cách tổ chức
hợp lý, hoạt động theo nhóm với sự tham gia tích cực của mỗi cá nhân. Học sinh
các nhóm sẽ đạt được mục tiêu chung trong thời lượng có hạn.
Phương pháp thảo luận nhóm là phương pháp được sử dụng phổ biến trong
tổ chức các hoạt động giáo dục KNS cho học sinh. Qua thực tiễn áp dụng tôi thấy
phương pháp thảo luận nhóm có nhiều ưu điểm như:
Tạo nên sự sơi nổi trong giờ học, tạo môi trường học tập cho những học sinh
nhút nhát, ít phát biểu ý kiến xây dựng bài. Tất cả thành viên trong nhóm giải
quyết yêu cầu của giáo viên trên cơ sở hợp tác, cùng thảo luận và đưa ra kết quả
tổng hợp.
Quá trình thảo luận phát huy tốt các thao tác tư duy, khả năng hợp tác, khả
năng tổ chức của các thành viên trong nhóm. Hơn nữa, phương pháp thảo luận
nhóm mang trong nó cơ chế tự sửa lỗi và học tập lẫn nhau, theo đó các lỗi sai đều
được giải quyết trong bầu khơng khí rất thoải mái. Nó giúp học sinh giảm bớt tính
chủ quan, phiến diện, làm tăng tính khách quan khoa học; kiến thức sẽ trở nên sâu
sắc, bền vững, dễ nhớ nhanh hơn, do được giao lưu học hỏi giữa các thành viên
trong nhóm.


19


Thảo luận nhóm cũng làm thỏa mãn nhu cầu học tập cá nhân, phù hợp với
việc học hướng tới người học; khuyến khích sự độc lập tự chủ, học sinh có thể đưa
ra những giải pháp, cách biểu đạt riêng cho vấn đề nào đó.
Quy trình tổ chức dạy học theo nhóm bao gồm năm bước:
Bước 1: GV chia nhóm, đặt tên cho các nhóm, cử nhóm trưởng, thư ký nhóm.
Bước 2: Giáo viên giao nhiệm vụ hoặc câu hỏi, bài tập thảo luận cho các nhóm.
Quy định thời gian thảo luận.
Bước 3: Các nhóm tiến hành thảo luận, hồn thành nhiệm vụ được giao.
Bước 4: Đại diện các nhóm trình bày kết quả. Các nhóm khác đóng góp ý kiến và
tham gia tranh luận;
Bước 5: Giáo viên tổng hợp và rút ra kết luận về vấn đề đã đưa ra.
Khi sử dụng phương pháp thảo luận nhóm, người giáo viên phải chú ý đến
những yêu cầu sau: Chủ đề thảo luận nhóm phải phù hợp với nội dung bài học;
người học cần có kiến thức, kỹ năng làm việc theo nhóm; có đủ phương tiện làm
việc cho các nhóm như giấy, bút….; các thành viên phải nắm vững nhiệm vụ của
nhóm mình và có thái độ làm việc nghiêm túc, tích cực; số lượng thành viên phải
phù hợp, nếu đông quá hoạt động này sẽ không hiệu quả. Trong quá trình học sinh
thảo luận, giáo viên phải quan sát, hỗ trợ, nhắc nhở học sinh, tránh tình trạng chỉ có
vài thành viên hoạt động thực sự, cịn lại chỉ dựa dẫm làm theo.
Chú ý: Thảo luận nhóm trong giáo dục KNS khác với thảo luận nhóm trong
dạy học nói chung ở chỗ: Trong dạy học nói chung phương pháp này chủ yếu giúp
học sinh cùng hợp tác tìm ra đáp án, câu trả lời, giải quyết tình huống nhằm mục
đích khám phá tri thức. Thời gian cho hoạt động này chiếm 5-7 phút. Địa điểm
trong lớp học.
Trong hoạt động giáo dục KNS, do tính chất của hoạt động ln luôn thực
hành nên vấn đề đưa ra để học sinh thảo luận rất phong phú đa dạng, có thể chia

nhóm cùng chơi trị chơi, có thể cùng xem video dự đốn hành động, hoặc nhóm
đóng vai giải quyết tình huống, trả lời câu hỏi, thực hành các loại kỹ năng được
giáo dục.….Hơn nữa trong hoạt động rèn luyện KNS, mỗi học sinh đều phải có cơ
hội thực hành nên khơng tổ chức lớp q đơng, mỗi nhóm chỉ 5-7 em.
*Ví dụ: Sử dụng phương pháp thảo luận nhóm nhằm giáo dục cho học sinh kỹ
năng làm chủ
Cụ thể: Tôi chia lớp thành 4 nhóm, theo vị trí chỗ ngồi cho thuận lợi cho việc thảo
luận. Đặt tên nhóm theo số thứ tự: 1,2,3,4 và quy định thời gian thảo luận cho các
nhóm.
Tơi giao nhiệm vụ cho các nhóm như sau:
Nhóm 1,2: Hoàn thành thể hiện mối quan hệ giữa cảm xúc, suy nghĩ, hành vi và
cơ thể trong bảng dưới đây
Khi em cảm thấy
Cơ thể có biểu Em có xu hướng Điều em thường
hiện
suy nghĩ
làm là
Ví dụ:
Tim đập mạnh, đổ Suy nghĩ tiêu cực
Đánh nhau, đạp
Tức giận
mồ hôi, nhức đầu
bàn ghế, nắm chặt
20


tay, lời nói tổn
thương
người
khác…

Buồn bã
Vui sướng
Xấu hổ
Lo lắng
Nhóm 3: Theo em tại sao phải làm chủ bản thân, kiểm soát cảm xúc
Nhóm 4: Nêu những giải pháp để giải tỏa cảm xúc, làm chủ bản thân
Các nhóm tham gia hoạt động trong thời gian quy đinh 5 phút. Hết thời gian
quy định, các tổ lần lượt cử đại diện của mình lên trình bày. Cả lớp nhận xét, cùng
nhau đưa ra các ý kiến, góp ý, bổ sung, giải quyết vấn đề cho các nhóm. Cuối cùng
giáo viên nhận xét, tổng hợp và rút ra kết luận về kiến thức các kỹ năng cũng như
tinh thần tham gia thảo luận của các thành viên các nhóm.
Qua phần thảo luận nhóm, học sinh thấy được giữa cảm xúc bản thân có mối
liên hệ gắn liền với suy nghĩ, hành vi và cơ thể. Nếu cảm xúc tích cực sẽ giúp cho
chúng ta có trạng thái hưng phấn, làm được nhiều cơng việc và thu được kết quả
tốt.
Kỹ năng làm chủ hay kỹ năng tự kiểm soát cảm xúc giúp học sinh ý thức
được và làm chủ hành vi của bản thân, kiềm chế bản thân khi tức giận, mất bình
tĩnh chứ không phải hành động thiếu suy nghĩ, giúp học sinh có khả năng đưa ra
quyết định phù hợp, ngăn ngừa và giảm thiểu hành động bốc đồng cũng như tăng
cường khả năng chấp nhận, đương đầu với những thất bại trong cuộc sống, giúp
các em tự tin hơn trong cuộc sống góp phần giảm căng thẳng giúp giao tiếp và
thương lượng hiệu quả hơn, giải quyết mâu thuẫn một cách hài hịa và mang tính
xây dựng hơn, giúp ra quyết định và giải quyết vấn đề tốt hơn.
Trước thực trạng hiện nay, học sinh đang phải đối mặt với các vấn đề của xã
hội, áp lực học hành thi cử, sự kỳ vọng của gia đình người thân, bên cạnh năng lực
của bản thân trước các vấn đề của xã hội đang đòi hỏi học sinh phải rèn luyện,
trang bị cho mình kỹ năng làm chủ. Kỹ năng làm chủ sẽ cho phép học sinh phân
tích, đánh giá vấn đề các em gặp phải, kiểm soát được cảm xúc bản thân.Vì
khơng làm chủ cảm xúc, dẫn đến khơng làm chủ được hành vi dẫn đến những hậu
quả rất đáng tiếc.

* Một số phương pháp điều khiển và kiểm soát cảm xúc tiêu cực như:
- Không phản ứng vội.
- Nhận định lại tình hình.
- Thay đổi trọng tâm chú ý.
- Thể hiện cơn nóng giận thích hợp.
- Cần 15 phút bình tĩnh.
- Hít thở sâu.
- Xuống giọng khi nói.
21


- Nên bắt đầu bằng câu: “Tôi cảm thấy…”, “Tôi nghĩ là…”
- Tăng cường cảm xúc tích cực:
+ Đừng làm vơi cảm xúc tích cực.
+Thắp sáng những điều tốt đẹp: chú ý những ưu điểm, mặt tốt của vấn đề.
+ Kết nối tình thân với những người lạc quan, yêu đời.
Trong tổ chức hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, ngồi giáo dục kỹ
năng tự chủ, tơi đã sử dụng có hiệu quả phương pháp thảo luận nhóm trong việc
chia nhóm cho học sinh đóng vai tình huống ở kỹ năng từ chối; chia nhóm cho học
sinh tham gia trò chơi trong kỹ năng nhận diện kiểm sốt cảm xúc.
* Kết quả đạt được
Q trình vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong rèn luyện, giáo dục
KNS cho học sinh, tôi thấy phương pháp này phát huy có hiệu quả khả năng tư
duy, sáng tạo, hợp tác giữa các học sinh rất cao. Qua thảo luận các em học sinh
hiểu nhau hơn, tham gia học tập một cách tích cực hơn. Đặc biệt nội dung chủ đề
của tiết học là giáo dục Kỹ năng giúp học sinh tự nhận thức và làm chủ được bản
thân, biết đánh giá được bản thân, nhận diện và kiểm soát cảm xúc, biết cân nhắc
và đưa ra quyết định phù hợp nhất với hồn cảnh của mình. Như vậy sử dụng
phương pháp thảo luận nhóm để giáo dục các kỹ năng sống kết quả giáo dục rất
cao, khơng khí học tập sơi nổi, tiết học có sức lơi cuốn, hấp dẫn…

3.4. Sử dụng phương pháp nghiên cứu trường hợp điển hình trong tổ chức
hoạt động giáo dục kỹ năng sống
Nghiên cứu trường hợp điển hình là phương pháp sử dụng một câu chuyện
có thật hoặc chuyện được viết dựa trên những trường hợp thường xảy ra trong cuộc
sống thực tiễn để minh chứng cho một vấn đề hay một số vấn đề. Đơi khi nghiên
cứu trường hợp điển hình có thể được thực hiện trên video mà không phải trên văn
bản viết.
Trong tiết học ngoại khóa giáo dục kỹ năng sống, phương pháp này có thể
sử dụng trong các giờ học ngoại khóa trong lớp cũng như ngồi trời
Đặc trưng của phương pháp này là sử dụng các câu chuyện có thật hoặc các
câu chuyện trong cuộc sống làm tình huống để minh chứng cho một vấn đề nào đó.
Với những yêu cầu như vậy, việc tìm kiến nhân vật điển hình trong cuộc sống dễ
dàng hơn. Thơng qua nhân vật điển hình được xây dựng trong các tình huống thực
tế giúp học sinh dễ dàng nắm bắt được vấn đề, giải quyết được tình huống để rút ra
được bài học cho bản thân. Cho nên, theo tôi, trong giáo dục rèn luyện KNS cần sử
dụng phương pháp nghiên cứu trường hợp điển hình nhằm giúp HS học tập được
những tấm gương điển hình có nhiều thành cơng trong cuộc sống thơng qua trao
đổi, phân tích nhân vật. Nếu chỉ sử dụng các phương pháp truyền thống như thuyết
trình, đàm thoại…khơng thu được hiểu quả giáo dục, khơng khí lớp học trở nên
nặng nề, nhàm chán.
Sử dụng phương pháp nghiên cứu trường hợp điển hình tạo ra giờ học sinh
động, học sinh tích cực tham gia trao đổi, thảo luận với nhau, làm thay đổi cách
học của học sinh. Đồng thời tăng cường khả năng tư duy, phân tích và giải quyết
22


vấn đề của học sinh. Khác với việc tiếp thu lý thuyết một cách thụ động, học sinh
chủ động tìm kiếm và phân tích thơng tin để tìm ra giải pháp cho tình huống.
Sử dụng phương pháp nghiên cứu trường hợp điển hình trong tổ chức hoạt
động giáo dục KNS có ưu điểm: Làm cho giờ học trở nên gần gũi, sinh động, dễ

hiểu đối với học sinh, học sinh chăm chú theo dõi và mong muốn được bày tỏ ý
kiến cá nhân của mình trước mỗi trường hợp điển hình.
Để sử dụng phương pháp nghiên cứu trường hợp điển hình, người giáo viên
thực hiện theo quy trình sau:
Đầu tiên, Giáo viên cho HS đọc (hoặc xem hoặc nghe) về trường hợp điển
hình và suy nghĩ về nhân vật điển hình đó (có thể viết một vài suy nghĩ trước khi
thảo luận điều đó với người khác).
Sau đó, giáo viên tổ chức cho học sinh thảo luận về trường hợp điển hình
theo câu hỏi hướng dẫn của giáo viên. Sau khi học sinh thảo luận, bày tỏ ý kiến cá
nhân, giáo viên chốt lại vấn đề cần được đề cập.
*Ví dụ
Áp dụng phương pháp nghiên cứu trường hợp điển hình trong hoạt động
giáo dục KNS bằng cách thi kể chuyện về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
Đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức chí cơng vơ tư, đời sống trong sáng, nếp
sống giản dị và khiêm tốn, trung thực, chân thành, là ý chí và nghị lực tinh thần to
lớn vượt qua mọi thử thách, khó khăn để đạt được mục đích.
Được ni dưỡng bởi truyền thống đạo đức của dân tộc, ở Hồ Chí Minh đã hình
thành một lý tưởng và hoài bão đúng đắn, tạo ra động lực cho Người vượt qua mọi
thử thách, chông gai để đưa cách mạng đi đến thắng lợi cuối cùng. Trong cuộc đời
hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh từng bị tù đày nhiều nơi, nhưng vẫn luôn giữ
thái độ lạc quan, tin tưởng vào sức mạnh của con ngưòi, vào cuộc sống, chính
nghĩa, với ý chí, nghị lực tinh thần to lớn, vượt qua mọi thử thách, khó khăn.
Học tập tấm gương của Bác cũng là cách để chúng ta trau dồi ý thức rèn
luyện KNS, đồng thời thực hiện tốt chỉ thị 05 của Bộ Chính trị về tổ chức học tập
và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đang triển khai trong mọi tầng lớp
nhân dân.
Cách thức thực hiện
- Đầu tiên, giáo viên giao cho học sinh tìm kiếm những mẩu chuyện về tấm
gương đạo đức của Bác như: Câu chuyện “nước nóng, nước nguội” bài học về cách
ứng xử trong cuộc sống; câu chuyện “chiếc đồng hồ” bài học về sự đoàn kết, hợp

tác; câu chuyện “thời gian quý báu lắm” bài học về sự tiết kiệm thời gian…có thể
kết hợp bằng thơng tin, hình ảnh, video.
- Giáo viên chia lớp thành 2 nhóm, thông qua thể lệ cuộc thi
Thể lệ: Chủ đề kể chuyện về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
+ Thời gian 3 phút cho mỗi đội
+ Các đội cử một đại diện lên trình bày
Yêu cầu: Kể chuyện đúng chủ đề, thời gian, diễn cảm, đúng phong cách kể
chuyện.
23


- Đại diện các đội tham gia kể chuyện.
- Giáo viên nhận xét cuộc thi, trao giải
Sau cuộc thi giáo viên nêu một số câu hỏi vấn đáp cho học sinh
Câu hỏi:
1/ Em có cảm nhận gì khi được nghe câu chuyện của Bác Hồ về …..
2/ Em học tập được gì qua câu chuyện kể về tấm gương đạo đức của Bác
Gv nhận xét, kết luận.
Lưu ý: Khi sử dụng phương pháp nghiên cứu trường hợp điển hình trong hoạt
động giáo dục KNS, giáo viên phải lưu ý những vấn đề sau: Khi sử dụng phương
pháp này, người giáo viên phải chú ý lựa chọn tình huống bởi HS có thể lạc đề
nếu trường hợp điển hình đưa ra khơng phù hợp hoặc câu hỏi thảo luận khơng tốt.
Vì trường hợp điển hình được nêu lên nhằm phải ánh tính đa dạng của cuộc sống
thực, nên nó phản ánh tương đối phức tạp, với các tuyến nhân vật và những tình
huống khác nhau chứ khơng phải là một câu chuyện đơn giản. Trường hợp điển
hình có thể dài hay ngắn, tùy từng nội dung vấn đề song phải phù hợp với chủ đề,
phù hợp với trình độ học sinh và thời lượng cho phép. Tùy từng trường hợp, có
thể tổ chức cho cả lớp cùng nghiên cứu một trường hợp điển hình hoặc phân cơng
mỗi nhóm nghiên cứu một trường hợp khác nhau.
*Kết quả đạt được

Đây là phương pháp tôi áp dụng để củng cố bài học nên tôi sử dụng vào cuối tiết
học. Vì thời gian của một tiết không nhiều nên tôi cho học sinh chuẩn bị ở nhà để
vừa tiết kiệm thời gian, vừa giúp các em chủ động trong việc nghiên cứu, rèn luyện
kỹ năng khai thác ứng dụng CNTT.
Thơng qua hình thức thi kể chuyện về tấm gương đạo đức của Bác, học sinh được
tham gia hoạt động một cách sôi nổi, hợp tác, sử dụng tốt kỹ năng tư duy sáng tạo,
ngôn ngữ trình bày, kỹ năng tự tin…Cũng thơng qua cuộc thi học sinh học tập
được nhiều phẩm chất tốt đẹp về tấm gương đạo đưc Hồ Chí Minh.
Qua q trình ứng dụng phương pháp này trong tiết học ngoại khóa giáo dục KNS
giúp HS thấy được vai trò cần phải rèn luyện KNS đối với bản thân mình để có khả
năng ứng phó tích cực trước các vấn đề của cuộc sống, học hỏi được những tấm
gương giàu nghị lực vươn lên trong cuộc sống như tấm gương đạo đức, phong cách
của Bác Hồ và những nhân vật hiện nay. Qua giờ học, học sinh sơi nổi, tham gia
phân tích, thảo luận, bày tỏ ý kiến cá nhân.
3.5. Sử dụng phương pháp trực quan kết hợp sử dụng CNTT trong tổ chức hoạt
động giáo dục kỹ năng sống
Phương pháp trực quan là phương pháp giáo viên sử dụng đồ dùng dạy học
để minh họa cho kiến thức thức bài giảng.
Sử dụng phương tiện trực quan trong dạy học giúp học sinh quan sát, tiếp
thu các kiến thức mới thông qua các hình ảnh và tình huống mà giáo viên đưa ra.
Việc sử dụng phương pháp trực quan kết hợp sử dụng các phương tiện dạy
học hiện đại mang nhiều hiệu quả tích cực. Phương pháp này giúp giáo viên minh
24


họa bài giảng sinh động hơn, rút ngắn một số công đoạn trong việc truyền tải thông
tin đến người học, các phần mềm hỗ trợ giúp giáo viên thiết kế đựơc những hoạt
động giáo dục KNS một cách thuận tiện, các phần mềm công nghệ đã giúp giáo
viên tiết kiệm cơ sở vật chất, thời gian, công cụ dạy học; rèn luyện cho giáo viên ý
thức ln tìm tịi ứng dụng CNTT trong dạy học. Trong tất cả hoạt động giáo dục

KNS sử dụng phương tiện trực quan kết hợp ứng dụng CNTT, không một học sinh
nào tỏ ra chán nản, lười biếng học tập hoặc học với tâm trạng đối phó, thụ động.
Ngược lại, các em nghiêm túc hơn, hứng thú hơn, say mê tìm tịi, khơng ỷ lại giáo
viên như trước đây và việc học tập trở thành một niềm vui, kích thích sự tìm tịi
sáng tạo trong học tập. Và điều đó cũng có tác động tích cực trở lại đối với giáo
viên, làm cho giáo viên càng yêu nghề, hứng thú với nghề hơn… góp phần mang
lại kết quả tốt đẹp hơn cho giáo dục tạo ra trạng thái tâm lý tiếp thu nhẹ nhàng,
thoải mái, không gây áp lực, ngược lại gây được sự hứng thú, tư duy cho học sinh.
Phương pháp trực quan trong hoạt động tổ chức giáo dục KNS bao gồm: Sơ
đồ, bảng biểu, tranh ảnh, phim video, số liệu thống kê. Màn hình, máy chiếu. Sử
dụng ứng dụng cơng nghệ thơng tin trong giảng dạy. Tổ chức tham quan dã
ngoại...
Đây cũng là phương pháp tôi sử dụng nhiều trong giáo dục rèn luyện KNS ở
trường THPT Thái Lão. Bằng các sử dụng máy chiếu, màn chiếu, giấy khổ lớn, sơ
đồ....Thông qua việc khai thác, ứng dụng CNTT, tôi sưu tầm, khai thác một số
tranh ảnh, đoạn phim video liên quan đến bài học.
*Ví dụ: Để thiết kế các hoạt động giáo dục kỹ năng
- Kỹ năng nhận diện và kiểm soát cảm xúc, tơi sử dụng hình ảnh biểu hiện
cảm xúc trong phần mềm Microsoft Powerpoint trình chiếu cho hs quan sát, tham
gia trị chơi. Sau đó cho học sinh xem video được kết nối trong phần mềm để học
sinh rút ra bài học, các biện pháp để kiểm soát và kiềm chế cảm xúc tiêu cực
- Đối với Kỹ năng tự chủ tơi sử dụng phần mềm để trình chiếu các tình
huống cho học sinh thảo luận; Sơ đồ bảng biểu nhận diện mối quan hệ giữa cảm
xúc, suy nghĩ, hành vi và cơ thể.
- Cho HS quan sát hình ảnh về những tấm gương, những nhân vật điển hình
có kỹ năng sống, biết vươn mình khắc phục mọi khó khăn, thành cơng trong cuộc
sống.
Bằng hình ảnh minh họa, kết hợp kể chuyện tôi giúp tôi thành công trong tổ
chức hoạt động giáo dục KNS cho học sinh.
*Kết quả đạt được

Việc sử dụng phần mềm Microsoft Powerpoint, giúp bài giảng thêm sinh
động, tạo hứng thú cho học sinh đồng thời tạo khơng khí thoải mái, nhẹ nhàng.
Vì vậy, tơi nhận thấy, sử dụng phương pháp trực quan kết hợp CNTT là
phương pháp tích cực, có hiệu quả nhằm làm phong phú thêm bài học, việc khai
thác sử dụng hình ảnh hợp lý giúp giáo viên minh họa tốt hơn về nội dung bài học,
kích thích được tính tư duy sáng tạo của học sinh, tạo sự hứng thú, lôi cuốn các em
vào bài học, phát huy được khả năng quan sát, phân tích hình ảnh, tạo niềm say
25


×