Tải bản đầy đủ (.doc) (98 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ QUẢN lý GIÁO dục QUẢN lý HOẠT ĐỘNG GIÁO dục kỹ NĂNG SỐNG CHO học SINH TIỂU học ở THÀNH PHỐ bạc LIÊU, TỈNH bạc LIÊU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (474.33 KB, 98 trang )

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Viết đầy đủ

Viết tắt

Cán bộ quản lý

CBQL

Giáo dục kỹ năng sống

GDKNS

Giáo dục

GD

Giáo viên

GV

Học sinh tiểu học

HSTH

Kỹ năng

KN

Kỹ năng sống


KNS

Quản lý giáo dục

QLGD

Trung học phổ thông

THPT


MỤC LỤC
Trang
3

MỞ ĐẦU

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO

1.1.
1.2.

DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH TIỂU HỌC
Một số khái niệm cơ bản của đề tài
Nội dung quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống trong

1.3.


nhà trường
Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động giáo dục kỹ năng

Chương 2

sống
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO

15

DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH TIỂU
2.1.
2.2.

HỌC Ở THÀNH PHỐ BẠC LIÊU, TỈNH BẠC LIÊU
Một vài nét về đặc điểm Bạc Liêu
Thực trạng về kỹ năng sống học sinh tiểu học ở thành phố

2.3.

Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu
Thực trạng quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho

Chương 3

học sinh tiểu học ở thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu
BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC

35


KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH TIỂU HỌC TẠI
3.1.

THÀNH PHỐ BẠC LIÊU, TỈNH BẠC LIÊU
Một số nguyên tắc chỉ đạo việc xây dựng và thực hiện

3.2.

hoạt động giáo dục kỹ năng sống học sinh tiểu học
Đề xuất biện pháp quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng

3.3.

sống trong trường tiểu học trong giai đoạn hiện nay
Khảo nghiệm mức độ cần thiết và tính khả thi của các

58

biện pháp đề xuất
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

84
87
92

2



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thế kỷ thứ XXI, thế kỷ của khoa học và công nghệ, thế kỷ mà nền tri
thức hiện đại khoa học được đặt lên hàng đầu. Thực tiễn này đòi hỏi mỗi công
dân Việt Nam ra sức học tập, rèn luyện nâng cao tay nghề, vì thế nền giáo dục
phải kịp thời nắm bắt nhu cầu trên mà từng bước thay đổi nội dung, chương
trình, phương pháp giảng dạy sao cho phù hợp với tình hình thực tế.
Trong giai đoạn hiện nay, khi đời sống kinh tế xã hội có nhiều thay đổi,
thanh niên, học sinh đang trải qua nhiều biến động tích cực lẫn tiêu cực, mặt
trái của kinh tế thị trường và sự bùng nổ thông tin, với nhiều thông tin thiếu
lành mạnh đang tác động mạnh đến đời sống làm cho thế hệ trẻ có nhiều biểu
hiện nhận thức lệch lạc và sống xa rời các giá trị đạo đức truyền thống, tình
trạng bạo lực học đường ngày một gia tăng. Một trong các nguyên nhân là do
các em thiếu kỹ năng sống, các em chưa bao giờ được dạy cách đối mặt với
những khó khăn của cuộc sống như bị mất hy vọng, lòng tin, gia đình rạn nứt,
kết quả học tập kém… dần dần, các em có thể bị lôi cuốn vào lối sống thực
dụng, đua đòi, không đủ bản lĩnh nói “không” với cái xấu. Các em không được
dạy để hiểu về giá trị của cuộc sống và những KNS cần thiết nhằm giúp cho
các em có được cuộc sống tích cực hơn, năng động và sáng tạo hơn.
KNS không phải tự nhiên mà có, mà nó là cả quá trình rèn luyện, học
tập từ thực tế cuộc sống thông qua các mối quan hệ: gia đình – nhà trường –
xã hội, dưới sự ảnh hưởng của giáo dục. Trong đó, GD nhà trường có vai trò
hết sức quan trọng, GD nhà trường tạo ra những cơ sở quan trọng cho sự hình
thành và phát triển nhân cách nói chung và KNS của trẻ nói riêng.
Việc GDKNS phải được bắt đầu từ nhỏ, đặc biệt là lứa tuổi HSTH.
HSTH tiếp cận với KNS bằng những nội dung thiết thực sẽ giúp cho các em
có được cách sống tích cực trong xã hội hiện đại. GD cho trẻ những kỹ năng
3



mang tính cá nhân và xã hội nhằm giúp trẻ có thể thay đổi nhận thức, thái độ
để hình thành những khả năng thực thụ, giúp các em biết giải quyết các tình
huống khác nhau trong cuộc sống một cách an toàn, giúp các em luôn thích
nghi với những hoàn cảnh sống khác nhau. Đây là việc làm rất cần thiết trong
cuộc sống hiện nay cho các em học sinh.
HSTH tại thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu chưa được tiếp xúc nhiều
với KNS. Phần lớn các em vẫn còn rụt rè, thụ động, chưa biết cách ứng xử và
kiềm chế hành vi của mình trong những trường hợp cần thiết… Với thực tế
như vậy, nhiều phụ huynh học sinh đã không an tâm gởi con em cho nhà
trường GDKNS, mà tìm đến các trung tâm sinh hoạt cộng đồng như: Nhà
thiếu nhi, trung tâm hoạt động thanh thiếu nhi… để cho con em mình được dự
học các lớp KNS. Tuy nhiên các trung tâm hiện nay cũng chỉ GDKNS theo
chuyên đề và theo yêu cầu của phụ huynh, nội dung các chương trình hầu hết
là các trung tâm tự biên soạn chưa qua kiểm định.
Ở Bạc Liêu, đã có nhiều công trình nghiên cứu về việc GDKNS cho trẻ
em ở lứa tuổi tiểu học, nhưng đa số chỉ dừng lại ở các đề tài: sáng kiến kinh
nghiệm, những chuyên đề sinh hoạt tập thể,… chưa có công trình nào nghiên
cứu chuyên sâu vào thực tế về GDKNS cho HSTH ở thành phố Bạc Liêu, tỉnh
Bạc Liêu.
Vì thế tôi chọn đề tài “Quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho
học sinh tiểu học ở thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu” nhằm nâng cao hiệu
quả GDKNS cho HSTH, góp phần nâng cao hiệu quả GD toàn diện cho
HSTH ở thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
* Các nghiên cứu trên thế giới
Từ những năm 90 của thế kỷ XX, thuật ngữ KNS đã được xuất hiện
trong các chương trình hành động GD của UNICEF, trước tiên là chương
trình “Giáo dục những giá trị sống” với 12 giá trị cơ bản cần GD cho thế hệ
4



trẻ. Những nghiên cứu về KNS trong giai đoạn này mong muốn thống nhất
một quan niệm chung về KNS cũng như đưa ra được một bảng danh mục các
KNS cơ bản mà thế hệ trẻ cần có. Phần lớn các công trình nghiên cứu trong
giai đoạn này quan niệm về KN sống theo nghĩa hẹp và đồng thời đồng nhất
nó với các kỹ năng xã hội.
Ở các nước phương Tây, KNS đã được quan tâm từ rất lâu. Mô hình
giáo dục của Edgard Morin người Pháp là phải giảng dạy về hoàn cảnh con
người (hiểu rõ con người là gì, con người sống và hoạt động như thế nào, con
người xử lý bằng cách nào) và học cách sống.
Vấn đề giáo dục KNS cho người học đều được các nước quan tâm và
cùng xuất phát từ quan niệm chung về KNS của WHO hoặc của UNESCO,
tuy nhiên quan niệm và nội dung giáo dục KNS của các nước không giống
nhau. Hiện nay đã có hơn 155 nước trên thế giới quan tâm đến việc đưa KNS
vào nhà trường, trong đó có 143 nước đã đưa vào trong chương trình chính
khóa Tiểu học và Trung học. Việc giáo dục KNS cho học sinh ở các nước
được thực hiện theo 3 hình thức:
- KNS là một môn học riêng biệt.
- KNS được tích hợp vào một môn học chính thức.
- KNS được tích hợp vào nhiều hoặc tất cả các môn học trong nhà
trường.
GDKNS ở khu vực Asean đã được nghiên cứu và triển khai ở nhiều
nước:
Ở Lào, từ năm 1997 GDKNS được lồng ghép vào chương trình đào tạo
chính quy, không chính quy và trường sư phạm đào tạo giáo viên nội dung
GD được tích hợp vào chương trình về cách phòng chống HIV/AIDS. Năm
2001 GDKNS ở Lào được mở rộng sang các lĩnh vực như: GD dân số, giới
tính, sức khỏe sinh sản, vệ sinh cá nhân, GD môi trường…

5



Ở Campuchia được xem xét dưới góc độ năng lực sống của con người,
việc giảng dạy KNS được tích hợp vào chương trình giáo dục chính quy, vào
bài học các môn cơ bản từ lớp 1 đến lớp 12.
Ở Ấn Độ, GDKNS cho học sinh được xem xét dưới góc độ giúp con
người sống một cách lành mạnh về chất và tinh thần, nhằm phát triển năng lực
con người.
Ở Bangladesh, GDKNS được khai thác dưới góc độ các KN hoạt động
xã hội, KN phát triển, KN chuẩn bị cho tương lai.
Ở Malaysia, GDKNS do Bộ giáo dục và các cơ quan khác thực hiện.
Họ coi môn GDKNS là môn KN của cuộc sống. Mục tiêu của môn học này ở
trường học là cung cấp cho học sinh những KN thực tế cơ bản để cho họ có
thể thực hiện các nhiệm vụ cuộc sống.
UNESCO đã tiến hành dự án ở 5 nước Đông Nam Á nhằm vào các vấn
đề liên quan đến KNS, có thể khái quát những nghiên cứu chính trong dự án
này như sau:
- Nghiên cứu xác định mục tiêu của GDKNS: Hội thảo Bali khái quát
báo cáo tham luận của các quốc gia tham gia hội thảo về GDKNS, đã xác
định mục tiêu GDKNS trong GD không chính quy là nhằm nâng cao tiềm
năng của con người để có hành vi thích ứng và tích cực đáp ứng nhu cầu, sự
thay đổi, các tình huống của cuộc sống hàng ngày.
- Nghiên cứu xác định chương trình và hình thức GDKNS: Đây là nội
dung được nhiều sự quan tâm nghiên cứu. Các nghiên cứu này cho thấy
chương trình, tài liệu GDKNS không chính quy là phổ biến và rất đa dạng về
hình thức, cụ thể là:
+ Lồng ghép vào chương trình dạy chữ (chương trình các môn học) ở
các mức độ khác nhau.
+ Dạy các chuyên đề cần thiết cho người học như: tạo thu nhập, môi
trường, KN nghề, KN xử lý tình huống…

6


Tóm lại, GDKNS hiện nay của các nước trên thế giới ở mỗi quốc gia là
khác nhau về quan niệm và nội dung, có nước thực hiện đúng chuẩn kỹ năng,
nhưng có nước cũng còn hạn chế về nội dung giáo dục. Những quan niệm, nội
dung giáo dục kỹ năng sống được triển khai vừa thể hiện nét chung nhưng
đồng thời cũng thể hiện nét riêng đặc thù của mỗi quốc gia. Nhìn chung các
quốc gia chưa có hệ thống các tiêu chuẩn đánh giá; hệ thống phương pháp
chưa được nghiên cứu một cách đầy đủ. Vì thế, việc quản lý GDKNS cần
được tiếp tục nghiên cứu ở các quốc gia cho nhiều độ tuổi khác nhau.
* Các nghiên cứu ở Việt Nam
Thuật ngữ KNS bắt đầu xuất hiện trong nhà trường từ những năm 1995
– 1996, thông qua dự án “Giáo dục kỹ năng sống để bảo vệ sức khỏe và
phòng chống HIV/AIDS cho thanh thiếu niên trong và ngoài nhà trường” do
quỹ nhi đồng Liên Hiệp Quốc (UNICEF) phối hợp với Bộ giáo dục và Đào
tạo cùng Hội chữ Thập đỏ Việt Nam thực hiện. Từ đó đến nay nhiều cơ quan,
tổ chức trong nước và quốc tế đã tiến hành GDKNS gắn với các vấn đề xã hội
như: phòng chống ma túy, phòng chống mại dâm, phòng chống buôn bán phụ
nữ và trẻ em, phòng chống tại nạn thương tích… Các lớp dạy KNS như: “Học
kỳ quân đội”, “Hi Teacher”, “Teen năng động @.com”, “Học làm người có
ích”, “Một ngày để sống”, “Bữa cơm gia đình”, “Học làm bác nông dân”,…
Tại Việt Nam, vào đầu những năm 90, Thủ tướng chính phủ đã có văn
bản chỉ đạo số 1363/TTg về việc “Đưa nội dung giáo dục môi trường vào hệ
thống giáo dục quốc dân”, tuy công văn này chưa nói về GDKNS ở nhà
trường, tuy nhiên nội dung của công văn cũng đã đề cập đến việc trang bị cho
người học những vấn đề văn hóa ứng xử, về thái độ sống… Ở Chỉ thị số
10/GD&ĐT năm 1995 hay Chỉ thị số 24/CT&GD năm 1996 của Bộ trưởng
Bộ Giáo dục và đào tạo đã có những chỉ đạo về công tác phòng chống
HIV/AIDS hay tăng cường công tác phòng chống ma túy ở học đường ít

nhiều cũng đã đề cập đến nội dung của thuật ngữ KNS.
7


Từ năm học 2002 – 2003 Việt Nam đã thực hiện đổi mới giáo dục phổ
thông (Tiểu học và Trung học cơ sở) trong cả nước. Trong chương trình tiểu
học đổi mới có hướng đến GDKNS thông qua lồng ghép một số môn học có
tiềm năng như: GD đạo đức, Tự nhiên – Xã hội (ở lớp 1 – 3) và môn Khoa
học (ở lớp 4 – 5). KNS được giáo dục thông qua một số chủ đề: “Con người
và sức khỏe”.
Năm học 2007 – 2008, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đưa ra phong trào
thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”. Phong trào này
bắt đầu được triển khai mạnh mẽ trong hầu hết tất cả các bậc học từ mầm non
đến đại học. Ngày 22 tháng 7 năm 2008.
Năm học 2009 – 2010, lần đầu tiên Bộ Giáo dục và Đào tạo đưa nội
dung GDKNS cho học sinh vào chỉ thị về nhiệm vụ năm học. Trên thực tế, ở
một số thành phố lớn, các bậc phụ huynh đã không thể ngồi chờ ngành Giáo
dục và Đào tạo mà đã đến các trung tâm tư nhân hoặc liên kết với nước ngoài
để “nhờ” họ trang bị cho con mình KNS.
Ở Việt Nam, các công trình nghiên cứu về KNS, có thể chia theo 2 chiều
hướng sau:
Hướng thứ nhất, quan tâm đến KNS trong lao động, công việc, trong hành
nghề. Theo hướng này có thể kể đến các công trình nghiên cứu KNS được đặc
biệt chú ý, cụ thể là: Chương trình xóa mù chữ và tăng thu nhập cho phụ nữ
được thực hiện từ năm 1996-2000 do UNICEF tài trợ nhằm GDKNS cho phụ
nữ miền núi.
Dự án VIE 01/009 “Nâng cao nhận thức và thay đổi hành vi cho thanh
niên Việt Nam chống HIV/AIDS dựa trên cơ sở cộng đồng” triển khai từ
tháng 8/2001 tại 8 xã, phường, 4 huyện thị của tỉnh Cần Thơ và Hà Tĩnh với
mục tiêu nâng cao năng lực quản lý và chuyên môn cho cán bộ đoàn thanh

niên các cấp trong việc xây dựng các hoạt động phòng chống AIDS dựa trên
cơ sở cộng đồng, thực hiện các hoạt động phòng chống AIDS và KNS dựa
8


vào cộng đồng để nâng cao nhận thức, khuyến khích thay đổi hành vi cho
nhóm có nguy cơ cao. [4, tr.86]
Tác giả Huỳnh Văn Sơn đã xuất bản cuốn “Bạn trẻ và kỹ năng sống”
(năm 2009). Nội dung cuốn sách này bàn về vấn đề hành trang cần có của
thanh niên hiện đại đó là KNS. Tác giả đưa ra những KNS cần thiết cho thanh
niên là: Tự đánh giá mình, kỹ năng tư duy sáng tạo, kỹ năng tác động đến tâm
lý của người khác.[44]
Hướng thứ 2, quan tâm đến KNS hướng vào sức khỏe, hành vi, cách
ứng xử, giáo dục an toàn giao thông, bảo vệ môi trường hay GD lòng yêu hòa
bình cho học sinh. Theo hướng này có thể kể đến các công trình nghiên cứu
về KNS được đặc biệt chú ý, cụ thể là: Bộ Giáo dục và đào tạo phối hợp với
ngành Công an và Ủy ban an toàn giao thông Quốc gia đưa chương trình giảng
dạy thí điểm và tổ chức nhiều cuộc thi tìm hiểu Luật an toàn giao thông cho trẻ
em các trường từ mẫu giáo cho đến phổ thông trung học để trang bị cho các em
kiến thức ban đầu về luật lệ an toàn giao thông. [4, tr90]
Chương trình thực nghiệm mang tên “giáo dục sống khỏe mạnh và kỹ
năng sống cho học sinh trung học” do UNICEF hỗ trợ (năm 2003). Ngoài
ngành GD, đối tác tham gia còn có 2 tổ chức xã hội chính trị là Trung ương
Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.
Chương trình này nhằm tạo điều kiện cho học sinh trung học được tiếp cận
với thông tin liên quan đến những vấn đề ảnh hưởng đến cuộc sống khỏe
mạnh bao gồm cả HIV/AIDS; Giúp học sinh rèn luyện các KNS thiết thực để
ứng phó với các vấn đề như HIV/AIDS, lạm dụng ma túy và các chất kích
thích, tình trạng quan hệ tình dục và mang thai ở tuổi chưa thành niên. Huy
động sự tham gia của cha mẹ học sinh và cộng đồng trong việc GDKNS cho

trẻ em. [17]
Đề tài cấp Bộ “Giáo dục một số kỹ năng sống cho học sinh trung học
phổ thông” mã số B. 2005- 75- 126 do Nguyễn Thanh Bình chủ nhiệm đề tài
9


và các cộng sự trường Đại học Sư phạm Hà Nội bắt đầu triển khai nghiên cứu
từ năm 2005 – 2006. Đề tài đã tiến hành điều tra nhu cầu học sinh trung học
phổ thông về những KNS cần cho lứa tuổi các em, xây dựng cơ sở khoa học
cho việc xác định chương trình GD cho đối tượng này và tiến hành thử
nghiệm một số chủ đề. [3]
Nghiên cứu “Giáo dục kỹ năng sống ở Việt Nam” – trưởng nhóm là bà
Nguyễn Thanh Bình, nghiên cứu tập trung tìm hiểu quá trình nhận thức về
KNS và tổng quan qua các chủ trương, chính sách, điều luật phản ánh yêu cầu
tiếp cận kỹ năng sống trong GD và GDKNS ở Việt Nam từ trẻ mầm non đến
người lớn thông qua giáo dục chính quy và giáo dục thường xuyên. [2]
Tác giả Huỳnh Văn Sơn đã viết cuốn “Nhập môn kỹ năng sống” (năm
2009). Tác giả đã chỉ ra khái niệm KNS, những kỹ năng sống cơ bản gồm 24
kỹ năng như: KN tự đánh giá, KN xác lập mục đích cuộc sống, KN phán đoán
cảm xúc của người khác, KN kiềm chế cảm xúc,… [45]
Tác giả Nguyễn Thanh Bình đã xuất bản cuốn “Giáo trình chuyên đề
giáo dục kỹ năng sống” (năm 2009). Cuốn sách đã nêu nên một số vấn đề
chung về KNS, GDKNS và một số chủ đề giáo dục những KNS cốt lõi cho học
sinh THPT [4]
Nhìn chung nghiên cứu về KNS cho thấy tính chất đa dạng, rộng rãi
của lĩnh vực này. Nó bao trùm những nội dung phong phú từ cấp độ cá nhân
đến cấp độ xã hội, với nhiều khách thể và đối tượng nghiên cứu, với nhiều
tình huống khác nhau trong cuộc sống. Các nghiên cứu này chỉ ra những mặt
tích cực và hạn chế trong KNS, từ đó đề ra các biện pháp, khuôn mẫu cho
KNS. Điều này có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc nhằm giúp con người

có KNS phù hợp với những tình huống gặp phải trong cuộc sống.
Tóm lại, cho đến nay, GDKNS vẫn còn là một trong những vấn đề mới
trong khoa học cũng như trong hệ thống GD Việt Nam. Các nghiên cứu về
GDKNS tại Việt Nam hay triển khai chương trình rèn luyện KNS cho học
10


sinh chỉ mới thể hiện rõ ở chương trình giáo dục ngoài khung chương trình
đào tạo. Chưa có văn bản, tài liệu khoa học hay giáo trình về giảng dạy KNS
cho học sinh. Đây chính là một trong những nguyên nhân hạn chế trong việc
GDKNS tại Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên kết quả các công trình nghiên cứu
về GDKNS cho học sinh như trình bày trên đã tạo cơ sở cho tác giả kế thừa
phát triển để xây dựng cơ lý luận cho đề tài “Quản lý hoạt động giáo dục kỹ
năng sống cho học sinh tiểu học ở thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu”.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn GDKNS cho
HSTH, luận văn đề xuất một số biện pháp nâng cao chất lượng GDKNS nhằm
góp phần nâng cao chất lượng GD toàn diện cho HSTH ở thành phố Bạc Liêu,
tỉnh Bạc Liêu.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về GDKNS cho HSTH. Đánh giá thực
trạng của công tác GDKNS cho HSTH ở thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu.
- Đề xuất một số biện pháp quản lý GDKNS cho HSTH, nhằm nâng cao
chất lượng GD toàn diện ở các trường tiểu học ở thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc
Liêu.
4. Khách thể, đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Khách thể nghiên cứu
Hoạt động GDKNS cho HSTH ở thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu.
4.2. Đối tượng nghiên cứu

Quản lý hoạt động GDKNS cho HSTH ở thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc
Liêu hiện nay.
4.3. Phạm vi nghiên cứu

11


Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu các biện pháp quản lý hoạt động
GDKNS cho HSTH ở thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu hiện nay. Các số
liệu khảo sát, đánh giá, sử dụng để nghiên cứu giới hạn từ năm 2010 đến nay.
5. Giả thuyết khoa học
GDKNS là một trong những nội dung giáo dục toàn diện cho học
sinh, được lồng ghép với hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ của nhà
trường nhằm nâng cao nhận thức, định hướng thái độ và rèn luyện hành vi
ứng phó một cách chủ động, tích cực và phù hợp của các em với những tác
động của môi trường tự nhiên và xã hội. Nếu các chủ thể quản lý giáo dục
xác định đúng kế hoạch giáo dục toàn diện; tổ chức tốt việc bồi dưỡng giáo
viên về thái độ trách nhiệm và khả năng lồng ghép giáo dục kỹ năng sống vào
giảng dạy; thường xuyên đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp rèn
luyện kỹ năng sống phù hợp với từng lớp và nhu cầu của HSTH; tăng cường
cơ sở vật chất – kỹ thuật của nhà trường; thực hiện kiểm tra, đánh giá kết quả
giáo dục một cách khách quan, chính xác, công bằng thì sẽ quản lý được hoạt
động giáo dục kỹ năng sống cho HSTH trên địa bàn thành phố Bạc Liêu,
tỉnh Bạc Liêu, góp phần nâng cao chất lượng, đáp ứng nhu cầu đổi mới căn
bản, toàn diện giáo dục trong tình hình hiện nay.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp luận nghiên cứu
Luận văn được tổ chức nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận duy
vật biện chứng của Chủ nghĩa Mác - Lê nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, đường
lối quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về GD nói chung và GD tiểu học

nói riêng. Đồng thời vận dụng các quan điểm logic - lịch sử, hệ thống - cấu
trúc và các quan điểm thực tiễn để xem xét phân tích các vấn đề có liên quan
đến luận văn.
6.2. Phương pháp nghiên cứu

12


Để hoàn thành công trình nghiên cứu, tác giả đã sử dụng dạng tổng hợp các
phương pháp nghiên cứu lý thuyết và thực tiễn của khoa học GD, cụ thể là:
6.2.1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý thuyết
+ Mục đích: Thu thập thông tin, nắm bắt tình hình liên quan đến
GDKNS ở thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu.
+ Cách tiến hành: phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa các báo cáo có liên
quan đến GDKNS ở thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu.
6.2.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp quan sát
+ Mục đích: Nắm được thực trạng giải quyết vấn đề có vận dụng KNS
của học sinh.
+ Cách tiến hành: quan sát thực tế học sinh của 4 trường khảo sát thông
qua các buổi ra chơi, sinh hoạt, nhất là các buổi hoạt động ngoài giờ lên lớp,
nhằm nắm bắt tình hình thực tế về KNS của các em học sinh.
- Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi
+ Mục đích: Thu thập thông tin từ cán bộ quản lý, GV, học sinh và phụ
huynh về thực trạng GDKNS, thực trạng nhận thức, các biện pháp nhằm nâng
cao chất lượng GDKNS.
+ Cách tiến hành: sử dụng phiếu điều tra để khảo sát một vấn đề cần
nghiên cứu, thông qua hình thức trả lời trắc nghiệm, xử lý tình huống và
những ý kiến cần thiết khác có liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp phỏng vấn

+ Mục đích: Lắng nghe ý kiến trực tiếp từ CBQL, GV, học sinh và phụ
huynh về nội dung có liên quan đến hoạt động GDKNS cho HSTH, nhằm thu
thập thông tin cần thiết.
+ Cách tiến hành: Chủ động liên hệ phỏng vấn trực tiếp những vấn đề
còn vướn mắc từ CBQL, GV, học sinh và phụ huynh.
- Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia

13


+ Mục đích: Nắm bắt thực trạng, hệ thống các tiêu chí, hệ thống các
biện pháp GDKNS cho HSTH.
+ Cách tiến hành: Gặp trực tiếp các chuyên gia trong lĩnh vực GD, các
nhà quản lý, các GV có kinh nghiệm trao đổi các vấn đề có liên quan đến đề
tài.
7. Ý nghĩa của đề tài
Những kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần cung cấp thêm cơ
sở khoa học giúp các nhà quản lý GD và cán bộ lãnh đạo quản lý hoạt động
GDKNS. vận dụng vào chỉ đạo nâng cao chất lượng GDKNS cho HSTH.
Luận văn được nghiên cứu thành công có thể dùng làm tài liệu tham khảo
cho cán bộ lãnh đạo, các phòng GD, GV có thể vận dụng các biện pháp vào giảng
dạy KNS phù hợp hơn, góp phần nâng cao việc GDKNS cho HSTH ở địa
phương trong điều kiện hiện nay.
8. Kết cấu của đề tài
Luận văn được kết cấu gồm: Phần mở đầu; Phần nội dung gồm 3
chương; Kết luận, Kiến nghị; Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục.

14



Chng 1
C S Lí LUN QUN Lí HOT NG GIO DC
K NNG SNG CHO HC SINH TIU HC
1.1. Mt s khỏi nim c bn ca ti
1.1.1. Qun lý giỏo dc
GD là một hiện tợng xã hội, một quá trình, một hoạt động của xã hội, vì
thế nó cần và phải đợc quản lý. Từ đó, hình thành một dạng quản lý trong hệ
thống quản lý xã hội.
Cú nhiu quan nim khỏc nhau v QLGD, song thng ngi ta a ra
quan nim QLGD theo hai cp ch yu: cp v mụ v cp vi mụ.
* cp v mụ:
Qun lý v mụ tng ng vi khỏi nim v qun lý mt nn GD (h thng
giỏo dc) v qun lý vi mụ tng ng vi khỏi nim v qun lý mt nh trng.
cp v mụ, QLGD c hiu l h thng tỏc ng cú mc ớch, cú
k hoch ca ch th qun lý vo h thng GD quc dõn nhm huy ng v
t chc thc hin cú hiu qu cỏc ngun lc phc v cho mc tiờu phỏt trin
GD, ỏp ng yờu cu phỏt trin kinh t - xó hi ca quc gia.
Nh vy, QLGD theo ngha tng quan l hot ng iu hnh, phi
hp cỏc lc lng xó hi nhm lm cho ton b h thng giỏo dc vn hnh
theo ng li nguyờn lý GD ca ng, thc hin cú cht lng v hiu qu
mc tiờu phỏt trin GD v o to th h tr m xó hi t ra.
* cp vi mụ:
QLGD l h thng nhng tỏc ng cú mc ớch, cú k hoch ca ch
th qun lý vo h thng t chc GD ca nh trng nhm iu khin cỏc
thnh t trong h thng phi hp hot ng theo ỳng chc nng, ỳng k
hoch, m bo cho quỏ trỡnh giỏo dc t c mc ớch, mc tiờu ó xỏc
nh vi hiu qu cao nht.

15



Tiếp cận theo góc độ điều khiển học, có thể hiểu quá trình QLGD là
hoạt động tổ chức và điều khiển quá trình GD nhằm thực hiện có hiệu quả
mục đích, mục tiêu GD của nhà trường.
Theo khái niệm trên, quá trình QLGD được hiểu như một quá trình vận
động của các thành tố có mối quan hệ tương tác lẫn nhau trong hệ thống tổ
chức của nhà trường. Hệ thống đó bao gồm các thành tố cơ bản là: chủ thể
quản lý, đối tượng quản lý, nội dung, phương pháp quản lý, mục tiêu quản lý.
Các thành tố đó luôn vận động trong mối liên hệ tương tác lẫn nhau, đồng
thời diễn ra trong sự chi phối, tác động qua lại với môi trường kinh tế, chính
trị, xã hội chung quanh.
Có thể khái niệm QLGD như sau: QLGD là quá trình mà chủ thể quản
lý dùng những biện pháp tác động đến đối tượng quản lý theo kế hoạch, nhằm
thay đổi hay tạo ra hiệu quả vì sự ổn định và phát triển của GD trong việc đáp
ứng các yêu cầu mà xã hội đặt ra cho GD.
1.1.2. Giáo dục kỹ năng sống
1.1.2.1. Kỹ năng
Có nhiều quan điểm khác nhau về KN:
- Theo quan điểm của P.A.Ruđic: KN là động tác cơ sở của nó là sự
vận dụng thực tế các kiến thức đã tiếp thu được để đạt kết quả trong quả trong
một hình thức vận động cụ thể. [42, tr.7]
- Theo quan điểm của K.K.Platônôp: KN là khả năng của con người
thực hiện một hoạt động bất kỳ nào đó hay các hành động trên cơ sở của kinh
nghiệm cũ. [43, tr.17]
- Trong từ điển Từ và ngữ Hán việt của tác giả Nguyễn Lân (1989) có
ghi: “KN là khả năng ứng dụng tri thức khoa học vào thực tiễn”. [21, tr.390]
- Còn trong tâm lý học, KN được hiểu là khả năng thực hiện những thao
tác được hình thành và củng cố quá trình thực hành và trải nghiệm của bản thân.
Kỹ năng chính là công cụ để gia tăng giá trị cho kiến thức của bản thân.
16



Có nhiều cách định nghĩa về KN. Những định nghĩa này thường bắt
nguồn từ góc nhìn chuyên môn và quan niệm cá nhân của người viết. Tuy
nhiên hầu hết chúng ta đều thừa nhận rằng KN được hình thành khi chúng ta
áp dụng kiến thức vào thực tiễn. KN học được do quá trình lặp đi lặp lại một
hoặc một nhóm hành động nhất định nào đó. KN luôn có chủ đích và định
hướng rõ ràng.
Vậy, KN được hiểu là năng lực hay khả năng của chủ thể thực hiện
thuần thục một hay một chuỗi hành động trên cơ sở hiểu biết (kiến thức hoặc
kinh nghiệm) nhằm tạo ra kết quả mong đợi.
1.1.2.2. Kỹ năng sống
KNS (life skills) là cụm từ được sử dụng rộng rãi nhằm vào lứa tuổi
trong mọi lĩnh vực hoạt động: KNS là khả năng hay thao tác thực hiện một
hoạt động nào đó diễn ra trong cuộc sống.
Các tài liệu về KNS đề cập đến một lĩnh vực hoạt động từ học tập để
chuẩn bị vào nghề, cách học ngoại ngữ, KN làm cha mẹ đến tổ chức trại hè.
Tuy nhiên, một số tác giả phản biện giữa những KN để sống còn (livelihood
skills, survival skills) như: học chữ, học nghề, học làm toán… với KNS theo
cách đề cập này. Đó là năng lực tâm lý xã hội để đáp ứng và đối phó với
những yêu cầu thách thức của cuộc sống hàng ngày, mà đặc biệt tuổi trẻ rất
cần để vào đời.
KNS là tất cả những kỹ năng cần thiết trực tiếp giúp cá nhân sống
thành công và hiệu quả, trong đó tích hợp những khả năng, phẩm chất, hành
vi tâm lý, xã hội và văn hóa phù hợp, đương đầu được với những tác động của
môi trường.
Theo nhóm biên soạn tài liệu GDKNS của Vụ giáo dục thể chất chủ
biên là Nguyễn Võ Kỳ Anh thì: “KNS là khả năng có được những hành vi
thích nghi và tích cực, cho phép chúng ta xử trí một cách có hiệu quả các đòi
hỏi và thử thách của cuốc sống thường ngày”. [1, tr.19]


17


Theo WHO (1993): Năng lực tâm lý xã hội là khả năng ứng phó một
cách có hiệu quả với những yêu cầu và thách thức của cuộc sống. Đó cũng là
khả năng của một cá nhân để duy trì một trạng thái khỏe mạnh về mặt tinh
thần, biểu hiện qua các hành vi phù hợp và tích cực khi tương tác với người
khác, với nền văn hóa và môi trường xung quanh. [57, tr.5]
Tác giả Huỳnh Văn Sơn quan niệm: KNS nhìn dưới góc độ năng lực
tâm lý là những KN giúp con người tồn tại về mặt thể chất và mặt tâm lý.
[41, tr.7]
Thuật ngữ KNS được người Việt Nam biết đến nhiều từ chương trình
của UNICEF (1996) “ GDKNS để bảo vệ sức khỏe và phòng chống
HIV/AIDS cho thanh niên trong và ngoài nhà trường”. Khái niệm KNS được
giới thiệu trong chương trình này này: là một tổ hợp phức tạp của một hệ
thống KN nói lên năng lực sống của con người, giúp con người thực hiện
công việc và tham gia vào cuộc sống hằng ngày có kết quả, trong những điều
kiện xác định của cuộc sống, chương trình này mang tên “GD sống khỏe
mạnh và KNS”. [54, tr.37 ]
Tóm lại, KNS là tổng hòa thái độ và hành vi ứng phó một cách chủ
động, tích cực và phù hợp của con người với những tác động của môi
trường tự nhiên và xã hội, nhờ đó họ thích ứng được trước những đòi hỏi ,
thách thức của cuộc sống hằng ngày.
1.1.2.3. Giáo dục kỹ năng sống
“ GDKNS được thiết kế nhằm hỗ trợ và cũng cố việc thực thi các kỹ
năng tâm lý xã hội một cách phù hợp với nền văn hóa và sự phát triển, nó
đóng góp vào sự phát triển của cá nhân và xã hội, việc phòng chống các vấn
đề xã hội và sức khỏe, và sự phát triển của quyền con người” (Cuộc họp liên
ngành của Liên Hợp Quốc, Geneve, 07-4-1998).

Theo UNICEF, giáo dục dựa trên KNS cơ bản là sự thay đổi trong hành
vi hay một sự phát triển hành vi nhằm tạo sự cân bằng giữa kiến thức, thái độ,
hành vi. Ngắn gọn nhất đó là khả năng chuyển đổi kiến thức (phải làm gì) và
18


thái độ (ta đang làm gì, cảm xúc như thế nào, hay tin tưởng vào giá trị nào)
thành hành động (làm gì, và làm như thế nào). [33, tr.123]
GDKNS là những tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể GD
đến đối tượng GD nhằm nâng cao hiểu biết, khả năng vận dụng những kiến
thức, thái độ và phương thức hành động vào những tình huống nhất định
của đời sống, giúp họ thích ứng nhanh, xử lý, giải quyết đúng những đòi
hỏi, thách thức nảy sinh trong hoạt động và quan hệ xã hội.
1.1.3. Quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh tiểu
học
1.1.3.1. Quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh tiểu
học
Bản chất của quá trình quản lý hoạt động GD là sự tác động qua lại
giữa chủ thể quản lý và đối tượng quản lý nhằm trao đổi thông tin, kiểm soát
và điều khiển hoạt động của các cá nhân và các bộ phận, bảo đảm cho bộ máy
tổ chức vận hành thông suốt, hoạt động GD đạt tới mục đích đã đề ra.
Do đó, quản lý hoạt động GDKNS cho học sinh tiểu học là những tác
động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể QLGD ở đó đến toàn bộ quá trình
GDKNS nhằm nắm vững và điều khiển, điều chỉnh các hoạt động, nâng cao
nhận thức, định hướng thái độ và rèn luyện hành vi ứng phó một cách chủ
động, tích cực và phù hợp của học sinh với những tác động của môi trường
tự nhiên và xã hội.
- Chủ thể quản lý GDKNS cho HSTH.
- Đối tượng quản lý GDKNS cho HSTH.
- Mục đích quản lý GDKNS cho HSTH.

- Nội dung quản lý GDKNS cho HSTH.
- Phương pháp quản lý GDKNS cho HSTH.
1.1.3.2. Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh tiểu học

19


GDKNS cho HSTH là giúp cho các em phát triển KN cá nhân, KN
nhóm, KN tập thể, xác định rõ giá trị của bản thân và tập thể, sống tự tin và có
trách nhiệm với chính mình và xã hội.
Nội dung GDKNS cho HSTH phải đảm bảo cho học sinh có hiểu biết
đơn giản, cần thiết về tự nhiên, xã hội và con người; có KN cơ bản về nghe,
nói, đọc, viết và tính toán; có thói quen rèn luyện thân thể, giữ gìn vệ sinh; có
hiểu biết ban đầu về nghệ thuật. Tuy nhiên, nội dung GDKNS cho học sinh
trong các nhà trường tiểu học hiện nay còn xem trọng việc dạy chữ, chưa chú
trọng đúng mức dạy làm người, nhất là việc GDKNS cho học sinh.
* Phân loại kỹ năng sống
- KNS được chia thành 2 loại: KN cơ bản và KN nâng cao.
+ KN cơ bản gồm: KN nghe, nói, đọc, viết, múa, hát, đi, đứng, nhảy…
+ KN nâng cao là sự kế thừa và phát triển các KN cơ bản dưới một
dạng thức mới hơn. Nó bao gồm: Các KN tư duy logic, sáng tạo, suy nghĩ
nhiều chiều, phân tích, tổng hợp, so sánh, nêu khái niệm, đặt câu hỏi, xử lý
tình huống… Ở tiểu học, đối với các lớp đầu cấp, KN cơ bản được xem trọng,
còn các lớp cuối cấp nâng dần cho các em về KN nâng cao. Theo đó, chúng ta
cần tập trung rèn luyện cho các em 2 nhóm KNS sau đây:
Nhóm kỹ năng giao tiếp – hòa nhập cuộc sống
Bao gồm các KN: KN tự nhận thức và kỹ năng kiểm soát cảm xúc. Ở
nhóm KN này đòi hỏi các em phải thực hành những nội dung cơ bản sau:
- Biết giới thiệu về bản thân, về gia đình, về trường lớp học và bạn bè
thầy cô giáo.

- Biết chào hỏi lễ phép trong nhà trường, ở nhà và ở nơi công cộng.
- Biết nói lời cảm ơn, xin lỗi. Thực tế trong nhà trường, thông qua môn
Đạo đức, các hoạt động tập thể học sinh được dạy cách lễ phép nhưng khi đi
vào thực tế, nhiều em thiếu KN giao tiếp, không có thói quen chào hỏi, tự giới

20


thiệu mình với người khác, thậm chí có nhiều em còn không dám nói hoặc
không biết nói lời xin lỗi khi các em làm sai.
- Biết phân biệt hành vi đúng sai, phòng tránh tai nạn. Đây là KN quan
trọng mà không phải em nào cũng xử lý được nếu chúng ta không rèn luyện
thường ngày.
- Biết kiềm chế cảm xúc, thái độ hành vi của mình khi ứng xử với mọi
người, với mọi vật xung quanh, tránh những việc gây căng thẳng, cải vả trong
cuộc sống.
- Biết giải quyết các mâu thuẫn một cách hài hòa, hợp lý, biết khuyên
ngăn những hành vi sai trái, biết thông cảm và chia sẽ với mọi người xung
quanh. Thai độ và xử sự được chuẩn mực hơn, hài hòa hơn và tích cực hơn,
tạo ra được các môi quan hệ tốt với mọi người.
- Biết xin lỗi khi làm sai, biết khen khi có việc làm tốt và biết phê bình
tích cực khi một ai đó sai phạm.
Nhóm kỹ năng trong học tập, lao động – vui chơi giải trí
Bao gồm các KN: KN giao tiếp, KN hợp tác, KN tư duy sáng tạo. Ờ
nhóm KN này đòi hỏi các em phải thực hành những nội dung cơ bản sau:
- Biết lắng nghe, đọc, quan sát, đưa ra ý kiến chia sẻ trong nhóm.
- Biết giữ gìn vệ sinh cá nhân, vệ sinh chung.
- Biết ứng xử tốt trong giao tiếp sinh hoạt, biết chia sẽ công việc, chia
sẽ những khó khăn từ các bạn khác.
- Biết hoạt động nhóm trong học tập vui chơi, lao động hợp tác và

thân thiện.
- Biết tiếp thu, tôn trọng và quan tâm ý kiến người khác.
- Biết bày tỏ sư cảm thông cùng người khác, biết hợp tác và đương đầu
với mọi thử thách.

21


- Biết phát huy năng lực cá nhân, năng lực tập thể, không ghen tỵ hay
đố kỵ người giỏi hơn mình.
- Biết dung hòa các mối quan hệ trong tập thể, tránh những xung đột có
thể xảy ra.
- Biết quan sát, phân tích vấn đề một cách khoa học.
Thực tế các KN này được đưa vào mục tiêu cụ thể từng môn học, bài
học mà tập trung nhiều nhất là môn Đạo đức và Tiếng Việt. Để có hiệu quả
cao, chúng ta cần tổ chức tốt các biện pháp sau:
- Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính độc lập, sáng
tạo của học sinh gắn với thực tiễn, có tài liệu bổ trợ phong phú, sử dụng thiết
bị dạy học và ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học, luôn tạo cho các
em tính chủ động, tích cực, hứng thú trong học tập; phát huy tính sáng tạo, tạo
được bầu không khí cởi mở thân thiện của lớp của trường
- Tổ chức tốt hoạt động ngoại khóa, diễn đàn ở phạm vi khối lớp của
mình. Đưa trò chơi dân gian, hát dân ca và các loại hình sinh hoạt văn hóa dân
gian vào trường học, qua đó rèn luyện KNS cho học sinh.
- GV chủ nhiệm phải làm tốt công tác chủ nhiệm mà nhà trường phân
công, thường xuyên thay đổi các hình thức sinh hoạt lớp.
- Nhà trường cần tổ chức tốt các buổi chào cờ đầu tuần. Theo đó mục
tiêu buổi chào cờ không chỉ là đánh giá xếp loại nền nếp, học tập, các hoạt
động giáo dục trong tuần qua, triển khai kế hoạch tuần tới của Ban Giám hiệu
nhà trường mà cần thay đổi hình thức buổi lễ chào cờ một cách sáng tạo, rèn

luyện các kỹ năng sống cho học sinh trong các buổi sinh hoạt dưới cờ.
- Xây dựng trường, lớp xanh-sạch-đẹp-an toàn. Trong đó cần chú trọng
tạo môi trường tự nhiên gần gũi với cuộc sống như trồng vườn cây thuốc nam,
các câu khẩu hiệu ở các cây xanh, bồn hoa để thông qua đó mà giáo dục ý
thức bảo vệ mô trường ở các em.
22


GDKNS cho học sinh trong giai đoạn hiện nay là một yêu cầu cấp thiết
ở nhà trường nói chung, bậc tiểu học nói riêng. Trong lúc nội dung về rèn
luyện KNS chưa được đưa vào thành một chương trình riêng mà chủ yếu
được giáo viên lồng ghép trong từng bộ môn như giáo dục Đạo đức, Tiếng
Việt… hay trong các tiết chào cờ đầu tuần.
GDKNS bắt đầu từ những việc nhỏ nhất, gần gũi với cuộc sống hằng ngày
để tạo cho trẻ một thói quen với những câu từ đơn giản, dễ hiểu, phù hợp với tâm lý
lứa tuổi của từng bậc học. GDKNS tuyệt đối không được áp đặt suy nghĩ chủ quan
của người lớn. Không ít thầy cô giáo, các bậc phụ huynh thẳng thắn phê bình khi
các em làm điều chưa tốt mà không tìm hiểu cặn kẽ nguyên nhân dẫn đến việc trẻ
làm sai. Dorothy Holte chuyên gia tâm lý học người Nga đã nói: “Nếu trẻ sống với
sự phê bình, thì trẻ sẽ học cách chỉ trích”. Vì vậy, chương trình GDKNS phải làm
sao xóa bỏ tư tưởng này.
* Sự cần thiết phải dạy kỹ năng sống cho học sinh tiểu học
KNS vừa mang tính cá nhân vừa mang tính xã hội. Nó cần thiết đối với
HSTH để các em có thể ứng phó một cách tự tin, tự chủ và hoàn thiện hành vi
của bản thân trong giao tiếp, giải quyết các vấn đề của tự nhiên, cuộc sống với
mọi người xung quanh mang lại cho mỗi cá nhân cuộc sống thoải mái, lành
mạnh về thể chất, tinh thần và bền vững trong các mối quan hệ tự nhiên, xã hội.
Sau một thời gian áp dụng GDKNS ở một số nước trên thế giới, các
cuộc nghiên cứu đánh giá kết quả người ta nhận thấy những thanh thiếu nhi
đã được GDKNS có những hành vi đổi mới như:

- Biết hợp tác tốt hơn trong đội, nhóm.
- Có lối sống lành mạnh và nhận lấy trách nhiệm về sức khỏe của mình.
- Giải quyết mâu thuẫn một cách hòa bình.
- Biết phân tích có phán đoán các giá trị, quy chuẩn trong truyền thông
và ngoài xã hội.
- Thành công hơn trong các cuộc phỏng vấn xin việc làm.
23


- Biết tự khẳng định và xử sự bình đẳng.
- Biểu lộ bao dung, sự tôn trọng người khác và ý thức về giá trị bản
thân, tôn trọng quyền con người, biết quan tâm đến nhu cầu của người khác
và sẵn sàng giúp đỡ họ.
1.2. Nội dung quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống trong
nhà trường
1.2.1. Nội dung quản lý các kỹ năng sống
1.2.1.1 Quản lý kỹ năng tự nhận thức
Tự nhận thức là tự mình nhìn nhận, tự đánh giá về bản thân.
KN tự nhận thức là khả năng con người hiểu về chính bản thân mình,
như cơ thể, tư tưởng, các mối quan hệ xã hội của bản thân; biết nhìn nhận,
đánh giá đúng về tiềm năng, tình cảm, sở thích, thói quen, điểm mạnh, điểm
yếu,… của bản thân mình; quan tâm và luôn ý thức được mình đang làm gì,
kể cả nhận ra lúc bản thân đang cảm thấy căng thẳng.
Tự nhận thức là một KNS rất cơ bản của con người, là nền tảng để con
người giao tiếp, ứng xử phù hợp và hiệu quả với người khác cũng như để có
thể cảm thông được với người khác. Ngoài ra, có hiểu đúng về mình, con
người mới có thể có những quyết định, những sự lựa chọn đúng đắn, phù hợp
với khả năng của bản thân, với điều kiện thực tế và yêu cầu xã hội. Ngược lại,
đánh giá không đúng về bản thân có thể dẫn con người đến những hạn chế, sai
lầm, thất bại trong cuộc sống và trong giao tiếp với người khác.

Để tự nhận thức đúng về bản thân cần phải được trải nghiệm qua thực
tế, đặc biệt là giao tiếp với người khác.
Quản lý kỹ năng tự nhận thức tức là quản lý tốt sự giao tiếp, cảm nhận,
tâm lý của cá nhân với mọi vật xung quanh cuộc sống, quản lý tốt KN này
giúp con người phát triển tốt hơn sự hiểu biết về thiên nhiên, xã hội, con
người từ đó thích nghi và ứng xử đạt hiệu quả tốt hơn.
1.2.1.2. Quản lý kỹ năng kiểm soát cảm xúc
24


Kiểm soát cảm xúc là khả năng con người nhận thức rõ cảm xúc của
mình trong một tình huống nào đó, hiểu được ảnh hưởng của cảm xúc đối với
bản thân và đối với người khác thế nào, đồng thời biết cách điều chỉnh và thể
hiện cảm xúc một cách phù hợp. KN xử lý cảm xúc còn có nhiều tên gọi khác
như: xử lý cảm xúc, kiềm chế cảm xúc, làm chủ cảm xúc, quản lí cảm xúc.
Trong cuộc sống hàng ngày, con người thường gặp những tình huống
gây căng thẳng cho bản thân. Tuy nhiên, có những tình huống có thể gây căng
thẳng cho người này nhưng lại không gây căng thẳng cho người khác và
ngược lại. Vì vậy, việc kiểm soát cảm xúc rất cần thiết đối với quá trình phát
triển của trẻ.
Một người biết kiểm soát cảm xúc thì sẽ góp phần giảm căng thẳng
giúp giao tiếp và thương lượng hiệu quả hơn, giải quyết mâu thuẫn một cách
hài hòa và mang tính xây dựng hơn, giúp ra quyết định và giải quyết vấn đề
tốt hơn.
Khi bị căng thẳng mỗi người có tâm trạng, cảm xúc khác nhau: cũng có
khi là những cảm xúc tích cực nhưng thường là những cảm xúc tiêu cực gây
ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe thể chất và tinh thần của con người. Ở một
mức độ nào đó, khi một cá nhân có khả năng đương đầu với căng thẳng thì đó
có thể là một tác động tích cực, tạo sức ép buộc cá nhân đó phải tập trung vào
công việc của mình, bứt phá thành công. Nhưng mặt khác, sự căng thẳng còn

có một sức mạnh hủy diệt cuộc sống cá nhân nếu căng thẳng đó quá lớn, kéo
dài và không giải tỏa nổi.
Khi bị căng thẳng, tùy từng tình huống, mỗi người có thể có cách ứng
phó khác nhau. Cách ứng phó tích cực hay tiêu cực khi căng thẳng phụ thuộc
vào cách suy nghĩ tích cực hay tiêu cực của cá nhân trong tình huống đó.
KN ứng phó với căng thẳng là khả năng con người bình tĩnh, sẵn sàng
đón nhận những tình huống căng thẳng như là một phần tất yếu của cuộc
sống, là khả năng nhận biết sự căng thẳng, hiểu được nguyên nhân, hậu quả

25


×