Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Tội cướp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (732.01 KB, 78 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ TUYẾT THANH

TỘI CƯỚP TÀI SẢN THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Hà Nội, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ TUYẾT THANH

TỘI CƯỚP TÀI SẢN THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ
THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS: PHẠM MINH TUYÊN

Hà Nội, năm 2019


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu
nêu trong luận án là trung thực. Những kết luận khoa học của luận án chưa từng
được công bố trong bất kì công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

NGUYỄN THỊ TUYẾT THANH


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN ....................... 7
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của việc quy định tội cướp tài sản........................ 7
1.2. Khái quát lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam về tội cướp tài sản........................... 13
1.3. Phân biệt tội cướp tài sản với một số tội xâm phạm sở hữu khác............................ 17
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ 2015 VỀ TỘI CƯỚP TÀI
SẢN VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN ................................................ 22
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ...................................................................................... 22
2.1. Tội cướp tài sản theo quy định của BLHS 2015 .................................................... 22
2.2. Thực tiễn áp dụng quy định của BLHS về tội cướp tài sản trên địa bàn thành phố
Hồ Chí Minh ................................................................................................................. 31
Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG QUY ĐỊNH CỦA
BLHS VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN ................................................................................ 52
3.1. Sự cần thiết của việc áp dụng đúng các quy định của BLHS về tội cướp tài sản .. 52
3.2. Các giải pháp .......................................................................................................... 55
KẾT LUẬN ................................................................................................................... 69
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................... 70


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


ANTT

: An ninh trật tự

BLHS

: Bộ luật hình sự

BLTTHS

: Bộ luật tố tụng hình sự

CSĐT

: Cảnh sát điều tra

HSST

: Hình sự sơ thẩm

PBGDPL

: Phổ biến giáo dục pháp luật

TAND

: Tòa án nhân dân

THTP


: Tình hình tội phạm

UBND

: Ủy ban nhân dân

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Thống kê số vụ án cướp tài sản và số vụ án được khởi tố, điều tra tại
TP Hồ Chí Minh từ năm 2014 đến tháng 12/2018 ......................................... 34
Bảng 2.2. Thống kê số lượng các vụ án cướp tài sản đã xét xử tại TAND các cấp
tại TP Hồ Chí Minh từ năm 2014 đến tháng 12/2018 .................................... 35
Bảng 2.3. Biểu đồ phân tích dao động số vụ án cướp tài sản, bị cáo trong vụ án
cướp tài sản theo từng năm giai đoạn 2014-2018 .......................................... 35


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh xã hội ngày càng phức tạp, đấu tranh phòng, chống tội
phạm trong đó có tội phạm sở hữu càng được coi trong, trong đó vai trò xét
xử của Tòa án nhân dân đối với loại tội phạm này là không thể thiếu. Xét xử
án hình sự trong đó có xét xử tội cướp tài sản là cơ sở để TAND ban hành các

bản án, các quyết định mang tính chất trừng phạt, giáo dục, cải tạo người
phạm tội trở thành công dân có ích cho xã hội. Do vậy, nâng cao năng lực cơ
quan áp dụng pháp luật đặc biệt trong hoạt động xét xử các vụ án liên quan tới
tội cướp tài sản là trọng trách của Hệ thống Tòa án. Trước yêu cầu đó, Bộ
Chính trị đã ra Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 về một số nhiệm
vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới. Tiếp đó, Nghị quyết số
49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020 cũng xác định cải cách hoạt động xét xử, đây là chủ trương lớn
của Đảng và Nhà nước. Thực hiện chủ trương này, trong những năm qua hoạt
động xét xử của Hệ thống Tòa án đã đạt được những kết quả tích cực thể hiện
ở việc hoàn thiện quan điểm của Đảng, chính sách và pháp luật hình sự và tố
tụng hình sự theo hướng tạo điều kiện để các chủ thể tố tụng được tham gia và
tiến hành các hoạt động trong một môi trường pháp lý bình đẳng và thuận lợi
để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, góp phần giữ vững an ninh chính
trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ kịp thời lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp, chính đáng của các tổ chức và công dân.
Thành phố Hồ Chí Minh là thành phố lớn tại Việt Nam, đồng thời cũng
là một trong những trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa và giáo dục quan
trọng nhất của Việt Nam. Là thành phố trực thuộc Trung ương, thành phố Hồ
Chí Minh được xếp hạng đô thị đặc biệt. Tuy vậy, Thành phố Hồ Chí Minh
đang phải đối diện với những vấn đề của một đô thị lớn có dân số tăng quá
1


nhanh trong đó có tội phạm trật tự xã hội đặc biệt là hành vi cướp tài sản có
chiều hướng gia tăng và diễn biến phức tạp là vấn đề nhức nhối, gây hoang
mang trong dư luận xã hội.
Địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh vẫn là một điểm nóng về tội phạm trật
tự xã hội đặc biệt là hành vi trộm, cướp tài sản có diễn biến phức tạp và nguy
hiểm, ảnh hưởng tới đời sống yên bình cuả người dân. Mặc dù đã có nhiều cố

gắng, nỗ lực trong công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm nhưng hiệu quả
áp dụng quy định pháp luật liên quan tới các hành vi xâm phạm sở hữu nói
chung và hành vi cướp tài sản nói riêng trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh còn
chưa hiệu quả như mong đợi. Bên cạnh đó, BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm
2017) mới được thông qua và có hiệu lực từ ngày 01/01/2018, tuy nhiên qua
nghiên cứu, nội dung quy định của tội cướp tài sản đã phát sinh những điểm
còn chưa rõ ràng, cần phải có văn bản hướng dẫn để việc áp dụng trong thực
tiễn được chính xác và thống nhất. Xuất phát từ những lý do trên, học viên đã
chọn đề tài: “Tội cướp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn
thành phố Hồ Chí Minh” để làm đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong nội dung nghiên cứu về các quy định pháp luật hình sự Việt Nam
nói chung và tội cướp tài sản nói riêng, có thể nhắc tới nhiều công trình
nghiên cứu có giá trị như:
Về luận văn thạc sĩ:
- Nguyễn Thị Ngọc Hoa (2007), Luận văn thạc sĩ luật học “Đấu tranh
phòng chống tội cướp tài sản trên địa bàn tỉnh Nam Định” do TS Trương
Quang Vinh hướng dẫn, Hà Nội;
- Nguyễn Hải Yến (2013), Luận văn thạc sĩ luật học “Phòng ngừa tội
cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội” do PGS. TS. Lê Thị Sơn
hướng dẫn, Hà Nội;

2


- Trần Thị Lan Anh (2013), Luận văn thạc sĩ luật học “Phòng ngừa tội
cướp tài sản do người chưa thành niên thực hiện trên địa bàn thành phố Hà
Nội” do PGS. TS. Lê Thị Sơn hướng dẫn, Hà Nội.
Về các bài báo trên các tạp chí khoa học:
- Trần Thị Lịch (2016), Tội cướp tài sản trong Bộ luật Hình sự năm

1999, sửa đổi năm 2015 và một số giải pháp đấu tranh phòng, chống tội
phạm, Tạp chí Nghề Luật số 1/2016, tr. 56-58;
- Đặng Thúy Quỳnh (2012), Bàn về tội "Cướp giật tài sản" và tội
"Công nhiên chiếm đoạt tài sản" trong Bộ luật hình sự năm 1999, Tạp chí
Kiểm sát số 19/2012, tr. 24-25, 31;
- Đặng Thúy Quỳnh (2012), Phạm tội cướp giật tài sản dẫn đến chết
người hay phạm hai tội cướp giật tài sản và tội giết người, Tạp chí Tòa án
nhân dân số 24/2012, tr. 24-26.
- Nguyễn Trung Hòa (2018), Một số đặc điểm nhân thân của người
phạm tội cướp tài sản trên địa bàn các tỉnh, thành phố phía Nam, Tạp chí
Khoa học Kiểm sát số 5, tr. 37-40;
- Đặng Thúy Quỳnh (2012), Một số giải pháp đấu tranh phòng, chống
tội phạm cướp giật tài sản, Tạp chí Kiểm sát số 22/2012, tr. 38-42.
- Trần Đình Hải (2015), Một số kiến nghị hoàn thiện quy định của Bộ
luật hình sự năm 1999 về "Tội cướp tài sản", Tạp chí Kiểm sát số 3/2015, tr.
38-43.
- Nguyễn Văn Khoa Điềm (2018), Một số vấn đề đặt ra trong công tác
phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản hiện nay trên địa bàn Thành phố Hồ
Chí Minh, Tạp chí Khoa học Kiểm sát số 4/2018, tr. 34-42.
Các nghiên cứu trên một mặt đã đề cập đến các vấn đề lý luận cơ bản
của pháp luật hình sự và tố tụng hình sự liên quan tới tội cướp tài sản. Đồng
thời, nghiên cứu cũng đã phần nào đề cập những vấn đề thực tiễn cùng những
3


giải pháp kiến nghị nhưng mới dừng lại ở mức độ khá chung chung và chưa
có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống về loại tội
này tại một địa bàn cụ thể là Thành phố Hồ Chí Minh đặc biệt trong giai đoạn
BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) mới có hiệu lực từ ngày 01/01/2018. Do
đó có thể nói, đây là công trình nghiên cứu đầu tiên đề cập đến tội cướp tài

sản theo quy định của BLHS 2015 từ thực tiễn tại Thành phố Hồ Chí Minh.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích các nguồn tài liệu và số liệu về tình hình tội phạm
cướp tài sản trên cả nước và trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh, các các bài viết
phân tích của chuyên gia, chính sách và quy định pháp luật hình sự hiện hành
và BLHS năm 2015 của Việt Nam liên quan tới tội cướp tài sản, luận văn đi
sâu phân tích, đánh giá quá trình và kết quả thực tiễn áp dụng pháp luật hình
sự đối với loại tội phạm này tại TP. Hồ Chí Minh trong giai đoạn từ 2015 đến
2019. Đồng thời luận văn cũng đưa ra các ý kiến góp phần hoàn thiện các quy
định pháp luật có liên quan trong điều kiện hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu tổng hợp kết quả nghiên cứu từ các công trình khoa học
của các tác giả đi trước có liên quan đến đề tài luận văn, tác giả kế thừa có
chọn lọc và phát triển ý tưởng khoa học, từ đó đưa ra những luận điểm của
mình về vấn đề nghiên cứu. Nhiệm vụ nghiên cứu mà luận án hướng tới là:
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về tội cướp tài sản trong BLHS qua
các thời kỳ cũng như quy định theo pháp luật hiện hành.
- Phân tích, đánh giá các kết quả thực thi pháp luật hình sự giai đoạn
2015-2019 liên quan tới tội cướp tài sản, so sánh và kinh nghiệm một số quốc
gia trên thế giới về vấn đề này;

4


- Đề xuất những kiến nghị hoàn thiện pháp luật quy đinh về tội cướp tài
sản và áp dụng đúng pháp luật về tội này trong thực tiễn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận pháp luật hình sự về tội
phạm cướp tài sản và thực tiễn áp dụng pháp luật trên địa bàn TP. Hồ Chí

Minh hiện nay.
- Thời gian: giai đoạn 2015 - 2019.
- Địa bàn: thực tiễn áp dụng tại TP. Hồ Chí Minh, chủ yếu là số liệu
của Tòa án nhân dân thành phố và cấp huyện.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được hoàn thành trên cơ sở vận dụng các phương pháp luận
duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh phòng, chống
tội phạm cướp tài sản.
Luận văn có sử dụng những phương pháp nghiên cứu khoa học xã hội
được sử dụng phổ biến trong các công trình nghiên cứu khoa học xã hội như
phân tích, phương pháp tổng hợp, so sánh, thống kê, phương pháp lịch sử, tư
duy logic, quy nạp, diễn giải… nhằm làm sáng tỏ nội dung và phạm vi nghiên
cứu của đề tài.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn đề tài tổng hợp những vấn đề khoa
học, cơ sở lý luận trong pháp luật hình sự Việt Nam về tội cướp tài sản; từ đó
đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh trong giai
đoạn từ năm 2015 đến năm 2019. Luận văn cũng đưa một số giải pháp nhằm
hoàn thiện hệ thống quy phạm pháp luật liên quan tới loại tội phạm này.
Những kết quả nghiên cứu có thể được sử dụng vào mục đích tham khảo
trong giảng dạy và học tập các học phần pháp luật hình sự; tội phạm học…
5


7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, kết cấu luận văn bao gồm 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về tội cướp tài sản trong pháp luật
hình sự Việt Nam.
Chương 2: Tội cướp tài sản theo quy định của BLHS 2015 và thực tiễn

xét xử trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
Chương 3: Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của
BLHS về tội cướp tài sản.

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của việc quy định tội cướp tài
sản
1.1.1. Khái niệm tội phạm và tội cướp tài sản
Khái niệm tội phạm
Có rất nhiều cách định nghĩa về tội phạm. Điều 14 Bộ luật hình sự
Cộng hòa liên bang Nga năm 1996, sửa đổi năm 2010 quy định: “Tội phạm là
hành vi có lỗi gây nguy hiểm cho xã hội, bị cấm bởi Bộ luật hình sự và phải
chịu hình phạt. Hành động (hoặc không hành động), mặc dù về hình thức có
bao hàm những dấu hiệu của một hành vi nào đó được Bộ luật này quy định
nhưng do tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể thì không phải là tội
phạm” [23].
Điều 13 Bộ luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa năm 1997, sửa
đổi năm 2005 quy định: “Mọi hành vi gây nguy hại đến chủ quyền, toàn vẹn
lãnh thổ và an ninh quốc gia; chia cắt quốc gia; lật đổ chính quyền chuyên
chính dân chủ nhân dân và xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa; phá hoại trật tự
kinh tế xã hội; xâm phạm tài sản thuộc sở hữu nhà nước và tài sản thuộc sở
hữu tập thể của quần chúng lao động; xâm phạm tài sản thuộc sở hữu riêng
của công dân; xâm phạm các quyền nhân thân dân chủ và các quyền khác
của công dân cũng như các hành vi khác gây nguy hại cho xã hội được quy
định là tội phạm. Những hành vi nhỏ nhặt gây hại không lớn thì không phải là
tội phạm” [5].

Căn cứ Khoản 1 Điều 8 Bộ luật Hình sự năm 2015, định nghĩa về tội
phạm như sau: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định
trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp
nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ
7


quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế
độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền,
lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp
pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã
hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự.” [12].
Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 và Nghị quyết thi hành Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Bộ luật Hình sự xây dựng khái niệm tội phạm đã có sự
thay đổi theo hướng bổ sung thêm quy định đối với pháp nhân thương mại,
đồng thời bổ sung trường hợp xâm phạm quyền con người.
Khái niệm tội phạm theo BLHS 2015 có thể được coi là khái niệm cơ
bản nhất trong luật hình sự Việt Nam. Khái niệm này một mặt là cơ sở thống
nhất cho việc xác định những tội phạm cụ thể trong Phần các tội phạm của Bộ
luật hình sự, mặt khác trực tiếp thể hiện một cách rõ nét những nguyên tắc cơ
bản của luật hình sự Việt Nam.
Khái niệm tội cướp tài sản
Tội cướp tài sản được quy định tại Điều 168 BLHS năm 2015, sửa đổi
2017. Theo đó, người có hành vi cướp tài sản được hiểu là: Người nào dùng
vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người
bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài
sản.
Về biểu hiện hành vi, nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng tội cướp tài sản
thường xuất hiện với một số hành vi phổ biến [2], đó là:
(1) Hành vi dùng vũ lực làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng

không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản: hành vi này được hiểu là
hành vi dùng sức mạnh vật chất (có hoặc không sử dụng công cụ, phương tiện
phạm tội như dao, súng... trợ giúp) tác động đến thân thể người bị tấn công
(thường là người chủ tài sản hoặc người có trách nhiệm quản lí, bảo vệ tài sản
8


làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được
nhằm... Thông qua việc tấn công, người phạm tội bộc lộ ý muốn và mục đích
làm tê liệt sự chống cự của người bị tấn công, làm cho khả năng thực tế của
sự chống cự không thể xảy ra hoặc làm cho người bị tấn công bị tê liệt về ý
chí, không dám kháng cự” [24]. Ví dụ: làm cho người bị tấn công bị thương
tích, bị trói lại, bị nhốt lại thậm chí bị giết chết nhằm chiếm đoạt tài sản. Khi
người bị tấn công đã (bị trói, bị thương, bị chết, bị tước tự do...) như vậy
chính là họ đã "lâm vào tình trạng không thể chống cự được" mà điều luật quy
định. Tiêu chí này cũng là cơ sở để phân biệt hành vi mức độ nguy hiểm của
hành vi dùng vũ lực trong tội cướp tài sản và hành vi dùng vũ lực trong tội
cướp giật tài sản (Điều 171 BLHS). Vì vậy nếu hành vi dùng vũ lực mà không
làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được,
"không đến mức làm tê liệt ý chí phản kháng của nạn nhân hoặc làm cho sự
phản kháng không thể xảy ra nhằm chiếm đoạt tài sản như định (mong muốn)
đánh, bắn, chém... bị thương người khác nhằm chiếm đoạt tài sản của họ
nhưng lại bắn chệch hoặc bị người này tránh được và ngăn chặn hay chống lại
được và cũng không chiếm đoạt được tài sản là trường hợp phạm tội chưa đạt
[17].
(2) Hành vi đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc làm cho người bị tấn
công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản:
đây là trường hợp người phạm tội dùng lời lẽ nhằm đe doạ (dọa giết chết, dọa
gây thương tích hoặc tổn hại sức khoẻ) hoặc cử chỉ (dí dao, súng vào người)
hoặc và thường là kết hợp cả hai (có lời nói, cử chi đe doạ và kèm theo công

cụ, phương tiện trợ giúp) dọa sẽ dùng vũ lực ngay tức khắc nếu người bị tấn
công (người chủ tài sản người quản lí tài sản, người thân của người chủ tài
sản...) chống cự lại. Bằng hành vi đe dọa, ví dụ: dọa đâm, chém hay bắn chết
ngay... như vậy, người phạm tội vừa mong muốn và thực tế khống chế được ý
9


chí của người bị tấn công, làm cho người bị tấn công bị tê liệt ý chí kháng cự,
người bị tấn công sợ bị giết chết ngay, sợ bị gây thương tích ngay hoặc sợ quá
mà bị ngất, bị chết nên không có điều kiện kháng cự lại. Khi đạt được những
mục đích như vậy, tội cướp tài sản được coi là hoàn thành. Khi người bị tấn
công không chống cự như vậy chính là dấu hiệu quan trọng cho phép phân
biệt hành vi “đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc” trong tội cướp tài sản có dấu
hiệu này với hành vi “đe doạ sẽ dùng vũ lực” trong tội cưỡng đoạt tải sản
không có dấu hiệu này mà chỉ có khả năng khống chế ý chí của người bị đe
dọa, người bị đe doạ vẫn có điều kiện suy nghĩ, cân nhắc để lựa chọn việc
chống lại nếu muốn. Ở tội cưỡng đoạt tài sản người phạm tội không nhằm
(mong muốn) làm cho người bị đe doạ lâm vào tình trạng không thể chống cự
được và thực tế người bị tấn công cũng không bị tê liệt ý chí - không lâm vào
tình trạng không thể chống cự được. Những trường hợp khác có thể coi là
phạm tội chưa đạt như: dùng súng giả dọa bắn chết ngay nhằm... nhưng người
bị đe doạ nhận thức được đó là súng giả và chống cự lại; hoặc dọa đâm, bắn
chết ngay nhằm… nhưng người bị tấn công do có võ đã gạt được dao, súng vô
hiệu hoá và bắt giữ được kẻ tấn công.
(3) Hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không
thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản: là những hành vi “tuy không
phải là vũ lực hay đe doạ dùng vũ lực nhưng lại có khả năng như những hành
vi đó, khả năng làm cho người bị tấn công không thể ngăn cản được việc
chiếm đoạt” [24]. Ví dụ: Hành vi đầu độc bằng thuốc ngủ, hành vi dùng thuốc
gây mê, hành vi dùng rượu hoặc chất kích thích khác đầu độc làm mất khả

năng phản kháng của người bị tấn công là những trường hợp cụ thể của hành
vi khác nói trong điều luật. Cũng như các hành vi dùng vũ lực và hành vi đe
doạ dùng vũ lực ngay túc khắc, hành vi khác này dù dưới hình thức cụ thể nào
cũng đều phải làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống
10


cự được nhằm... mới thoả mãn dấu hiệu hành vi khách quan của tội cướp tài
sản và tội phạm được coi là hoàn thành. Còn nếu đã có hành vi khác nào đó
mà chưa làm cho nạn nhân lâm vào tình trạng không thể chống cự được (ví
dụ: đã bỏ thuốc mê, thuốc độc... nhưng nạn nhân chưa ăn, chưa uống phải
thuốc mê, thuốc độc đó hoặc thuốc độc sử dụng để đầu độc là thuốc giả nên
người bị tấn công tuy đã uống nhưng không bị lâm vào tình trạng không thể
chống cự được và người phạm tội cũng chưa chiếm đoạt được tài sản) thì phải
coi đây là trường hợp phạm tội chưa đạt.
1.1.2. Đặc điểm tội cướp tài sản
Từ định nghĩa kể trên, cũng cho thấy tội cướp tài sản mang những đặc
điểm cơ bản:
Thứ nhất, tội cướp tài sản là hành vi nguy hiểm cho cộng đồng và xã
hội, đe dọa an ninh, sức khỏe, tính mạng và tài sản của nhân dân.
Hành vi tội phạm cướp tài sản là hành vi trực tiếp dùng vũ lực hoặc đe
dọa dùng vũ lực gây ra những thiệt hại thực tế về tài sản, sức khỏe, tinh thần
đáng kể cho bị hại và xã hội. Căn cứ vào nội dung, tính chất của quan hệ xã
hội mà luật hình sự bảo vệ, tính chất và mức độ lỗi, thủ đoạn, động cơ , mục
đích, nhân thân người phạm tội… và đặt những căn cứ này vào mối liên hệ
thống nhất với nhau, tội phạm cướp tài sản xâm phạm trực tiếp tới quyền bất
khả xâm phạm về tính mạng, sức khỏe và tài sản của công dân.
Thứ hai, tội cướp tài sản là hành vi có lỗi của người thực hành.
Theo lý luận, lỗi được hiểu là trạng thái tâm lý bên trong của những
người có hành vi vi phạm pháp luật hoặc tội phạm đối với hành vi trái pháp

luật và gây nguy hiểm cho xã hội của mình, cũng như cảm giác phát sinh đối
với hậu quả do hành vi đó gây ra. Tội phạm cướp tài sản gây thiệt hại được
coi là có lỗi cố ý trực tiếp bởi chủ thể đã lựa chọn, quyết định thực hiện hành

11


vi đó khi đủ điều kiện lựa chọn và quyết định thực hiện hành vi đó khi có điều
kiện lựa chọn và quyết định xử sự khác không có hại cho xã hội.
Thứ ba, tội cướp tài sản là hành vi trái pháp luật Hình sự.
Một hành vi gây nguy hiểm cho xã hội nhưng không đươc quy định
trong pháp luật Hình sự thì không được coi là tội phạm. Nói cách khác, chỉ
những hành vi làm sai những quy định của pháp luật Hình sự, thỏa mãn
những mô tả của pháp luật Hình sự thì mới bị coi là tội phạm. Điều đó có
nghĩa Luật Hình sự nghiêm cấm việc áp dụng tương tự pháp luật. Đây là đặc
điểm thể hiện tính hình thức pháp luật, được quy định bởi dấu hiệu nội dung
của tội phạm là tính nguy hiểm cho xã hội và có lỗi. Thực tế, tội cướp tài sản
đã được quy định tại Điều 168 BLHS năm 2015.
Thứ tư, tội cướp tài sản là hành vi phải chịu hình phạt với mức hình
phạt cao nhất là tù chung thân.
Mức khung hình phạt cao nhất được áp dụng đối với tội phạm cướp tài
sản cho thấy đặc điểm trên là hệ quả của việc xác định tội phạm cướp tài
sảncó thể thỏa mãn dấu hiệu đặc biệt nguy hiểm cho xã hội và dấu hiệu lỗi,
đồng thời là hậu quả mà người thực hiện hành vi đó phải gánh chịu khi làm
trái với quy định của pháp luật Hình sự. Khung hình phạt cao nhất là chung
thân áp dụng đối với tội cướp tài sản là sự đánh giá tính chất hiểm họa của
loại tội phạm này đối với xã hội.
1.1.3. Ý nghĩa của việc quy định tội cướp tài sản trong pháp luật hình
sự Việt Nam
Trong đời sống xã hội, pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng. Nó là

phương tiện không thể thiếu, bảo đảm cho sự tồn tại, vận hành bình thường
của xã hội nói chung và của nền đạo đức nói riêng. Pháp luật không chỉ là một
công cụ quản lý nhà nước hữu hiệu, mà còn tạo môi trường thuận lợi cho sự
phát triển của ý thức đạo đức, làm lành mạnh hoá đời sống xã hội và góp phần
12


bồi đắp nên những giá trị mới. Trong tiến trình phát triển của đất nước, việc
nâng cao vai trò của pháp luật là tất yếu. Yêu cầu này hướng tới xây dựng một
xã hội pháp quyền xã hội chủ nghĩa có kỷ cương, văn minh, đồng thời đảm
bảo pháp chế và quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.
Các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội đều chịu sự chi phối của
nhiều quy tắc luật pháp mà mọi người phải tôn trọng nhằm tránh gây phương
hại quyền lợi của người khác và của cộng đồng. Để bảo đảm sự tuân thủ, mỗi
ngành luật phải có các biện pháp chế tài đối với hành vi bất tuân, tức các chế
tài riêng trong từng ngành. Những hành vi nguy hiểm đối với trật tự xã hội
hội đủ các yếu tố được minh định trong luật hình sự chính là tội phạm, và đã
được coi là tội phạm thì những hành vi này phải gây ra những thiệt hại thực tế
ở mức nghiêm trọng cho xã hội và cộng đồng, thậm chí có những hành vi xâm
phạm cần phải được loại bỏ ra khỏi đời sống chung để đảm bảo trị an.
Việc ghi nhận tội cướp tài sản trong Bộ luật hình sự thể hiện sự cần
thiết cho việc duy trì trật tự xã hội, đời sống xã hội chỉ ổn định và phát triển
đảm bảo sự tự do của mỗi người được thực thi trên cơ sở tôn trọng tự do của
người khác. Ngoài ra, việc ghi nhận tội cướp tài sản còn phù hợp với xu thế
pháp điển hóa pháp luật hình sự, ghi nhận các tội phạm mới hình thành để có
cơ sở pháp lý trong áp dụng hình phạt đối với người phạm tội, góp phần răn
đe và phòng ngừa chung.
1.2. Khái quát lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam về tội cướp tài sản
1.2.1. Giai đoạn trước năm 1945
Trong giai đoạn phong kiến, tội cướp tài sản và tội trộm tài sản không

có sự phân biệt rạch ròi. Các hướng dẫn hình phạt được ghi nhận trong nhiều
văn bản luật thời phong kiến, đơn cử như Bộ luật Hồng Đức nhà Lê có hẳn
một chương về “Đạo tặc” quy định về những hành vi xâm phạm quyền sở hữu
tài sản hợp pháp của người dân, chính quyền và cơ sở tôn giáo. Căn cứ theo
13


đối tượng tác động của tội phạm có các tội xâm phạm sở hữu tài sản sau đây:
Tội lấy trộm ấn, xe, kiệu, đồ ngự dụng của vua (Điều 430), tội lấy trộm những
đồ thờ trong lăng, miếu (Điều 431), tội lấy trộm những đồ cúng thần, phật
(Điều 432), tội trộm, phá tượng thần (Điều 433), tội lấy trộm những đồ trong
cung (Điều 434), tội lột lấy quần áo, đồ vật của trẻ em, người điên, người say
(Điều 435), tội lấy trộm đồ vật của sứ thần ngoại quốc (Điều 438), tội đào và
lấy trộm đồ vật nơi mồ mả (Điều 442), tội lấy trộm trâu, ngựa thuyền bè
(Điều 444), tội bắt trộm cá tại đầm ao (Điều 445), tội bắt trộm gà, lợn, lấy
trộm lúa (Điều 446) và tội lấy trộm văn tự cầm cố (Điều 448) [9].
1.2.2. Giai đoạn từ cách mạng tháng 8 năm 1945 đến trước khi pháp
điển hóa Bộ luật hình sự năm 1985
Trong giai đoạn từ năm 1945 đến trước năm 1985, cũng giống như các
tội phạm hình sự khác, tội cướp tài sản chưa được quy định cụ thể như một
điều luật mà được quy định trong các văn bản hành chính như: Thông tư, Sắc
lệnh cụ thể như: Thông tư số 60 ngày 28/6/1947 của Liên Bộ Tư pháp - Quốc
phòng, Sắc lệnh số 12/SL ngày12/3/1949 quy định việc trừng phạt các tội
trộm cắp, cướp vật dụng của nhà binh ở những nơi có chiến sự sẽ bị phạt đến
tử hình.
Trong đó, thời kỳ từ năm 1945 đến 1954, Thủ tướng chính phủ đã ban
hành Thông tư số 442/TTg ngày 19/01/1955 hướng dẫn một số Tòa án trừng
trị một số tội phạm, trong đó có tội cướp tài sản.
Đến thời kỳ năm 1959 đến 1970, Ủy Ban thường vụ Quốc hội Việt
Nam dân chủ cộng hòa ngày 21/10/1970 đã thông qua hai Pháp lệnh: “Pháp

lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản XHCN” trong đó Điều 4 quy định tội
cướp tài sản xã hội chủ nghĩa và “Pháp lệnh trừng trị các tội phạm xâm phạm
tài sản công dân” quy định tại Điều 3 tội cướp tài sản riêng của công dân [10].

14


1.2.3. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985
đến trước khi pháp điển hóa Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999
Đây là giai đoạn đánh dấu lần đầu tiên Việt Nam pháp điển hóa luật
hình sự. Trong BLHS năm 1985, tội cướp tài sản được quy định tại hai điều
luật, và nằm trong 2 chương khác nhau, gồm: Điều 129. Tội cướp tài sản
XHCN thuộc Chương IV “Các tội xâm phạm sở hữu Xã hội chủ nghĩa” và
Điều 151 Tội cướp tài sản công dân thuộc Chương VI “Các tội xâm phạm sở
hữu công dân”. Theo đó, tội cướp tài sản của công dân được quy định tại Bộ
luật Hình sự số 17-LCT/HĐNN7 năm 1985: “1- Người nào dùng vũ lực, đe
doạ dùng ngay tức khắc vũ lực hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn
công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản,
thì bị phạt tù từ ba năm đến mười hai năm”. Với hai quy định này, các hành vi
cướp tài sản bước đầu bị xử lý nghiêm. Song, vẫn còn những bất cập của
BLHS năm 1985, mặc dù đã nhiều lần chỉnh sửa bổ sung (4 lần chỉnh sửa bổ
sung), nhưng BLHS năm 1985 vẫn còn rất nhiều hạn chế: vừa phải chịu ảnh
hưởng bởi cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp không phù hợp cho việc bảo vệ
các quan hệ phát sinh trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa; vừa bị hạn chế về mặt kỹ thuật lập pháp hình sự.
1.2.4. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999
đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 2015
Ngày 21/12/1999, Quốc hội khóa X thông qua BLHS năm 1999 (tiếp
đó sửa đổi, bổ sung vào năm 2009) dựa trên những kết quả pháp điển hóa của
BLHS năm 1985 (và 04 lần sửa đổi, bổ sung). Sau nhiều năm thi hành, BLHS

năm 1999 đã tác động tích cực đối với công tác phòng, chống tội phạm, bảo
vệ và thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tội cướp tài sản
được quy định tại Điều 133 BLHS năm 1999 thuộc Chương XIV “Các tội
xâm phạm sở hữu”. Tội cướp tài sản được quy định tại Điều 133 BLHS năm
15


1999. So với BLHS năm 1985, quy định tại BLHS năm 1999 đã định nghĩa cụ
thể hơn. Điều luật đã cơ bản định nghĩa được tội cướp tài sản, xác định được
các dấu hiệu của tội phạm này, đồng thời quy định trách nhiệm hình sự đối
với loại tội phạm này, các hình phạt tương ứng với hành vi phạm tội cướp tài
sản. Tuy vậy, điều luật vẫn chứa đựng những hạn chế cần được tiếp tục chỉnh
sửa.
1.2.5. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015
đến nay
So với Bộ luật Hình sự năm 1999, tội cướp tài sản theo trong Bộ luật
Hình sự năm 2015 đã có nhiều điểm chỉnh sửa, bổ sung theo hướng dễ hiểu
hơn, giảm nhẹ khung hình phạt và đã bỏ hành phạt tử hình đối với tội danh
này. Trước đây, tội cướp tài sản theo Điều 133, BLHS năm 1999 chỉ quy định
5 khoản nhưng đến Điều 168, BLHS năm 2105 đã thêm một khoản trong điều
luật chính là người chuẩn bị phạm tội cướp tài sản cũng bị truy cứu trách
nhiệm hình sự và chịu hình phạt tù từ một năm đến năm năm.
Cụ thể, BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 so với BLHS năm
1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 đã bỏ tình tiết định khung hình phạt “Gây hậu
quả nghiêm trọng” và bổ sung các tình tiết sau đây làm tình tiết định khung
hình phạt tại khoản 2: phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là
có thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ; gây ảnh hưởng
xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
Quy định mới cũng bỏ tình tiết định khung hình phạt “Gây hậu quả rất
nghiêm trọng” và bổ sung tình tiết “Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh” làm tình

tiết định khung hình phạt tại khoản 3. Đồng thời, bỏ tình tiết định khung hình
phạt “Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” và bổ sung tình tiết “Gây thương
tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể
của mỗi người từ 31% trở lên; Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh” làm tình tiết
16


định khung hình phạt tại khoản 4. Đồng thời bỏ hình phạt tử hình tại khoản 4
Điều 168 BLHS.
1.3. Phân biệt tội cướp tài sản với một số tội xâm phạm sở hữu khác
1.3.1. Phân biệt tội cướp tài sản với tội trộm cắp tài sản
Tội trộm cắp tài sản quy định tại Điều 173 BLHS có một số đặc điểm
để phân biệt với tội cướp tài sản tại Điều 168 như sau:
Về khách thể: tội cướp tài sản có xâm phạm tới quyền sở hữu, sức khỏe
và tính mạng của nạn nhân còn trộm cắp chỉ xâm phạm tới quyền sở hữu
nhưng không xâm phạm tới sức khỏe, tính mạng của nạn nhân.
Về hành vi khách quan: hành vi cướp tài sản có dấu hiệu đặc trưng là
hành vi dùng vũ lực hoặc đe dọa dung vũ lực ngay tức khắc hoặc dùng các
hành vi khác có khả năng làm cho nạn nhân mất hoàn toàn khả năng phản
kháng sau đó chiếm đoạt tài sản. Còn tội phạm trộm cắp tài sản dấu hiệu đặc
trưng lại là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác.
Về giá trị tài sản xâm phạm: nếu như tội cướp tài sản không giới hạn
giá trị tối thiểu tài sản bị chiếm đoạt thì đối với tội phạm trộm cắp, TNHS chỉ
phát sinh với hành vi trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu
đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc hai triệu đồng nhưng gây hậu quả
nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị
kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm.
1.3.2. Phân biệt tội cướp tài sản với tội cưỡng đoạt tài sản
Dấu hiệu hành vi của tội phạm cưỡng đoạt tài sản là hành vi uy hiếp
tinh thần của người có trách nhiệm về tài sản bằng những thủ đoạn đe doạ sẽ

dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác làm cho người có trách nhiệm về tài sản lo sợ
mà phải giao tài sản cho người phạm tội. Hành vi đe doạ sẽ dùng vũ lực của
người phạm tội là hành vi (lời nói hoặc hành động) làm cho người bị đe dọa
sợ nếu không giao tài sản cho người phạm tội thì sẽ bị đánh đập tra khảo, bị
17


đau đớn về thể xác. Điều luật cũng cho thấy thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần
có thể là những thủ đoạn như: doạ sẽ tố cáo với chồng về việc vợ ngoại tình,
doạ sẽ tố cáo việc phạm tội hoặc việc làm sai trái của người có tài sản hoặc
người có tránh nhiệm về tài sản...
Điểm giống nhau của hai tội danh này
Về mặt khách thể: Người phạm phải hai tội này đều có hành vi xâm
phạm đến quyền sở hữu của người khác; đồng thời cũng xâm phạm đến quyền
nhân thân do có thực hiện hành vi tác động đến người đang quản lý tài sản.
Về mặt chủ thể: Người được cho là phạm vào hai tội danh trên đều là
người có năng lực trách nhiệm hình sự (từ 14 tuổi trở lên). Tuy nhiên, đối với
cưỡng đoạt tài sản thì phải là “người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi” thì mới
phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng. Theo đó, nếu tội phạm ít nghiêm trọng, nghiêm trọng thì phải
từ đủ 16 tuổi mới chịu trách nhiệm hình sự.
Xét về yếu tố lỗi: Hành vi phạm vào hai tội này là hành vi cố ý trực tiếp
với mục đích nhằm chiếm đoạt tài sản (mục đích bắt buộc). Và xét về loại cấu
thành tội phạm: Khi được xem là đã phạm phải hai tội danh trên thì thời điểm
hoàn thành tội phạm là thời điểm thực hiện hành vi, mà không cần xét đến
việc đã chiếm đoạt được tài sản hay chưa.
Điểm khác nhau giữa hai tội danh
Về hành vi khách quan: Đối với tội “cướp tài sản”, thì người phạm tội
"dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho
người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm

đoạt tài sản”. Trong đó, dùng vũ lực được hiểu là dùng sức mạnh vật chất tấn
công người chủ tài sản, người quản lý tài sản hoặc bất kỳ người nào khác
ngăn cản việc chiếm đoạt của người phạm tội nhằm đè bẹp sự phản kháng,
làm tê liệt ý chí của nạn nhân để chiếm đoạt tài sản. Hành vi dùng vũ lực
18


thường là đấm, đá, trói… hoặc kèm theo sử dụng các phương tiện, công cụ
như dao, súng…. Đe dọa dùng vũ lực trong tội cướp tài sản còn tính đến yếu
tố "ngay tức khắc”, tức là, nó có tính chất mãnh liệt hơn làm cho người bị đe
dọa thấy rằng khi bị đe dọa nếu họ không làm theo yêu cầu của người phạm
tội thì người phạm tội sẽ dùng vũ lực ngay với mình và họ sẽ không hoặc khó
có điều kiện tránh khỏi, việc này.
Đối với tội “cưỡng đoạt tài sản”, người được xem là phạm tội có hành
vi "đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác
nhằm chiếm đoạt tài sản”. Trong đó, dùng vũ lực được hiểu là dùng sức mạnh
vật chất tấn công người chủ tài sản, người quản lý tài sản hoặc bất kỳ người
nào khác ngăn cản việc chiếm đoạt của người phạm tội nhằm đè bẹp sự phản
kháng, làm tê liệt ý chí của nạn nhân để chiếm đoạt tài sản. Hành vi dùng vũ
lực thường là đấm, đá, trói… hoặc kèm theo sử dụng các phương tiện, công
cụ như dao, súng… Đe dọa dùng vũ lực trong tội cưỡng đoạt tài sản thì có
tính chất nhẹ hơn, người bị đe dọa cảm nhận được giữa hành vi đe dọa và việc
dùng vũ lực có khoảng cách về thời gian, tức là hành vi dùng vũ lực chỉ xảy
ra ở thì tương lai chứ không phải ở thì hiện tại như hành vi dùng vũ lực, đe
dọa dùng vũ lực ngay tức khắc ở tội cướp tài sản.
Về tình trạng ý chí của nạn nhân: Đối với tội “cướp tài sản” thì nạn
nhân không có sự lựa chọn, bị tê liệt ý chí và tê liệt sự phản kháng, họ buộc
phải thỏa mãn yêu cầu của người phạm tội nhằm tránh bị người phạm tội tấn
công "tức khắc”. Đối với tội “cưỡng đoạt tài sản”, thì nạn nhân chưa đến mức
bị tê liệt ý chí chống cự của người bị đe dọa mà hành vi cưỡng chế chỉ có thể

khống chế ý chí của họ. Người bị đe dọa còn có điều kiện suy nghĩ, cân nhắc
để quyết định việc có trao tài sản cho người đe dọa hay không.
Xem xét về hình phạt: Đối với tội “cướp tài sản” có hình phạt nặng
hơn.
19


×