Tải bản đầy đủ (.doc) (52 trang)

SKKN biện pháp quản lý hoạt động học tập của học sinh trung học phổ thông khu vực miền núi tỉnh vĩnh phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (307.46 KB, 52 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG THPT NGÔ GIA TỰ

----------------

BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN

TÊN SÁNG KIẾN
BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP
CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG KHU VỰC MIỀN
NÚI TỈNH VĨNH PHÚC

Tác giả sáng kiến: Hà Trọng Bình
Mã sáng kiến: 15.68.02
1


1. LỜI GIỚI THIỆU
Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trong chiến lược phát triển giáo dục 2011-2020 của Chính phủ đã khẳng
định: “Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, nâng cao chất lượng giáo dục
vùng khó để đạt được mặt bằng chung, đồng thời tạo điều kiện để các địa phương
và cơ sở giáo dục có điều kiện bứt phá nhanh, đi trước một bước đạt trình độ ngang
bằng với các nước có nền giáo dục phát triển.”
Những chủ trương, đường lối của đảng, chính sách của nhà nước đều quan
tâm đến giáo dục và đào tạo coi trọng giáo dục và đào tạo.
Ngoài ra ta phải kể đến các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học
trong nước như: Phạm Khắc Chương - Lý luận quản lý giáo dục đại cương, Giáo
trình cho học viên cao học quản lý giáo dục; Phạm Minh Hạc - Giáo dục Việt Nam
trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI – NXB chính trị quốc gia Hà Nội 2002; Trần Kiểm Những vấn đề cơ bản của khoa học quản lý giáo dục - NXB Đại học sư phạm 2012,


Tiếp cận hiện đại trong quản lý giáo dục - NXB Đại học sư phạm 2010; Đặng Bá
Lãm – Quản lý nhà nước về giáo dục - Lý luận và thực tiễn - NXB Chính trị quốc
gia Hà Nội 2005; Phan Trọng Ngọ - Dạy học và phương pháp dạy học trong nhà
trường – NXB Đại học sư phạm Hà Nội 2005; Phạm Viết Vượng – Giáo dục học –
NXB Hà Nội 2008… Đây là những công trình lớn, có giá trị về khoa học quản lý
giáo dục, các công trình này đã đem lại những thành tựu lớn lao trong quản lý giáo
dục nói chung và quản lý nhà trường nói riêng.
Trước mục tiêu đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục Việt Nam các
công trình nghiên cứu của những nhà khoa học đã đi sâu nghiên cứu về vấn đề đổi
mới nội dung dạy học theo hướng nâng cao hiệu quả, gắn khoa học với thực tiễn,
lấy học sinh làm trung tâm hoạt động dạy học. Tuy nhiên những công trình nghiên
cứu của các nhà khoa học trong nước chủ yếu tập trung nghiên cứu về hoạt động
dạy của giáo viên mà chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu về hoạt động học
của học sinh thì đó là một thiếu sót. Đặc biệt đối với biện pháp quản lý hoạt động
học của học sinh THPT khu vực miền núi tỉnh Vĩnh Phúc thì đây là đề tài hoàn
toàn mới.
2


2. TÊN SÁNG KIẾN:
“Biện pháp quản lý hoạt động học tập của học sinh Trung học phổ thông khu
vực miền núi tỉnh Vĩnh Phúc”.
3. TÁC GIẢ SÁNG KIẾN
Họ và tên: Hà Trọng Bình
Địa chỉ tác giả sáng kiến: Trường THPT Triệu Thái
Số điện thoại: 0912524339
Email:
4. CHỦ ĐẦU TƯ TẠO RA SÁNG KIẾN
Hà Trọng Bình – Phó Hiệu trưởng Trường THPT Triệu Thái.
5. LĨNH VỰC ÁP DỤNG SÁNG KIẾN

Quản lý hoạt động học tập của học sinh các trường THPT khu vực miền núi tỉnh
Vĩnh Phúc
6. NGÀY SÁNG KIẾN ĐƯỢC ÁP DỤNG LẦN ĐẦU:
Tháng 9 năm 2013
7. MÔ TẢ BẢN CHẤT CỦA SÁNG KIẾN
7.1. Khái niệm:
7.1.1. Quản lý
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người đã có những hình thức quản lý
như quản lý tài sản, quản lý con người, quản lý lao động… Ngày nay có nhiều quan
niệm khác nhau về quản lý.
Quản lý tiếng Anh là: management có nghĩa là điều khiển và dẫn hướng tất
cả các bộ phận của một tổ chức.
Xét về các góc độ khác nhau của xã hội khái niệm quản lý lại được đánh giá
khác nhau:
Theo quan niệm truyền thống: Quản lý là quá trình tác động có ý thức của
chủ thể vào một bộ máy (hay còn gọi là đối tượng quản lý) bằng cách vạch ra mục
tiêu cho bộ máy, tìm kiếm các biện pháp tác động để bộ máy đạt tới mục tiêu đã xác
định.

3


Theo quan điểm hiện nay: Quản lý là những hoạt động có phối hợp nhằm
định hướng và kiểm soát quá trình tiến tới mục tiêu.
Theo góc độ chính trị xã hội: Quản lý được hiểu là sự kết hợp giữa tri thức
với lao động. Vận hành sự kết hợp này cần có một cơ chế quản lý phù hợp, cơ chế
đúng, hợp lý thì xã hội phát triển, cơ chế sai thì xã hội phát triển chậm lại hoặc rối
ren.
Theo góc độ hành động, Quản lý được hiểu là: Chỉ huy, điều khiển, điều
hành hay Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý tới

đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu đề ra.
Ngoài ra trên thế giới cũng như ở trong nước còn có một số khái niệm về
quản lý được nhiều người chấp nhận:
Theo F. W. Taylor (1956-1915) người Mỹ dưới góc độ của một nhà kinh tế
ông quan niệm: “Quản lý là biết được chính xác điều bạn muốn người khác làm, và
sau đó hiểu được rằng họ đã hoàn thành công việc một cách tốt nhất, rẻ nhất.”
Theo bách khoa toàn thư Liên Xô, 1977: Quản lý là chức năng của những hệ
thống có tổ chức với những bản chất khác nhau (Xã hội, sinh vật, kỹ thuật) nó bảo
toàn cấu trúc xác định của chúng, duy trì chế độ hoạt động, thực hiện những
chương trình mục đích hoạt động.
Theo Harold Konntz: “Quản lý là hoạt động thiết yếu đảm bảo sự nỗ lực của
cá nhân nhằm đạt được mục tiêu của tổ chức.”
Theo tác giả Trần Kiểm cho rằng: “Quản lý là nhằm phối hợp nỗ lực của
nhiều người, sao cho mục tiêu của từng cá nhân biến thành những thành tựu xã
hội.” hay “Quản lý là những tác động của chủ thể quản lý trong việc huy động,
phát huy, kết hợp, sử dụng, điều chỉnh, điều phối các nguồn nhân lực trong và
ngoài tổ chức một cách tối ưu nhằm đạt mục đích của tổ chức với hiệu quả cao
nhất.”
Theo tác giả Nguyễn Bá Sơn: “Quản lý là tác động có mục đích đến tập thể
những con người để tổ chức và phối hợp hoạt động của họ trong quá trình hoạt
động.”

4


Theo tác giả Trần Quốc Thành: “Quản lý là sự tác động có ý thức của chủ
thể quản lý để chỉ huy, điều khiển, hướng dẫn các quá trình xã hội, hành vi và hoạt
động của con người nhằm đạt mục đích, đúng với ý chí nhà quản lý, phù hợp với
quy luật khách quan.”
Theo từ điển tiếng Việt (2000), NXB Đà Nẵng, quản lý có hai nghĩa:

- Trông coi và giữ gìn theo những yêu cầu nhất định;
- Tổ chức và điều khiển các hoạt động theo những yêu cầu nhất định.
Như vậy các định nghĩa trên đều có những quan điểm chung xét về các góc
độ khác nhau thì quản lý có các ý nghĩa như sau:
Xét về đối tượng: Quản lý có hai đối tượng là chủ thể quản lý (người quản
lý) và đối tượng bị quản lý trong một tổ chức, đơn vị hay nhóm xã hội.
Xét về mục đích: Quản lý bao giờ cũng phải đạt được kết quả, mục tiêu nhất
định của người quản lý.
Xét về phương thức: Quản lý là một quá trình điều khiển, phối hợp, tác động
giữa chủ thể quản lý và đối tượng quản lý nhằm thực hiện mục tiêu.
Xét về điều kiện quản lý: Quản lý được tiến hành trong một hoàn cảnh, thời
gian với các nguồn lực trong và ngoài tổ chức.
Như vậy quản lý là sự điều khiển, phối hợp, tác động của chủ thể quản lý tới
đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu nhất định trong điều kiện hoàn cảnh, thời
gian nhất định.
7.1.2. Biện pháp quản lý
Trong đời sống thực tiễn chúng ta thường gặp từ biện pháp đứng đầu của
cụm từ gắn với một công việc nào đó như: Biện pháp bảo vệ môi trường, biện pháp
đảm bảo tật tự an toàn giao thông, biện pháp giáo dục học sinh cá biệt… Trong
quản lý nhà nước ta thường gặp từ biện pháp đứng trước từ quản lý và sau đó là một
lĩnh vực nào đó.
Theo từ điển Tiếng Việt thì biện pháp là: Cách làm, cách thức tiến hành giải
quyết một vấn đề cụ thể. Trong các văn bản của Đảng, nhà nước, các chiến lược
phát triển của các tổ chức, kế hoạch hoạt động của các tổ chức, cá nhân… phải có
các biện pháp thực hiện.
5


Từ khái niệm biện pháp nêu trên chúng ta có thể thấy từ biện pháp được sử
dụng trong những hoàn cảnh cụ thể và có những ý nghĩa như sau:

- Biện pháp xuất hiện khi có một vấn đề cần giải quyết hoặc đã giải quyết
nhưng chưa triệt để, chưa đem lại hiệu quả như ta mong muốn.
- Biện pháp là căn cứ để đưa ra cách thức tổ chức, hoạt động nhằm thực hiện
một vấn đề đặt ra.
- Biện pháp là cách thức mà người đề ra và người thực hiện buộc phải tuân
theo (tính khả thi).
7.1.3. Học sinh trung học phổ thông
Trong hệ thống giáo dục quốc dân của nước ta có chia ra làm bốn bậc: Giáo
dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục chuyên nghiệp, giáo dục đại học. Cấp
THPT là cấp học cao nhất của bậc Giáo dục phổ thông, đây là cấp học mà học sinh
dần dần hoàn thiện về thể chất và tính cách. Cấp THPT hiện nay gồm ba lớp từ lớp
10 đến lớp 12 Theo Điều lệ Trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông và
trường phổ thông có nhiều cấp học quy định: “tuổi của học sinh vào lớp 10 là 15
tuổi” và “Học sinh là người dân tộc thiểu số, học học sinh khuyết tật, học sinh có
hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, học sinh người nước ngoài về nước có thể vào cấp học
ở tuổi cao hơn 3 tuổi so với tuổi quy định”. Như vậy đại đa số học sinh THPT là ở
trong khoảng từ 15 đến 18 tuổi, cá biệt mới có học sinh lớn hơn độ tuổi nói trên
hoặc học sinh đặc biệt được xét vượt lớp thì nhỏ hơn độ tuổi quy định.
7.1.4. Khu vực miền núi
Theo quy định của Ủy ban dân tộc và miền núi về khái niệm, tiêu chuẩn của
huyện miền núi thì huyện Lập Thạch đủ các tiêu chuẩn của huyện miền núi và đã
được Chính phủ công nhận là huyện miền núi. “Huyện miền núi là huyện có 2/3
diện tích đất đai tự nhiên là miền núi. Đại bộ phận đất đai là đồi núi cao dốc, có nơi
rất dốc và cao nguyên, địa hình đa dạng phức tạp, có nhiều sông suối tạo thành độ
chia cắt lớn, là nơi sinh sống chủ yếu của các dân tộc thiểu số.” tiêu chuẩn của
huyện thuộc khu vực miền núi gồm: Hai phần ba diện tích đất đai của đơn vị có độ
dốc từ 250 trở lên (là rừng và đất rừng). Kinh tế - xã hội chậm phát triển so với
đồng bằng, đất đai sản xuất vừa có ruộng nước (thung lũng bằng, bậc thang) vừa có
6



sản xuất trên đất dốc. Đời sống có nhiều khó khăn, giao thông đi lại không thuận lợi
như đồng bằng. Cư dân là dân tộc thiểu số và dân tộc đa số sống xen ghép hoặc các
dân tộc thiểu số sống xen ghép nhau hoặc sống riêng từng dân tộc trên một địa bàn
miền núi [8;13] Theo Thông tư 09/2012/TT-BGDĐT Ban hành Quy chế tuyển sinh
Đại học, cao đẳng hệ chính quy thì huyện Lập Thạch thuộc khu vực I gồm: Các địa
phương thuộc Miền núi, vùng cao, vùng sâu, hải đảo, trong đó có các xã thuộc vùng
có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn theo quy định của Chính Phủ.
7.2. Lý thuyết về hoạt động học tập
Quá trình dạy học là sự thống nhất biện chứng hai thành tố cơ bản là hoạt
động dạy và hoạt động học, chúng có mối quan hệ chặt chẽ không thể tách rời nhau,
nếu thiếu một trong hai hoạt động thì quá trình dạy học không thể diễn ra. Chẳng
hạn nếu thiếu hoạt động dạy của giáo viên thì quá trình đó sẽ chuyển thành quá
trình tự học của người học, còn thiếu hoạt động học thì hoạt động dạy không thể
diễn ra.
Trong khuôn khổ giới hạn của đề tài này chúng tôi đi sâu nghiên cứu hoạt
động học của học sinh để chỉ ra những biện pháp quản lý hoạt động học nhằm nâng
cao chất lượng học tập của học sinh THPT. Để tìm hiểu hoạt động học trước hết ta
phải đi vào tìm hiểu các khái niệm về hoạt động học. Theo giáo trình Giáo dục học
tập I Nhà xuất bản Đại học sư phạm Hà Nội năm 2009 thì hoạt động học của học
sinh “là hoạt động tự giác, tích cực, chủ động, tự tổ chức, tự điều khiển hoạt động
nhận thức, học tập của mình nhằm thu nhận, xử lý và biến đổi thông tin bên ngoài
thành tri thức của bản thân, qua đó người học thể hiện mình, biến đổi mình và làm
phong phú những giá trị của mình.” [31;135]
Theo tác giả Phạm Viết Vượng: “Học là quá trình nhận thức, tìm tòi, thấu hiểu,
ghi nhớ và vận dụng kiến thức vào cuộc sống.” [ 43,56]
Theo tác giả Trần Kiểm: “Học là quá trình làm cho chủ thể (người học) tự
biến đổi làm phong phú tri thức và đời sống tinh thần bằng cách chiếm lĩnh thông
tin trong môi trường sống” [24;273]


7


Như vậy hoạt động học của học sinh là quá trình chủ động, tích cực, tự tổ
chức quá trình nhận thức, tìm tòi, thấu hiểu những kiến thức có sẵn từ bên ngoài
nhằm biến nó thành kiến thức của bản thân và vận dụng vào thực tiễn.
Trong cuộc sống đời thường con người luôn có quá trình tiếp thu, tích lũy
những kinh nghiệm sống. Trên cơ sở đó tạo nên những tri thức tiền khoa học, làm
cơ sở tiếp thu những khái niệm khoa học ở trong nhà trường. Đó chính là việc học,
là cách học theo phương pháp của cuộc sống thường ngày, giống như con người từ
khi sinh ra đến khi chết học ăn, học nói, học gói, học mở. đi một ngày đàng học một
sàng khôn.
Trên thực tế chỉ có một phương thức đặc thù - phương thức nhà trường mới
có khả năng tổ chức để cá nhân tiến hành hoạt động đặc biệt đó là hoạt động học,
qua đó hình thành ở cá nhân những tri thức khoa học, năng lực mới phù hợp với đòi
hỏi của thực tiễn và trong tâm lý học sư phạm, hoạt động học là khái niệm chính
được dùng để chỉ hoạt động học diễn ra theo phương thức đặc thù, nhằm chiếm lĩnh
tri thức, kĩ năng, kĩ xảo.
Từ những khái niệm như trên có thể thấy hoạt động học là quá trình nhận
thức, ghi nhớ, tìm tòi, nắm vững và vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Học tập bao
gồm việc học và việc tập. Học là quá trình nhận thức, tiếp thu những kiến thức tự
nhiên, xã hội. Tập là rèn luyện những kiến thức đã được tiếp thu, có kĩ năng vận
dụng những kiến thức tự nhiên, xã hội vào đời sống thực tiễn.
Hoạt động học tập của học sinh: Là hoạt động tự giác, chủ động, tích cực tự
tổ chức, tự điều khiển hoạt động nhận thức – hoạt động học tập của mình nhằm tiếp
thu, xử lý và biến đổi thông tin bên ngoài thành tri thức của bản thân, qua đó người
học thể hiện mình, biến đổi mình để tự làm phong phú những giá trị của mình. Như
vậy hoạt động học chính là quá trình người học tự giác chủ động tích cực, tự tổ
chức, tự điều khiển hoạt động nhận thức của bản thân nhằm tiếp thu những tri thức
có sẵn, biến những tri thức của nhân loại thành vốn tri thức, hiểu biết của bản thân

về thế giới tự nhiên và xã hội, vận dụng tri thức vào đời sống.
- Theo thuyết nhận thức

8


Hoạt động học tập là quá trình nhận thức linh hoạt, tính linh hoạt của nhận
thức là khả năng người học cấu trúc lại một cách tự nhiên những tri thức của mình
bằng nhiều cách khác nhau nhằm đáp ứng nhanh chóng yêu cầu của tình huống
đang thay đổi một cách căn bản.
Theo thuyết nhận thức thì nội dung học tập là cái mà người học phải chiếm
lĩnh và biến nó thành tri thức của bản thân. Nội dung học tập tồn tại khách quan với
người học và là cái mà nhờ đó người học có thể đạt được các mục tiêu học tập,
nhưng không phải tất cả các mục tiêu học tập là mục tiêu bên trong của người học
khiến người học khát khao đạt đến chỉ những yếu tố nào của mục tiêu do người học
thiết kế trở thành đối tượng hoạt động học tập thì mới thực sự trở thành mục tiêu
bên trong của người học.
Để thực hiện được quá trình nhận thức, biến tri thức có sẵn của nhân loại
thành tri thức của bản thân thì người học phải phát huy những giác quan của mình
và từ thực tiễn cuộc sống.
Nhận thức bằng thị giác: Trước hết để nhận thức được một vấn đề người học
phải dùng thị giác (quan sát bằng mắt); mắt dùng để quan sát; nhìn; đọc… Trong
quá trình quan sát bằng mắt người học có thể phân biệt được màu sắc; đường nét;
hình khối từ đó phân biệt được sự giống và khác nhau giữa sự vật hiện tượng này
với sự vật hiện tượng khác. Quá trình quan sát bằng mắt cùng với các giác quan
khác cũng giúp cho người học nhận thức nhanh nhất.
Nhận thức bằng thính giác: Tai giúp con người nghe được âm thanh y học đã
chứng minh những người bị điếc bẩm sinh sẽ dẫn đến câm vì trong họ không nghe
được bất kỳ âm thanh nào nên trong họ không thể hình thành trường ngôn ngữ. Tai
giúp cho người học nghe được những âm thanh, lời nói làm cho người học nắm bắt

được sự vật hiện tượng đúng với bản chất của nó.
Ngoài thị giác; thính giác là hai cơ quan cảm giác giữ vai trò quan trọng nhất
trong quá trình nhận thức bằng các giác quan thì khứu giác; vị giác; xúc giác cũng
giúp cho quá trình nhận thức sự vật hiện tượng đúng với bản chất của nó. Tuy nhiên
một người khiếm thị; khiếm thính vẫn có thể có khả năng nhận thức bằng việc dùng
giác quan khác để thay thế hai giác quan này bằng cách dùng chữ nổi Brai, hay
9


dùng ngôn ngữ động hình (cử chỉ điệu bộ). Tuy nhiên dùng chữ nổi Brai hay ngôn
ngữ động hình chỉ giúp cho người học có khả năng nhận thức những vấn đề đơn
giản, còn những vấn đề trìu tượng thì không thể nhận thức được hoặc đôi khi ngay
cả những vấn đề đơn giản cũng có thể hiểu sai bản chất vấn đề.
Nhận thức qua trao đổi: Để hình thành hệ thống tri thức người học cần trao
đổi bởi vì quá trình dạy học không thể diễn ra một chiều vì: “Quá trình dạy học là
một quá trình dưới sự lãnh đạo, tổ chức, điều khiển của người giáo viên, người học
tự giác, tích cực chủ động, tự tổ chức, tự điều khiển hoạt động nhận thức, học tập
của mình nhằm thực hiện nhiệm vụ dạy học.” [31;139] Từ khái niệm này ta thấy
trong quá trình dạy học, hoạt động dạy và hoạt động học liên hệ mật thiết với nhau,
diễn ra đồng thời và phối hợp chặt chẽ, tạo nên sự cộng hưởng của hoạt động dạy và
hoạt động học, từ đó tạo nên hiệu quả cho quá trình dạy học. Học trước hết là nhận
thức, để nhận thức được vấn đề người học cần trao đổi với thầy cô; bạn bè để hiểu
đúng bản chất vấn đề. Trong quá trình dạy học người thầy cần thông tin ngược từ
phía học trò như đặt câu hỏi phát vấn, kiểm tra. Người học phải trả lời các câu hỏi;
trình bày vấn đề; quá trình này giúp cho người dạy đánh giá được mức độ nhận thức
của học sinh. Trong quá trình dạy học, người học chủ động đặt câu hỏi trao đổi với
người dạy từ đó giúp người học hiểu bản chất vấn đề nhận thức đúng vấn đề.
Nhận thức được thể hiện trong việc trao giữa người học với nhau qua các
phương thức như học nhóm hoặc hai người trao đổi về một vấn đề. Trường hợp này
thường diễn ra khi người học chưa hiểu hoặc hiểu chưa đầy đủ, người học có thể

trao đổi với bạn giỏi hơn mình, tranh luận vấn đề với bạn học, những người bạn đó
có thể giảng giải lại cho mình giúp người học nhận thức đúng vấn đề.
Để nhận thức người học cần phải có tư duy suy luận đó là cách suy nghĩ
đúng đắn trong việc theo đuổi với tri thức thích hợp, tin cậy của nhân loại. Tư duy
suy luận giúp cho học sinh có khả năng thu thập thông tin liên quan. Qua phân loại
một cách hiệu quả và sáng tạo những thông tin này; rồi từ đó suy luận có lô gíc để
đi đến những kết luận đáng tin cậy. Tư duy suy luận giúp học sinh có thể giải quyết
những vấn đề tương tự (từ một công thức có thể áp dụng để giải nhiều bài tập khác
nhau).
10


Như vậy tư duy suy luận giúp người học nhận thức vấn đề để nhận thức đầy
đủ hiểu bản chất vấn đề người học cần phải ứng dụng vào đời sống thực tiễn. Việc
ứng dụng vào thực tiễn và thông qua thực tiễn giúp cho người học kiểm chứng lí
thuyết, chứng minh lí thuyết là hoàn toàn đúng. Trong quá trình nhận thức nhiều khi
người học được hướng dẫn đi ngược lại vấn đề đó là từ thực tiễn để đi đến lí thuyết
chung. Như vậy nhận thức chỉ có được ở người học khi được áp dụng vào đời sống
thực tiễn và từ thực tiễn để đi đến nhận thức.
- Theo thuyết kiến tạo
Học tập là quá trình kiến tạo hệ thống tri thức, thuyết kiến tạo của J.Bruner là
lý thuyết về sự nhận thức được bắt nguồn từ tư tưởng của J.Piaget. Tư tưởng cốt lõi
của thuyết kiến tạo là: “Tri thức được xuất hiện thông qua việc chủ thể nhận thức
và tự cấu trúc vào hệ thống bên trong của mình, tri thức mang tính chủ quan.” Với
việc nhấn mạnh vai trò chủ thể nhận thức trong việc giải thích và kiến tạo tri thức,
thuyết kiến tạo thuộc lý thuyết chủ thể. Cần tổ chức sự tương tác giữa người học và
đối tượng học tập, để giúp người học xây dựng thông tin mới vào cấu trúc tư duy
của chính mình đã được chủ thể điều chỉnh. Học không chỉ là khám phá mà còn là
sự giải thích cấu trúc mới tri thức.
Từ đó thuyết kiến tạo đề ra các nguyên tắc mà theo J.Bruner là : Không có

kiến thức khách quan tuyệt đối. Kiến thức là một quá trình và là sản phẩm được
kiến tạo theo từng cá nhân (tương tác giữa đối tượng học tập và người học); về mặt
nội dung, dạy học phải định hướng theo những lĩnh vực và vấn đề phức hợp, gần
với cuộc sống và nghề nghiệp, được khảo sát một cách tổng thể ; Việc học tập chỉ
có thể được thực hiện trong một quá trình tích cực, vì chỉ từ những kinh nghiệm và
kiến thức mới của bản thân thì mới có thể thay đổi và cá nhân hóa những kiến thức
và khả năng đã có: Học tập trong nhóm có ý nghĩa quan trọng góp phần cho người
học tự điều chỉnh học tập của bản thân mình; Các lĩnh vực học tập cần định hướng
vào hứng thú người học, vì có thể học hỏi dễ nhất từ kinh nghiệm mà người ta thấy
hứng thú hoặc có tính thách thức .
Thuyết kiến tạo không chỉ giới hạn những khía cạnh nhận thức của việc dạy
học. Sự học tập hợp tác đòi hỏi và khuyến khích phát triển không chỉ có lý trí mà
11


còn phát triển cả về mặt tình cảm, giao tiếp. Mục đích học tập là xây dựng kiến thức
của bản thân nên khi đánh giá các kết quả học tập không định hướng theo các sản
phẩm học tập, mà cần kiểm tra những tiến bộ trong quá trình học tập và trong
những tình huống học tập phức tạp.
Như vậy theo thuyết kiến tạo thì thông qua việc hướng dẫn, điều khiển của
giáo viên, học sinh phải tự khám phá ra tri thức, thực hiện những nhiệm vụ học tập
từ đó kiến tạo tri thức cho bản thân. Tri thức được kiến tạo một cách tích cực bởi
chủ thể nhận thức chứ không phải được tiếp nhận một cách thụ động từ môi trường
bên ngoài.
7.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng học tập của học sinh:
7.3.1. Vai trò của giáo viên bộ môn
Khi nhắc đến hoạt động học tập của học sinh thì không thể tách biệt giữa dạy
và học. Để học tập được người học phải cần đến vai trò của giáo viên. Theo điều 30
Điều lệ trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông và trường phổ thông có
nhiều cấp học quy định: “Giáo viên trường trung học là người làm nhiệm vụ giảng

dạy, giáo dục trong nhà trường, gồm: Hiệu trưởng, Phó Hiệu trưởng, giáo viên bộ
môn, giáo viên làm công tác Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (bí thư, phó
bí thư hoặc trợ lý thanh niên, cố vấn Đoàn), giáo viên làm tổng phụ trách Đội
Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh (đối với trường trung học có cấp tiểu học hoặc
cấp THCS), giáo viên làm công tác tư vấn cho học sinh.”[5;17]
Theo quy định như trên thì quan niệm về giáo viên là một khái niệm rộng mà
ở đề tài này chúng tôi chỉ xét vai trò của giáo viên trực tiếp tham gia quản lý hoạt
động học tập của học sinh gồm giáo viên bộ môn và giáo viên chủ nhiệm.
Theo điều 31 mục a Điều lệ trường trung học cơ sở, trường trung học phổ
thông và trường phổ thông có nhiều cấp học thì giáo viện bộ môn có những nhiệm
vụ như sau: “Dạy học và giáo dục theo chương trình, kế hoạch giáo dục, kế hoạch
dạy học của nhà trường theo chế độ làm việc của giáo viên do Bộ trưởng Bộ Giáo
dục và Đào tạo quy định; quản lý học sinh trong các hoạt động giáo dục do nhà
trường tổ chức; tham gia các hoạt động của tổ chuyên môn; chịu trách nhiệm về

12


chất lượng, hiệu quả giáo dục; tham gia nghiên cứu khoa học sư phạm ứng
dụng.”[5;17]
Tại mục e của điều 31 quy định giáo viên bộ môn phải: “Phối hợp với giáo
viên chủ nhiệm, các giáo viên khác, gia đình học sinh, Đoàn Thanh niên Cộng sản
Hồ Chí Minh, Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh trong dạy học và giáo dục
học sinh.” [5;17]
Khi nói đến vai trò của giáo viên chúng ta phải đặt vào trong quá trình dạy
học mà quá trình dạy học là một quá trình dưới sự lãnh đạo, tổ chức, điều khiển của
người giáo viên (ở đây là giáo viên bộ môn) người học tự giác, tích cực, chủ động,
tự tổ chức tự điều khiển hoạt động nhận thức, học tập của mình nhằm thực hiện
những nhiệm vụ dạy học. Để tổ chức hoạt động dạy học thì giáo viên bộ môn phải
hiểu được đặc điểm tâm sinh lý của học sinh, khả năng nhận thức của học sinh, tính

tự giác tích cực của từng học sinh. Thường xuyên kiểm tra đánh giá hoạt động học
tập của học sinh thông qua các hình thức kiểm tra như: Kiểm tra thường xuyên,
kiểm tra định kỳ. Giáo viên bộ môn kết hợp cùng với các giáo viên bộ môn khác và
giáo viên chủ nhiệm đánh giá chính xác khả năng, thiên hướng của từng học sinh
trong lớp mình dạy để bồi dưỡng, phát huy khả năng, tư vấn và định hướng nghề
nghiệp cho học sinh sau này.
7.3.2. Vai trò của giáo viên chủ nhiệm
Giáo viên chủ nhiệm trước hết là một giáo viên bộ môn của lớp, có đầy đủ
các vai trò nhiệm vụ như một giáo viên bộ môn, ngoài ra giáo viên chủ nhiệm là
người được hiệu trưởng phân công trực tiếp thay mặt hiệu trưởng quản lý điều hành
mọi hoạt động giáo dục của lớp chủ nhiệm, chịu trách nhiệm trước hiệu trưởng về
kết quả giáo dục học sinh của lớp chủ nhiệm. Theo điều 31 mục 2 điều lệ trường
trung học cơ sở, trường trung học phổ thông và trường phổ thông có nhiều cấp học
thì giáo viện chủ nhiệm có những nhiệm vụ như sau:
“Xây dựng kế hoạch các hoạt động giáo dục thể hiện rõ mục tiêu, nội dung,
phương pháp giáo dục bảo đảm tính khả thi, phù hợp với đặc điểm học sinh, với hoàn
cảnh và điều kiện thực tế nhằm thúc đẩy sự tiến bộ của cả lớp và của từng học sinh;
Thực hiện các hoạt động giáo dục theo kế hoạch đã xây dựng;
13


Phối hợp chặt chẽ với gia đình học sinh, với các giáo viên bộ môn, Đoàn
thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh, các tổ
chức xã hội có liên quan trong việc hỗ trợ, giám sát việc học tập, rèn luyện, hướng
nghiệp của học sinh lớp mình chủ nhiệm và góp phần huy động các nguồn lực trong
cộng đồng phát triển nhà trường;Nhận xét, đánh giá và xếp loại học sinh cuối kỳ và
cuối năm học; đề nghị khen thưởng và kỷ luật học sinh; đề nghị danh sách học sinh
được lên lớp thẳng, phải kiểm tra lại, phải rèn luyện thêm về hạnh kiểm trong kỳ
nghỉ hè, phải ở lại lớp; hoàn chỉnh việc ghi sổ điểm và học bạ học sinh; Báo cáo
thường kỳ hoặc đột xuất về tình hình của lớp với Hiệu trưởng.” [5;18]

Từ những nhiệm vụ của giáo viên chủ nhiệm đã nêu trên thì người giáo viên
chủ nhiệm phải trực tiếp quản lý các hoạt động giáo dục của lớp mình (Trong đó có
hoạt động dạy học), động viên khích lệ học sinh tích cực học tập. Giáo viên chủ
nhiệm là cố vấn tổ chức hoạt động tự quản của tập thể học sinh, bởi vì học sinh
THPT là lứa tuổi cuối thiếu niên, đầu thanh niên, lứa tuổi đang khẳng định mình,
giàu mơ ước, bước đầu có kinh nghiệm sống, có khả năng tự quản, tổ chức hoạt
động tập thể... Tuy nhiên vẫn là lứa tuổi mong muốn lớn hơn khả năng, muốn khẳng
định nhưng chưa đủ mọi mặt về kinh nghiệm, tri thức. Khi có thành công thì dễ tự
tin quá mức nhưng khi gặp thất bại thì dễ dao động, lòng tự tin bị giảm sút. Xuất
phát từ nhưng đặc điểm đó của tâm lý lứa tuổi, việc giáo viên chủ nhiệm định
hướng giáo dục cho học sinh là rất cần thiết.
Giáo viên chủ nhiệm phải làm cho học sinh xác định rõ động cơ học tập, để
các em tự giác trong học tập và rèn luyện, tránh để tình trạng học sinh trong lớp đến
trường vì bố, mẹ ép buộc. Giáo viên chủ nhiệm phải biết chọn ban cán sự lớp có uy
tín, trách nhiệm, có năng lực và bản lĩnh, có tính kỷ luật cao, gương mẫu đi đầu
trong các hoạt động của lớp, ban cán sự lớp cùng ban cán sự bộ môn có khả năng
giúp đỡ học sinh trong lớp làm các bài tập khó trước mỗi giờ học.
Đối với học sinh các lớp cuối cấp THPT thì việc học như thế nào, đầu tư
nhiều thời thời gian hơn để học những môn gì, khối nào là rất quan trọng vì nó
quyết định đến việc lựa chọn ngành nghề, tương lai của mỗi con người... Tuy nhiên
không để học sinh học lệch, học tủ (chỉ chú trọng các môn thi đại học, cao đẳng) mà
bỏ qua hoặc xem nhẹ các môn học khác. Vì vậy giáo viên chủ nhiệm phải phối hợp
14


chặt chẽ với giáo viên bộ môn để biết được khả năng của từng học sinh từ đó tư
vấn, định hướng cho học sinh, lựa chọn khối thi, tường thi, ngành nghề phù hợp
trong tương lai của mỗi học sinh. Giáo viên chủ nhiệm phải thường xuyên liên hệ,
phối hợp với phụ huynh học sinh thông qua điện thoại, email, mạng xã hội (nếu có)
để thông báo kịp thời về tình hình học tập và rèn luyện của học sinh. Thường xuyên

nhắc nhở phụ huynh học sinh quản lý các hoạt động học tập, vui chơi, giải trí ở
ngoài trường, nhất là giám sát việc tự học ở nhà của học sinh.
7.3.3. Vai trò của tổ trưởng chuyên môn
Theo điều lệ trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông và trường phổ
thông có nhiều cấp học thì: “Mỗi tổ chuyên môn có tổ trưởng, từ 1 đến 2 tổ phó chịu
sự quản lý chỉ đạo của Hiệu trưởng, do Hiệu trưởng bổ nhiệm trên cơ sở giới thiệu của
tổ chuyên môn và giao nhiệm vụ vào đầu năm học.”
Tổ chuyên môn có những nhiệm vụ sau: “Xây dựng và thực hiện kế hoạch
hoạt động chung của tổ, hướng dẫn xây dựng và quản lý kế hoạch cá nhân của tổ
viên theo kế hoạch dạy học, phân phối chương trình và các hoạt động giáo dục
khác của nhà trường; Tổ chức bồi dưỡng chuyên môn và nghiệp vụ; tham gia đánh
giá, xếp loại các thành viên của tổ theo quy định của Chuẩn nghề nghiệp giáo viên
trung học và các quy định khác hiện hành”.[5;10]
Tổ trưởng chuyên môn giúp hiệu trưởng, phó hiệu trưởng trực tiếp điều hành
các hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ của nhà trường, thực hiện kế hoạch chương
trình dạy học. Tổ trưởng trực tiếp quản lý giáo viên của tổ theo nhiệm vụ, quyền
hạn đã quy định. Tổ chuyên môn là đầu mối để hiệu trưởng quản lý các hoạt động
chuyên môn, nghiệp vụ trong nhà trường (chủ yếu là hoạt động dạy học). Vì vậy tổ
trưởng chuyên môn phải là người có khả năng xây dựng kế hoạch, điều hành tổ
chức hoạt động của tổ theo kế hoạch giáo dục, phân phối chương trình môn học của
Bộ giáo dục và đào tạo, chương trình giáo dục địa phương do Sở giáo dục và đào
tạo quy định đối với cấp THPT và kế hoạch năm học của nhà trường; tổ chức bồi
dưỡng chuyên môn cho giáo viên trong tổ.
Tổ trưởng chuyên môn phải là người nắm chắc hoạt động học tập của học sinh
đối với các bộ môn mà tổ chuyên môn phụ trách, thông qua việc dự giờ các giáo viên
trong tổ, nhóm chuyên môn. Tổ trưởng chuyên môn phải căn cứ vào kết quả kiểm tra
15


thường xuyên, kiểm tra định kỳ, kiểm tra khảo sát chất lượng do nhà trường hoặc Sở

giáo dục và đào tạo tổ chức để đánh giá kết quả học tập của học sinh. Trong trường
THPT mỗi tổ chuyên môn thường là một môn hoặc một số môn học gần nhau được
lập thành một tổ chuyên môn. Trường hợp tổ chuyên môn gồm nhiều môn học thì tổ
trưởng chuyên môn phải có các tổ phó chuyên môn hoặc trưởng bộ môn là những
người có năng lực chuyên môn sâu của môn học giúp tổ trưởng phân tích đánh giá
chính xác kết quả học tập của từng môn do tổ chuyên môn phụ trách. Chỉ ra nguyên
nhân của những tồn tại, hạn chế, yếu kém, cũng như nhưng điểm mạnh của từng môn
từ đó đưa ra những biện pháp cụ thể để nâng cao chất lượng chuyên môn.
7.3.4. Vai trò của hiệu trưởng
Hiệu trưởng là người quản lý cao nhất trong mỗi nhà trường là người chịu
trách nhiệm cao nhất về các hoạt động giáo dục trong nhà trường. Theo mục e Điều
19 Điều lệ trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông và trường phổ thông
có nhiều cấp học thì hiệu trưởng: “Quản lý học sinh và các hoạt động của học sinh
do nhà trường tổ chức; xét duyệt kết quả đánh giá, xếp loại học sinh, ký xác nhận
học bạ, ký xác nhận hoàn thành chương trình tiểu học cho học sinh tiểu học (nếu
có) của trường phổ thông có nhiều cấp học và quyết định khen thưởng, kỷ luật học
sinh.” [5;11]
Hiệu trưởng quản lý giáo viên thực hiện chương trình dạy học bằng cách
cùng với Phó hiệu trưởng xây dựng các kế hoạch. Như kế hoạch thực hiện nhiệm vụ
năm học, kế hoạch chuyên môn, kế hoạch hoạt động của các phòng học bộ môn, thư
viện, phòng thí nghiệm kế hoạch hoạt động ngoài giờ lên lớp, kế hoạch giáo dục
nghề phổ thông, kế hoạch học tập của học sinh, xếp thời khóa biểu...Thông qua các
kế hoạch để đưa ra thời gian thực hiện, đôn đốc, theo dõi, giám sát giáo viên thực
hiện kế hoạch.
Hiệu trưởng quản lý hoạt động dạy học của giáo viên thông qua việc dự giờ
thăm lớp, tổ chức bồi dưỡng giáo viên về đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới
phương pháp kiểm tra đánh giá, ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học. Phát
động các phong trào viết sáng kiến kinh nghiệm, nghiên cứu khoa học của giáo viên
và học sinh. Tổ chức các kỳ thi do nhà trường tổ chức.
16



Đối với hoạt động học tập của học sinh THPT: Hiệu trưởng quản lý hoạt
động học tập của học sinh phải thấy rõ vai trò của hoạt động học tập. Học tập là
một hoạt động nhận thức chỉ khi học sinh có nhu cầu hiểu biết, nhu cầu khám phá
thì học sinh mới tích cực học tập. Nhu cầu hiểu biết là động cơ nhận thức của học
sinh trong học tập. Học sinh vừa là đối tượng vừa là chủ thể trong hoạt động dạy học.
Vì vậy, quản lý hoạt động học của học sinh là khâu quan trọng góp phần nâng cao
chất lượng dạy học trong nhà trường. Việc quản lý trong hoạt động học tập của học
sinh đặt ra với hiệu trưởng không chỉ ở lĩnh vực khoa học giáo dục mà còn đòi hỏi có
ý nghĩa về tinh thần trách nhiệm của nhà quản lý giáo dục đối với sự nghiệp đào tạo
thế hệ trẻ.
Muốn quản lý tốt hoạt động học tập của học sinh người hiệu trưởng phải xây
dựng nội quy học tập của học sinh, phát động phong trào thi đua học tập trong nhà
trường. Chỉ đạo giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn, tổ chuyên môn, xây dựng
kế hoạch học tập cho học sinh trong lớp cũng như trong toàn trường.
Hiệu trưởng chỉ đạo công tác phối hợp giữa gia đình, nhà trường để quản lý
hoạt động học tập của học sinh ở nhà.
Hiệu trưởng phối hợp với các lực lượng xã hội, chính quyền địa phương để
quản lý hoạt động học tập của học sinh ở ngoài trường.
Hiệu trưởng chỉ đạo tổ chức kiểm tra đánh giá hoạt động học tập của học
sinh đảm bảo tính công bằng, khách quan, đảm bảo tính toàn diện, thường xuyên, có
hệ thống và đảm bảo tính phát triển của học sinh. Đáp ứng nhu cầu và mục tiêu giáo
dục.
Thông qua các kỳ thi khảo sát chất lượng, thi chọn đội tuyển học sinh giỏi
của nhà trường có hình thức động viên khen thưởng, khích lệ những học sinh đạt
thành tích cao trong học tập.
7.3.5. Vai trò của gia đình
Trên thực tế chúng ta thấy mỗi ngày học sinh chỉ học ở trường khoảng 4-5
tiết học. Thời gian còn lại chủ yếu các em sinh sống, lao động, sinh hoạt, giải trí,

vui chơi ở gia đình hoặc ngoài xã hội. Như vậy khoảng thời gian học sinh ở ngoài
nhà trường là rất dài và vô cùng quý báu với đối với việc học tập của học sinh
17


THPT. Nếu gia đình quản lý giáo dục không tốt, ý thức tổ chức kỷ luật không cao
thì khoảng thời gian này sẽ vô cùng lãng phí vô ích với các em học sinh. Vì vậy gia
đình phải có trách nhiệm nhắc nhở, theo dõi, giám sát thường xuyên thời gian học
tập của học sinh ở nhà. Đây là khoảng thời gian học sinh học bài cũ, làm các bài tập
về nhà mà các thầy cô giáo giao cho và giải quyết các vấn đề liên quan đến bài học
trong khoảng thời gian trên lớp chưa giải quyết được.
Khi nói đến vai trò của gia đình, ở một khía cạnh khác thì khoảng thời gian ở
nhà các em còn sử dụng vào việc chuẩn bị bài trước khi lên lớp. Chuẩn bị bài trước
khi lên lớp là khâu không thể thiếu được trong toàn bộ quá trình học tập của học
sinh nó có ảnh hưởng rất lớn đối với kết quả học tập của học sinh. Chuẩn bị bài
trước là quá trình chuẩn bị tốt những kiến thức của bài cũ đồng thời đọc trước bài
mới tìm hiểu trước nội dung của bài học ngày hôm sau. Khi đã có đầy đủ kiến thức
của bài cũ và tìm hiểu trước bài mới thì đến lớp sẽ tạo ra hứng khởi, say mê học tập
của mỗi học sinh.
Như vậy gia đình có vai trò rất quan trọng đối với khoảng thời gian ở nhà
của học sinh. Nếu gia đình biết quan tâm nhắc nhở giám sát chỉ bảo đúng cách thì
học sinh sẽ tận dụng được tối đa khoảng thời gian đó vào việc học tập. Ngược lại
nếu gia đình không quan tâm, giám sát được khoảng thời gian ở nhà của mỗi học
sinh thì khoảng thời gian đó trở nên vô nghĩa.
7.3.6. Vai trò chủ động của học sinh
Hoạt động học tập là hoạt động chủ đạo của học sinh, học tập là quá trình tự
tổ chức, tự điều khiển hoạt động nhận thức của mình. Như vậy hoạt động học chỉ
đạt hiệu quả khi người học tự giác, chủ động, tích cực. Trong tâm lý của người học
nói chung thì chỉ khi nào hiểu bài mới ham học, thích học, mới hứng thú học. Vì
vậy thầy giáo phải biết động viên, kích thích lòng ham học, nhu cầu học tập của học

sinh, thường xuyên giao bài tập cho học sinh từ đó sẽ tạo ra cho học sinh một thói
quen học tập chuyển từ trạng thái bị động sang trạng thái chủ động học tập. Chỉ khi
nào hoạt động học trở thành hoạt động chủ động của học sinh thì quá trình dạy học
mới đạt kết quả.
7.4. Điều kiện để học sinh học tập tốt
18


7.4.1. Điều kiện kinh tế gia đình
Chúng ta không thể phủ nhận vai trò kinh tế gia đình đối với kết quả học tập
của học sinh. Kinh tế gia đình trở thành điều kiện để học sinh có thể học tập tốt. Vai
trò của kinh tế gia đình ở đây được nói đến chủ yếu là cơ sở vật chất. Một gia đình
có điều kiện kinh tế sẽ có điều kiện mua sắm trang bị cơ sở vật chất tốt nhất phục vụ
cho việc học tập của học sinh như mua sắm phương tiện đi lại, hoặc nối mạng
Internet để các em có điều kiện truy cập tìm hiểu khám phá kho tàng kiến thức
khổng lồ của nhân loại. Ngoài ra những gia đình có điều kiện kinh tế cũng giúp cho
học sinh có một chế độ dinh dưỡng đảm bảo sức khỏe cả về thể lực và trí lực để
phục vụ cho việc học tập. Những gia đình có điều kiện kinh tế còn giúp cho các em
có môi trường, không gian học tập riêng.
Như vậy, kinh tế gia đình là một điều kiện có ảnh hưởng đến kết quả học tập
của các em học sinh.
7.4.2. Sự quan tâm của cha mẹ
Khi nói đến điều kiện học tập tốt của các em học sinh không thể không nói
đến trách nhiệm của cha mẹ đối với con cái. Trách nhiệm của cha mẹ đối với con
cái được quy định rõ trong Công ước quốc tế về quyền trẻ em; Trong Luật Hôn
nhân và gia đình Luật số 22/2000/QH10 ngày 9/6/2000 tại Điều 34 quy định: “Cha
mẹ có nghĩa vụ và quyền yêu thương, trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của con; chăm lo học tập và giáo dục để con phát triển lành
mạnh về thể chất trí tuệ và đạo đức, trở thành người con hiếu thảo của gia đình,
công dân có ích cho xã hội.

Cha mẹ không được phân biệt đối xử giữa các con, ngược đãi; hành hạ; xúc
phạm con; không được lạm dụng sức lao động của con chưa thành niên; không
được xúi giục; ép buộc con làm những việc trái pháp luật; trái đạo đức xã hội”.
Ngoài ra cha mẹ phải có trách nhiệm giáo dục con, chăm lo và tạo điều kiện
cho con học tập.
Phương pháp giáo dục đúng đắn của gia đình là phải tạo ra bầu không khí gia
đình đầm ấm, tạo điều kiện để con cái nói lên chính kiến của mình, phải quan tâm

19


chăm sóc, nuôi dưỡng, chỉ dẫn để các em hình thành và phát triển nhân cách, trí tuệ
một cách toàn diện.
7.4.3. Thầy giáo, nhà trường
Để có kết quả học tập tốt thì học sinh phải được học tập trong một môi trường tốt.
Môi trường học tập tốt ở đây gồm hai điều kiện là thầy giáo và nhà trường.
Trong hoạt động dạy học người thầy đóng vai trò tổ chức, điều khiển hoạt
động học tập của học sinh. Dưới sự tổ chức điều khiển hoạt động học tập của người
dạy người học tự tổ chức, tự điều khiển hoạt động học tập của mình nhằm thu nhận,
xử lý và biến đổi thông tin bên ngoài thành tri thức của bản thân. Qua đó người học
thể hiện mình, biến đổi mình, tự làm phong phú những giá trị của mình. Để làm tốt
vai trò của người thầy ngoài yêu cầu về trình độ chuyên môn thì người thầy phải có
lương tâm nghề nghiệp, hết sức tận tâm, tận lực với học trò Có như vậy người thầy
mới có thể đem lại kết quả học tập tốt cho học sinh.
Nhà trường là môi trường học tập của học sinh, nhà trường phải thực hiện
nhiệm vụ dạy học để đạt mục tiêu dạy học. Một nhà trường có bề dày truyền thống
là nhà trường có đội ngũ giáo viên giàu kinh nghiệm, nhà trường đã đạt được nhiều
thành tích trong dạy học và giáo dục. Kết quả của một nhà trường tốt được đo bằng
chất lượng đội ngũ, chất lượng học sinh. Để có chất lượng tốt trong một nhà trường
thì vai trò của người Hiệu trưởng hết sức quan trọng. Người Hiệu tưởng phải xây

dựng chiến lược phát triển nhà trường phù hợp với điều kiện thực tiễn khách quan,
đề ra mục tiêu giáo dục đúng đắn, có những biện pháp để nâng cao chất lượng học
tập của học sinh. Động viên khích lệ giáo viên không ngừng học tập để nâng cao
trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
7.4.4 Bản thân người học.
Bản chất của quá trình dạy học là quá trình tự nhận thức độc đáo của học
sinh dưới sự điều khiển, tổ chức, dẫn dắt của giáo viên.
Nhận thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào mỗi người, đó là sự phản
ánh tâm lý của con người bắt đầu từ cảm giác đến tư duy, tưởng tượng. Quá trình
học tập của học sinh cũng diễn ra như vậy. Đó là sự phản ánh đi trước có tính chất
cải tạo mà mức độ cao nhất là sự sáng tạo. Sự phản ánh đó khúc xạ qua lăng kính
20


chủ quan của mỗi người như: Qua kinh nghiệm, nhu cầu, lý thú...và đó là sự phản
ánh tích cực của mỗi chủ thể.
Theo Triết học Mác - Lê Nin quá trình nhận thức của con người là: "Từ trực
quan sinh động đến tư duy trìu tượng, từ tư duy trìu tượng đến thực tế, đó là con đường
biện chứng của nhận thức chân lý, nhận thức hiện thực khách quan".
Trong quá trình nhận thức của học sinh không phải là quá trình tìm ra cái
mới cho nhân loại mà chủ yếu là tái tạo những tri thức sẵn có mà nhân loại đã tạo
ra.
Quá trình nhận thức của học sinh không diễn ra theo con đường mò mẫm.
Thử và sai như quá trình nhận thức của loài người nói chung mà diễn ra theo con
đường đã được khám phá trước, được những nhà biên soạn chương trình, nội dung
dạy học gia công sư phạm . Vì vậy trong một khoảng thời gian nhất định học sinh
có thể lĩnh hội được khối lượng tri thức lớn nhất một cách thuận lợi.
Để quá trình học diễn ra theo đúng bản chất của nó phụ thuộc vào nhiều yếu
tố khác nhau như: Tâm lý người học, người học có thực sự thích học không, có xác
định rõ mục tiêu học tập không, có quan tâm đến việc học tập không, có tận dụng

hết thời gian để học tập hay không, có phương pháp học tập hiệu quả không...
Những yếu tố này xuất phát từ bản thân người học và là điều kiện để đảm bảo cho
quá trình học tập được diễn ra thuận lợi, thu được kết quả cao nhất.
- Động cơ, ý thức: Người học phải xác định hoạt động học tập là hoạt động
của bản thân. Học cho mình, cho gia đình, cho nhà trường và cho xã hội
- Kiên trì chuyên cần: Quá trình học tập là sự cần mẫn khổ luyện của người
học vì vậy nếu người học không kiên trì không chuyên cần sẽ không có kết quả
- Phương pháp học: Phương pháp học tập đúng đắn sẽ giúp cho quá trình học
đạt kết quả cao nhất bằng thời gian ngắn nhất, phương pháp học tập trên lớp,
phương pháp học tập ở nhà, phương pháp tự học
7.4.5 Bạn bè
Bạn bè là một nhân tố có tác động đến bản thân người học và là một yếu tố
trong một môi trường học tập. Có những trường học mà ở đó phong trào học tập của
học sinh rất phát triển nhưng có những trường phong trào học tập của học sinh
21


không được đẩy mạnh. Điều này cho thấy bạn bè là một yếu tố tạo nên môi trường
học tập. Trong một nhà trường học sinh có nền nếp, có ý thức tổ chức kỷ luật tốt, có
nền tảng kiến thức cơ bản vững chắc thì đó sẽ là một môi trường học tập tích cực
cho học sinh. Những học sinh học yếu, ý thức tổ chức kỷ luật chưa cao nếu học tập
trong một môi trường tốt thì buộc học sinh đó phải cố gắng, phấn đấu, nỗ lực để
theo kịp bạn bè. Đặc biệt nếu được sự quan tâm của thầy cô, tạo điều kiện để các em
học khá, giỏi giúp đỡ các em học sinh yếu kém thì chắc chắn sẽ đem lại kết quả học
tập tốt. Từ đó tạo ra môi trường học tập lý tưởng cho mỗi học sinh.
7.5. Quản lý hoạt động học tập của học sinh THPT
Quản lý hoạt động học tập của học sinh là công việc của thầy cô giáo, nhà
trường với toàn bộ tiến trình, nội dung hoạt động học tập của học sinh, trong đó cần
chú ý các mặt sau đây:
- Quản lý việc sử dụng quỹ thời gian, sự chuyên cần của học sinh: Để quản

lý hoạt động học tập của học sinh giáo viên bộ môn, giáo viên chủ nhiệm phải phối
hợp chặt chẽ với các tổ chức đoàn thể trong và ngoài trường quản lý quỹ thời gian
học tập ở nhà của học sinh. Đây là thời gian rất quan trọng để học sinh chuẩn bị bài
mới và học tập bài cũ trước khi lên lớp.
- Tổ chức truy bài trước giờ học: Là cách thức mà giáo viên chủ nhiệm trực
tiếp hoặc thông qua đội ngũ cán sự lớp để nắm bắt được tình hình học tập bài cũ và
chuẩn bị bài mới của học sinh. Phát huy tốt giờ truy bài sẽ giúp cho quá trình học
tập của học hình thành đạt hiệu quả.
- Rèn học sinh thói quen tập trung chú ý trong giờ học: Quá trình học trên
lớp hết sức quan trọng nếu học sinh không chú ý học tập, không tập trung trí tuệ vào
việc học sẽ không thể tiếp thu bài học. Vì vậy giáo viên bộ môn phải quản lý tốt giờ
học trên lớp của mình.
- Rèn học sinh thói quen tự học: Trong quá trình học tập của học sinh thì tự
học là yếu tố quan trọng thực tế cho thấy những học sinh có ý thức tự học tốt thì
thường có kế quả học tập cao. Quá trình tự học của học sinh diễn ra dưới sự hướng
dẫn của giáo viên như giao bài tập để học sinh làm, tự tìm hiểu tài liệu tham khảo
liên quan đến môn học, bài học và cả quá trình chuẩn bị bài trước khi học bài mới.
22


- Hướng dẫn học sinh phương pháp tự học: Phương pháp học tập là yếu tố
quan trọng, giáo viên hướng dẫn học sinh các phương pháp học tập học sinh lựa
chọn phương pháp học tập hiệu quả nhất để áp dụng cho mình.
- Cung cấp tài liệu: Giáo viên bộ môn khi dạy học cung cấp cho học sinh tài
liệu hoặc danh mục tài liệu tham khảo để học sinh tìm đọc sẽ giúp cho quá trình học
tập của học sinh đạt kết quả cao hơn.
- Cung cấp đủ phương tiện học tập: Phương tiện là yếu tố cần thiết giúp cho
quá trình học tập đạt kết quả tốt.
- Tạo môi trường thi đua: Học sinh được học tập trong một môi trường tốt sẽ thi
đua học tập tốt. Vì vậy phải tạo môi trường học tập để học sinh thi đua với nhau tạo ra

môi trường học tập tốt, học sinh thích đi học, không sợ học.
Quản lý hoạt động học tập của học sinh THPT là nhiệm vụ của các thành
viên trong nhà trường:
- Giáo viên bộ môn là người trực tiếp tổ chức hoạt động dạy học của học
sinh, phải nắm được tình hình học tập của từng học sinh, điểm mạnh, điểm yếu của
từng học sinh để từ đó có phương pháp giáo dục phù hợp, phát huy những điểm
mạnh của từng học sinh đồng thời khắc phục những điểm yếu cho mỗi học sinh.
Giáo viên bộ môn phải hướng dẫn học sinh phương pháp học tập bộ môn của
mình, phải thường xuyên kiểm tra đánh giá tình hình học tập của học sinh, động
viên, đôn đốc, nhắc nhở những học sinh chưa thực sự tích cực trong học tập đồng
thời cũng phải động viên khuyến khích, khen ngợi những học sinh đã tích cực trong
học tập.
Giáo viên bộ môn phải phối hợp với các giáo viên bộ môn khác, giáo viên
chủ nhiệm, các tổ chức trong và ngoài trường để quả lý hoạt động học tập của học
sinh.
- Giáo viên chủ nhiệm lớp: Phải nắm chắc tình hình học tập của học sinh
trong lớp, phải phân tích, đánh giá kết quá học tập của lớp, của từng học sinh thông
qua các bài kiểm tra, các kỳ thi do nhà trường do ngành tổ chức. Phối hợp với các
giáo viên bộ môn, các tổ chức, đoàn thể trong và ngoài trường để quản lý hoạt động
học tập của học sinh. Phải thường xuyên phối hợp với gia đình học sinh để quản lý
23


hoạt động học tập của học sinh ở trên lớp, ở ngoài trường và ở gia đình thông qua sổ
liên lạc (sổ liên lạc điện tử, Email, điện thoại mạng xã hội nếu có). Phân các nhóm
học tập cho học sinh phù hợp. Xây dựng kế hoạch chủ nhiệm, kế hoạch học tập cho
lớp chủ nhiệm.
- Tổ trưởng chuyên môn: Giúp Hiệu trưởng điều hành các hoạt động chuyên
môn, nghiệp vụ của nhà trường liên quan đến việc dạy và học. Là người trực tiếp
quản lý giáo viên tổ chuyên môn. Là người trực tiếp chịu trách nhiệm trước Hiệu

trưởng về chất lượng chuyên môn của tổ chuyên môn. Do vậy tổ trưởng chuyên
môn phải là người nắm chắc tình hình học tập của học sinh từ đó có kế hoạch bồi
dưỡng giáo viên, bồi dưỡng học sinh khá giỏi, phụ đạo học sinh yếu kém để nâng
cao chất lượng học tập của học sinh ở những bộ môn mà tổ chuyên môn phụ trách.
Tổ trưởng chuyên môn phối hợp với ban chuyên môn nhà trường lựa chọn, phân
công giáo viên bộ môn hướng dẫn học sinh phương pháp học tập.
Tổ trưởng tổ chuyên môn phải là người nắm chắc đặc điểm tâm lý, chất
lượng học tập của học sinh ở những môn mà tổ chuyên môn quản lý để kịp thời
động viên, khuyến khích, uốn nắn, nhắc nhở giáo viên, sớm đưa ra biện pháp quản
lý hoạt động học tập của học sinh nhằm đạt kết quả cao nhất. Xây dựng kế hoạch tổ
chuyên môn, chỉ đạo thực hiện kế hoạch.
- Phó hiệu trưởng: Giúp hiệu trưởng quản lý hoạt động học tập của học sinh
trong và ngoài nhà trường, nắm chắc tình hình học tập, kết quả học tập của học sinh
trong trường thông qua việc tổng hợp kết quả các bài kiểm tra thường xuyên, bài
kiểm tra định kỳ, kết quả kiểm tra khảo sát chất lượng học sinh vào đầu năm học,
giữa kỳ, cuối học kỳ, cuối năm học. Từ số liệu của các kỳ kiểm tra, khảo sát phân
tích, đánh giá để tham mưu cho hiệu trưởng đưa ra những biện pháp quản lý hoạt
động học tập của học sinh nhằm đạt kết quả cao. Phân công các giáo viên có năng
lực chuyên môn vững vàng, có kinh nghiệm dạy học hướng dẫn học sinh phương
pháp học tập. Xây dựng các kế hoạch của nhà trường, chỉ đạo kiểm tra việc thực
hiện kế hoạch.
Vai trò của Hiệu trưởng: Hiệu trưởng là người quản lý cao nhất hoạt động
học tập của học sinh trong nhà trường. Hiệu trưởng quản lý hoạt động học tập của
học sinh thông qua các Phó hiệu trưởng, tổ trưởng chuyên môn, giáo viên chủ
nhiệm, giáo viên bộ môn và qua ban đại diện cha mẹ học sinh của nhà trường.
24


- Hiệu trưởng quản lý hoạt động học tập của học sinh thông qua việc xây
dựng kế hoạch, triển khai kế hoạch, kiểm tra đánh giá việc thực hiện kế hoạch. Hiệu

trưởng quản lý hoạt động học tập của học sinh thông qua việc xây dựng nội quy học
tập của nhà trường, phát động các phong trào thi đua: " Dạy tốt - học tốt". Đồng thời có
hình thức động viên khen thưởng đối với những học sinh đạt thành tích cao trong học
tập. Phối hợp với các tổ chức đoàn thể trong và ngoài trường, các cấp chính quyền địa
phương, ban đại diện cha mẹ học sinh quản lý hoạt động học tập của học sinh.
Qua những nét khái quát về lịch sử nghiên cứu vấn đề, các khái niệm cơ bản
của đề tài, một số đặc trưng chủ yếu quản lý hoạt động học tập của học sinh THPT
khu vực miền núi, trên cơ sở nghiên cứu biện pháp quản lý hoạt động học tập của
hiệu trưởng đối với học sinh THPT, mối quan hệ của hiệu trưởng với các thành phần
khác cùng tham gia quản lý hoạt động học tập của học sinh chúng tôi có rút ra kết
luận bước đầu như sau:
Hoạt động học tập nói riêng cùng với hoạt động giáo dục là hoạt động cơ
bản, chủ đạo đối với học sinh THPT. Để đạt được mục tiêu dạy học người hiệu
trưởng cần phải có biện pháp quản lý hoạt động học tập của học sinh một cách khoa
học, phù hợp với thực tiễn khách quan.
Đối với khu vực miền núi còn có nhiều khó khăn hơn các khu vực khác, về
điều kiện cơ sở vật chất thiếu thốn, trình độ dân trí, văn hóa thấp. Giao thông không
thuận lợi, sự quan tâm của gia đình đối với con cái còn ít vì vậy người hiệu trưởng
cần phải quan tâm sâu sắc tới việc quản lý hoạt động học tập của học sinh.
Khu vực miền núi là khu vực có đặc thù riêng về vị trí địa lí, văn hóa, dân trí
nên hoạt động dạy học, nhất là quản lý hoạt động học tập của học sinh cũng cần có
nét đặc thù riêng. Các biện pháp quản lý hoạt động học tập của hiệu trưởng sẽ quyết
định đến chất lượng dạy học của nhà trường, kết quả học tập của học sinh.
Tuy nhiên các vấn đề trình bày ở trên chỉ là những tri thức lý luận về các biện
pháp quản lý hoạt động học tập phù hợp và khả thi đối với học sinh THPT khu vực
miền núi. Để tìm hiểu sâu sắc về hoạt động học tập của học sinh THPT khu vực miền
núi chúng tôi sẽ đưa ra các biện pháp quản lý hoạt động học tập của học sinh THPT
khu vực Miền núi tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay.
7.6. Biện pháp quản lý hoạt động dạy học của học sinh THPT khu vực
miền núi tỉnh Vĩnh Phúc

Biện pháp 1: Lập kế hoạch quản lý hoạt động học tập của học sinh
25


×