Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

báo cáo kết quả nghiên cứu ứng dụng sáng kiến vai trò của các hiện tượng thực tế trong giảng gạy hóa học ở cấp THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.85 KB, 27 trang )

Trường THPT

Sáng kiến kinh nghiệm

SỞ GD & ĐT VĨNH PHÚC
TRƯỜNG THPT LIỄN SƠN
---------------- *** ----------------

BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN

Tên sáng kiến: VAI

TRÒ CỦA CÁC HIỆN TƯỢNG THỰC
TẾ TRONG GIẢNG DẠY HÓA HỌC Ở
CẤP THPT
Tác giả sáng kiến: HOÀNG THỊ THÚY NGA
Mã sáng kiến:

1


Trường THPT

Sáng kiến kinh nghiệm

Mục lục
Danh mục chữ viết tắt............................................................................................2
III. ĐỐI TƯỢNG, KHÁCH THỂ VÀ PHẠM VI GIỚI HẠN ĐỀ TÀI
NGHIÊN CỨU......................................................................................................5
1. Đối tượng nghiên cứu....................................................................................5


III. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI.........................................................................24
C. ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG.................................25
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................................27

Danh mục chữ viết tắt
THPT : Trung học phổ thông
HS
: Học sinh
GV : Giáo viên

2


Trường THPT

Sáng kiến kinh nghiệm

BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. LỜI GIỚI THIỆU
Nhằm thực hiện mục tiêu của ngành giáo dục là đào tạo thế hệ trẻ
trở thành những chủ nhân tương lai của đất nước những con người “vừa hồng
vừa chuyên”. Bản thân là một giáo viên đứng lớp giảng dạy bộ môn Hóa học
nhận thấy rằng: Hoá học là bộ môn khoa học rất quan trọng trong nhà trường
phổ thông nói chung và trường THPT nói riêng. Môn hoá học THPT cung cấp
cho học sinh một hệ thống kiến thức phổ thông, cơ bản và thiết thực đầu tiên về
hoá học, là giáo viên bộ môn Hoá học thì cần hình thành ở các em học sinh một
kỹ năng cơ bản, phổ thông, thói quen học tập và làm việc khoa học để làm nền
tảng cho việc giáo dục xã hội chủ nghĩa, phát triển năng lực nhận thức, năng lực

hành động. Có những phẩm chất cần thiết như cẩn thận, kiên trì, trung thực, tỉ
mỉ, chính xác, yêu chân lí khoa học, có ý thức trách nhiệm với bản thân, gia đình
và xã hội có thể hoà hợp với môi trường thiên nhiên, chuẩn bị cho học sinh học
lên cao và đi vào cuộc sống lao động.
Tuy nhiên việc lĩnh hội kiến thức hoá học của học sinh là hết sức khó
khăn. Mặt khác, Hóa học là một môn học khô và khó đối với HS ở THPT, mà
khối lượng kiến thức học sinh cần lĩnh hội tương đối nhiều. Phần lớn các bài
gồm những khái niệm mới, rất trừu tượng, khó hiểu. Do đó, giáo viên cần tìm ra
phương pháp dạy học gây được hứng thú học tập bộ môn giúp các em chủ động
lĩnh hội kiến thức một cách nhẹ nhàng, không gượng ép là điều cần quan tâm.
Khi HS có hứng thú, niềm say mê với môn Hóa sẽ giúp HS phát huy được năng
lực tư duy, khả năng tự học và óc sáng tạo. Để từ đó nâng cao chất lượng bộ
môn nói riêng và góp phần nâng cao chất lượng giáo dục nói chung là vấn đề hết
sức quan trọng trong quá trình dạy học của giáo viên. Chính vì vậy, tôi nghĩ đổi
mới phương pháp dạy học phải thể hiện được ba tính chất cơ bản sau:

3


Trường THPT

Sáng kiến kinh nghiệm

Một là: Phát huy tính tích cực, năng lực tư duy, óc sáng tạo, khả năng tự
học và sáng tạo của học sinh trong quá trình học tập.
Hai là: Giảng dạy và học tập phải gắn liền với cuộc sống sản xuất, học đi
đôi với hành.
Ba là: Rèn luyện được kĩ năng sống cho học sinh.
Kinh nghiệm nhiều năm giảng dạy hóa học tôi nhận thấy rằng: Học sinh
thấy hứng thú và dễ ghi nhớ bài hơn nếu trong quá trình dạy và học giáo viên

luôn có định hướng liên hệ thực tế giữa các kiến thức sách giáo khoa với thực
tiễn đời sống hàng ngày. Rất nhiều kiến thức hóa học có thể liên hệ được với các
hiện tượng tự nhiên xung quanh chúng ta.
Có những vấn đề Hóa học giúp học sinh giải thích những hiện tượng
trong tự nhiên, tránh việc mê tín dị đoan, thậm chí hiểu được những dụng ý khoa
học hóa học trong những câu ca dao – tục ngữ mà thế hệ trước để lại và có thể
ứng dụng trong thực tiễn đời sống thường ngày chỉ bằng những kiến thức rất
phổ thông mà không gây nhàm chán, xa lạ; lại có tác dụng kích thích tính chủ
động, sáng tạo, hứng thú trong môn học.
Trong việc dạy môn hoá học ở trường trung học, người giáo viên phải có
vốn kiến thức về thực tế sâu, rộng, có khả năng gắn bài giảng với thực tế, tạo ra
được những giờ học sinh động, nâng cao sự hiểu biết và kích thích sự ham mê
học tập của học sinh.
Xuất phát từ những thực tế đó và một số kinh nghiệm trong giảng dạy bộ
môn hóa học, tôi thấy để có chất lượng giáo dục bộ môn hóa học cao, người giáo
viên ngoài phát huy tốt các phương pháp dạy học tích cực cần khai thác thêm
các hiện tượng hóa học thực tiễn trong đời sống đưa vào bài giảng bằng nhiều
hình thức khác nhau nhằm phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh, tạo
niềm tin, niềm vui, hứng thú trong học tập bộ môn.
Chính vì vậy, tôi xin đưa ra sáng kiến kinh nghiệm :“ Vai trò của các hiện tượng
thực tế trong giảng dạy Hóa học ở cấp THPT ”.
1. Tên sáng kiến
VAI TRÒ CỦA CÁC HIỆN TƯỢNG THỰC TẾ TRONG GIẢNG DẠY
HÓA HỌC Ở CẤP THPT
2. Tác giả sáng kiến
- Họ và tên : HOÀNG THỊ THÚY NGA
- Địa chỉ tác giả sáng kiến : Đồng Tĩnh – Tam Dương – Vĩnh Phúc
- Số điện thoại : 0328584898.
- Email:
3. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến : Lĩnh vực giáo dục.

4


Trường THPT

Sáng kiến kinh nghiệm

4. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: Năm học 2018 -2019
II. Mục đích nghiên cứu
Xây dựng hệ thống một số hiện tượng hóa học thực tiễn cho các bài giảng
trong chương trình Hóa học THPT.
Vận dụng hệ thống các hiện tượng đã xây dựng để dạy học chương trình
hóa THPT nhằm giáo dục ý thức và tăng hứng thú học tập bộ môn cho học sinh.
III. ĐỐI TƯỢNG, KHÁCH THỂ VÀ PHẠM VI GIỚI HẠN ĐỀ TÀI
NGHIÊN CỨU.
1. Đối tượng nghiên cứu
Quá trình dạy học môn Hóa học ở trường THPT.
Các phương pháp dạy học tích cực, phương pháp tích hợp môi trường, kĩ
năng vận dụng kiến thức trong học tập và liên hệ thực tiễn của bộ môn hóa học
2. Khách thể nghiên cứu
Học sinh THPT
3. Phạm vi giới hạn đề tài nghiên cứu
Các bài dạy trong chương trình Hóa học THPT
IV. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU.
Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài này nhằm giải quyết một số vấn đề sau:
- Những vấn đề lí luận về lồng ghép giải thích các hiện tượng thực tế trong giảng
dạy môn Hóa học THPT
- Thực trạng về trình độ và điều kiện học tập của học sinh.
- Từ việc nghiên cứu vận dụng của đề tài, rút ra bài học kinh nghiệm góp phần
nâng cao chất lượng trong giảng dạy môn Hóa học tại trường THPT

V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
Một số phương pháp được sử dụng khi nghiên cứu đề tài :
- Nêu vấn đề dưới sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh tự học và thảo luận theo
nhóm học tập.
- Giáo viên giải đáp thắc mắc, tổng kết.

5


Trường THPT

Sáng kiến kinh nghiệm

B. NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Cơ sở khoa học
1.1. Hóa học với thực tiễn cuộc sống
a) Tác động của hóa học đến đời sống con người
Không có môn khoa học nào lại có nhiều ứng dụng như môn Hóa học :
- Trong tự nhiên, nhờ có hóa học mà chúng ta có thể khám phá thiên nhiên, nắm
được tính chất, quy luật của thiên nhiên và con người ngày càng thành công
trong ngành khoa học khám phá vũ trụ, trái đất,…
- Trong đời sống, sản xuất : Hóa học được ứng dụng trong việc nghiên cứu thành
phần, tác dụng, chế biến, bảo quản lương thực, thực phẩm, các quy trình sản
xuất (sản xuất, chế biến các nguồn nguyên liệu thô thành các nguyên liệu có thể
sử dụng trong đời sống sản xuất, chế biến các loại nông sản, chế tạo ra các đồ
dùng, vật dụng hằng ngày).
b) Tác dụng của các kiến thức thực tế về hóa học
- Giúp học sinh nắm được cơ sở hóa học, nắm vững và củng cố kiến thức cơ bản
về hóa học.

- Nắm nhanh và kĩ các kiến thức đã học trong bài. Hóa học là ngành hóa học
thực nghiệm, học lý thuyết và kiểm tra lại bằng các thí nghiệm. Chính việc tiến
hành các thí nghiệm sẽ phát sinh các vấn đề để các em có thể hiểu sâu và kĩ các
kiến thức đã học, qua đó các em hiểu bài hơn.
- Các kiến thức hóa học thực tế làm cho học sinh hiểu được vai trò to lớn của
hóa học trong đời sống : kinh tế, quốc phòng, sinh hoạt,… thúc đẩy sự ham hỏi
của học sinh.
- Giúp học sinh hiểu được bản chất của sự vật, hiện tượng trong đời sống hằng
ngày một cách đúng đắn. Các em sẽ nhận thức được những gì có ích, những gì
có hại để điều chỉnh hành vi của mình.
1.2. Tác dụng của việc liên hệ thực tế trong giảng dạy
a) Với người thầy :
- Phát huy khả năng truyền thụ kiến thức của người thầy. Khi mở rộng kiến thức
hóa học thực tế trong bài giảng sẽ nâng cao hiệu quả giảng dạy.
6


Trường THPT

Sáng kiến kinh nghiệm

- Mở rộng kiến thức hóa học thực tế rèn luyện một số kỹ năng dạy học :
+ Kỹ năng diễn đạt.
+ Kỹ năng sử dụng phương tiện dạy học.
+ Kỹ năng tiến hành thí nghiệm.
+ Kỹ năng phân bố thời gian.
+ Kỹ năng giao tiếp
- Kích thích lòng ham thích học tập của học sinh
- Tạo ra giờ học lý thú bổ ích. Khi mở rộng kiến thức hóa học thực tế sẽ có rất
nhiều câu hỏi đặt ra kích thích học sinh tư duy trả lời, bầu không khí của lớp sẽ

trở nên sôi động, tạo điều kiện cho các học sinh còn nhút nhát tham gia vào bài
giảng.
- Gần gũi với học sinh. Khi giáo viên thực hành các kỹ năng nhằm tăng hứng thú
học tập cho học sinh, giáo viên sẽ có nhiều cơ hội giao tiếp với học sinh. Nhờ đó
mà sẽ tạo được ấn tượng tốt với học sinh.
b) Với học sinh :
- Các em trở nên yêu thích môn hóa. Khi học sinh được hiểu thấu đáo các vấn đề
hóa học, được tham gia vào các hoạt động thực tế… Các em sẽ có hứng thú với
môn học vì các em đã nắm được tầm quan trọng của môn học, từ đó nâng cao
thành tích học tập.
- Nắm được các kiến thức cơ bản của hóa học. Các kiến thức hóa học thực tế lấy
nền tảng là các kiến thức hóa học mà học sinh đã học ở nhà trường, tác dụng của
các kiến thức này là giải thích các bản chất của sự vật, hiện tượng do đó các em
sẽ có nhiều cơ hội tiếp xúc các kiến thức hóa học, các em sẽ nắm rõ các kiến
thức hơn.
- Hình thành kỹ năng tư duy, sử dụng sách… Các kiến thức mới luôn thúc đẩy
học sinh tìm tòi phát hiện kiến thức trong sách báo.
- Phát huy tính tích cực sáng tạo trong học tập
1.3. Liên hệ thực tế là một biện pháp gây hứng thú học tập cho học sinh
Cái mới luôn là cái kích thích chúng ta tìm hiểu nhất. Việc liên hệ thực tế
sẽ thúc đẩy học sinh tìm tòi khám phá trong học tập. Hiểu và giải thích được các
hiện tượng tự nhiên là một động cơ thúc đẩy học sinh học tập. Các kiến thức hóa
học sẽ thu hút sự chú ý lắng nghe trong giờ học và ham thích học hỏi, tìm kiếm
sách vở, rèn luyện khả năng sử dụng sách… Qua đó, các em sẽ thấy được những
lý thú của các kiến thức đã học, tăng thêm lòng yêu thích môn học.
Hứng thú học tập là một trong những yếu tố quyết định kết quả học tập
của học sinh. Học sinh có khả năng mà không có hứng thú thì cũng không đạt
kết quả, giáo viên giỏi chuyên môn mà không có kỹ năng tạo hứng thú học tập
7



Trường THPT

Sáng kiến kinh nghiệm

cho học sinh thì chưa thành công. Do đó đòi hỏi người giáo viên phải hội tụ kiến
thức và tất cả các yếu tố phục vụ cho công việc dạy học. Kỹ năng tạo hứng thú
là kỹ năng quan trọng nhất, mà để có được kỹ năng này thì đầu tiên người giáo
viên phải có kiến thức sâu, rộng, phải luôn cung cấp cho học sinh lượng kiến
thức : ĐỦ, ĐÚNG, MỚI, THIẾT THỰC.
Với giáo viên bộ môn Hóa học, kiến thức hóa học thực tế sẽ đáp ứng mặt
thiết thực của kiến thức.
2. Thực trạng giảng dạy môn Hóa HHọc ở trường THPT
Thuận lợi :
- 100% giáo viên đã đạt chuẩn.
- Trong quá trình giảng dạy môn hóa, giáo viên đều cố gắng thay đổi phương
pháp giảng dạy của mình theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh thông
qua các phương pháp như : phương pháp trực quan, phương pháp giải quyết vấn
đề, phương pháp vấn đáp, phương pháp liên hệ thực tế trong bài giảng….
- Giáo viên đã có sử dụng các đồ dùng và phương tiện dạy học như thí nghiệm,
mô hình, tranh …. và từng bước ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học
hóa học.
- Học sinh có chú ý nghe giảng, tập trung quan sát thí nghiệm, giải thích một số
hiện tượng trong cuộc sống và suy nghĩ trả lời các câu hỏi do giáo viên đặt ra.
- Học sinh tích cực thảo luận nhóm và đã đem lại hiệu quả trong quá trình lĩnh
hội kiến thức.
Khó khăn :
Hiện nay ở trường, một số học sinh chưa biết tác dụng của môn hóa học, do việc
giảng dạy ở trường còn mắc phải một số khuyết điểm :
- Còn thiên về lý thuyết thiếu thực tế.

- Chưa cung cấp cho học sinh các kiến thức hóa học có ứng dụng nhiều trong
thực tiễn.
- Học sinh ít chọn thi THPT quốc gia ban khoa học tự nhiên nên cũng không chú
tâm đến môn học
- Do đầu vào thấp, cho nên khả năng vận dụng kiến thức để lý giải các tượng
liên quan đến hóa học đối với học sinh còn khó khăn.
* Do đó, để khắc phục các nhược điểm trên và để nâng cao khả năng vận dụng
lý thuyết vào thực tiễn, để tạo hứng thú trong việc học môn Hóa học thì việc liên
hệ thực tế trong quá trình giảng dạy là cần thiết.
II. NỘI DUNG, BIỆN PHÁP THỰC HIỆN CỦA ĐỀ TÀI
1. Các giải pháp thực hiện

8


Trường THPT

Sáng kiến kinh nghiệm

Để chứng minh được“Vai trò của các hiện tượng thực tế trong giảng dạy
Hóa Học ở cấp THPT” tôi thực hiện bằng cách:
- Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống ngày thường thay cho lời
giới thiệu bài giảng mới. Cách nêu vấn đề này có thể tạo cho học sinh bất ngờ,
có thể là một câu hỏi rất khôi hài hay một vấn đề rất bình thường mà hàng ngày
học sinh vẫn gặp nhưng lại tạo sự chú ý quan tâm của học sinh trong quá trình
học tập.
- Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống ngày thường qua các
phương trình phản ứng hoá học cụ thể trong bài học. Cách nêu vấn đề này có thể
sẽ mang tính cập nhật, làm cho học sinh hiểu và thấy được ý nghĩa thực tiễn bài
học. Giáo viên có thể giải thích để giải toả tính tò mò của học sinh. Mặc dù vấn

đề được giải thích có tính chất rất phổ thông.
- Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống ngày thường thông qua
các bài tập tính toán. Cách nêu vấn đề này có thể giúp cho học sinh trong khi
làm bài tập lại lĩnh hội được vấn đề cần truyền đạt, giải thích. Vì muốn giải được
bài toán hoá đó học sinh phải hiểu được nội dung kiến thức cần huy động, hiểu
được bài toán yêu cầu gì? Và giải quyết như thế nào?
- Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống ngày thường từ đó liên hệ
với nội dung bài giảng để rút ra những kết luận mang tính quy luật. Làm cho học
sinh không có cảm giác khó hiểu vì có nhiều vấn đề lý thuyết nếu đề cập theo
tính đặc thù của bộ môn thì khó tiếp thu được nhanh so với gắn nó với thực tiễn
hàng ngày.
- Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống ngày, thường sau khi đã
kết thúc bài học. Cách nêu vấn đề này có thể tạo cho học sinh căn cứ vào những
kiến thức đã học tìm cách giải thích hiện tượng ở nhà hay những lúc bắt gặp
hiện tượng đó, học sinh sẽ suy nghĩ, ấp ủ câu hỏi vì sao lại có hiện tượng đó?
Tạo tiền đề thuận lợi khi học bài học mới tiếp theo.
- Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống ngày thường thông qua
những câu chuyện ngắn có tính chất khôi hài, gây cười có thể xen vào bất cứ
thời gian nào trong suốt tiết học. Hướng này có thể góp phần tạo không khí học
tập thoải mái. Đó cũng là cách kích thích niềm đam mê học hoá.
- Tiến hành tự làm thí nghiệm qua các hiện tượng thực tiễn xung quanh
đời sống ngày thường ở địa phương, gia đình … sau khi đã học bài giảng. Cách
nêu vấn đề này có thể làm cho học sinh căn cứ vào những kiến thức đã học tìm
cách giải thích hay tự tái tạo lại kiến thức qua các thí nghiệm hay những lúc bắt
gặp hiện tượng, tình huống đó trong cuộc sống. Giúp học sinh phát huy khả
năng ứng dụng hoá học vào đời sống thực tiễn.
- Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống ngày thường từ đó liên hệ
với nội dung bài giảng để rút ra những kết luận mang tính quy luật. Làm cho học
9



Trường THPT

Sáng kiến kinh nghiệm

sinh không có cảm giác khó hiểu vì có nhiều vấn đề lý thuyết nếu đề cập theo
tính đặc thù của bộ môn thì khó tiếp thu được nhanh so với gắn nó với thực tiễn
hàng ngày.
- Có thể kết hợp với các buổi ngoại khóa để tăng hiệu quả của đề tài.
2. Các hình thức thực hiện
2.1. Liên hệ thực tế khi giới thiệu bài giảng mới
Cách nêu vấn đề này có thể tạo cho học sinh bất ngờ, có thể là một câu hỏi rất
khôi hài hay một vấn đề rất bình thường mà hàng ngày học sinh vẫn gặp nhưng
lại tạo sự chú ý quan tâm của học sinh trong quá trình học tập.
Ví dụ 1:
Khi dạy về bài CLO (ở lớp 10), giáo viên có thể mở bài như sau :
- GV : Mỗi khi mở vòi nước máy chúng ta thường ngửi thấy có mùi xốc rất khó
chịu. Đó là vì tại nhà máy nước người ta đã sục vào đó một chất khí có tác dụng
diệt khuẩn. Các em có biết khí đó là khí gì không ?
- HS có thể biết sẽ trả lời đó là khí clo.
- GV : Đây cũng là tên bài học của chúng ta hôm nay.
* Cách giới thiệu này sẽ tạo cho học sinh chú ý hơn để tìm hiểu tại sao clo
lại có tính chất như vậy. Và trong quá trình học về tính chất của khí Clo các em
sẽ giải thích được như sau:
Khi sục vào nước một lượng nhỏ clo, nước có tác dụng sát trùng do clo tan một
phần trong nước và một phần không tan gây mùi:
H2O + Cl2
HCl + HClO
Hợp chất HClO không bền có tính oxi hóa mạnh:
HClO → HCl + O

Oxi nguyên tử có khả năng diệt khuẩn.
Ví dụ 2:
Khi dạy về bài Amoniac và muối amoni (ở lớp 11), giáo viên có thể mở bài như
sau :
- GV : Khi ăn bánh bao ta thường thấy có những lỗ xốp. Đó là do những bọt khí
thoát ra để lại các lỗ hổng trên bánh. Vậy các em có tò mò khí thoát ra là khí gì
không ?
- HS suy nghĩ trả lời:
- GV: Thành phần làm nên bánh bao là bột nở (NH4)2CO3. Khi nhiệt phân tạo ra
CO2 và một chất khí có mùi khai. Khí có mùi khai đó là khí gì ? Khí mùi khai đó
có tính chất gì? Nó có độc không, ăn bánh bao có nguy hiểm hay không ? Bây
giờ chúng ta sẽ tìm hiểu thông qua bài: Amoniac vaø muối amoni.

10


Trường THPT

Sáng kiến kinh nghiệm

* Trong quá trình học về tính chất của muối amoni, học sinh sẽ hiểu được hiện
tượng trên là do :
(NH4)2CO3 được dùng làm bột nở vì khi trộn thêm vào bột mì, lúc hấp
bánh thì (NH4)2CO3 sẽ bị phân hủy dưới tác dụng của nhiệt :
t
(NH4)2CO3 
→ 2NH3 ↑ + CO2 ↑ + H2O↑
Như vậy, khi hấp bánh bao khí CO2, NH3 thoát ra để lại vô số lỗ nhỏ trong bánh
bao làm cho bánh bao vừa to lại vừa xốp và có mùi khai là mùi đặc trưng của
amoniac.

Ví dụ 3:
Khi dạy về bài PHOTPHO (ở lớp 11), giáo viên có thể liên hệ thực tế khi mở bài
như sau :
- GV: Trong “Văn tế thập loại chúng sinh”, thi hào Nguyễn Du đã viết :
“Lập lòe ngọn lửa ma trơi
Tiếng oan văng vẳng tối trời còn thương”
Thế “ma trơi” là cái gì vậy ? Các nhà văn tưởng tượng ra chăng ? Không
phải, “ma trơi” quả là có thật. Nếu các em có dịp đi qua các nghĩa trang vào ban
đêm thì các em sẽ thấy tại một số ngôi mộ tỏa ra những ngọn lửa màu xanh lãng
đãng lập lòe mà dân gian thường gọi là “ma trơi”. Bài học ngày hôm nay sẽ giúp
các em hiểu được hiện tượng này. Đó là bài PHOT PHO.
* Sau khi học xong bài Photpho giáo viên sẽ giúp học sinh hiểu được hiện tượng
trên là do :
Trong cơ thể (xương động vật) có chứa một hàm lượng photpho khi chết
phân hủy tạo một phần thành khí PH3 (photphin), khi có lẫn một chút khí P2H4
(điphotphin), khí PH3 tự bốc cháy ngay trong điều kiện thường tạo thành khối
cầu khí (lửa “ma trơi”)bay trong không khí. Bất kể ngày hay đêm đều có PH3
bay ra ở các nghĩa trang, chỉ có điều là ban ngày ánh sáng mặt trời quá mạnh
nên ta không thấy được ma trơi.
2PH3 + 4O2 → P2O5 + 3H2O
Điều trùng lặp ngẫu nhiên là : Người ta thường gặp “Ma trơi” ở các nghĩa
trang càng tăng thêm sự mê tính dị đoan.
Ví dụ 4:
Khi học bài OZON (ở lớp 10), giáo viên có thể mở bài như sau :
- GV : Sau mỗi trận mưa, các em cảm thấy bầu trời, khí hậu như thế nào ?
- HS : Bầu trời quang đãng hơn, khí hậu mát mẻ hơn.
- GV : Thật vậy, sau cơn mưa to sấm nổ đùng đùng, khi mưa tạnh, nắng lên, mọi
người thường cảm thấy như căn phòng, đường xá, khu phố… thậm chí cả bầu
trời xanh kia mát mẻ trong lành hẳn lên. Hít thở cũng thật dễ chịu. Đó là nguyên
o


11


Trường THPT

Sáng kiến kinh nghiệm

nhân gì nhỉ ? Để hiểu được điều này, hôm nay chúng ta sẽ học bài : OXI –
OZON.
* Trong khi học về phần Ozon, học sinh sẽ hiểu được hiện tượng trên là do : Khi
có những tia chớp điện thì một phần oxi trong không khí sẽ biến thành ozon :
3O2 → 2O3
Ozon khi rất loãng không có mùi hôi, ngược lại còn cho con người ta có cảm
giác tươi mát, thanh sạch dễ chịu. Nó còn có tác dụng sát trùng, làm sạch không
khí, rất có lợi cho cơ thể con người.
Ví dụ 5:
Khi học về bài IOT (ở lớp 10), giáo viên có thể mở bài như sau :
- GV : Hằng ngày, các em thường ăn muối gì ?
- HS : Đó là muối iot ?
- GV : Tại sao phải ăn muối có iot ?
- HS : Để trị bệnh bướu cổ.
- GV : Ăn muối iot để bổ sung hàm lượng iot cho cơ thể, trong cơ thể một người
trưởng thành có chứa 20 - 50mg iot chủ yếu tập trung tuyến giáp trạng, thiếu iot
trong tuyến này thì cơ thể sẽ bị một số bệnh : Bướu cổ, nặng hơn là dẫn đến đần
độn, phụ nữ thiếu iot dẫn đến vô sinh, có biến chứng sau khi sanh. Mỗi ngày
phải đảm bảo cho cơ thể hấp thụ với < 150 microgam iot. Vậy iot có những tính
chất như thế nào ? Bài IOT hôm nay sẽ giúp chúng ta tìm hiểu về tính chất của
nguyên tố này.
2.2. Liên hệ thực tế qua các phản ứng hóa học cụ thể trong bài học

Cách nêu vấn đề này có thể sẽ mang tính cập nhật, làm cho học sinh hiểu và
thấy được ý nghĩa thực tiễn bài học. Giáo viên có thể giải thích để giải tỏa tính
tò mò của học sinh.
Ví dụ 1:
Khi dạy bài ANKIN, sau khi học xong phần điều chế axetilen, giáo viên có thề
liên hệ thực tế như sau :
- GV : Vì sao ném đất đèn xuống ao làm cá chết ? Trong nông nghiệp, đất đèn
dùng để làm gì ?
- HS : Đất đèn có thành phần chính là canxi cacbua, khi tác dụng với nước sinh
ra khí axetilen và canxi hydroxit.
CaC2 + 2H2O → C2H2 ↑ + Ca(OH)2
Các chất này làm tổn thương đến các hoạt động hô hấp của cá, vì vậy có
thể làm cá chết.
Trong nông nghiệp, từ lâu người ta đã dùng đất đèn để làm kích thích quả xanh
mau chín và chín đồng loạt ở các kho, thường dùng để dú chuối, cà chua…
12


Trường THPT

Sáng kiến kinh nghiệm

Ví dụ 2:
Khi dạy về bài FLO (lớp 10), sau khi học xong tính chất của axit HF, giáo viên
có thể liên hệ thực tế như sau :
- GV : Tại sao không đựng dung dịch HF trong bình thủy tinh .
- HS : Dung dịch HF, tuy là axit yếu nhưng có tính chất đặc biệt là ăn mòn thủy
tinh. Do thành phần của thủy tinh chính là SiO2, khi cho dung dịch HF vào thì có
phản ứng :
SiO2 + 4HF → SiF4 + 2H2O

Ví dụ 3:
Khi dạy về bài LƯU HUỲNH (ở lớp 10), sau khi học xong tính chất hóa học của
lưu huỳnh tác dụng với kim loại, giáo viên có thể liên hệ thực tế như sau :
- GV : Tại sao khi đánh rơi nhiệt kế thủy ngân thì không được dùng chổi quét
mà nên rắc bột S lên trên ?
- HS : Thủy ngân là kim loại ở dạng lỏng, dễ bay hơi và hơi thủy ngân là một
chất độc. Vì vậy, khi làm rơi nhiệt kế thủy ngân nếu như ta dùng chổi quét thì
thủy ngân sẽ bị phân tán nhỏ, làm tăng quá trình bay hơi làm cho quá trình thu
gom khó khăn. Ta phải rắc bột S lên những chỗ có thủy ngân, vì S có thể tác
dụng với thủy ngân tạo thành HgS dạng rắn và không bay hơi.
Hg + S → HgS↓
Quá trình thu gom thủy ngân cũng đơn giản hơn.
Ví dụ 4:
Khi dạy bài MỘT SỐ HỢP CHẤT QUAN TRỌNG CỦA KIM LOẠI KIỀM,
sau khi học xong tính chất của NaHCO3, giáo viên có thể liên hệ như sau :
- GV : Vì sao muối NaHCO3 được dùng để chế thuốc đau dạ dày ?
- HS : Trong dạ dày, có chứa dung dịch HCl. Người bị đau dạ dày là người có
nồng độ dung dịch HCl cao làm dạ dày bị bào mòn. NaHCO3 dùng để chế thuốc
đau dạ dày vì nó làm giảm hàm lượng dung dịch HCl có trong dạ dày nhờ phản
ứng :
NaHCO3 + HCl → NaCl + CO2 + H2O
Ví dụ 5:
Khi dạy về bài PEPTIT VÀ PROTEIN (ở lớp 12), sau khi học xong phần tính
chất của protein, giáo viên có thể liên hệ thực tế như sau :
- GV : Giải thích vì sao khi nấu canh cua thì có gạch cua nổi lên ? Khi nấu
trứng thì lòng trắng trứng kết tủa lại ?
- HS : Vì trong những trường hợp đó có xảy ra sự kết tủa protit bằng nhiệt, gọi là
sự đông tụ. Một số protit tan trong nước tạo thành dung dịch keo, khi đun nóng
sẽ bị kết tủa.
13



Trường THPT

Sáng kiến kinh nghiệm

Ví dụ 6:
Khi dạy về bài AXIT CACBOXYLIC (ở lớp 11), giáo viên có thể liên hệ thực tế
như sau :
- GV : Vì sao khi bôi vôi vào chỗ ong, kiến đốt sẽ đỡ đau ? (Giáo viên có thể
cung cấp cho học sinh thông tin : trong nọc ong, kiến, nhện có axit HCOOH)
- HS : Do trong nọc ong, kiến, nhện có axit hữu cơ tên là axit fomic (HCOOH).
Vôi là chất bazơ nên trung hòa axit làm ta đỡ đau.
2HCOOH + Ca(OH)2 → (HCOO)2Ca + 2H2O
Ví dụ 7:
Khi dạy về bài NHÔM VÀ HỢP CHẤT CỦA NHÔM, sau khi học xong tính
chất của muối nhôm sunsat, giáo viên có thể liên hệ thực tế như sau :
- GV : Vì sao phèn chua có thể làm trong nước ? (Câu này nếu học sinh không
giải thích được thì giáo viên phải diễn giải cho học sinh hiểu)
- HS : Phèn chua là muối sunfat kép của nhôm và kali ở dạng tinh thể ngậm
nước :
K2SO4.Al2(SO4)3.24H2O
Phèn chua không độc, có vị chua, ít tan trong nước lạnh nhưng tan nhiều
trong nước nóng. Khi tan trong nước, phèn chua sẽ bị thủy phân và tạo thành
Al(OH)3 ở dạng kết tủa keo lơ lửng trong nước :
Al2(SO4)3 → 2Al3+ + 3SO42Al3+ + H2O →AlOH2+ + H+
AlOH2+ + H2O →Al(OH)2+ + H+
Al(OH)2+ + H2O →Al(OH)3 + H+
Al2(SO4)3 + 3H2O → 2Al(OH)3 + 3H2SO4
Chính những hạt Al(OH)3 kết tủa dạng keo lơ lửng ở trong nước này đã

kết dính với các hạt bụi bẩn, các hạt đất nhỏ để trở thành hạt đất to hơn, nặng
hơn và lắng xuống. Vì vậy, mà nước trở nên trong hơn.
Ví dụ 8:
Khi dạy về bài AMIN (ở lớp 12), sau khi học xong tính bazo yếu của amin giáo
viên có thể liên hệ thực tế như sau :
- GV : Tại sao khi nấu canh cá người ta thường nấu canh chua ?
- HS : Bởi vì chất chua (axit lactic có trong nước dưa, axit axetic có trong dấm,
axit citric có trong chanh...) rất có duyên với cá. Nó nâng cao hương vị của món
canh chua cá. Mặt khác, nó còn hạn chế mùi tanh của canh khi ăn. Vì trong chất
tanh của cá có chứa hỗn hợp các amin như : đimêtyl amin, trimetyl amin. Hai
amin trên có tính chất bazo yếu. Trong các chất chua dùng để nấu cá đều có các

14


Trường THPT

Sáng kiến kinh nghiệm

axit hữu cơ chúng có phản ứng với các amin có tính bazo yếu trong cá tạo thành
muối do đó sẽ giảm hay làm mất vị tanh của cá.
Ví dụ : CH3COOH + (CH3)2NH → CH3COOH2N(CH3)2
2.3. Liên hệ thực tế sau khi đã kết thúc bài học
Cách nêu vấn đề này có thể tạo cho học sinh căn cứ vào những kiến thức đã học
tìm cách giải thích hiện tượng ở nhà hay những lúc bắt gặp hiện tượng đó, học
sinh sẽ suy nghĩ, ấp ủ câu hỏi vì sao lại có hiện tượng đó ?
Ví dụ 1:
Sau khi học xong bài PHÂN BÓN HÓA HỌC (ở lớp 11). Để tạo cho học sinh ở
khu vực làm nông nghiệp có thể kiểm nghiệm trong đời sống, giáo viên có thể
liên hệ thực tế như sau :

- GV :
“ Lúa chiêm lấp ló đầu bờ,
Hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên”
Câu ca dao mang hàm ý khoa học hóa học như thế nào ?
- HS : Câu ca dao nhắc nhở người làm lúa : Vụ chiêm khi lúa đang trổ đòng
đòng mà có trận mưa rào, kèm theo sấm chớp thì sẽ rất tốt và cho năng suất cao
sau này.
- GV : Em hãy giải thích câu ca dao trên ?
- HS : Do trong không khí có ~ 80% khí N2 và ~ 20% khí O2, khi có sấm chớp
(tia lửa điện) sẽ tạo điều kiện cho N2 hoạt động :
C
N2 + O2 3000

→ 2NO
Sau đó :
2NO + O2 → 2NO2
Khí NO2 sẽ tan vào trong nước mưa :
4NO2 + O2 + 2H2O → 4HNO3
HNO3 → H+ + NO3- GV : Nhờ hiện tượng này, hàng năm làm tăng 6 – 7kg N cho mỗi mẫu đất.
Ngày nay, người ta đã điều chế Ure [(NH2)2CO] từ không khí để chủ động bón
cho cây trồng. Trong nền nông nghiệp hiện đại, cần phải dùng nhiều phân bón
và nhiệm vụ của ngành công nghiệp hóa chất “hướng về không khí đòi lương
thực” là càng lớn.
Ví dụ 2:
Sau khi học xong bài TÍNH CHẤT CỦA KIM LOẠI (ở lớp 12), giáo viên có thể
liên hệ thực tế như sau :
- GV : Tại sao nhôm lại được dùng làm dây dẫn điện cao thế ? Còn dây đồng lại
được dùng làm dây dẫn điện trong nhà.
0


15


Trường THPT

Sáng kiến kinh nghiệm

- HS : Tuy đồng dẫn điện tốt hơn nhôm nhưng nhôm (khối lượng riêng
của nhôm là 2,70g/cm3) nhẹ hơn đồng (khối lượng riêng của đồng là 9,1). Do
đó, nếu như dùng dây đồng làm dây dẫn điện cao thế thì phải tính đến việc xây
các cột điện sao cho chịu được trọng lực của dây điện. Việc làm đó không có lợi
về mặt kinh tế. Còn trong nhà việc chịu trọng lực của dây dẫn điện không ảnh
hưởng lớn lắm. Vì vậy, ở trong nhà thì ta dùng dây dẫn điện bằng đồng.
Ví dụ 3:
Sau khi học xong bài OZON, giáo viên có thể liên hệ thực tế như sau :
- GV : Vai trò của ozon trong đời sống và công nghiệp như thế nào ?
- HS : Suy nghĩ trả lời
- GV củng cố : Ozon có khả năng “cải tạo” nước thải, có thể khử các chất độc
như : phenol, hợp chất xianua, nông dược, chất trừ cỏ, các hợp chất hữu cơ gây
bệnh… có trong nước thải và ozon có thể tác dụng với các ion kim loại (sắt,
thiếc, chì, mangan…) biến nước thải thành nước sạch vô hại.
Trên tầng cao khí quyển 10 – 30km quanh trái đất, ozon tồn tại thành một
tầng khí quyển riêng, có khả năng hấp thụ các tia tử ngoại phát ra từ mặt trời. Vì
các tia tử ngoại làm cho con người, động thực vật bị đột biến gen, gây bệnh nan
y… Gần đây do công nghiệp phát triển, các nhà máy xuất hiện khí thải, động cơ
phản lực… thải vào khí quyển một lượng bụi và khí ô nhiễm, thì ozon lại góp
phần oxi hóa chất gây ô nhiễm, cũng chính vì vậy mà tầng ozon bị mỏng dần.
Trong vòng 50 năm gần đây, lượng ozon bị thủng và gây ra không ít hiện tượng
như : bão, lũ lụt, cháy rừng, bệnh nan y…
Ví dụ 4:

Sau khi học xong bài TINH BỘT (ở lớp 12), giáo viên có thể liên hệ thực tế như
sau :
- GV : Vì sao ban đêm không để nhiều cây xanh trong nhà ?
- HS : Ban ngày, do có ánh sáng mặt trời nên cây xanh tiến hành quá trình quanh
hợp, hấp thụ CO2 trong không khí và giải phóng khí oxi

→ (C6H10O5)n + 6nO2 ↑
6nCO2 + 5nH2O 
clorophin
as

Nhưng ban đêm, do không có ánh sáng mặt trời, cây xanh không quang hợp, chỉ
có quá trình hô hấp nên cây hấp thụ khí O2 và thải ra khí CO2, làm cho phòng
thiếu khí O2 và có nhiều khí CO2.
Ví dụ 5:
Sau khi học xong bài MỘT SỐ HỢP CHẤT QUAN TRỌNG CỦA KIM LOẠI
KIỀM THỔ, giáo viên có thể liên hệ thực tế như sau :
- GV : Tục ngữ Việt Nam có câu : “Nước chảy đá mòn”, câu này mang hàm ý
của khoa học hóa học như thế nào ?
16


Trường THPT

Sáng kiến kinh nghiệm

- HS : Trong đá, thông thường chủ yếu là CaCO3. Vì trong nước có lẫn khí CO2
nên sẽ xảy ra phản ứng :
CaCO3 + CO2 + H2O → Ca(HCO3)2
Khi nước chảy sẽ cuốn Ca(HCO3)2 trôi theo, qua thời gian đá sẽ bị mòn

dần.
- GV (Có thể giải thích bổ sung thêm nguyên nhân khác ) : Trong đá, thông
thường chủ yếu là CaCO3 nên trong nước sẽ tồn tại phương trình điện li :
CaCO3
Ca2+ + CO32- (*)
Khi nước chảy sẽ cuốn theo các ion Ca2+, CO32-, theo nguyên lí chuyển
dịch cân bằng thì cân bằng (*) chuyển dịch theo chiều chống lại sự giảm nồng
độ Ca2+, CO32- (chiều thuận) nên theo thời gian nước chảy qua đá sẽ mòn dần.
Ví dụ 6:
Sau khi học xong bài ANKAN, giáo viên có thể liên hệ thực tế như sau :
- GV : Làm thế nào để biết dưới giếng có khí độc (CO), hoặc nhiều khí thiên
nhiên (CH4...) và không có khí oxi, để tránh khi xuống giếng bị ngạt ?
- HS : Khi xuống giếng phải đeo bình oxi. Còn muốn biết có khí độc (CO), hoặc
nhiều khí thiên nhiên (CH4...) và không có khí oxi chỉ cần lấy dây buộc một con
gà, vịt.... thả xuống nếu nó chết thì chứng tỏ có khí độc.
- GV : Trong các giếng đào đặc biệt nhiều vùng đồng bằng thường có khí độc
CO, CH4... và không có khí O2. Mà người dân chúng ta có thói quen xuống
giếng. Đã có nhiều trường hợp tử vong một lúc nhiều mạng người vì gặp khí độc
(CO) gây đông máu, CH4 ... và không có oxi gây ngạt trong tíc tắc, làm người
xuống cứu cũng chết.
Ví dụ 7:
Sau khi học xong bài IOT (ở lớp 10), giáo viên có thể liên hệ thực tế như sau :
- GV: Nêu cách lấy dấu vân tay của tội phạm lưu trên các vật ở hiện trường chỉ
sau một vài phút thí nghiệm :
Lấy một tờ giấy sạch, ấn một ngón tay vào mặt giấy rồi nhấc ra sau đó
đem phần giấy có dấu vân tay đặt trên miệng ống nghiệm có đựng cồn iot, dùng
đèn cồn để đun nóng phần đáy ống nghiệm. Đợi cho khí màu tím thoát ra (I2) từ
ống nghiệm thấy phần giấy có vân tay dần hiện lên rõ nét (màu nâu). Nếu bạn
cất tờ giấy có vân tay đi mấy tháng sau làm tương tự cũng vẫn có hiện tượng
như trên

Do đầu ngón tay có chất béo, dầu khoáng, mồ hôi, khi ấn tay vào giấy sẽ
lưu lại một phần trên giấy mặc dù mắt thường không nhận ra. Các chất này khi
gặp hơi iot cho màu nâu (chú ý hơi iot rất độc không được ngửi).
Ví dụ 8:
17


Trường THPT

Sáng kiến kinh nghiệm

Sau khi học xong bài MỘT SỐ HỢP CHẤT QUAN TRỌNG CỦA NATRI, giáo
viên có thể liên hệ thực tế như sau :
- GV: Vì sao khi luộc rau muống nên cho vào trước một ít muối ăn NaCl ?
- HS: Do nhiệt độ sôi của nước ở áp suất 1at là 1000C, nếu ta thêm NaCl thì lúc
đó làm cho nhiệt độ của nước muối khi sôi là > 1000C. Do nhiệt độ sôi của muối
cao hơn của nước nên rau chín nhanh hơn, thời gian luộc rau không lâu nên rau
ít mất vitamin. Vì vậy, khi đó rau muống sẽ mềm hơn và xanh hơn.
Ví dụ 9:
Sau khi học xong bài CACBON (ở lớp 11), giáo viên có thể liên hệ thực tế như
sau :
- GV: Vì sao khi cơm khê người ta thường cho vào nồi cơm một mẩu than củi ?
- HS: Do than củi xốp có tính hấp phụ, nên hấp phụ được mùi khét của cơm làm
cho cơm đỡ mùi khê.
2.4. Liên hệ thực tế thông qua những câu chuyện ngắn có tính chất khôi hài,
gây cười
Hướng này có thể góp phần tạo không khí học tập thoải mải. Đó cũng là cách
kích thích niềm đam mê học hóa.
Ví dụ 1:
Khi dạy bài HÓA HỌC VÀ VẤN ĐỀ MỐI TRƯỜNG (ở lớp 12), sau khi học

xong phần “Ô nhiễm không khí”, giáo viên có thể kể câu chuyện hài :
- GV :
+ Một nhà thông thái thuyết trình ở hội nghị bảo vệ môi trường : “Tại sao
người ta không nghĩ đến việc xây dựng thành phố ở nông thôn nhỉ ? Ở đó không
khí trong lành, lo gì bị ô nhiễm”
+ Cả hội trường cười ầm lên.
Ví dụ 2:
Khi dạy về bài SẮT (ở lớp 12), giáo viên có thể vào bài bằng câu chuyện :
Hồi đầu thế kỉ XIX, các nhà bác học đã phát hiện ra sắt có trong máu người dưới
dạng huyết cầu tố (hemoglobin). Một sinh viên khoa Hóa đã làm gì khi nghe cô
gái mình yêu hỏi anh ta lấy gì làm bằng chứng cho tình yêu đang chảy cuồn
cuồn trong cơ thể anh ta ?
Anh ta đã quyết định tặng người yêu dấu một chiếc nhẫn bằng … sắt, nhưng
không phải bằng sắt thông thường mà bằng sắt lấy từ chính máu của mình ! Cứ
định kì lấy máu ra, chàng trai thu được một hợp chất mà từ đó tách sắt ra bằng
phương pháp hóa học.

18


Trường THPT

Sáng kiến kinh nghiệm

Nhưng chiếc nhẫn đã không bao giờ được đeo trên tay cô gái như một bằng
chứng tình yêu bởi … nó chưa được làm ra thì chàng trai đã chết vì bị mất máu,
cho dù lượng sắt lấy ra khỏi cơ thể chàng chưa tới … 3 gam !
Các chàng trai, cô gái ngày nay vẫn nhớ câu chuyện này. Nhưng chẳng ai chứng
tỏ tình yêu bằng cách này nữa, cho dù thật cảm động.
Ví dụ 3:

Khi học về bài BENZEN (ở lớp 11), ở cấu trúc của phân tử benzen, giáo viên có
thể kể cho học sinh nghe một giai thoại về Kekule :
Một lần, Kekule ngồi trên xe buýt ở London và nghĩ mãi mà chưa tìm ra được
một cấu tạo nào tương ứng với tính chất của benzen. Ông mơ màng nhìn ra
ngoài xe và chợt thấy trên cành cây ở công viên có sáu con khỉ, con nọ đánh đu
vào chân con kia thành vòng sáu cạnh. Trong khi nô đùa, có lúc các chú khỉ bám
với nhau bằng cả hai chân hai tay, có lúc lại chỉ bằng một cặp tay chân. Một tia
chớp nảy ra trong đầu ông :
- “Phải chăng sáu nguyên tử cacbon trong benzen cùng liên kết với nhau giống
như sáu chú khỉ con vui vẻ kia ?”
Kekule đã xác định được cấu trúc vòng của benzen và xây dựng lí thuyết các
hợp chất thơm nhờ … các chú khỉ.
Ví dụ 4:
Khi học về bài VẬT LIỆU POLIME, giáo viên có thể kể cho học sinh giai thoại
“Phát minh do … ngủ quên” (khi dạy về nilon) :
Một đêm Carothers – nhà hóa học Mĩ, sau nhiều ngày đêm làm việc căng thẳng,
định chớp mắt ít phút. Nhưng … ông đã ngủ liền tới sáng. Tỉnh dậy, ông hốt
hoảng lo cho tất cả công sức thí nghiệm : có lẽ đã tan thành mây khói ? Ai ngờ,
khi vừa nhấc chiếc đũa thủy tinh ở trong bình phản ứng lên, ông thấy chiếc đũa
mềm nhũn và kéo theo một hỗn hợp có dạng sợi nhỏ mỏng manh óng ánh rất
đẹp. Đó là sợi tổng hợp poliamit đầu tiên trên thế giới – sợi nilon ngày nay.
Ví dụ 5: Khi học bài ĐẠI CƯƠNG VỀ KIM LOẠI giáo viên có thể cung cấp
‘’Vài kỷ lục trong thế giới kim loại ‘’ cho HS
• Kim loại có khối lượng riêng lớn nhất: Osmi (Os) với d = 22,7g/cm3.
• Kim loại có nhiệt độ nóng chảy cao nhất: Vonfram (W) với tnc = 34100C.
• Kim loại nhẹ nhất: Liti (Li) với d = 0,53g/cm3.
• Kim loại dẻo nhất: Vàng (Au)
• Kim loại có nhiệt độ nóng chảy thấp nhất: thủy ngân (Hg) với tnc = −390C.
• Kim loại dẫn điện, dẫn nhiệt tốt nhất: Bạc (Ag)
• Kim loại được con người sử dụng làm công cụ sớm nhất: Đồng (Cu)


19


Trường THPT

Sáng kiến kinh nghiệm

• Kim loại có trữ lượng lớn nhất: Nhôm (Al), chiếm 7% về khối lượng vỏ
trái đất.
Ví dụ 6: Giáo viên có thể nói về các hoá chất trong cơ thể của con người như thế
nào?
Các nhà khoa học đã tính được rằng:
• Lượng nước trong cơ thể của mỗi người chúng ta chỉ đủ giặt một chiếc
áo sơ mi.
• Lượng Fe đủ để làm một cái đinh 5 phân.
• Lượng đường chỉ đủ cho làm một nữa cái bánh ngọt nhỏ.
• Lượng vôi trong toàn bộ xương của cơ thể đủ để xây một cái chuồng
gà con.
• Lượng mỡ dùng nấu được 7 bánh xà phòng.
• Lượng P đủ để sản xuất 2200 đầu que diêm.
• Lượng S đủ để giết chết 1 con bọ chét.
• Cộng cả lại kể các các nguyên tố khác như Mg, Cu, K… Theo các nhà
bác học tính ra thì với một người nặng 65kg, giá trị của chúng chỉ đáng
giá chưa tới 3$.
2.5. Tiến hành tự làm thí nghiệm qua các hiện tượng thực tiễn xung quanh
đời sống hằng ngày.
Cách nêu vấn đề này có thể làm cho học sinh căn cứ vào những kiến thức đã học
tìm cách giải thích hay tự tái tạo lại kiến thức qua các thí nghiệm. Giúp học sinh
phát huy khả năng ứng dụng hóa học vào đời sống thực tiễn.

Ví dụ 1:
Sau khi học xong bài TINH BỘT (ở lớp 12), giáo viên có thể giới thiệu thí
nghiệm “Hồ tinh bột tác dụng iot” để học sinh có thể tự làm thí nghiệm kiểm
chứng ở nhà.
* Cách làm : Lấy một ít cồn iot (mua ở nhà thuốc tây) bôi lên quả chuối xanh và
quả chuối chín.
* Giải thích (dựa vào kiến thức đã học, học sinh sẽ tự giải thích được) : Do cồn
iot là dung dịch của iot trong ancol etylic, iot gặp tinh bột (trong chuối xanh) tạo
ra phức màu xanh. Nhưng nếu là chuối chín thì không có hiện tượng này (do
chuối chín chuyển tinh bột thành đường glucozo).
Ví dụ 2:
Sau khi học xong bài SƠ LƯỢC VỀ MỘT SỐ KIM LOẠI (ở lớp 12), giáo viên
có thể giới thiệu hiện tượng sau để học sinh có thể tự kiểm nghiệm trong cuộc
sống.
* Cách làm : Khi có người bị cảm, ta có thể đánh cảm bằng dây bạc và khi đó
dây bạc bị hóa đen. Để dây bạc trắng sáng trở lại, ta sẽ ngâm vào nước tiểu.
20


Trường THPT

Sáng kiến kinh nghiệm

* Giải thích : Người bị cảm trong cơ thể sinh ra những hợp chất dạng sunfua
(S2-) vô cơ hay hữu cơ đều có tính độc. Khi đánh cảm bằng bạc, do S có ái lực
mạnh với bạc nên xảy ra phản ứng tạo bạc sunfua (Ag2S) kết tủa màu đen. Do
đó chất độc được loại ra khỏi cơ thể và cũng làm cho dây chuyền thành màu
đen,
Ag + S2- →Ag2S
Trong nước tiểu có NH3, khi ngâm dây bạc vào thì sẽ có phản ứng :

Ag2S + 4NH3 → 2[Ag(NH3)2]+ + S2Nên Ag2S bị hòa tan, bề mặt dây bạc lại trở nên sáng bóng.
Ví dụ 3:
Sau khi học xong bài ANKIN (ở lớp 11), giáo viên có thể giới thiệu thí nghiệm
vui “Đốt nước đá cháy” để học sinh có thể tự làm thí nghiệm ở nhà.
* Cách làm : Ta đặt sẵn vài mẫu canxi cacbua (đất đèn), rồi lấy một ít nước đá
bỏ vào ống bơ thấp và rộng miệng rồi bật diêm đốt trên mặt ống bơ. Thật kì lạ!
Nước đá bốc cháy.
* Giải thích : Khi bỏ nước đá vào CaC2 sẽ có tác dụng với nước giải phóng khí
C2H2 :
CaC2 + 2H2O → C2H2 + Ca(OH)2
Khí C2H2 thoát lên mặt nước đá, khi đốt nó sẽ cháy trông giống hệt nước
đá cháy vậy.
2C2H2 + 5O2 → 4CO2 + 2H2O
Ví dụ 4:
Sau khi học xong bài MỘT SỐ HỢP CHẤT QUAN TRỌNG CỦA KIM LOẠI
KIỀM THỔ, giáo viên có thể giới thiệu thí nghiệm sau để học sinh có thể tự làm
để kiểm nghiệm.
* Cách làm : Lấy vôi sống (CaO) cho vào nước, rối thả ngay một quả trứng vào,
trứng sẽ chín.
* Giải thích : Khi vôi sống gặp nước sẽ xảy ra phản ứng :
CaO + H2O → Ca(OH)2 + Q
Nhiệt lượng tỏa ra rất lớn đến nổi làm cho nước sôi. Do vậy, sau khi cho
vôi vào nước rồi thả một quả trứng, trứng sẽ chín.
2.6. Kết hợp tổ chức hoạt động ngoại khóa cho HS.
Để nâng cao kiến thức hóa học thực tế, giáo viên có thể phối hợp với nhà
trường tổ chức các hoạt động ngoại khóa cho học sinh. Cụ thể vào tiết 1 thứ 2
hàng tuần có thể kết hợp sinh hoạt dưới cờ và ngoại khóa nói về các hiện tượng
tự nhiên có liên quan đến hóa học cũng sẽ góp phần làm buổi sinh hoạt dưới cờ
bớt nhàm chán và thêm bổ ích.
21



Trường THPT

Sáng kiến kinh nghiệm

Khi tổ chức các buổi ngoại khóa giáo viên có thể sử dụng hệ thống câu hỏi có
tính liên hệ thực tế rất cao sau đây và đặc biệt sử dụng được cho nhiều khối lớp
học sinh:
Ví dụ 1:
Vì sao than đá chất thành đống lớn có thể tự bốc cháy?
Do than đá tác dụng với khí O2 trong không khí tạo ra khí CO 2, phản ứng
tỏa nhiệt.
C + O2 → CO2 ↑

∆H < 0

Nhiệt tỏa ra được tích góp dần dần, khi đạt đến nhiệt độ cháy của than thì
than tự bốc cháy.
Ví dụ 2:
Vì sao ban đêm không nên để nhiều cây xanh trong nhà?
Ban ngày, do có ánh sáng mặt trời nên cây xanh tiến hành quá trình quang
hợp, hấp thụ CO2 và giải phóng khí O2.
as
6nCO2 + 5nH 2O 
→(C6 H10O5 ) n + 6nO2 ↑
clorophin
Nhưng ban đêm, do không có ánh sáng mặt trời, cây xanh không quang
hợp, chỉ có quá trình hô hấp nên cây hấp thụ khí O 2 và thải ra khí CO2 làm cho
phòng thiếu khí O2 và quá nhiều khí CO2.

Ví dụ 3:
Vì sao khi cơm khê người ta thường cho vào nồi cơm một mẩu than củi?
Do than củi xốp có tính hấp phụ, nên hấp phụ được mùi khét của cơm làm
cho cơm đỡ mùi khê.
Ví dụ 4:
Vì sao các đồ vật bằng bạc để lâu ngày thường bị xám đen? Vì sao dùng đồ
bằng bạc đựng thức ăn, thức ăn lâu bị ôi?
Do bạc tác dụng với khí O2 và H2S có trong không khí tạo ra bạc sunfua
(Ag2S) màu đen.
4 Ag + O2 + 2 H 2 S → 2 Ag 2 S ↓ +2 H 2O

Khi bạc sunfua gặp nước sẽ có một lượng rất nhỏ đi vào nước thành ion
Ag . Ion Ag+ có tác dụng diệt khuẩn rất mạnh, chỉ cần 1/5 tỉ gam bạc trong 1 lít
nước cũng đủ diệt vi khuẩn. Không cho vi khuẩn phát triển nên giữ cho thức ăn
lâu bị ôi thiu.
Ví dụ 5:
Thuốc chuột là chất gì? Nếu sau khi ăn thuốc mà không có nước uống thì
chuột chết mau hơn hay lâu hơn?
Thuốc chuột có thành phần chính là Zn3P2. Sau khi ăn, Zn3P2 bị thủy phân rất
mạnh, tạo thành khí PH3 (photphin) rất độc:
+

Zn3 P2 + 6 H 2O → 3Zn(OH ) 2 + 2 PH 3 ↑

22


Trường THPT

Sáng kiến kinh nghiệm


Làm cho hàm lượng nước trong cơ thể chuột giảm; nó khát và đi tìm nước.
Chính PH3 đã giết chết chuột.
Càng nhiều nước đưa vào cơ thể chuột → PH 3 thoát ra càng nhiều → chuột càng
nhanh chết. Nếu không có nước, chuột càng lâu chết hơn.
Ví dụ 6:
Gương soi có lịch sử như thế nào?
Thời xa khi muốn soi mình phải soi qua mặt nước, khi đến thời đồ đồng
thau thì bằng gương làm bằng đồng nhưng nhanh ố, sau dần chuyển sang thuỷ
ngân tráng sau tấm kính phẳng, nhưng thuỷ ngân gây ngộ độc cho người sản
xuất. Dần dần và ngày nay người ta đã thay thế bằng bạc tráng sau tấm kính nhờ
phản ứng anđehit (R−CHO) với dung dịch AgNO3/NH3 hay thay andehit bằng
glucozơ.
RCHO + 2 AgNO3 + 3NH 3 + H 2O → RCOONH 4 + 2 Ag ↓ + NH 4 NO3

Ag tạo ra bám chặt vào gương, người ta quét lên mặt sau chiếc gương một lớp
sơn dầu bảo vệ. Phích nước cũng chế tạo kiểu này.
Ví dụ 7:
Làm thế nào để biết dưới giếng có khí độc (CO) hoặc nhiều khí thiên nhiên
(CH4…) và không có oxi, để tránh khi xuống giếng bị ngạt?
Trong các giếng đào đặc biệt nhiều ở vùng đồng bằng thường có khí độc
CO, CH4… và không có O2. Mà người dân chúng ta hay có thói quen xuống
giếng thau giếng hoặc vì lấy gầu múc nước… Đã có nhiều trường hợp bị tử vong
một lúc nhiều mạng người vì gặp phải giếng có khí độc (CO) gây đông máu,
CH4… và không có O2 gây ngạt trong tíc tắc, làm người xuống cứu cũng chết.
Để tránh, tốt nhất không nên xuống các giếng đào, nếu có xuống phải đeo bình
oxi. Còn muốn biết có khí độc(CO), hoặc nhiều khí thiên nhiên(CH 4…) và
không có O2 chỉ cần lấy dây buộc một con gà, vịt … thả xuống nếu nó chết thì
chứng tỏ có khí độc.
Ví dụ 8:

Sherlock Homes đã phát hiện ra cách lấy dấu vân tay của tội phạm lưu trên các
vật ở hiện trường như thế nào chỉ sau một vài phút thí nghiệm?
Lấy một tờ giấy sạch, ấn một ngón tay vào mặt giấy rồi nhấc ra sau đó
đem phần giấy có dấu vân tay đặt trên miệng ống nghiệm có đựng cồn iod, dùng
đèn cồn để đun nóng phần đáy ống nghiệm. Đợi cho khí màu tím thoát ra (I 2) từ
ống nghiệm thấy phần giấy có vân tay dần hiện lên rõ nét (màu nâu). Nếu bạn
cất tờ giấy có vân tay đi mấy tháng sau làm tương tự cũng vẫn có hiện tượng
như trên.
Do đầu ngón tay có chất béo, dầu khoáng, mồ hôi, khi ấn tay vào giấy sẽ
lưu lại một phần trên giấy mặc dù mắt thường không nhận ra. Các chất này khi
gặp hơi Iod cho màu nâu (chú ý hơi Iod rất độc không được ngửi).
23


Trường THPT

Sáng kiến kinh nghiệm

Ví dụ 9:
Vải khác nhau có giá trị khác nhau nên phân biệt như thế nào?
Căn cứ vào bản chất của các chất liệu làm nên vải, ta có thể nhận biết cách
đơn giản sau:
- Nếu vải làm bằng sợi bông: Khi đốt sợi vải cháy nhanh, ngọn lửa màu vàng, có
mùi như đốt giấy và tro có màu xám đậm.
- Nếu vải làm bằng sợi tơ tằm: Khi đốt sợi vải cháy chậm hơn vải sợi bông, có
mùi khét như đốt tóc, sợi tơ co cục, màu nâu đen, lấy tay bóp thì tan.
- Nếu vải làm bằng lông cừu (len lông cừu): Khi đốt bắt cháy không nhanh, bốc
khói, có mùi khét như đốt tóc và tạo thành những bọt phồng, rồi vón cục có màu
đen hơi óng ánh, giòn, bóp tan ngay.
- Nếu vải làm bằng sợi viscozơ: Khi đốt sợi vải cháy nhanh, ngọn lửa màu vàng,

có mùi như đốt giấy và tro có màu xám nhưng rất ít.
- Nếu vải làm bằng sợi axetat: Khi đốt sợi vải bắt cháy chậm ,thành giọt dẻo
màu nâu đậm, có hoa lửa, không bốc cháy thành ngọn lửa, sau đó kết thành cục
màu đen, dể bóp nát.
- Nếu vải làm bằng sợi poliamit (nilon): Khi đốt sợi vải không cháy ngọn lửa mà
co vón lại và cháy thành từng giọt dẻo màu trắng, có mùi của rau cần, khi nguội
thì biến thành cục cứng có màu nâu nhạt, bóp khó nát.
III. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI
1/ Kết quả nghiên cứu:
Riêng bản thân tôi nhờ vận dụng phương pháp dạy “Nâng cao hiệu quả
dạy và học môn hoá học bằng việc giải thích các hiện tượng thực tiễn có liên
quan đến bài học ” kết hợp với nhiều phương pháp khác, tôi đã đạt được một số
kết quả nhất định.
Học sinh trở nên thích học hoá hơn, thích những giờ dạy của tôi nhiều
hơn, thậm chí có cả những học sinh đã về nhà tự quan sát và tái tạo lại hiện
tượng thức tế, rồi lại đến hỏi tôi.
Trong giờ học, tôi đã kết hợp hài hoà trong phong cách dạy của mình có
thể làm cho giờ học mang không khí rất thoải mái, nhưng khả năng tiếp thu bài
cũng rất tốt. Như tôi đã khẳng định: Thời gian giành cho vấn đề này là không
nhiều nên cần phụ thuộc vào người dạy cần phải linh hoạt và khéo léo. Bất cứ
một vấn đề gì nếu chúng ta quá lạm dụng thì đề không tối. Vì thế tôi vẫn luôn
nghĩ: Dạy như thế nào cho tốt là một điều không dễ.
2/ Kết quả đối chứng:
Thực tế giảng dạy cho thấy các lớp không hoặc ít áp dụng so với lớp áp
dụng giải thích thường xuyên có sự khác nhau rõ rệt.

24


Trường THPT


Sáng kiến kinh nghiệm

Ví dụ gần đây nhất qua năm học từ 2018 – 2019 giảng dạy ở trường tôi đã
có số liệu cụ thể theo bảng sau:
Kết quả
Yếu –
Lớp
Mức độ
Giỏi Khá Trung bình
Kém
Thường xuyên áp
12A8
05
15
10
0
dụng
12A9
Có áp dụng
01
04
22
02
12A10
Ít áp dụng
00
05
19
05

C. ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG
Qua thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy một vài điểm cần lưu ý sau:
Về phía giáo viên :
Trong quá trình dạy học: Người thầy ngoài năng lực, khả năng sư phạm đã có cần
phải luôn luôn tích lũy, rút ra những kinh nghiệm dù rất nhỏ. Phải tìm tòi học hỏi
những kinh nghiệm từ sách báo, tài liệu tham khảo và chính sau những tiết dạy.
Biết vận dụng các kinh nghiệm đã được tích lũy vào quá trình giảng dạy thì hiệu
quả dạy học sẽ không ngừng được nâng lên.
Nội dung bài viết còn chưa đầy đủ song nó đã giúp bản thân trong các tiết dạy của
môn Hóa học . Kết quả bước đầu cho thấy rằng học sinh hứng thú hơn, tích cực
hơn trong quá trình học tập, hoạt động giữa thầy và trò sôi nổi hơn hiệu quả hơn.
Điều đáng mừng là nhiều em học sinh học lực trước đây yếu kém nay đã mạnh dạn
đưa ra những câu hỏi, thắc mắc của bản thân liên quan đến bài học.
Bản thân cố gắng tích lũy, bổ sung để bài viết này ngày càng hoàn thiện, phong phú
hơn, giúp ích cho bản thân một cách thiết thực trong việc dạy học phù hợp với đối
tượng học sinh của nhà trường.
Tôi rất mong hội đồng khoa học nhà trường và của cấp trên góp ý, bổ sung hoàn
chỉnh hơn để giúp bản thân hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Về phía nhà trường :
- Nhà trường cần bổ sung thêm sách tham khảo cho giáo viên ở thư viện.
- Nhà trường cần bổ sung thêm một số hóa chất và dụng cụ cho đầy đủ để việc
thực hành thí nghiệm được tốt hơn.
- Cần tạo điều kiện giúp đỡ cho một số giáo viên sử dụng công nghệ thông tin.
- Nhà trường tạo điều kiện để cho giáo viên tổ chức Câu lạc bộ Hóa học vui, các
cuộc giao lưu kiến thức sẽ hình thành hứng thú cho học sinh một cách hiệu quả.
Tôi xin chân thành cảm ơn.

25



×