Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

SKKN giải pháp giúp học sinh nâng cao kỹ năng làm bài nghị luận văn học dạng bàn về một ý kiến

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.37 KB, 17 trang )

Mã số

- Tên sáng kiến: Giải pháp giúp học sinh nâng cao kỹ năng làm bài
nghị luận văn học dạng bàn về một ý kiến.
- Lĩnh vực áp dụng: Tổ khoa học xã hội; môn Ngữ văn trong nhà
trường THCS.
- Họ tên tác giả: Nguyễn Thị Thùy Linh
- Đơn vị công tác: Trường THCS Gia Khánh

Bình Xuyên, tháng 02/2020
0


Họ tên, chữ ký người chấm điểm, điểm

Mã số

Người số 1:……………………………………….
Người số 2:……………………………………….

C. Tên sáng kiến: Giải pháp giúp học sinh nâng cao kỹ năng làm bài nghị
luận văn học dạng bàn về một ý kiến.
III. Mô tả sáng kiến:
1. Về nội dung của sáng kiến:
Nghị luận văn học là một kiểu văn bản không có gì xa lạ trong trường phổ
thông. Những năm gần đây, làm văn nghị luận văn học đã trở thành một bộ phận
không thể thiếu trong cấu trúc các đề thi tốt nghiệp THPT, Đại học và đặc biệt là
trong các đề thi học sinh giỏi các cấp thì các đề bài dạng nghị luận văn học bàn
về một ý kiến hiện nay là rất phổ biến. Vì vậy, việc rèn luyện làm văn nghị luận
văn học nói chung và làm bài dạng đề bàn về một ý kiến nói riêng vẫn là một
yêu cầu cần thiết với học sinh- đặc biệt là học sinh giỏi môn Ngữ Văn.


Tuy nhiên, nghị luận văn học dạng bàn về một ý kiến là một kiểu bài khó với
văn nghị luận nói riêng và phân môn Tập làm văn nói chung. Vì thế, nên cả giáo
viên và học sinh đều gặp những khó khăn với kiểu bài này. Về phía giáo viên,
nhất là với các thầy cô giáo tham gia bồi dưỡng các đội tuyển học sinh giỏi. Về
phía học sinh, kể cả học sinh năng khiếu thì kết quả bài viết còn nhiều hạn chế.
Kết quả khảo sát đối với các lớp do tôi trực tiếp giảng dạy năm học 2017 –
2018, khi chưa áp dụng sáng kiến này vào thực tiễn giảng dạy cho thấy nguyên
nhân mấu chốt là học sinh phần nhiều chưa biết làm bài văn nghị luận văn học
dạng bàn về một ý kiến.
Vậy, để cho việc học – làm văn nghị luận văn học trong chương trình Ngữ
văn THCS nói chung và đặc biệt là dạng bài nghị luận văn học bàn về một ý
kiến được thuận lợi hơn, kết quả hơn. Tôi xin mạnh dạn đề xuất sáng kiến: “Giải
pháp giúp học sinh nâng cao kỹ năng làm bài nghị luận văn học dạng bàn về
một ý kiến”.
Trong quá trình thực hiện sáng kiến, bản thân tôi đã trực tiếp vận dụng một
số bước cụ thể nhằm nâng cao kỹ năng làm bài nghị luận văn học dạng bàn về
một ý kiến như sau:
1.1. Bước 1: Giúp học sinh nhận diện đặc điểm kiểu bài nghị luận văn
học dạng bàn về một ý kiến.
1.1.1.Khái niệm:
1


Nghị luận: nghị (xem xét, trao đổi; luận: bàn bạc, đánh giá) dùng lý lẽ, dẫn
chứng và cách thức lập luận để phân tích, bàn luận, đánh giá về một (các) vấn đề
nào đó.
Văn học: là bộ môn nghệ thuật, khác với các bộ môn nghệ thuật khác nhờ
chất liệu ngôn từ. Văn học là một loại hình sáng tác, phản ánh các vấn đề đời
sống xã hội và lấy con người làm đối tượng nhận thức trung tâm, tái hiện những
vấn đề của đời sống xã hội và con người (tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ,…)

Nghị luận văn học: là những bài văn nghị luận bàn về các vấn đề văn học
(tác giả, tác phẩm, ý kiến nhận định về tác phẩm, nhân vật trong tác phẩm,…)
nhằm thể hiện suy nghĩ, thái độ, tiếng nói chủ quan của người viết về vấn đền
đặt ra trong tác phẩm, đoạn trích, tình huống, nhân vật,… góp phần tạo những
tác động tích cực tới con người, bồi đắp những giá trị nhân văn và thúc đẩy sự
tiến bộ chung của con người và xã hội.
Nghị luận văn học dạng bàn về một ý kiến: là hình thức của bài nghị luận
văn học mà nội dung là bình luận, phân tích một ý kiến bàn về văn học như
những giá trị nội dung, những đặc sắc nghệ thuật, những quy luật, khám phá,
chiêm nghiệm về đời sống toát lên từ tác phẩm, những nhận xét về các nhân
vật…
1.1.2. Các bài nghị luận văn học dạng bàn về một ý kiến thường gặp.
Nghị luận văn học bàn về một ý kiến gồm nhiều dạng, dưới đây là một số
dạng bài cơ bản thường gặp:
a. Dạng ý kiến bàn về một giai đoạn văn học.
Đây là dạng đề mà ý kiến được đưa ra trong phần đề bài thường yêu cầu
chứng minh nội dung, hình thức nổi bật …của một giai đoạn văn học nào đó
trong tiến trình văn học sử.
VD: Trong tác phẩm “Lòng yêu nước”, nhà văn Nga I-li-a Ê-ren-bua có
viết: “ Lòng yêu nước ban đầu là lòng yêu những vật tầm thường nhất: yêu cái
cây trồng ở trước nhà, yêu cái phố nhỏ đổ ra bờ sông, yêu vị thơm chua mát của
trái lê mùa thu hay mùa cỏ thảo nguyên có hơi rượu mạnh. (...) Dòng suối đổ
vào sông, sông đổ vào dải trường giang Vôn-ga, con sông Vôn-ga đi ra bể.
Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc”.
( Ngữ văn 6, tập2- NXBGD 2000- Trang 100)
Em hiểu như thế nào về ý kiến trên? Bằng sự hiểu biết của mình về văn
xuôi từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 đến nay, em hãy làm sáng tỏ ý kiến đó.
b. Dạng ý kiến bàn về một tác giả văn học.
Với dạng đề này thường nêu ra những ý kiến bàn về tư tưởng sáng tác,
sự nghiệp sáng tác hay có thể là phong cách sáng tác…của một tác giả văn học

cụ thể.
VD: Nhận định về giá trị tư tưởng trong các sáng tác của thi hào Nguyễn
Du, có ý kiến cho rằng:
2


“Nguyễn Du là một con người suốt đời khắc khoải về con người, về lẽ
đời.”
(Nguyễn Du toàn tập – Mai Quốc Liên, NXB Văn học, H. 1996)
Hãy chọn phân tích một hoặc một số tác phẩm của Nguyễn Du để làm
sáng tỏ nhận định trên.
c. Dạng ý kiến bàn về một tác phẩm văn học.
* Dạng ý kiến bàn về nội dung của tác phẩm văn học:
Đề bài thường nêu ra những ý kiến bàn về nội dung của một tác phẩm văn
học như: nhân vật, chủ đề, cốt truyện, hình ảnh…nên các ý kiến bàn về dạng bài
này bao giờ cũng nêu rõ một trong các nội dung ấy.
VD: Nhận xét về truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành
Long , có ý kiến cho rằng : “Tác phẩm như một bài thơ về vẻ đẹp trong cách
sống và suy nghĩ của con người lao động bình thường mà cao cả, những mẫu
người của một giai đoạn lịch sử có nhiều gian khổ, hi sinh nhưng cũng thật
trong sáng, đẹp đẽ. Từ hình ảnh những con người ấy gợi lên cho ta những suy
nghĩ về ý nghĩa của cuộc sống , của lao động tự giác, về con người và về nghệ
thuật”.
Em hãy phân tích truyện ngắn “ Lặng lẽ Sa Pa” để làm sáng tỏ nhận xét
trên.
* Dạng ý kiến bàn về nghệ thuật của tác phẩm văn học:
Nghệ thuật của một tác phẩm văn học thường được thể hiện trong những
khía cạnh cụ thể như:
- Với tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích): nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân
vật, nghệ thuật xây dựng tình huống truyện, nghệ thuật sử dụng ngôn từ.

- Với bài thơ (hoặc đoạn thơ): nghệ thuật về hình ảnh, cấu tứ, giọng điệu,
ngôn từ…
VD: Có ý kiến cho rằng: “Thi hào Nguyễn Du xứng đáng là bậc thầy về
nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật.”
Qua đoạn trích “ Kiều ở lầu Ngưng Bích” (trích Truyện Kiều) của Nguyễn
Du, em hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.
* Dạng ý kiến bàn về cả nội dung và nghệ thuật của tác phẩm văn học:
Đối với dạng này, ý kiến đưa ra thường nêu yêu cầu nghị luận về cả giá trị
nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm văn học cụ thể. Dạng đề này thường là
đề chìm- có khi ý kiến ở đề bài không nêu cụ thể vấn đề nghị luận mà ẩn đi, vì
vậy học sinh cần đọc kĩ ý kiến ở đề để xác định rõ dạng bài này.

3


VD: Nhà thơ Xuân Diệu cho rằng: Thơ hay là hay cả hồn lẫn xác, hay cả
bài.
Em hiểu ý kiến trên như thế nào? Qua bài thơ “Ông đồ” của nhà thơ Vũ
Đình Liên, em hãy làm sáng tỏ nhận định trên.
d. Dạng ý kiến bàn về một vấn đề lí luận văn học.
Ý kiến đưa ra ở đề bài thường nêu lên một vấn đề lí luận văn học như
chức năng của văn học (thẩm mĩ, nhận thức, giáo dục…), phương pháp sáng tác
của nhà văn, nhân vật điển hình…Tuy nhiên, cũng giống như dạng ý kiến bàn về
nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm văn học, vấn đề nghị luận mà đề bài
yêu cầu thường là ý kiến bàn về một vấn đề lí luận văn học thường không xuất
hiện trực tiếp (đề chìm). Vì thế, để xác định đúng vấn đề nghị luận mà nhận định
thuộc dạng này đưa ra, ngoài việc đọc kĩ nhận định học sinh còn phải biết vận
dụng kiến thức lí luận văn học.
VD: Hilde Domin (1909 – 2006), nữ nhà văn Đức từng viết: “Văn
chương không chỉ làm rõ sự thật như nó vốn có; văn chương còn chỉ rõ sự

giằng xé giữa những gì vốn có và những gì có thể hoặc nên có”
Em hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy làm sáng tỏ bằng việc phân tích 02
tác phẩm trong chương trình Ngữ văn THCS.
1.2. Bước 2: Những yêu cầu cơ bản khi làm bài nghị luận văn học
dạng bàn về một ý kiến.
1.2.1. Trước hết, phải nắm chắc cách trình bày những đặc điểm của văn bản
nghị luận.
a. Luận điểm: khi trình bày luận điểm trong bài văn nghị luận cần chú ý:
- Chuyển đoạn bằng từ ngữ,câu có tính liên kết.
- Thể hiện rõ ràng, chính xác nội dung của luận điểm trong câu chủ đề.
Trong đoạn văn trình bày luận điểm, câu chủ đề thường đặt ở đầu tiên hoặc cuối
cùng của đoạn.
- Tìm đủ luận cứ cần thiết, tổ chức các luận cứ đó theo một trật tự hợp lí.
- Diễn đạt trong sang, hấp dẫn để làm cho sự trình bày luận điểm có sức
thuyết phục người đọc (người nghe).
b. Luận cứ:
- Muốn xác định được các luận cứ phải bám sát vào các luận điểm.
- Cách sử dụng luận cứ: Khi sử dụng luận cứ vào bài văn nghị luận,trước
hết phải giới thiệu luận cứ, chỉ ra nguồn gốc của luận cứ. Cần trích dẫn chính
xác. Nhớ nguyên văn thì đặt trong dấu ngoặc kép, nhớ đại ý thì chuyển thành lời
dần gián tiếp. Dẫn nhân vật thì lược thuật cuộc đời và hoạt động của nhân vật.
Cần sử dụng các lập luận để từ luận cứ mà làm rõ luận điểm.

4


c. Lập luận: lập luận là cách nêu luận cứ ( lựa chọn, sắp xếp, trình bày) để
dẫn đến luận điểm. Lập luận phải chặt chẽ, hợp lí thì bài văn mới có sức thuyết
phục.
1.2.2. Thứ hai, phải tìm hiểu hệ thống kiến thức sử dụng của dạng bài:

a. Kiến thức cơ bản trong sách giáo khoa:
- Văn nghị luận (nghị luận văn học):
+ Nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích).
+ Nghị luận về bài thơ (hoặc đoạn thơ).
- Các văn bản thơ, truyện được học trong chương trình Ngữ văn THCS.
- Các phép lập luận giải thích, chứng minh, phân tích, tổng hợp, so sánh…
b. Kiến thức nâng cao, mở rộng:
- Kiến thức về văn học sử.
- Kiến thức về lí luận văn học.
- Một số tác phẩm văn học ngoài chương trình.
1.2.3. Thứ ba, phải nắm được các phương pháp đặc trưng, cơ bản như:
- Phương pháp đọc, nghiên cứu tài liệu.
- Phương pháp gợi mở, phân tích, giảng bình.
- Phương pháp liên hệ, so sánh.
- Phương pháp viết đoạn văn, lập luận.
1.3. Bước 3: Hướng dẫn học sinh cách làm bài nghị luận văn học dạng
bàn về một ý kiến.
1.3.1. Nội dung yêu cầu:
- Nghị luận về một ý kiến bàn về văn học là bàn luận về một nhận định,
đánh giá liên quan đến các vấn đề văn học nhằm giải thích, phân tích, bình luận
những luận điểm được đề cập xung quanh vấn đề được bàn luận trên cơ sở đó,
rút ra những vấn đề có tính chất cơ bản về tư tưởng hoặc thẩm mĩ.
- Người viết bài cần thể hiện khả năng lí giải, phân tích, đồng thời bộc lộ rõ
quan điểm, thái độ của bản thân.
1.3.2. Kĩ năng cần rèn luyện:
- Xác định đúng nội dung vấn đề nghị luận văn học đặt ra trong đề bài, hình
thành các ý nghị luận giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận.
Người viết cần nắm được bản chất vấn đề nghị luận đồng thời phải biết
nhìn nhận, soi chiếu vấn đề đó từ nhiều phía để có cái nhìn toàn diện, biết đánh
giá và phản biện. Chú ý tán đồng hoặc trao đổi, phê phán đều phải có lí lẽ xác

đáng, cơ sở khoa học, tránh suy diễn, áp đặt.

5


- Huy động kiến thức văn học và những trải nghiệm của bản thân để tạo lập
văn bản nghị luận văn học bàn về một ý kiến.
Kiến thức được nêu ra cần có sự hài hòa giữa cái chung và cái riêng, giữa
tri thức phổ quát và nhận thức chủ quan của bản thân; nhưng quan trọng nhất là
cần một tri thức rộng và sâu, những trải nghiệm của bản thân cần được trình bày
một cách hợp lí, chặt chẽ và thuyết phục.
1.3.3. Các bước tiến hành:
a. Tìm hiểu đề và tìm ý.
* Tìm hiểu đề:
Khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề giáo viên hướng dẫn các em nắm được
cách thức tìm hiểu đề bằng cách đọc kĩ từ ngữ trong đề bài, chú ý những từ ngữ
quan trọng để xác định các nội dung cơ bản sau:
- Kiểu bài: bàn về một ý kiến văn học.
Đối với bài nghị luận văn học dạng bàn về một ý kiến, trong đề thường
xuất hiện các từ ngữ “làm sáng tỏ nhận xét trên”, “làm sáng tỏ nhận định
trên”, “làm sáng tỏ ý kiến trên”…
- Vấn đề nghị luận: Là nội dung chính cần làm sáng tỏ trong bài viết.
Để xác định được vấn đề nghị luận giáo viên hướng dẫn học sinh đọc kĩ
nhận định, ý kiến, tìm hiểu nghĩa của các từ ngữ quan trọng, cấu trúc của nhận
định, ý kiến… Vấn đề nghị luận của dạng bài bàn về một ý kiến thường là một
trong các vấn đề sau: nội dung (nhân vật, sự việc, chủ đề, cốt truyện, hình
ảnh…), nghệ thuật (ngôn từ, giọng điệu, xây dựng tình huống, miêu tả nhân
vật…) của một tác phẩm văn học; phong cách sáng tác, tư tưởng sáng tác…của
một tác giả văn học; đặc điểm của một giai đoạn văn học hay vấn đề về lí luận
văn học…

- Phạm vi tư liệu: Trên cơ sở xác định được vấn đề nghị luận, học sinh xác
định phạm vi tư liệu phục vụ cho việc làm sáng tỏ vấn đề nghị luận thường là
kiến thức về các phương diện như: văn học sử, các tác phẩm văn học trong và
ngoài chương trình, kiến thức lí luận văn học…
* Tìm ý:
- Giáo viên hướng dẫn học sinh giải thích nhận định, ý kiến nêu ra trong đề
bài thông qua việc:
+ Giải thích nhận định, ý kiến: giải nghĩa của các từ ngữ quan trọng trong
nhận định, cấu trúc của nhận định…rồi từ đó khái quát ý của cả nhận định bằng
cách trả lời câu hỏi “Nghĩa là gì?”, “Là thế nào?”. Tuy nhiên, đối với những đề
bài nhận định đã mang nghĩa tường minh thì không cần giải thích.
+ Giải thích cơ sở của vấn đề: trả lời những câu hỏi “Vì sao lại thế?”, “Lí
do nảy sinh vấn đề là gì?”, “Nguyên nhân nào dẫn đến vấn đề?”…để tìm
hướng giải thích nhận định.
6


- Trên cơ sở giải thích nhận định,ý kiến nêu ở đề bài, giáo viên hướng dẫn
học sinh xác lập hệ thống luận điểm (những quan điểm, tư tưởng người viết đưa
ra để làm sáng tỏ vấn đề nghị luận ), luận cứ (lí lẽ, dẫn chứng) và phương pháp
lập luận:
+ Luận điểm 1:
• Nêu luận điểm.
• Chứng minh luận điểm
Luận điểm phụ 1: (Luận cứ)
Luận điểm phụ 2: (Luận cứ)
Luận điểm phụ …
• Kết luận luận điểm.
+ Luận điểm 2:
+ Luận điểm 3: …

- Đánh giá, mở rộng vấn đề:
+ Đánh giá thành công của vấn đề: sự kế thừa, phát huy của vấn đề, vấn
đề có ý nghĩa như thế nào, ảnh hưởng, tác động ra sao? …
+ So sánh, đối chiếu vấn đề nghị luận với các tác giả, tác phẩm cùng chủ
đề, với giai đoạn văn học khác…
+ Vai trò, ý nghĩa của vấn đề với bản thân: nhận thức, hành động…
- Xác định phương pháp lập luận: Kết hợp các thao tác giải thích, chứng
minh, phân tích, bình luận, bình giảng…
b. Lập dàn bài: Trên cơ sở các ý cơ bản đã tìm được giáo viên hướng dẫn
học sinh thảo luận sắp xếp theo bố cục ba phần, đúng với nhiệm vụ từng phần:
mở bài, thân bài, kết bài.
* Mở bài:
- Dẫn dắt vấn đề: có thể dẫn dắt theo nhiều cách khác nhau như đi từ cái
chung đến cái riêng, từ hiện thực đến vấn đề, từ một nhận định khác…
- Giới thiệu vấn đề nghị luận:
+ Nêu khái quát vấn đề nghị luận.
+ Trích dẫn nhận định.
- Phạm vi vấn đề.
- Đánh giá sơ bộ vấn đề.
* Thân bài:
- Giải thích nhận định:
+ Giải thích nghĩa của vấn đề.
7


+ Giải thích cơ sở của vấn đề.
- Chứng minh nhận định:
+ Luận điểm 1:
• Nêu luận điểm.
• Chứng minh luận điểm

• Kết luận luận điểm.
+ Luận điểm 2:...
+ Luận điểm 3: …
- Đánh giá, mở rộng vấn đề:
+ Đánh giá thành công của vấn đề.
+ So sánh, đối chiếu vấn đề nghị luận.
+ Vai trò, ý nghĩa của vấn đề với bản thân.
* Kết bài:
- Khái quát, khẳng định lại vấn đề: khẳng định ý nghĩa của vấn đề
- Nâng cao.
c. Viết bài: Học sinh dựa vào dàn ý viết bài theo bố cục 3 phần: Mở bài,
thân bài, kết bài.
Hướng dẫn học sinh cách viết bài
* Hướng dẫn chung:
- Học sinh cần vận dụng cách lập luận hợp lí, sử dụng thành thạo và linh
hoạt các thao tác lập luận.
- Khi viết bài, phải bám vào dàn ý đã xây dựng, theo bố cục và nhiệm vụ cụ thể
của từng phần.
- Chú ý cách viết đoạn văn triển khai luận điểm theo cách diễn dịch, qui
nạp… (khuyến khích viết đoạn Tổng - Phân - Hợp).
- Sử dụng từ nối hoặc câu nối để tạo sự liên kết chặt chẽ giữa các phần, các
đoạn nhằm tạo sự mạch lạc cho văn bản.
- Rèn kĩ năng dùng từ, đặt câu, chính tả, đặc biệt cần rèn khả năng tư duy
sáng tạo, cách tổng hợp khái quát vấn đề.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh cách đưa và phân tích dẫn chứng: đưa dẫn
chứng bằng cách dẫn trực tiếp hoặc gián tiếp từ ngữ, câu… trong văn bản sau đó
phân tích những ý nổi bật nhất phục vụ cho việc làm sáng tỏ luận điểm.
- Hướng dẫn học sinh lần lượt viết đoạn mở bài, các đoạn phần thân bài và
đoạn kết bài.
* Hướng dẫn cách viết mở bài.

8


- Thế nào là một mở bài hay ?
Là mở bài đúng, có phần dẫn dắt vào đề và nêu vấn đề nghị luận ngắn
gọn, độc đáo, ấn tượng, sáng tạo. Thông thường có hai cách:
+ Mở bài trực tiếp: Mở thẳng vào vấn đề hoặc có thêm phần dẫn dắt (thời
gian, không gian và hoàn cảnh sáng tác của tác phẩm).
+ Mở bài gián tiếp: Mở bằng câu chuyện, mở bằng cách nêu câu hỏi, mở
bằng cách nêu sự kiện, con số...
- Một số “mẹo” mở bài hay :
+ Nhập đề bằng câu chuyện ngắn trong thực tiễn đời sống hay trong văn học.
+ Nhập đề bằng danh ngôn.
+ Nhập đề bằng thơ.
+ Nhập đề bằng lời bài hát.
* Hướng dẫn cách viết kết bài.
- Thế nào là một kết bài hay ?
Giống như phần mở bài, phần này chỉ thể hiện đúng quan điểm đã trình bày
ở phần thân bài, chỉ nêu những ý khái quát, có tính tổng kết, không lan man, lặp
lại những gì đã trình bày. Kết bài phải độc đáo, sáng tạo, tự nhiên và để lại dư vị.
Có hai cách kết bài sau đây:
+ Kết bài bằng cách tóm lược: Là kiểu kết bài mà ở đó người viết tóm tắt
quan điểm, tổng hợp những ý chính đã nêu ở thân bài.
+ Kết bài bằng cách bình luận, mở rộng và nâng cao: Là kiểu kết bài trên
cơ sở quan điểm chính của bài viết, bằng liên tưởng, vận dụng, người viết phát
triển, mở rộng nâng cao vấn đề.
- Một số “mẹo” kết bài hay :
+ Kết bài theo hình thức nêu câu hỏi đặt ra cho mọi người cùng suy nghĩ.
Hoặc viết lời nhắn gửi mong muốn mọi người cùng nghĩ và làm theo.
+ Kết bài bằng danh ngôn, hoặc câu nói có tính triết lí.

d. Đọc và sửa chữa:
- Sau khi học sinh viết các đoạn văn giáo viên yêu cầu các em đọc lại để
tự phát hiện và sửa lỗi.
- Cho học sinh trao đổi bài để sửa lỗi cho nhau, có thể tự chấm bài, nhận
xét về cách diễn đạt, dùng từ đặt câu…của bạn.
- Giáo viên chấm, chữa bài cho học sinh.
1.4. Bước 4: Hướng dẫn học sinh cách làm một đề bài cụ thể.
Đề bài: Trong tác phẩm “Lòng yêu nước”, nhà văn Nga I-li-a Ê-ren-bua
có viết: “ Lòng yêu nước ban đầu là lòng yêu những vật tầm thường nhất: yêu
9


cái cây trồng ở trước nhà, yêu cái phố nhỏ đổ ra bờ sông, yêu vị thơm chua mát
của trái lê mùa thu hay mùa cỏ thảo nguyên có hơi rượu mạnh. (...) Dòng suối
đổ vào sông, sông đổ vào dải trường giang Vôn-ga, con sông Vôn-ga đi ra bể.
Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc”.
( Ngữ văn 6, tập2- NXBGD 2000- Trang 100)
Em hiểu như thế nào về ý kiến trên? Bằng sự hiểu biết của mình về văn
xuôi từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 đến nay, em hãy làm sáng tỏ ý kiến đó.
Hướng dẫn cách làm:
a.Tìm hiểu đề và tìm ý:
a1.Tìm hiểu đề:
- Kiểu bài: nghị luận văn học dạng chứng minh một nhận định về một giai
đoạn văn học.
- Vấn đề nghị luận: ý kiến, nhận định của nhà văn Nga I-li-a Ê-ren-bua về
lòng yêu nước.
- Phạm vi: các tác phẩm văn xuôi từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 đến
nay thể hiện tinh thần yêu nước.
a2.Tìm ý:
* Giải thích nhận định:

- Lòng yêu nước vốn là một khái niệm trừu tượng nhưng Ê-ren-bua đã diễn
tả nó bằng những hình ảnh hết sức sinh động, cụ thể. Lòng yêu nước bắt đầu từ
những tình cảm chân thực. Nó bắt đầu từ tình yêu những vật “tầm thường”, cụ
thể nhưng gần gũi, gắn bó sâu sắc với mỗi con người. Đó là tình yêu cái cây
trồng trước nhà, con phố nhỏ đổ ra bờ sông, vị thơm mát của trái lê mùa thu hay
mùi cỏ thảo nguyên có hơi ruợu mạnh... Lòng yêu nước được diễn tả vừa cụ thể
vừa đa dạng.
- Giải thích được nhà văn Ê-ren-bua đã chọn cách diễn đạt và hình ảnh so
sánh cụ thể như thế nào?
* Chứng minh nhận định: tinh thần yêu nước trong các tác phẩm văn xuôi từ
sau Cách mạng tháng Tám 1945 đến nay.
- Luận điểm 1: Tình yêu nước như là tình cảm sẵn có trong mỗi con người
Việt Nam, trong văn học Việt Nam (tính truyền thống). Nó được thể hiện đặc
biệt trong Văn học Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám 1945.
Dẫn chứng trong một số văn bản: “Làng” ( Kim Lân), “Lặng lẽ SaPa”
( Nguyễn Thành Long), “Những ngôi sao xa xôi” ( Lê Minh Khuê)…
- Luận điểm 2: Những biểu hiện cụ thể của lòng yêu nước.
+ Luận điểm phụ 1: Có thể đó chỉ là tình yêu với một vùng đất nhiều kỉ
niệm
Dẫn chứng trong một số văn bản: “ Sài Gòn tôi yêu” ( Minh Hương), Mùa
xuân của tôi” ( Vũ Bằng), “ Cô Tô” ( Nguyễn Tuân)…
10


+ Luận điểm phụ 2: Có thể là tình cảm của những con người cụ thể:
Dẫn chứng: Nhân vật ông Hai trong truyện ngắn “Làng” của Kim Lân, anh
thanh niên trong “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long, Phương Định và tổ
thanh niên xung phong của cô trong “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh
Khuê...
* Đánh giá, mở rộng:

b. Lập dàn ý:
b1. Mở bài:
- Giới thiệu vấn đề nghị luận ( có thể trích dẫn nhận định).
- Khái quát vấn đề.
b2.Thân bài:
* Giải thích nhận định:
- Lòng yêu nước vốn là một khái niệm trừu tượng nhưng Ê-ren-bua đã
diễn tả nó bằng những hình ảnh hết sức sinh động, cụ thể. Lòng yêu nước bắt
đầu từ những tình cảm chân thực. Nó bắt đầu từ tình yêu những vật “tầm
thường”, cụ thể nhưng gần gũi, gắn bó sâu sắc với mỗi con người. Đó là tình yêu
cái cây trồng trước nhà, con phố nhỏ đổ ra bờ sông, vị thơm mát của trái lê mùa
thu hay mùi cỏ thảo nguyên có hơi ruợu mạnh... Lòng yêu nước được diễn tả
vừa cụ thể vừa đa dạng.
- Nhà văn Ê-ren-bua đã chọn cách diễn đạt thật giản dị, dùng hình ảnh so
sánh: “Dòng suối đổ vào sông, sông đổ vào dải trường giang Vôn -ga, con sông
Vôn - ga đi ra bể. Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu
Tổ quốc”. Cách so sánh từ gần tới xa, từ nhỏ tới lớn, từ cụ thể đến trừu tượng, từ
gần gũi đến thiêng liêng. Các câu văn sóng đôi với nhau, các vế thật hài hoà:
Suối - sông- sông lớn - biển lớn; nhà - làng- miền quê- Tổ quốc. Hai câu văn đã
khái quát tư tưởng của tác giả về lòng yêu nước, về tình yêu Tổ quốc.
* Chứng minh nhận định:
- Tình yêu nước như là tình cảm sẵn có trong mỗi con người Việt Nam,
trong văn học Việt Nam (tính truyền thống). Nó được thể hiện đặc biệt trong
Văn học Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám 1945.
Văn học Việt Nam, cả văn học dân gian và văn học viết, là sản phẩm tinh
thần quí báu của dân tộc, phản ánh tâm hồn và tính cách Việt Nam với những
nét bền vững đã thành truyền thống và có sự vận động trong trường kì lịch sử
(...). Tinh thần yêu nước còn được thể hiện trong những rung động và niềm yêu
mến, tự hào về quê hương, thiên nhiên đất nước hoặc mĩ lệ hùng vĩ, hoặc giản
dị gần gũi. Lòng yêu nước ấy trong những hoản cảnh ngặt nghèo, có khi lại

được gửi vào những hoài niệm về quá khứ, về một vẻ đẹp của cảnh sắc thiên
nhiên hay phong tục sinh hoạt của dân tộc, có khi lại là tình yêu với tiếng nói
của dân tộc.
11


( Trích: Tổng kết văn học- SGK Ngữ văn 9, tập 2- NXBGD 2005-trang
191,192)
Văn học từ sau Cách mạng tháng Tám là văn học của một dân tộc vừa
giành được độc lập, tự do sau hơn 80 năm nô lệ, nên tình yêu nước thường gắn
với niềm tự hào được làm chủ quê hương, làm chủ giang sơn, Tổ quốc mình.
Tình yêu quê hương đất nước được nhìn, được hiểu với tinh thần ấy nên đất
nước càng tươi đẹp bội phần.
Cách mạng dân tộc dân chủ và lý tưởng xã hội chủ nghĩa đem đến cho các
nhà văn nhà thơ quan niệm đất nước nhân dân, đất nước qua con mắt những con
người bình thường và giản dị. Đó là đất nước của người nông dân quen sống lam
lũ cả cuộc đời với ngôi làng cũ chứa bao kỉ niệm vui buồn (ông Hai trong
“Làng” của Kim Lân), đó là đất nước của anh cán bộ làm công tác thuỷ văn đo
mưa đo gió trên đỉnh Yên Sơn 2600 m thiếu cả tiếng người (trong “Lặng lẽ Sa
Pa” của Nguyễn Thành Long), đó là đất nước trong con mắt của người con gái
Hà Nội xung phong ra mặt trận giữa bom đạn quân thù, giữa cái sống và cái chết
(Phương Định trong “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê)... Qua cái
nhìn qua nhận thức của hai nhân vật, tình yêu quê hương đất nước hiện lên mỗi
nhân vât mỗi một khác song đó đều là đất nước được nhân nhân xây dựng và
bảo vệ bằng mồ hôi, nước mắt và cả máu của mình qua trường kì lịch sử. Đó là
chủ đề của hàng loạt bài thơ và nhiều trang truyện viết về đất nước trong giai
đoạn văn học này.
- Những biểu hiện cụ thể của lòng yêu nước.
+ Có thể đó chỉ là tình yêu với một vùng đất nhiều kỉ niệm: Tôi yêu Sài
Gòn da diết như một người đàn ông vẫn ôm ấp một mối tình nhiều ngang trái.

Tôi yêu trong nắng sớm, một thứ nắng ngọt ngào, vào buổi chiều gió lộng nhớ
thương, dưới những cơn mưa nhiệt đới bất ngờ... còn nhiều cây xanh che chở
(“Sài Gòn tôi yêu” - Minh Hương); một mùa xuân “trăng non, rét ngọt” của Hà
Nội, của miền Bắc trong tấm lòng của người xa quê: Mùa xuân của tôi- mùa
xuân Bắc Việt, mùa xuân của Hà Nội- là mùa xuân có mưa riêu riêu, gió lành
lạnh, có tiếng nhạn kêu trong đêm xanh, có tiếng trống chèo vọng lại từ những
thôn xóm xa xa, có câu hát huê tình của cô gái đẹp như trong mộng... Nhưng tôi
yêu mùa xuân nhất là là khoảng sau ngày rằm tháng giêng, Tết đã hết mà chưa
hết hẳn, đào hơi phai nhưng nhuỵ vẫn còn phong, cỏ không mướt xanh như cuối
đông, đầu giêng, nhưng trái lại, lại nức một mùi hương man mác. ( “Mùa xuân
của tôi”- Vũ Bằng); hay cũng có thể là một vùng biển đảo xa xôi của Tổ quốc có
nước xanh, mây trắng vào một buổi sáng sau bão: Ngày thứ năm trên đảo Cô Tô
là một ngày trong trẻo, sáng sủa...Cây trên núi đảo lại thêm xanh thêm mượt,
nước biển lại lại lam biếc và đặm đà hơn hết cả mọi khi, và cát lại vàng giòn
hơn nữa... mà càng yêu mến hòn đảo như bất cứ người dân chài nào đã từng đẻ
ra và lớn lên theo mùa sóng ở đây...”( “Cô Tô” - Nguyễn Tuân).
+ Có thể là tình cảm của những con người cụ thể:
• Nhân vật ông Hai trong truyện ngắn “Làng” của Kim Lân, một người
nông dân thuần khiết như bao người nông dân Việt Nam khác mang trong mình
12


tình yêu làng quê thật giản dị mà sâu sắc. Làng của ông, một làng quê hình như
chẳng có gì đặc biệt so với bao làng quê Việt Nam khác nhưng nó lại ám ảnh
ông một cách lạ kì. Ông thường hay nói về nó, kể về nó với một tâm trạng háo
hức say mê : một ngôi làng với phòng thông tin tuyên truyền sáng sủa , rộng rãi
nhất vùng, chòi phát thanh cao bằng ngọn tre, nhà ngói san sát, sầm uất như
tỉnh, đường làng lát toàn đá xanh, cái sinh phần to đẹp của viên tổng đốc làng
mình...và tự hào hơn bao giờ hết là làng ông đã theo kháng chiến những ngày
đánh Tây gian khổ mà vui. Đó là cái làng mà cả giới phụ lão cũng vác gậy đi

tập một hai trong những ngày khởi nghĩa dồn dập, cái làng với nhiều ụ, nhiều
giao thông hào chuẩn bị cho kháng chiến .....Và khi phải đi tản cư rồi ông vẫn
bồi hồi không yên luôn lắng nghe tin tức ở cái làng thân yêu của mình trong
cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc. Ông đã xấu hổ, đau xót, căm giận khi
nghe tin làng mình theo Tây. Và ông cũng thật hả hê vui mừng đi khoe khi được
tin cải chính làng ông không theo Tây, làng ông bị tàn phá, nhà ông bị đốt.
Nhưng đó là sự hi sinh mất mát đầy tự hào, mãn nguyện vì đó là làng kháng
chiến, làng yêu nước. Đó chính là tình yêu làng, tình yêu nước luôn thống nhất
trong ông.
• Đó là anh thanh niên và bao con người thầm lặng khác trong “Lặng lẽ Sa
Pa” của Nguyễn Thành Long, ta gặp một con người yêu mảnh đất mình đã sống
đó là nơi anh sinh ra, lớn lên và làm việc. Công việc của một người thầm lặng :
Cháu ở đây có nhiệm vụ đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây, đo chấn động mặt
đất, dự vào việc báo thời tiết hàng ngày, phục vụ sản xuất, phục vụ chiến đấu.
Và đó là công việc đầy khó khăn vất vả Nửa đêm nằm trong chăn....không thể
ngủ lại được. Nhưng tất cả những khó khăn ấy có ý nghĩa gì với chàng thanh
niên trẻ khi anh đã nhận thức đúng đắn nhiệm vụ của mình: Hồi chưa vào
nghề... Mình sinh ra là gì, mình đẻ ở đâu, mình vì ai mà làm việc? Đấy cháu tự
nói với cháu như thế đấy”. Phải chăng đó chính là tình yêu với quê hương, với
Tổ quốc.
• Đó là Phương Định và tổ thanh niên xung phong của cô trong “Những
ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê. Những cô gái trẻ làm nhiệm vụ đếm và phá
bom trong cuộc kháng chiến chống Mỹ vô cùng ác liệt của dân tộc. Những
người con gái ấy nếu đất nước thanh bình họ chắc là cô giáo, là bác sỹ, kỹ sư.
Họ đã yêu thiết tha căn nhà, người thân: Mà tôi nhớ một cái gì đấy, hình như là
mẹ tôi, cái của sổ, hoặc những ngôi sao to trên bầu trời thành phố. Phải có thể
có những cái đó... Hoặc là cái cây, hoặc là cái vòm tròn của nhà hát, hoặc là bà
bán kem đẩy chiếc xe chở đầy kem... chúng xoáy mạnh trong tâm trí tôi. Nhưng
trong cuộc chiến tranh vĩ đại của dân tộc họ sẵn sàng ở mặt trận, một mặt trận
nóng bỏng, hàng ngày hàng giờ đối mặt với sự hiểm nguy: Chúng tôi bị bom vùi

luôn. Có khi bò trên cao điểm về chỉ hai con mắt lấp lánh... Còn chúng tôi thì
chạy trên điểm cao cả ban ngày . Mà ban ngày chạy trên cao điểm không phải
chuyện chơi. Nhưng nhất định sẽ nổ. Cái để những người con gái kia sẵn sàng
chấp nhận và đối diện thường xuyên với khó khăn gian khổ, sẵn sàng cống hiến,
hi sinh cả cuộc đời mình có phải là tình yêu thiết tha với gia đình, với bạn bè,
với những kỉ niệm đẹp đẽ của quê hương mà rộng hơn là tình yêu đất nước. Phải
13


chăng họ tìm ý nghĩa sự sống trong Tổ quốc, Nhân dân, trong tương lai tươi
sáng, trong lẽ sống vĩnh cửu. (Văn học thuộc loại hình sử thi , cái đẹp trong văn
học Cách mạng gắn với ý niệm về Tổ quốc trường tồn). Mọi cá nhân hữu hạn sẽ
bất tử trong Tổ quốc mình.
Tình yêu quê hương đất nước bắt đầu tình cảm sẵn có trong mỗi con
người, đó là tình cảm thật hồn nhiên, giản dị và trong sáng. Tình yêu ấy khi
được ý thức một cách đúng đắn, đầy đủ càng sâu sắc và đẹp đẽ.
* Đánh giá, nâng cao:
- Khẳng định tinh thần yêu nước của nhân dân ta nói chung, tinh thần yêu
nước thể hiện trong các tác phẩm văn xuôi từ sau Cách mạng tháng Tám 1945.
- Suy nghĩ, hành động:
+ Sự khâm phục, tự hào, yêu quý.
+ Học tập, rèn luyện.
b3. Kết bài:
- Khẳng định lại vấn đề
- Liên hệ…
c.Viết bài: HS dựa vào dàn ý viết bài theo bố cục 3 phần: Mở bài, thân
bài, kết bài.
d. Đọc và sửa chữa: Sau khi viết bài, học sinh đọc lại để tự phát hiện và
sửa lỗi về cách diễn đạt, dùng từ đặt câu…trong bài viết của mình.
2. Về khả năng áp dụng của sáng kiến:

a. Sáng kiến được áp dụng cho giáo viên giảng dạy bộ môn Ngữ văn
trường THCS- nơi tôi công tác và áp dụng cụ thể cho các đối tượng học sinh lớp
8,9 và các đội tuyển học sinh giỏi môn Ngữ văn 8,9; học sinh giỏi môn khoa học
xã hội.
b. Ngoài ra, sáng kiến còn có thể nhân rộng – có thể áp dụng cho các đối
tượng học sinh giỏi, học sinh đại trà các lớp 8,9 ở các trường THCS khác trong
huyện, trong tỉnh để nâng cao chất lượng, hiệu quả bài viết nghị luận văn học
dạng bàn về một ý kiến.
IV. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng
giải pháp trong đơn theo ý kiến của tác giả với các nội dung sau:
Giải pháp giúp học sinh nâng cao kỹ năng làm bài nghị luận văn học dạng
bàn về một ý kiến là việc rất cần thiết, nhằm hướng các em học sinh, đặc biệt là
học sinh giỏi môn Ngữ văn biết cách tạo lập được những bài nghị luận văn học
có linh hồn, sức sống, đi vào lòng người, chinh phục người đọc bằng con đường
tình cảm – mà xưa nay khi đã chinh phục được trái tim người đọc thì tác phẩm
có giá trị lâu bền, giá trị nhân văn sâu sắc.
Đây là một sáng kiến có ý nghĩa thiết thực đối với công tác dạy học Ngữ
văn nói chung và bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ văn nói riêng mà tôi đã áp
14


dụng trong năm học 2018-2019 để hướng dẫn cho học sinh làm bài nghị luận văn
học dạng bàn về một ý kiến. Sau khi áp dụng sáng kiến này vào thực tiễn giảng
dạy, chất lượng bài làm của học sinh lớp tôi trực tiếp giảng dạy đã nâng cao rõ rệt,
giờ các em không chỉ biết làm bài đúng hướng mà đã hiểu bản chất của kiểu bài
này: các em đã biết giải thích chứng minh ý kiến, nhận định, lấy dẫn chứng trong
các tác phẩm văn học, từ thực tế cuộc sống để đưa vào bài; nhiều bài đã có sức
hút và lay động được người đọc.
Nhờ áp dụng sáng kiến này mà kết quả học tập năm học 2018 -2019 tại
các lớp do tôi tiếp tục theo dạy, chất lượng bài làm của các em đã được nâng lên

rõ rệt.
- So sánh chất lượng bài làm của học sinh khi chưa áp dụng sáng kiến và
khi áp dụng thử nghiệm sáng kiến với 89 học sinh.

Chất lượng bài làm của
học sinh

Trước khi áp

Sau khi áp

dụng sáng kiến

dụng sáng kiến

( Năm học 2017- 2018)

( Năm học 2018- 2019)

So sánh

Số lượng

%

Số lượng

%

Số học sinh chưa biết làm

bài (Từ 1,0 – dưới 5,0
điểm)

34

38,2

12

13,5

Giảm
24,7%

Số học sinh biết làm bài ở
mức TB, khá (Từ 5,0 –
7,0 điểm)

42

47,2

48

53,9

Tăng
6,7%

13


14,6

29

32,6

Tăng
18%

Số học sinh làm tốt
(Từ 8,0 – 9,0 điểm)

Nhận xét: Qua bảng so sánh kết quả năm học 2018 - 2019 so với năm
học 2017 – 2018 cho thấy: Số học sinh làm bài còn yếu đã giảm; số học sinh
ở mức trung bình và khá đã tăng ở các lớp đại trà; đặc biệt số học sinh khá,
giỏi tăng cao.
V. Các thông tin cần được bảo mật: không.
D. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
I. Đối với giáo viên.
1. Giáo viên dạy Ngữ văn THCS đều có thể áp dụng sáng kiến.
2. Giáo viên có thể nghiên cứu thêm tài liệu, vận dụng thêm các kỹ năng
khác.
3. Học tập cách viết văn nghị luận văn học của các cây bút lớn, tham khảo
và tìm đọc các bài văn nghị luận văn học trên sách báo…
15


II. Đối với học sinh.
1. Học sinh phải cố gắng, vận dụng và thường xuyên học tập, rèn luyện để

viết tốt bài văn nghị luận văn học dạng bàn về một ý kiến.
2. Học sinh có thái độ hợp tác trong giờ học, có ý thức tự học, chủ động,
sáng tạo trong học tập bộ môn.
Đ. Về khả năng áp dụng của sáng kiến cho những đối tượng, cơ quan, tổ
chức nào hoặc những người tham gia tổ chức áp dụng sáng kiến lần đầu (nếu
có):
STT

Tên tổ chức/cá nhân

Phạm vi/Lĩnh vực áp
dụng sáng kiến

1

Giáo viên Ngữ văn trường THCS

Hoạt động dạy học, bồi
dưỡng học sinh giỏi

2

Học sinh lớp 8,9

Hoạt động học

3

Đội tuyển HSG môn Ngữ văn 8,9


Bồi dưỡng HSG

4

Đội tuyển HSG môn khoa học xã hội

Bồi dưỡng HSG

16



×