Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

SKKN giải pháp giúp học sinh nâng cao kỹ năng làm một số dạng bài nghị luận văn học thường gặp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.41 KB, 17 trang )

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN
Kính gửi: Hội đồng sáng kiến huyện Bình Xuyên
a) Tác giả sáng kiến: Nguyễn Thị Thùy Linh
- Ngày tháng năm sinh: 21/10/1981

Giới tính: Nữ

- Đơn vị công tác (hoặc hộ khẩu thường trú): Trường THCS Gia Khánh
- Chức danh: Giáo viên
- Trình độ chuyên môn: Đại học Văn
- Tỷ lệ (%) đóng góp vào việc tạo ra sáng kiến (ghi rõ đối với từng đồng
tác giả, nếu có)
b) Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến:
c) Tên sáng kiến; lĩnh vực áp dụng; mô tả bản chất của sáng kiến; các
thông tin cần được bảo mật (nếu có):
- Tên sáng kiến: Giải pháp giúp học sinh nâng cao kỹ năng làm một số
dạng bài nghị luận văn học thường gặp.
- Lĩnh vực áp dụng: Giảng dạy môn Ngữ văn:
+ Dạy đại trà học sinh lớp 8, 9
+ Bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ văn 8, 9
- Mô tả sáng kiến:
+ Về nội dung của sáng kiến:
Nghị luận văn học là một kiểu văn bản không có gì xa lạ trong trường phổ
thông. Trước, trong và sau giai đoạn cải cách giáo dục thì các đề thi lại chỉ chú
trọng đến nghị luận văn học. Những năm gần đây, với chương trình và sách giáo
khoa Ngữ văn mới, nghị luận văn học vẫn được chú ý một cách toàn diện từ
THCS đến THPT, từ Đọc - hiểu văn bản (THCS) hay Đọc văn (THPT) trong
phần văn học đến luyện tập cách làm, cách viết ở phần Làm văn. Và làm văn
nghị luận văn học đã trở thành một bộ phận không thể thiếu trong cấu trúc các đề


thi tốt nghiệp THPT, Đại học và đặc biệt là trong các đề thi học sinh giỏi các cấp.
Vì vậy rèn luyện làm văn nghị luận văn học vẫn là một yêu cầu cần thiết với học
sinh trung học nói chung và học sinh giỏi văn nói riêng.
Tuy nhiên, nghị luận văn học là một kiểu bài khó với văn nghị luận nói
riêng và phân môn Tập làm văn nói chung. Kiểu bài này đòi hỏi học sinh phải có
năng lực phân tích, đánh giá từ khái quát đến cụ thể, có sự hiểu biết về xã hội, về
văn học, về lịch sử… và đặc biệt là kỹ năng trình bày. Vì thế, nên cả giáo viên và
học sinh đều gặp những khó khăn với kiểu bài này. Về phía giáo viên, nhất là với
1


các thầy cô giáo tham gia bồi dưỡng các đội tuyển học sinh giỏi. Về phía học
sinh, kể cả học sinh năng khiếu thì kết quả bài viết còn nhiều hạn chế. Một trong
những hạn chế lớn nhất là học sinh không biết tìm ý và lập dàn ý cho đề nghị
luận văn học.
Vậy, để cho việc học – làm văn nghị luận văn học trong chương trình Ngữ
văn THCS được thuận lợi hơn, kết quả hơn. Tôi xin mạnh dạn đề xuất một vài kỹ
năng cơ bản: “Hướng dẫn học sinh phương pháp làm một số dạng bài nghị
luận văn học thường gặp”.
Trong quá trình thực hiện sáng kiến,bản thân tôi đã trực tiếp vận dụng một
số giải pháp cụ thể nhằm nâng cao kỹ năng làm một số dạng bài nghị luận văn
học thường gặp như sau:
1.Giải pháp1:Giúp học sinh nhận diện đặc điểm kiểu bài nghị luận văn học.
1.1.Khái niệm.
Nghị luận: nghị (xem xét, trao đổi; luận: bàn bạc, đánh giá) dùng lý lẽ, dẫn
chứng và cách thức lập luận để phân tích, bàn luận, đánh giá về một (các) vấn đề
nào đó.
Văn học: là bộ môn nghệ thuật, khác với các bộ môn nghệ thuật khác nhờ
chất liệu ngôn từ. Văn học là một loại hình sáng tác, phản ánh các vấn đề đời
sống xã hội và lấy con người làm đối tượng nhận thức trung tâm, tái hiện những

vấn đề của đời sống xã hội và con người (tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ,…)
Nghị luận văn học: là những bài văn nghị luận bàn về các vấn đề văn học
(tác giả, tác phẩm, ý kiến nhận định về tác phẩm, nhân vật trong tác phẩm,…)
nhằm thể hiện suy nghĩ, thái độ, tiếng nói chủ quan của người viết về vấn đền đặt
ra trong tác phẩm, đoạn trích, tình huống, nhân vật,… góp phần tạo những tác
động tích cực tới con người, bồi đắp những giá trị nhân văn và thúc đẩy sự tiến
bộ chung của con người và xã hội.
1.2. Các dạng bài nghị luận văn học thường gặp.
Nghị luận văn học gồm nhiều dạng, dưới đây là một số dạng bài nghị luận
văn học cơ bản thường gặp:
- Dạng nghị luận về tác phẩm văn học: Dạng đề này nhằm kiểm tra năng
lực cảm thụ văn học ( hiểu, phân tích, lí giải, bình giá) của người viết. Đối tượng
cảm thụ có thể là thơ, truyện, kịch hoặc văn nghị luận; có thể là toàn bộ tác phẩm,
nhưng có thể chỉ là đoạn trích, cũng có thể là một nhân vật trong tác phẩm.
Ví dụ : Hãy phân tích nhân vật ông Sáu trong truyện ngắn “Chiếc lược ngà”
của Nguyễn Quang Sáng để thấy được tình cảm cha con sâu nặng.
- Dạng nghị luận về một ý kiến bàn về văn học: Đối tượng bàn luận ở đây
có thể là một nhận định về văn học sử, về một tác giả, về nội dung hay nghệ
thuật của tác phẩm; hoặc là một ý kiến về lí luận văn học.
2


Ví dụ : Bàn về thơ, có ý kiến cho rằng: “Thơ không chỉ đưa ru mà còn thức
tỉnh”
Em hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy phân tích bài thơ “Ánh trăng” của
Nguyễn Duy để làm rõ nhận định trên.
1.3. Yêu cầu của bài nghị luận văn học.
a. Về kiến thức
* Nghị luận văn học là khám phá các giá trị văn học và vấn đề văn học qua
từng khía cạnh và từng biểu hiện cụ thể của tác phẩm văn học, sáng tác của một

tác giả, văn học của một giai đoạn hay của một nhận định lí luận văn học
Khi làm kiểu bài này cần thực hiện hai yêu cầu sau đây:
- Chia đối tượng nghị luận ra từng phần, từng khía cạnh theo một trình tự
logic nhất định.
- Phát hiện nội dung từng phần, từng khía cạnh qua các biểu hiện cụ thể
* Yêu cầu nghị luận văn học cần có thái độ khách quan khoa học, có hiểu
biết đúng đắn về đối tượng nghị luận, có phát hiện nhất định qua các chi tiết.
* Bài viết cần có các yếu tố miêu tả, tự sự, biếu cảm và nghị luận.
* Bài viết cần có bố cục mạch lạc, diễn đạt rõ ràng, suy luận chặt chẽ, dẫn
chứng xác đáng lời văn gợi cảm.
b. Về kĩ năng
* Trình tự các bước lập ý, làm bài
- Định hướng, xác lập và sắp xếp các ý cần nghị luận.
- Chọn chi tiết làm dẫn chứng.
- Phân tích các dẫn chứng, nêu dẫn chứng minh họa.
- Tổng kết, nhận định, đánh giá tác phẩm theo kết quả phân tích.
* Xây dựng bố cục bài văn
- Mở bài:
Giới thiệu đối tượng nghị luận ( Tác giả, tác phẩm, vấn đề)
- Thân bài:
Trình bày theo từng phần, từng khía cạnh đã đượcphân chia, thông qua các
dẫn chứng cụ thể ( nhân vật, chi tiết, hình ảnh, ngôn ngữ…)
Trong từng phần, sự trình bày có thể thực hiện bằng cách diễn dịch ( nêu
một ý nhận định chung trước, sau đó nêu dẫn chứng và phân tích, so sánh đối
chiếu, giải thích ý nghĩa để chứng minh cho nhận định ấy; tiểu kết kết quả nghị
luận) hoặc theo hướng qui nạp ( giới thiêu các biểu hiện, chi tiết và phân tích,
sau đó quy nạp thành nhận định đánh giá chung)
- Kết bài:
Khái quát các kết quả nghị luận trình bày ở trên. Nêu đánh giá tổng quát,
mở rộng đào sâu nhận định.

* Kĩ năng phân tích chi tiết
3


- Biết khai thác các phương thức biểu hiện nghệ thuật vốn có của tác phẩm
(Kết cấu, ngoại hình nhân vật, ngôn ngữ nhân vật, vần điệu thể thơ, các biện
pháp tu từ… ) để phát hiện nội dung.
- Biết cách xác lập những so sánh, đối chiếu, sử dụng phương pháp thống
kê… để đánh giá nội dung và nghệ thuật của hiện tượng văn học.
2.Giải pháp 2: Một số kinh nghiệm cần có để viết được bài văn nghị luận
văn học hay, đúng định hướng.
* Trước hết, phải nắm chắc cách trình bày những đặc điểm của văn bản nghị
luận.
- Luận điểm: khi trình bày luận điểm trong bài văn nghị luận cần chú ý:
+ Chuyển đoạn bằng từ ngữ,câu có tính liên kết
+ Thể hiện rõ ràng, chính xác nội dung của luận điểm trong câu chủ đề.
Trong đoạn văn trình bày luận điểm, câu chủ đề thường đặt ở đầu tiên hoặc cuối
cùng của đoạn
+ Tìm đủ luận cứ cần thiết, tổ chức các luận cứ đó theo một trật tự hợp lí.
+ Diễn đạt trong sang, hấp dẫn để làm cho sự trình bày luận điểm có sức
thuyết phục người đọc (người nghe)
- Luận cứ:
+ Muốn xác định được các luận cứ phải bám sát vào các luận điểm.
• Trước hết, luận cứ phải phù hợp với yêu cầu khẳng định luận điểm. Nội
dung của luận cứ phải thống nhất với nội dung của luận điểm.
• Thứ hai, luận cứ phải xác thực. khi nêu luận cứ người viết phải biết đích xác
luận cứ, không chắc chắn thì chưa vội sử dụng. Tuyệt đối không bịa đặt luận cứ.
• Thứ ba, luận cứ phải tiêu biểu Nếu chọn chi tiết về nân vật thì chọn chi tiết
tiêu biểu nhất cho tính cách của nhân vật ấy.
• Thứ tư, luận cứ phải vừa đủ, đáp ứng yêu cầu của luận đề, luận điểm.

• Cuối cùng, luận cứ cần phải mới mẻ.
+ Cách sử dụng luận cứ: Khi sử dụng luận cứ vào bài văn nghị luận,trước
hết phải giới thiệu luận cứ, chỉ ra nguồn gốc của luận cứ. Cần trích dẫn chính
xác. Nhớ nguyên văn thì đặt trong dấu ngoặc kép, nhớ đại ý thì chuyển thành lời
dần gián tiếp. Dẫn nhân vật thì lược thuật cuộc đời và hoạt động của nhân vật.
Cần sử dụng các lập luận để từ luận cứ mà làm rõ luận điểm.
- Lập luận:
Lập luận là cách nêu luận cứ ( lựa chọn, sắp xếp, trình bày) để dẫn đến luận
điểm. Lập luận phải chặt chẽ, hợp lí thì bài văn mới có sức thuyết phục.
* Thứ hai, phải tìm hiểu, mở rộng các kiến thức nâng cao như:
- Kiến thức về văn học sử.
- Kiến thức về lý luận văn học.
- Một số tác phẩm văn học ngoài chương trình.
* Thứ ba, phải nắm được các phương pháp đặc trưng, cơ bản như:
4


- Phương pháp đoc, nghiên cứu tài liệu.
- Phương pháp gợi mở, phân tích, bình giảng.
- Phương pháp liên hệ, so sánh.
- Phương pháp viết đoạn văn, lập luận.
3.Giải pháp 3: Hướng dẫn học sinh cách viết bài.
a. Hướng dẫn chung.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh vận dụng cách lập luận hợp lí, sử dụng
thành thạo và linh hoạt các thao tác lập luận.
- Cần bám vào dàn ý đã xây dựng, theo bố cục và nhiệm vụ cụ thể của từng phần.
- Giáo viên hướng dẫn cách viết đoạn văn triển khai luận điểm theo cách
diễn dịch, qui nạp… (khuyến khích viết đoạn Tổng - Phân - Hợp).
- Sử dụng từ nối hoặc câu nối để tạo sự liên kết chặt chẽ giữa các phần, các
đoạn nhằm tạo sự mạch lạc cho văn bản.

- Hướng dẫn cách đưa và phân tích dẫn chứng: đưa dẫn chứng bằng cách
dẫn trực tiếp hoặc gián tiếp từ ngữ, câu… trong văn bản sau đó phân tích những
ý nổi bật nhất phục vụ cho việc làm sáng tỏ luận điểm.
- Rèn kĩ năng dùng từ, đặt câu, chính tả, đặc biệt cần rèn khả năng tư duy
sáng tạo, cách tổng hợp khái quát vấn đề.
- Lần lượt hướng dẫn học sinh viết đoạn mở bài, các đoạn phần thân bài và
đoạn kết bài.
b. Hướng dẫn cách viết mở bài.
* Thế nào là một mở bài hay ?
Là mở bài đúng, có phần dẫn dắt vào đề và nêu vấn đề nghị luận ngắn
gọn, độc đáo, ấn tượng, sáng tạo. Thông thường có hai cách:
- Trực tiếp: Là cách đi thẳng vào vấn đề cần nghị luận. Nghĩa là sau khi đã
tìm hiểu đề và tìm được vấn đề trọng tâm của bài nghị luận, ta nêu thẳng vấn đề
đó ra bằng một luận điểm rõ ràng. Tuy nhiên, khi mở bài trực tiếp ta cũng phải
trình bày cho đủ ý, không nói thiếu nhưng cũng nên nói hết nội dung, phải đáp
ứng các yêu cầu của một phần mở bài đúng mực trong nhà trường. Đặt vấn đề
theo cách trực tiếp dễ làm, nhanh gọn, tự nhiên, dễ tiếp nhận, tuy nhiên thường
khô khan, cứng nhắc, thiếu hấp dẫn cho bài viết.
- Gián tiếp: Với cách này người viết phải dẫn dắt vào đề bằng cách nêu lên
những ý nghĩa có liên quan đến luận đề (vấn đề nghị luận) để gây sự chú ý cho
người đọc) sau đó mới bắt sang luận đề. Mở bài theo cách này tạo được sự
uyển chuyển, linh hoạt cho bài viết, hấp dẫn người đọc. Tuy nhiên, kiểu mở bài
này dễ dẫn đến sự lan man, lạc đề cho bài viết.
* Một số “mẹo” mở bài hay :
- Nhập đề bằng câu chuyện ngắn trong thực tiễn đời sống hay trong văn học.
- Nhập đề bằng danh ngôn.
- Nhập đề bằng thơ.
5



- Nhập đề bằng lời bài hát.
c. Hướng dẫn cách viết kết bài.
* Thế nào là một kết bài hay ?
Giống như phần mở bài, phần này chỉ thể hiện đúng quan điểm đã trình bày ở
phần than bài, chỉ nêu những ý khái quát, có tính tổng kết, không lan man, lặp lại
những gì đã trình bày. Kết bài phải độc đáo, sáng tạo, tự nhiên và để lại dư vị.
Tùy mục đích nghị luận, người viết có thể sử dụng một trong các cách kết
bài sau đây:
- Kết bài bằng cách tóm lược:
Là kiểu kết bài mà ở đó người viết tóm tắt quan điểm, tổng hợp những ý
chính đã nêu ở thân bài. Cách kết bài này dễ viết hơn và thường được sử dụng
nhiều hơn.
- Kết bài bằng cách bình luận, mở rộng và nâng cao:
Là kiểu kết bài trên cơ sở quan điểm chính của bài viết, bằng liên tưởng,
vận dụng, người viết phát triển, mở rộng nâng cao vấn đề.
* Một số “mẹo” kết bài hay :
- Kết bài theo hình thức nêu câu hỏi đặt ra cho mọi người cùng suy nghĩ.
Hoặc viết lời nhắn gửi mong muốn mọi người cùng nghĩ và làm theo.
- Kết bài bằng danh ngôn, hoặc câu nói có tính triết lí.
4.Giải pháp 4: Hướng dẫn cách làm cụ thể đối với từng dạng bài nghị
luận văn học.
a. Nghị luận về tác phẩm văn học.
a1. Nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ.
* Nội dung, yêu cầu của dạng bài nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ.
- Nội dung:
+ Giới thiệu khái quát về bài thơ, đoạn thơ.
+ Bàn về giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ, đoạn thơ.
+ Đánh giá chung về bài thơ, đoạn thơ
- Yêu cầu
+ Đọc kĩ bài thơ, đoạn thơ; nắm hoàn cảnh, nội dung, vị trí…

+ Đoạn thơ, bài thơ có những hình ảnh, ngôn ngữ gì đặc biệt.
+ Đoạn thơ, bài thơ thể hiện phong cách nghệ thuật, tư tưởng của tác giả
như thế nào?
* Kĩ năng cần rèn luyện.
- Rèn kĩ năng tìm hiểu đề:
+ Nắm chắc thao tác nghị luận mà đề bài yêu cầu
+ Xác định trúng nội dung của đề
+ Phạm vi tư liệu cần sử dụng ( Tư liệu chính và tư liệu phụ)
6


- Rèn kĩ năng lập dàn ý:
+ Dàn ý thể hiện nội dung sơ lược của bài văn. Lập dàn ý giúp người viết có
cái nhìn bao quát, điều chỉnh, sắp xếp nội dung và phân chia thời gian cho từng
phần một cách thỏa đáng. Nếu không lập dàn ý, bài văn rất dễ bị trùng lặp, lộn
xộn. Một dàn ý không thể quá sơ sài, song cũng không thể quá phức tạp, rườm
rà; điều quyết định là thể hiện sự lập luận chặt chẽ, hợp lô gíc
+ Muốn lập được dàn ý, trước hết phải xác định được luận điểm. Luận điểm
là linh hồn của bài văn nghị luận. Luận điểm không xác đáng, không quan trọng,
không gây chú ý thì bài nghị luận coi như không có ý nghĩa. Do đó, việc lựa
chon và nêu luận điểm có tầm quan trọng đặc biệt cần được quan tâm đúng mức.
Khi gặp đề “nổi” nên dựa vào những từ ngữ có sẵn trong bài mà xây dựng tiêu đề
cho các luận điểm.
Đối với lọai đề “chìm”, việc xác định luận điểm có phức tạp hơn. Để có thể
tìm được luận điểm với cần có hiểu biết chắc chắn về nhân vật, về giá trị nội
dung, nghệ thuật của tác phẩm, về kiến thức lí luận văn học…Người viết phải có
năng lực khái quát, tổng hợp nhất định.
+ Sau khi có luận điểm, nhất thiết phải xây dựng được các luận cứ. Bài văn
nghị luận không thể có sức thuyết phục nếu chỉ có luận cứ. Chỉ khi nào có hệ
thống luận cứ thì mới hình thành được dàn ý đại cương. Bài viết phong phú hay

sơ sài phần nhiều phụ thuộc vào việc người viết có tìm đủ luận cứ hay không.
Luận cứ là nền tảng và là chất liệu để làm nên bài văn nghị luận.
- Huy động các kiến thức sách vở và những cảm xúc, trải nghiệm của bản
thân để viết bài nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ.
* Các bước tiến hành.
- Tìm hiểu đề:
+ Đọc kĩ đề, xác định nội dung nghị luận trong bài thơ, đoạn thơ.
+ Thao tác lập luận.
+ Phạm vi dẫn chứng.
- Tìm ý: có nhiều cách tìm ý:
+ Tìm ý bằng cách lập câu hỏi: tác phẩm hay ở chỗ nào? Nó xúc động ở
tình cảm, tư tưởng gì? Cái hay thể hiện ở hình thức nghệ thuật nào? Hình thức đó
được xây dựng bằng những thủ pháp nào?
+ Tìm ý bằng cách đi sâu vào những hình ảnh, từ ngữ, tầng nghĩa của tác phẩm…
- Lập dàn ý:
+ Mở bài:
• Giới thiệu tác giả, giới thiệu bài thơ, đoạn thơ (hoàn cảnh sáng tác, vị trí,…)
• Dẫn bài thơ, đoạn thơ.
+ Thân bài:
• Làm rõ nội dung tư tưởng, nghệ thuật của bài thơ, đoạn thơ (dựa theo các
ý tìm được ở phần tìm ý)
• Bình luận về vị trí bài thơ, đoạn thơ.
7


+ Kết bài: đánh giá vai trò, ý nghĩa của bài thơ, đoạn thơ trong việc thể hiện
nội dung tư tưởng và phong cách nghệ thuật của nhà thơ.
a2. Nghị luận về một tác phẩm, đoạn trích văn xuôi.
* Nội dung, yêu cầu của dạng bài nghị luận về một tác phẩm, đoạn trích văn xuôi.
- Đối tượng của bài nghị luận về một tác phẩm văn xuôi: giá trị nội dung

nghệ thuật của một tác phẩm, một đoạn trích hoặc so sánh nhiều tác phẩm, nhiều
đoạn trích văn xuôi với nhau, nghị luận về nhân vật văn học, sự kiện văn học…
- Người viết cần thể hiện được những hiểu biết đúng đắn về tác phẩm hay
đoạn trích, chỉ ra những giá trị nổi bật về nội dung và nghệ thuật, Việc phân tích,
bình luận cần khách quan, khoa học dựa trên văn bản.
* Kĩ năng cần rèn luyện.
- Rèn kĩ năng tìm hiểu đề:
+ Nắm chắc thao tác nghị luận mà đề bài yêu cầu
+ Xác định trúng nội dung của đề
+ Phạm vi tư liệu cần sử dụng ( Tư liệu chính và tư liệu phụ)
- Rèn kĩ năng lập dàn ý:
+ Dàn ý thể hiện nội dung sơ lược của bài văn. Lập dàn ý giúp người viết có
cái nhìn bao quát, điều chỉnh, sắp xếp nội dung và phân chia thời gian cho từng
phần một cách thỏa đáng. Nếu không lập dàn ý, bài văn rất dễ bị trùng lặp, lộn
xộn. Một dàn ý không thể quá sơ sài, song cũng không thể quá phức tạp, rườm
rà; điều quyết định là thể hiện sự lập luận chặt chẽ, hợp lô gíc
+ Muốn lập được dàn ý, trước hết phải xác định được luận điểm. Luận điểm
là linh hồn của bài văn nghị luận. Luận điểm không xác đáng, không quan trọng,
không gây chú ý thì bài nghị luận coi như không có ý nghĩa. Do đó, việc lựa
chon và nêu luận điểm có tầm quan trọng đặc biệt cần được quan tâm đúng mức.
Khi gặp đề “nổi” nên dựa vào những từ ngữ có sẵn trong bài mà xây dựng tiêu đề
cho các luận điểm.
Đối với lọai đề “chìm”, việc xác định luận điểm có phức tạp hơn. Để có thể
tìm được luận điểm với cần có hiểu biết chắc chắn về nhân vật, về giá trị nội
dung, nghệ thuật của tác phẩm, về kiến thức lí luận văn học…Người viết phải có
năng lực khái quát, tổng hợp nhất định.
+ Sau khi có luận điểm, nhất thiết phải xây dựng được các luận cứ. Bài văn
nghị luận không thể có sức thuyết phục nếu chỉ có luận cứ. Chỉ khi nào có hệ
thống luận cứ thì mới hình thành được dàn ý đại cương. Bài viết phong phú hay
sơ sài phần nhiều phụ thuộc vào việc người viết có tìm đủ luận cứ hay không.

Luận cứ là nền tảng và là chất liệu để làm nên bài văn nghị luận.
- Huy động các kiến thức sách vở và những cảm xúc, trải nghiệm của bản
thân để viết bài nghị luận về một tác phẩm, một đoạn trích văn xuôi.
* Các bước tiến hành.
- Tìm hiểu đề, xác định vấn đề cần làm rõ:
8


+ Các thao tác nghị luận.
+ Phạm vi dẫn chứng.
- Tìm ý.
- Lập dàn ý:
+ Mở bài: • Giới thiệu tác giả, tác phẩm (xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác…)
• Dẫn nội dung nghị luận
+ Thân bài: • Ý khái quát: tóm tắt tác phẩm.
• Làm rõ nội dung, nghệ thuật theo định hướng của đề.
• Nêu cảm nhận, đánh giá về tác phẩm, đoạn trích.
+ Kết bài: nhận xét, đánh giá khái quát tác phẩm, đoạn trích (cái hay, độc đáo).
b. Nghị luận về một ý kiến bàn về văn học (dạng bài nghị luận văn học
chứng minh một nhận định).
* Nội dung yêu cầu:
- Nghị luận về một ý kiến bàn về văn học là bàn luận về một nhận định,
đánh giá liên quan đến các vấn đề văn học nhằm giải thích, phân tích, bình luận
những luận điểm được đề cập xung quanh vấn đề được bàn luận trên cơ sở đó,
rút ra những vấn đề có tính chất cơ bản về tư tưởng hoặc thẩm mĩ
- Người viết bài cần thể hiện khả năng lí giải, phân tích, đồng thời bộc lộ rõ
quan điểm, thái độ của bản thân.
* Kĩ năng cần rèn luyện:
- Xác định đúng nội dung vấn đề nghị luận văn học đặt ra trong đề bài, hình
thành các ý nghị luận giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận.

Người viết cần nắm được bản chất vấn đề nghị luận đồng thời phải biết nhìn
nhận, soi chiếu vấn đề đó từ nhiều phía để có cái nhìn toàn diện, biết đánh giá và
phản biện. Chú ý tán đồng hoặc trao đổi, phê phán đều phải có lí lẽ xác đáng, cơ
sở khoa học, tránh suy diễn, áp đặt
- Huy động kiến thức văn học và những trải nghiệm của bản thân để tạo lập
văn bản nghị luận về một vấn đề nghị luận văn học.
Kiến thức được nêu ra cần có sự hài hòa giữa cái chung và cái riêng, giữa tri
thức phổ quát và nhận thức chủ quan của bản thân; nhưng quan trọng nhất là cần
một tri thức rộng và sâu, những trải nghiệm của bản thân cần được trình bày một
cách hợp lí, chặt chẽ và thuyết phục.
* Các bước tiến hành:
- Tìm hiểu đề:
+ Xác định luận đề: nội dung ý kiến, nhận định.
+ Xác định thao tác.
+ Phạm vi tư liệu.
- Tìm ý:
- Lập dàn ý:
9


+ Mở bài:
• Giới thiệu khái quát ý kiến nhận định.
• Dẫn ra nguyên văn ý kiến đó.
+ Thân bài: triển khai các ý kiến, vận dụng các thao tác để làm rõ nhận định.
+ Kết bài: khẳng định lại vấn đề, nêu ý nghĩa, liên hệ bản thân.
Hướng dẫn học sinh cách làm một đề bài cụ thể:
Đề bài: Nhà thơ Xuân Diệu cho rằng: Thơ hay là hay cả hồn lẫn xác, hay
cả bài.
Em hiểu ý kiến trên như thế nào? Qua bài thơ “Ông đồ” của nhà thơ Vũ
Đình Liên, em hãy làm sáng tỏ nhận định trên.

Hướng dẫn cách làm:
(a).Tìm hiểu đề:
- Kiểu bài: nghị luận văn học dạng chứng minh một nhận định về nội
dung và nghệ thuật của tác phẩm văn học.
- Vấn đề nghị luận: nêu ý kiến về nhận định ở đề bài – nội dung và nghệ
thuật của bài thơ “Ông đồ” – Vũ Đình Liên.
- Phạm vi: bài thơ “Ông đồ” của Vũ Đình Liên.
(b).Tìm ý:
* Giải thích nhận định: “Thơ hay là hay cả hồn lẫn xác, hay cả bài”.
- Hồn: nội dung, ý nghĩa bài thơ.
- Xác: hình thức nghệ thuật
* Chứng minh nhận định: bài thơ “Ông đồ” của Vũ Đình Liên là bài thơ
“hay cả hồn lẫn xác, hay cả bài”
- Luận điểm 1: bài thơ hay ở phần “hồn” (nội dung)
+ Luận điểm phụ 1: ở hai khổ thơ đầu, hình ảnh ông đồ thời kỳ huy
hoàng.
• Dẫn chứng 1: “hoa đào nở”, “bày mực tàu giấy đỏ...”
• Dẫn chứng 2: “Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài”
+ Luận điểm phụ 2: hai khổ thơ tiếp theo là bức tranh ông đồ thời nay.
• Dẫn chứng 1: “Nhưng mỗi năm mỗi vắng...”
• Dẫn chứng 2: “Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu”
• Dẫn chứng 3: “Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài giời mưa bụi bay”
+ Luận điểm phụ 3: khổ thơ cuối tác giả bày tỏ nỗi lòng, niềm thương xót
đối với ông đồ cũng như đối với một nét đẹp văn hóa của dân tộc bị mai một.
Dẫn chứng: “Năm nay đào lại nở
10



.....................................
Hồn ở đâu bây giờ?”
- Luận điểm 2: bài thơ hay ở phần “xác” (hình thức).
+ Dẫn chứng 1: nhan đề
+ Dẫn chứng 2: mạch cảm xúc, kết cấu bài thơ
+ Dẫn chứng 3: thể thơ, hình ảnh thơ, kết cấu, các biện pháp tu từ.
+ Dẫn chứng 4: nhịp điệu bài thơ....
* Đánh giá, mở rộng:
(c).Lập dàn ý:
(c1).Mở bài
- Giới thiệu tác giả Vũ Đình Liên, bài thơ “Ông đồ”
- Trích dẫn nhận định
(c2).Thân bài
* Giải thích nhận định:
- “Thơ hay là hay cả hồn lẫn xác, hay cả bài”
+ Hồn tức là nội dung, ý nghĩa của bài thơ.
+ Xác tức là nói đến hình thức nghệ thuật của bài thơ thể hiện ở thể loại,
việc tổ chức ngôn từ, hình ảnh, nhịp điệu, cấu tứ…
- Như vậy, theo Xuân Diệu thơ hay là có sự sáng tạo độc đáo về nội dung
cũng như hình thức nghệ thuật, khơi gợi tình cảm cao đẹp và tạo được ấn
tượng sâu sắc đối với người đọc. Chỉ khi đó thơ mới đạt đến vẻ đẹp hoàn mĩ
của một chỉnh thể nghệ thuật.
- Ý kiến của Xuân Diệu hoàn toàn xác đáng bởi nó xuất phát từ đặc thù
sáng tạo của văn chương nghệ thuật. Cái hay của một tác phẩm văn học được
tạo nên từ sự kết hợp hài hòa giữa nội dung và hình thức. Một nội dung mới
mẻ có ý nghĩa sâu sắc phải được truyền tải bằng một hình thức phù hợp thì
người đọc mới dễ cảm nhận, tác phẩm mới có sức hấp dẫn bền lâu.
* “Ông đồ” của Vũ Đình Liên là bài thơ hay cả hồn lẫn xác, hay cả bài
- Bài thơ hay ở phần “hồn” (nội dung): bài thơ “Ông đồ” thể hiện niềm

cảm thương sâu sắc đối với một lớp người đang trở nên lạc lõng và bị gạt ra
ngoài lề cuộc đời; là niềm hoài cổ của tác giả với một nét đẹp truyền thống
của dân tộc (thú chơi câu đối ngày Tết) bị tàn phai.
+ Ở hai khổ thơ đầu, qua hình ảnh ông đồ xưa trong thời kì huy hoàng,
tác giả gửi gắm niềm kính trọng, ngưỡng mộ, nâng niu nét đẹp văn hóa truyền
thống của dân tộc.
• Ông đồ xuất hiện bên phố phường đông đúc vào mỗi dịp tết đến xuân
về. Không khí mùa xuân, hình ảnh “hoa đào nở” đã tươi thắm nay lại thêm
“mực tàu giấy đỏ” làm mọi nét vẽ trong bức tranh tả cảnh ông đồ rõ nét, tươi
11


vui, tràn đầy sức sống. Từ “lại” diễn tả sự xuất hiện đều đặn của ông đồ với
mùa xuân cùng với công việc viết chữ nho.
•Dòng người đông đúc đều quan tâm và ngưỡng mộ, khâm phục tài viết
chữ của ông đồ. (Bao nhiêu người thuê viết/Tấm tắc ngợi khen tài). Nghệ thuật
so sánh và thành ngữ “Như phượng múa rồng bay” làm toát lên vẻ đẹp của nét
chữ phóng khoáng, bay bổng,…
-> Ông đồ trở thành tâm điểm chú ý của mọi người, là đối tượng của
sự ngưỡng mộ. Đó là thời chữ nho được mến mộ, nhà nho được trọng dụng.
+ Hai khổ thơ tiếp theo tác giả vẽ lên bức tranh ông đồ thời nay, một kẻ sĩ
lạc lõng, lẻ loi giữa giữa dòng đời xuôi ngược.
• Mùa xuân vẫn tuần hoàn theo thời gian, phố vẫn đông người qua
nhưng ông đồ bị lãng quên, nho học bị thất sủng, người ta không còn quan tâm
đến ông đồ, đến chữ ông đồ viết.
• Câu hỏi tu từ và biện pháp nghệ thuật nhân hóa (Giấy đỏ buồn không
thắm/Mực đọng trong nghiên sầu) -> Nỗi buồn như lan tỏa, thấm cả vào
những vật vô tri vô giác, tất cả như đồng cảm với nỗi niềm của ông đồ trước
con người, thời thế. Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình (Lá vàng rơi trên giấy/ Ngoài
giời mưa bụi bay) gợi không gian buồn thảm, vắng lặng nhấn mạnh sự lẻ loi,

bẽ bàng của ông đồ…
-> Một nét đẹp văn hóa dân tộc bị mai một, chữ nho đã trở nên lỗi thời,
những người như ông đồ bị rơi vào quên lãng. Ông đồ trở thành “di tích tiều
tụy đáng thương của một thời tàn”
+ Khổ thơ cuối tác giả dùng để bày tỏ nỗi lòng, khơi gợi ở người đọc
niềm thương xót đối với ông đồ cũng như đối với một nét đẹp văn hóa của dân
tộc bị mai một.
• Tết đến, xuân về, hoa đào vẫn nở nhưng không còn thấy ông đồ xưa ->
Sau mỗi năm ông đồ đã già và giờ đây đã trở thành người thiên cổ.
• Câu hỏi tu từ thể hiện niềm cảm thương của tác giả cho những nhà nho
danh giá một thời, nay bị lãng quên vì thế thời thay đổi, thương tiếc những giá
trị tốt đẹp bị lụi tàn và không bao giờ trở lại.
- Bài thơ hay ở phần “xác” (hình thức).
+ Nhan đề bài thơ ngắn gọn nhưng gợi nhiều liên tưởng, chứa đựng chiều
sâu chủ đề tư tưởng mà tác giả muốn gửi gắm qua thi phẩm.
+ Mạch cảm xúc, mạch ý tạo thành tứ thơ tự nhiên theo dòng thời gian.
Kết cấu bài thơ giống như một câu chuyện kể về cuộc đời của ông đồ: Mở đầu
câu chuyện ông đồ là tâm điểm mọi sự chú ý của công chúng, cùng thời gian
ông dần bị quên lãng, đến cuối bài thơ ông đồ đã chìm vào quá khứ, từ đó nhà
thơ bộc lộ tự nhiên niềm thương người và tình hoài cổ trước cảnh cũ người đâu.
+ Thể thơ ngũ ngôn gieo vần chân, lời thơ bình dị nhưng sâu lắng, cô
đọng, kết cấu đầu cuối tương ứng chặt chẽ. Hình ảnh thơ giản dị, ngôn ngữ thơ
12


hàm súc, gợi hình, gợi cảm. Kết cấu đầu cuối tương ứng, sử dụng câu hỏi tu
từ, nhân hóa, bút pháp tả cảnh ngụ tình,… gieo vào lòng người đọc niềm tiếc
thương, day dứt.
+ Giọng điệu trầm lắng, xót xa thể hiện đúng tình cảnh của nhân vật trữ
tình và hồn thơ của tác giả.

* Đánh giá, nâng cao
- Sức hấp dẫn từ nội dung và nghệ thuật của bài thơ Ông đồ đã tác động
sâu sắc đến người đọc bao thế hệ, khơi gợi niềm cảm thương chân thành đối
với những nhà nho danh giá một thời, nay bị lãng quên vì thế thời thay đổi,
thương tiếc giá trị văn hóa tốt đẹp bị lụi tàn.
- Bài học cho người nghệ sĩ: Bằng tài năng và tâm huyết của mình, nhà
thơ hãy sáng tạo nên những thi phẩm hay và giàu sức hấp dẫn từ nội dung đến
hình thức. Điều đó vừa là thiên chức vừa là trách nhiệm của nhà thơ, là yêu
cầu thiết yếu, sống còn của sáng tạo nghệ thuật.
- Sự tiếp nhận ở người đọc thơ: Cần thấy thơ hay là hay cả hồn lẫn xác.
Từ đó có sự tri âm, sự đồng cảm với tác phẩm, với nhà thơ để có thể sẻ chia
những tình cảm đồng điệu. Khi ấy, thơ sẽ có sức sống lâu bền trong lòng người
đọc nhiều thế hệ.
(c3).Kết bài
- Khẳng định lại vấn đề
- Liên hệ…
5.Giải pháp 5: Xây dựng hệ thống các dạng đề bài tham khảo.
a. Đề nghị luận về tác phẩm văn học.
- Đề 1: Sức hấp dẫn từ truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long
- Đề 2: phân tích vẻ đẹp của bức tranh mùa xuân trong đoạn thơ sau:
“Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.”
(“Cảnh ngày xuân” – Nguyễn Du, SGK Ngữ Văn 9, tập 1)
- Đề 3: cảm nhận của em về hình tượng nhân vật ông Sáu trong truyện ngắn
“chiếc lược ngà” (Nguyễn Quang Sáng, Ngữ Văn 9, tập I, NXB GDVN, 2010).
Liên hệ với nhân vật Lão Hạc trong truyện ngắn “Lão Hạc” (Nam Cao, Ngữ Văn
8, tập I, NXB GDVN, 2010) để thấy được vẻ đẹp của tình phụ tử.
b. Đề nghị luận về một ý kiến bàn về văn học (nghị luận văn học chứng

minh một nhận định).

13


- Đề 1: Có ý kiến cho rằng: “Nguyễn Du là một con người suốt đời khắc
khoải về con người, về lẽ đời” (Nguyễn Du toàn tập – Mai Quốc Liên, NXB Văn
học, 1996).
- Đề 2: Có ý kiến cho rằng: Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” là tiếng lòng thể
hiện tình yêu và khát vọng được cống hiến cho đời của Thanh Hải.
Hãy phân tích bài thơ để làm sáng tỏ ý kiến trên.
- Đề 3: Trong bài “ Mấy nét khái quát về Văn học Việt Nam từ sau Cách
mạng tháng Tám 1945” có viết:
“ Văn học của ta đã xây dựng những hình tượng cao đẹp về Tổ quốc và
Nhân dân, đặc biệt thể hiện sinh động hình ảnh của thế hệ trẻ “ xẻ dọc Trường
Sơn đi cứu nước” với ý thức ngày càng sâu sắc về trách nhiệm của thế hệ trước
dân tộc và nhân dân, trước Tổ quốc và lịch sử”.
(Văn học 9, tập 2- NXBGD 2001- Trang 75)
Em hãy phân tích một số tác phẩm đã học trong chương trình Ngữ Văn 9 để
làm sáng tỏ nhận xét trên.
- Đề 4: Hilde Domin (1909 – 2006), nữ nhà văn Đức từng viết: “Văn
chương không chỉ làm rõ sự thật như nó vốn có; văn chương còn chỉ rõ sự giằng
xé giữa những gì vốn có và những gì có thể hoặc nên có”
Em hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy làm sáng tỏ bằng việc phân tích 02
tác phẩm trong chương trình Ngữ văn THCS.
+ Về khả năng áp dụng của sáng kiến:
Sáng kiến được áp dụng cho giáo viên giảng dạy bộ môn Ngữ văn trường
THCS Gia Khánh và áp dụng cụ thể cho các đối tượng học sinh lớp 8,9 và các
đội tuyển học sinh giỏi môn Ngữ văn 8,9; học sinh giỏi môn khoa học xã hội.
Ngoài ra,sáng kiến còn có thể nhân rộng – có thể áp dụng cho các đối tượng

học sinh giỏi,học sinh đại trà các lớp 8,9 ở các trường THCS khác trong
huyện,trong tỉnh để nâng cao chất lượng,hiệu quả bài viết nghị luận văn học.
- Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng giải
pháp trong đơn theo ý kiến của tác giả với các nội dung sau:
Giải pháp giúp học sinh nâng cao kỹ năng làm bài văn nghị luận văn học là
việc rất cần thiết, nhằm hướng các em học sinh, đặc biệt là học sinh giỏi môn
Ngữ văn biết cách viết văn, sống nhân văn, tiếp cận cuộc sống một cách thực tế,
nhạy bén. Bởi văn học bắt nguồn từ đời sống và đưa văn học trở về với đời sống,
giúp học sinh rèn luyện kỹ năng tư duy logic, khả năng cảm nhận cái hay, cái đẹp
của những áng thơ văn, bồi dưỡng tình cảm nhân văn cao đẹp. Và hơn lúc nào
hết, người thầy có vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn học sinh, nhất là học
sinh giỏi về kiểu bài nghị luận văn học. Để các em học sinh thực sự tạo lập được
những bài nghị luận văn học có linh hồn, sức sống, đi vào lòng người, chinh
phục người đọc bằng con đường tình cảm – mà xưa nay khi đã chinh phục được
trái tim người đọc thì tác phẩm có giá trị lâu bền, giá trị nhân văn sâu sắc.
14


Đây là một sáng kiến có ý nghĩa thiết thực đối với công tác dạy học Ngữ văn
nói chung và bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ văn nói riêng mà tôi đã áp dụng
trong năm học 2017-2018 để hướng dẫn cho học sinh làm bài nghị luận văn học.
Sau khi áp dụng sáng kiến này vào thực tiễn giảng dạy, chất lượng bài văn nghị
luận văn học của học sinh lớp tôi trực tiếp giảng dạy đã nâng cao rõ rệt, giờ các
em không chỉ biết làm bài đúng hướng mà đã hiểu bản chất của kiểu bài này,
không thấy khó và bài viết không còn khô khan như trước nữa. Biết lấy dẫn chứng
trong các tác phẩm văn học, từ thực tế cuộc sống để đưa vào bài; nhiều bài đã có
sức hút và lay động được người đọc.
Nhờ áp dụng sáng kiến này mà kết quả học tập năm học tiếp theo (2017
-2018) tại các lớp do tôi tiếp tục theo dạy, chất lượng của các bài viết về dạng bài
nghị luận văn học được nâng lên rõ rệt.

Bảng so sánh kết quả khi chưa áp dụng và khi đã áp dụng sáng kiến
Số học sinh chưa biết
làm bài (1 – dưới 5
điểm)
Lớp

Sĩ số

Năm
học
20162017

Năm
học
20172018

Tăng
(+)

Số học sinh biết làm
bài ở mức TB, khá (5 –
7 điểm)

Giảm
(-)

Năm
học
20162017


Năm
học
20172018

Tăng
(+)

Số học sinh làm bài tốt
(8 – 9 điểm)
Tăng
(+)

Giảm
(-)

Năm
học
20162017

Năm
học
20172018

Giảm
(-)

9A

35


12

03

-9

20

18

-2

3

13

+ 10

9C

37

16

08

-8

20


19

-1

01

10

+9

HSG
Văn

05

3

0

-3

2

03

+1

0

02


+2

HSG
KHXH

12

3

01

-2

6

07

+1

3

04

+1

Nhận xét: Qua bảng so sánh kết quả năm học 2017 - 2018 so với năm học
2016 – 2017 cho thấy: Số học sinh làm bài còn yếu đã giảm; số học sinh ở
mức trung bình và khá đã giảm ở các lớp đại trà; đặc biệt số học sinh khá, giỏi
tăng cao.

- Các thông tin cần được bảo mật (nếu có): không.
d) Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
* Đối với giáo viên.
- Giáo viên dạy Ngữ văn THCS đều có thể áp dụng sáng kiến.
- Để áp dụng sáng kiến được hiệu quả hơn, giáo viên có thể nghiên cứu
thêm tài liệu, vận dụng thêm các kĩ năng khác.
15


- Ngoài ra, giáo viên phải học tập cách viết văn nghị luận văn học của các
cây bút lớn, tham khảo và tìm đọc các bài văn nghị luận văn học trên sách báo và
các phương tiện thông tin.
* Đối với học sinh.
- Dù giáo viên có áp dụng, chuẩn bị các kĩ năng, phương pháp tốt đến đâu
mà học sinh không cố gắng, không vận dụng và không thường xuyên tập viết các
bài nghị luận văn học thì cũng không thể thành công. Vì vậy, các em cũng cần
thường xuyên học tập, rèn luyện để bài viết tốt bài văn nghị luận văn học.
- Học sinh có thái độ hợp tác trong giờ học, có ý thức tự học, chủ động,
sáng tạo trong học tập bộ môn.
đ) Về khả năng áp dụng của sáng kiến cho những đối tượng, cơ quan, tổ
chức nào hoặc những người tham gia tổ chức áp dụng sáng kiến lần đầu (nếu có):
Phạm vi/Lĩnh
STT
Tên tổ chức/cá nhân
Địa chỉ
vực áp dụng sáng
kiến
Giáo viên Ngữ văn trường
THCS


Trường THCS Gia
Khánh

Hoạt động dạy
học, bồi dưỡng
học sinh giỏi

2

Học sinh lớp 8,9

Lớp 8A, 9A Trường THCS Gia
Khánh

Hoạt động học

3

Đội tuyển HSG môn Ngữ văn
8,9

Lớp 8A, 9A Trường THCS Gia
Khánh

Bồi dưỡng HSG

4

Đội tuyển HSG môn khoa học
xã hội


Lớp 8A - Trường
THCS Gia Khánh

Bồi dưỡng HSG

1

Tôi làm đơn nay trân trọng đề nghị Hội đồng sáng kiến xem xét và công
nhận sáng kiến. Tôi xin cam đoan mọi thông tin nêu trong đơn là trung thực,
đúng sự thật, không xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của người khác và hoàn toàn
chịu trách nhiệm về thông tin đã nêu trong đơn
Bình Xuyên, ngày 15 tháng 01 năm 2019
NGƯỜI VIẾT ĐƠN
(Ký và ghi rõ họ tên)

Nguyễn Thị Thùy Linh
16


17



×