Tải bản đầy đủ (.docx) (70 trang)

báo cáo kết quả nghiên cứu ứng dụng sáng kiến hiện tượng lười phát biểu xây dựng bài của học sinh THPT thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.6 MB, 70 trang )

`BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
I. LỜI GIỚI THIỆU
1. Lí do chọn đề tài
Trong hành trang bước vào đời, kiến thức là thứ tài sản vô giá không thể thiếu
trong công việc cũng như trong cuộc sống của mỗi con người. Bởi "Học tập là hạt
giống của kiến thức, kiến thức là hạt giống của hạnh phúc". Để bắt kịp những tiến bộ
phát triển vượt bậc của một số nước trên thế giới, nhân dân ta đã nhận thức rất đúng
đắn về tầm quan trọng của việc học tập nên mới có câu: “Đá mài mới sắc, người có
học mới nên”, coi đó là điều kiện quyết định sự thành công hay thất bại trên con
đường học vấn mà mỗi chúng ta sẽ trải qua.
Thật vậy! Kiến thức không phải tự nhiên mà có bởi “Ngọc không giũa không
thành ngọc sáng - Người không học không biết lẽ phải”. Việc học có ảnh hưởng rất
lớn đến tương lai của mỗi người. Đó là tích lũy hiểu biết của nhân loại, của cộng
đồng, của nhiều thế hệ thông qua quá trình học tập mà thành. Học tập chính là quá
trình tích lũy kiến thức! Câu ngạn ngữ trên đã có một ví von rất hay khi đưa ra hình
ảnh "hạt giống" để nhấn mạnh tầm quan trọng của học tập. Hạt giống sẽ nảy nở phát
triển thành cây. Quá trình học tập cũng như gieo hạt giống cho trí não và tâm hồn.
Kiến thức nhiều cũng là kết quả tích lũy hạt giống để hứa hẹn một mùa bội thu. Kiến
thức tốt, đầy đủ, phong phú sẽ gieo những hạt giống cho tương lai của mỗi con người.
Tuy nhiên cần phải hiểu thấu đáo hơn câu ngạn ngữ này ở nghĩa bao quát của nó. Hạt
giống chuẩn bị không tốt, cây sẽ phát triển èo uột, cũng giống như kiến thức nông cạn
ít ỏi khiến chúng ta gặp vô vàn khó khăn, lúng túng và bế tắc trong công việc. Và một
người học tập được điều hay lẽ phải thì cũng chính là tích lũy hạt giống tốt, còn kiến
thức lệch lạc, sai lầm thì như hạt giống xấu làm hủy hoại tư duy và tâm hồn, sẽ không
tránh khỏi gây tác hại cho đời sống. Cũng như vậy, chỉ trên nền tảng một kiến thức
đầy đủ mới có tương lai hạnh phúc. Bởi vậy, trong đời sống, ta gặp không ít những
tấm gương đổi đời nhờ kiến thức.
Lênin nói: “Học, học nữa, học mãi”. Quả thật là đúng, con người chúng ta từ
khi cha sinh mẹ đẻ đến giờ cái gì mà ta muốn biết thì cũng phải học. Học từ cách đi,
đứng, nói năng, học lấy cái chữ để còn biết đọc, biết viết lấy thêm tri thức, hiểu biết
để sử dụng trong cuộc sống. Một người nếu không được học tập thì khó mà đứng


vững được trên con đường đời. Bởi thế mà từ xa xưa ông cha ta luôn nhắc nhở con
cháu cố gắng học tập rèn luyện phấn đấu.
1


Thế nhưng trong thời hiện đại ngày nay có một hiện tượng rất đáng chê trách đó
là có nhiều bạn lười học không chịu học bài, làm bài trước khi đến lớp, có một bộ
phận không nhỏ học sinh thường hay lơ là, chán học, lười phát biểu xây dựng bài, có
thái độ học tập không nghiêm túc, có những suy nghĩ lệch lạc, thiếu chín chắn do
không xác định rõ mục đích của việc học. Thực trạng học sinh thụ động, học sinh
càng lên lớp lớn càng lười, ngại phát biểu trong giờ học, không chịu phát biểu xây
dựng bài đang xảy ra rất phổ biến trong giới học sinh. Đây không phải là hiện tượng
hiếm, cá biệt nữa mà là hiện tượng phổ biến trong nhà trường phổ thông, nhất là ở
bậc THPT, rất đáng để chúng ta phải suy nghĩ.
Chính vì vậy để học sinh THPT có thể tự do phát biểu ý kiến về những suy nghĩ
của mình, thoải mái bày tỏ những nhu cầu, mong muốn của bản thân với thầy cô, với
bạn bè, khẳng định những quan điểm, đánh giá, cách lí giải của bản thân về nội dung,
phương pháp liên quan đến các môn học mà không phải lo lắng, sợ sệt, thụ động,
trông chờ vào người khác tôi đã quyết định chọn đề tài “Hiện tượng lười phát biểu
xây dựng bài của học sinh THPT. Thực trạng và giải pháp”. Qua đó có thể nghiên
cứu, đánh giá, phân tích và đóng góp ý kiến của mình về vấn đề này của các em học
sinh. Ở phạm vi đề tài này người nghiên cứu không những đi nghiên cứu thực trạng
về vấn đề học sinh “lười phát biểu” mà còn đề ra những giải pháp khắc phục để mỗi
học sinh tích cực, chủ động hơn trong việc xây dựng bài học. Đặc biệt giúp học sinh
có khả năng tự tin, mạnh dạn trong các hoạt động học tập và vui chơi, trang bị cho
các em những kĩ năng cần thiết làm hành trang bước vào đời.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Tìm hiểu thực trạng lười phát biểu xây dựng bài của học sinh THPT.
Đề xuất các biện pháp để giúp học sinh chủ động lĩnh hội kiến thức, có thể cởi
mở hơn, có thể nói hết được những khúc mắc cần giải đáp, những yêu cầu và nguyện

vọng của mình.
Phát huy khả năng sáng tạo, tự tin của học sinh khi thể hiện quan điểm, chính
kiến của bản thân trước thầy cô, bạn bè. Đặc biệt là phát hiện và phát triển khả năng
riêng biệt của từng học sinh gắn với hoạt động học tập và các hoạt động ngoài giờ lên
lớp.
Học sinh tự đánh giá khả năng của mình và tiến bộ lên nhờ khả năng vươn lên
và sự dìu dắt giúp đỡ của thầy cô, bạn bè.
3. Phương pháp nghiên cứu
3.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
2


Phương pháp nghiên cứu lý thuyết là phương pháp thu thập thông tin thông qua
đọc sách báo, tài liệu nhằm mục đích tìm chọn những khái niệm và tư tưởng cơ bản
làm cơ sở lý luận của đề tài, hình thành giả thuyết khoa học, dự đoán những thuộc
tính của đối tượng nghiên cứu, xây dựng những mô hình lý thuyết hay thực nghiệm
ban đầu. Trong đề tài này chúng tôi sử dụng phương pháp nghiên cứu lý thuyết trên
cơ sở thu thập, phân loại, tổng hợp các sách báo, tài liệu, luận văn, luận án có liên
quan đến tâm lý học sinh THPT và thực trạng học sinh lười phát biểu khi học tập, khi
giao tiếp hang ngày.
3.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
3.2.1. Phương pháp quan sát
Phương pháp này thực hiện bằng cách theo dõi, phân loại học sinh để đưa ra
cách thực hiện cho từng đối tượng. Vì thế chúng tôi quan sát các bạn học sinh trong
trường, lớp và thấy được những thực trạng của học sinh xung quanh vấn đề lười phát
biểu
3.2.2. Phương pháp điều tra
Điều tra là phương pháp khảo sát một nhóm đối tượng trên một diện rộng nhằm
phát hiện các quy luật phân bố, trình độ phát triển, đặc điểm của đối tượng nghiên
cứu. Kết quả của phương pháp điều tra là những thông tin quan trọng về đối tượng

nghiên cứu làm cơ sở thực tiễn để đề xuất các giải pháp.
Trong đề tài này chúng tôi dùng phương pháp điều tra bằng bảng hỏi với các câu
hỏi đóng, mở khác nhau về mức độ để học sinh THPT trả lời. Các câu hỏi điều tra
thực trạng, nguyên nhân và giải pháp về hiện tượng học sinh “lười phát biểu” với
thầy cô, bạn bè.
3.2.3. Phương pháp phỏng vấn
Phỏng vấn, trao đổi trực tiếp với phó hiệu trưởng, tổ trưởng chuyên môn, tham
khảo ý kiến của tất cả giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn về các vấn đề có liên
quan đến đề tài.
Chúng tôi tiến hành những cuộc phỏng vấn với các bạn học sinh THPT về
những vấn đề liên quan đến hiện trạng học sinh lười phát biểu. Chúng tôi cũng tiến
hành phỏng vấn thầy cô, cha mẹ học sinh để thu thập những thông tin các bạn học
sinh THPT có dám bày tỏ tình cảm, quan điểm, ý kiến của mình trong gia đình và
hoạt động giao tiếp hang ngày hay không.
3.2.4. Phương pháp thống kê toán học

3


Sau khi thu thập các phiếu thăm dò ý kiến, dựa vào kết quả điều tra, cho học
sinh kiểm tra các kiến thức đã học, từ đó rút ra tỷ lệ phần trăm, đánh giá thực trạng và
định hướng nâng cao hiệu quả của các phương pháp.
3.2.5. Phương pháp chuyên gia
Phương pháp chuyên gia là phương pháp điều tra qua đánh giá của các chuyên
gia về vấn đề của một sự kiện khoa học nào đó.Thực chất đây là phương pháp sử
dụng trí tuệ, khai thác ý kiến đánh giá của các chuyên gia có trình độ cao để xem xét,
nhận định một vấn đề, một sự kiện khoa học để tìm ra giải pháp tối ưu cho vấn đề, sự
kiện đó.
Phương pháp chuyên gia rất cần thiết cho người nghiên cứu không chỉ trong quá
trình nghiên cứu mà còn cả trong quá trình nghiệm thu, đánh giá kết quả, hoặc thậm

chí cả trong quá trình đề xuất giả thuyết nghiên cứu, lựa chọn phương pháp nghiên
cứu, củng cố các luận cứ…..
Phương pháp chuyên gia là phương pháp có ý nghĩa kinh tế, nó tiết kiệm về thời
gian, sức lực, tài chính để triển khai nghiên cứu.
Trong đề tài này vì điều kiện hạn chế nên chúng tôi chỉ có thể tham khảo của
giáo viên hướng dẫn, và các thầy cô chuyên môn khác.
3.2.6. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Tiến hành thực nghiệm sư phạm để đánh giá kết quả của những giải pháp đề ra
nhằm mục đích cho học sinh tích cực, chủ động hơn khi bày tỏ chính kiến của mình.
II. TÊN SÁNG KIẾN
Hiện tượng lười phát biểu xây dựng bài của học sinh THPT. Thực trạng và
giải pháp.
III. TÁC GIẢ SÁNG KIẾN
Họ và tên: Trần Thị Hồng Nhung
Địa chỉ tác giả sáng kiến: Trường THPT Liễn Sơn
Số điện thoại: 0975.255.584
Email:
IV. CHỦ ĐẦU TƯ SÁNG KIẾN: Trần Thị Hồng Nhung
V. LĨNH VỰC ÁP DỤNG SÁNG KIẾN
VI. NGÀY SÁNG KIẾN ĐƯỢC ÁP DỤNG LẦN ĐẦU: 10/2018
VII. MÔ TẢ BẢN CHẤT CỦA SÁNG KIẾN
4


Đề tài nghiên cứu về một vấn đề đang nổi cộm của học sinh hiện nay nhưng
chưa có đề tài nào chi tiết nghiên cứu về nó. Ở đề tài này, chúng tôi nghiên cứu trên
hai phương diện của vấn đề:
Thực trạng học sinh THPT đang lười phát biểu xây dựng bài trong các giờ
học, các môn học, nghĩa là không dám bày tỏ ý kiến và cảm xúc của mình với thầy
cô, bạn bè về kiến thức, cũng như phương pháp học tập sao cho hiệu quả.

Các biện pháp nhằm thúc đẩy tính chủ động, tích cực của học sinh trong
việc bày tỏ thái độ, ý kiến, tình cảm và mong muốn của bản thân với thầy cô, bạn bè
và gia đình khi phát biểu xây dựng bài. Cung cấp tư liệu cho giáo viên trong việc thay
đổi nhận thức của học sinh về sự cần thiết của việc phát biểu xây dựng bài.
Khi nghiên cứu đề tài này, chúng tôi sẽ có thể trả lời được những câu hỏi, những
băn khoăn lớn về hiện tượng lười phát biểu của học sinh THPT như:
Tại sao học sinh THPT mặc dù nhu cầu bày tỏ chính kiến rất lớn nhưng lại
không dám phát biểu những suy nghĩ của mình về nội dung bài học với thầy cô, bạn
bè?
Nếu học sinh THPT cứ không chịu phát biểu xây dựng bài trong tất cả các
giờ học, các cấp học mà giữ tất cả những suy nghĩ, những ý kiến của mình ở trong
lòng thì sẽ gây ra hậu quả gì?
Khi học sinh dám thẳng thắn trình bày những chính kiến của mình với thầy
cô, bạn bè về phạm vi kiến thức trong chương trình giáo dục thì sẽ có lợi gì cho học
sinh, có hiệu quả gì với thầy cô và bạn bè?
Qua những nghiên cứu trong đề tài này chúng tôi muốn đưa ra những giải pháp
để các bạn học sinh có thể nói trực tiếp trao đổi thẳng thắn với các nhà quản lí giáo
dục, với thầy cô giáo, với bạn bè trong chương trình giáo dục THPT. Từ đó thúc đẩy
tính chủ động, tích cực của học sinh khi phát biểu ý kiến xây dựng bài trong các tiết
học, cấp học ở tất cả các nhà trường.
Đề tài của chúng tôi muốn hướng tới một môi trường giáo dục thân thiện, tích
cực, muốn biến trường học không phải chỉ là nơi để học sinh lĩnh hội tri thức mà còn
là nơi học sinh được giao lưu, được tâm sự, được chia sẻ và khẳng định mình.
Cũng qua đề tài chúng tôi muốn tạo ra sự gần gũi giữa thầy cô giáo và học sinh,
tạo sự cởi mở, thân tình trong cách tiếp cận nội dung và phương pháp học tập sao cho
hiệu quả.
VII.1. VỀ NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN

5



CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1. Tổng quan các đề tài nghiên cứu liên quan đến hiện tượng học sinh phát
biểu xây dựng bài của học sinh THPT.
Các nhà tâm lí học nghiên cứu và chỉ ra rằng phát biểu ý kiến có một vai trò
quan trọng trong quá trình hoạt động của con người. Nó là động cơ thúc đẩy con
người tham gia tích cực vào hoạt động giao tiếp xã hội. Khi được chủ động phát biểu
ý kiến con người cảm thấy thoải mái và đạt được hiệu quả cao. Trong hoạt động học
tập, phát biểu ý kiến có vai trò hết sức quan trọng.
Trên thực tế hiện tượng lười phát biểu xây dựng bài của học sinh THPT nói
riêng cũng như của con người nói chung là một vấn đề khá mới nhưng lại đang diễn
ra phổ biến ở mọi lứa tuổi của con người. Đây là vấn đề mà đối với mọi người, đặc
biệt là với đối tượng là giáo viên và học sinh tưởng như là đã quá đỗi quen thuộc, gần
gũi nên nhiều người lại bỏ qua và không để ý tới. Nhưng vấn đề này lại đang nỗi
niềm trăn trở các các nhà quản lí giáo dục, của giáo viên bấy lâu nay.
Đã có một vài bài nghiên cứu về vấn đề học sinh lười phát biểu xây dựng bài
trong các nhà trường hiện nay như:
Bài tiểu luận “Những diến biến tâm lý học giai đoạn đầu của THPT” của Thiều
Thị Thơm, Trương Thị Trang đã chỉ ra : Hiện tượng lười phát biểu trong giờ học do
một số câu hỏi nhàm chán; do áp lực khối lượng kiến thức các môn học quá nhiều; do
một số thầy cô quá nghiêm khắc; một số học sinh lại chưa đủ tự tin về năng lực của
bản thân nên ngại phát biểu; do các em càng học lên cao nên chỉ tập trung vào một số
môn nhất định. Và trong giờ dạy, một số thầy cô chưa thu hút được học sinh.
Nguyễn Thị Mai Lan trong bài viết “Định hướng giá trị nhân cách của học sinh
THPT” thể hiện trong quan hệ gia đình và quan hệ bạn bè đã chỉ rõ: Có thể nói, tự
khẳng định bản thân trong quan hệ gia đình là một nhu cầu tích cực của học sinh
THPT, thể hiện mong muốn khẳng định cái Tôi của bản thân theo hướng thay đổi vai
trò và mối quan hệ trong gia đình, các em mong muốn được tự khẳng định bản thân
mình theo hướng tự quyết định, tự chịu trách nhiệm cho những việc làm của mình....

Tiếp đến là mong muốn được thể hiện sở thích và tính cách của mình trong quan hệ
với bạn.

6


Có thể nói, đối với lứa tuổi học sinh THPT đây cũng là một nhu cầu và mong
muốn rất lớn của các em, thể hiện rõ nét đặc trưng tâm lý của lứa tuổi này, đó là sự
thể hiện và khẳng định cá tính riêng của mình, muốn cá tính của mình được bạn bè
thừa nhận..
Nguyễn Thị Hiền có nói trong đề tài “Kỹ năng tự nhận thức của học sinh trung
học phổ thông hiện nay” thì: Xét về mặt tâm sinh lí, học sinh THPT là một lứa tuổi
nhạy cảm, có những thay đổi to lớn về tâm sinh lý và các mối quan hệ xã hội. Do đó,
trang bị những kỹ năng tự nhận biết và định hướng bản thân là một yêu cầu đầu tiên,
hết sức cần thiết…
Như vậy, các bài viết nghiên cứu từ trước tới nay mới chỉ đi sâu nghiên cứu về
tâm lý và những diễn biến tâm lý lứa tuổi của học sinh THPT. Cũng có những đề tài
nghiên cứu về tâm lý, về hành vi lệch chuẩn, về nhận thức nhưng chưa có một đề tài
nào nghiên cứu sâu về hiện tượng lười phát biểu của học sinh THPT một cách hệ
thống. Có thể đây là một hiện tượng đang rất phổ biến của học sinh THPT nhưng
đồng thời nó cũng là một hiện tượng phổ biến ở các cấp học, các nhà trường. Nếu
hiện tượng cứ tiếp tục diễn tiến thì hệ lụy của nó là vô cùng nguy hại.
2. Đặc điểm tâm lí lứa tuổi gắn của học sinh THPT
2.1. Học sinh THPT là gì?
Học sinh THPT còn gọi là tuổi thanh niên, là giai đoạn phát triển bắt đầu từ lúc
dậy thì và kết thúc khi bước vào tuổi người lớn.
Tuổi thanh niên được tính từ 15 đến 25 tuổi, được chia làm 2 thời kì:
Thời kì từ 15-18 tuổi: gọi là tuổi đầu thanh niên
Thời kì từ 18-25 tuổi: giai đoạn hai của tuổi thanh niên.
2.2. Tính chất tâm lí phức tạp học sinh THPT

Tuổi thanh niên cũng thể hiện tính chất phức tạp và nhiều mặt của hiện tượng,
nó được giới hạn ở hai mặt: sinh lí và tâm lý. Đây là vấn đề khó khăn và phức tạp vì
không phải lúc nào nhịp điệu và các giai đoạn của sự phát triển tâm sinh lý cũng
trùng hợp với các thời kỳ trưởng thành về mặt xã hội. Có nghĩa là sự trưởng thành về
mặt thể chất, nhân cách trí tuệ, năng lực lao động sẽ không trùng hợp với thời gian
phát triển của lứa tuổi. Chính vì vậy mà các nhà tâm lý học Macxit cho rằng: Khi
nghiên cứu tuổi thanh nên thì cần phải kết hợp với quan điểm của tâm lý học xã hội
và phải tính đến quy luật bên trong của sự phát triển lứa tuổi.
Việc phát triển tâm lý của tuổi thanh niên không chỉ phụ thuộc vào giới hạn lứa
tuổi, mà trước hết là do điều kiện xã hội có ảnh hưởng đến sự phát triển lứa tuổi.
7


Trong thời đại ngày nay, hoạt động lao động và xã hội ngày càng phức tạp, thời gian
học tập của các em kéo dài làm cho sự trưởng thành thực sự về mặt xã hội càng đến
chậm. Điều đó cho ta thấy rằng thanh niên là một hiện tượng tâm lý xã hội. Vì thế
trong mỗi giai đoạn phát triển các nét tâm lý lứa tuổi nảy sinh trên cơ sở kết hợp các
điều kiện khách quan và chủ quan.
Trong số các điều kiện khách quan, vị thế xã hội của chủ thể có ý nghĩa vô cùng
quan trọng, đó là:
Những thay đổi vị thế xã hội sẽ làm nảy sinh nhu cầu phát triển mới.
Vị thế xã hội của lứa tuổi thanh niên có nhiều thay đổi so với lứa tuổi trước
đó. Một mặt các quan hệ xã hội của thanh niên được mở rộng. Trong các quan hệ đó
người lớn, kể cả thầy cô giáo và bố mẹ đều nhìn nhận thanh niên như những người
"chuẩn bị thành người lớn” và đòi hỏi họ phải có các cách ứng xử phù hợp với vị thế
của mình.
Với học sinh THPT đứng trước một thách thức khách quan của cuộc sống:
phải chuẩn bị lựa chọn cho mình một hướng đi sau khi tốt nghiệp phổ thông, phải xây
dựng cho mình một cuộc sống độc lập trong xã hội… Những thay đổi trong vị thế xã
hội, sự thách thức khách quan của cuộc sống dẫn đến làm xuất hiện ở lứa tuổi thanh

niên những nhu cầu về hiểu biết thế giới hiểu biết xã hội và các chuẩn mực quan hệ
người - người, hiểu mình và tự khẳng định mình trong xã hội...
Trong điều kiện chủ quan thì đặc điểm tâm lí của chính học sinh THPT là rất
quan trọng, ở đó:
Các nghiên cứu tâm lý học cho thấy rằng hoạt động tư duy của thanh niên
rất tích cực và có tính độc lập tư duy lý luận phát triển mạnh. Thanh niên có khả năng
và rất ưa thích khái quát các vấn đề.
Sự phát triển mạnh của tư duy lý luận liên quan chặt chẽ với khả năng sáng
tạo. Nhờ khả năng khái quát thanh niên có thể tự mình phát hiện ra những cái mới.
Với họ điều quan trọng là cách thức giải quyết các vấn đề được đặt ra chứ không phải
là loại vấn đề nào được giải quyết.
Học sinh cấp ba đánh giá các bạn thông minh trong lớp không dựa vào
điểm số mà dựa vào khả năng học sinh bày tỏ quan điểm, ý kiến của bản thân trước
các vấn đề gặp phải trong cuộc sống, khả năng xử lí nhanh, phương pháp phù hợp và
chính xác, đặc biệt là cách thức phát biểu ý kiến khi trao đổi nội dung bài học với bạn
8


bè và thầy cô. Họ có xu hướng đánh giá cao các bạn thông minh và những thầy cô có
phương pháp giảng dạy tích cực, tôn trọng những suy nghĩ độc lập của học sinh, phê
phán sự gò ép, máy móc trong phương pháp sư phạm.
Trên cơ sở các điều kiện khách quan, chủ quan nêu trên học sinh càng có nhu
cầu được khẳng định mình thông qua hoạt động phát biểu xây dựng bài khi tham gia
hoạt động học tập.
2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của học sinh THPT
2.3.1. Đặc điểm về sự phát triển thể chất
Tuổi học sinh THPT là thời kì đạt được sự trưởng thành về mặt cơ thể. Sự phát
triển thể chất đã bước vào thời kì phát triển bình thường, hài hòa, cân đối. Cơ thể của
học sinh đã đạt tới mức phát triển của người trưởng thành, nhưng sự phát triển của
các em còn kém so với người lớn. Khả năng hưng phấn và ức chế ở vỏ não tăng lên

rõ rệt có thể hình thành mối liên hệ thần kinh tạm thời phức tạp hơn. Tư duy ngôn
ngữ và những phẩm chất ý chí có điều kiện phát triển mạnh.
Sự phát triển thể chất ở lứa tuổi này sẽ có ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lý và
nhân cách đồng thời nó còn ảnh hưởng tới sự lựa chọn giao tiếp của học sinh.
2.3.2. Điều kiện sống và hoạt động của học sinh THPT
Vị trí trong gia đình: Trong gia đình, học sinh THPT đã có nhiều quyền lợi
và trách nhiệm như người lớn, cha mẹ bắt đầu trao đổi với các bạn về một số vấn đề
quan trọng trong gia đình. Các bạn cũng thấy được quyền hạn và trách nhiệm của bản
thân đối với gia đình. Các bạn bắt đầu quan tâm chú ý đến nề nếp, lối sống sinh hoạt
và điều kiện kinh tế chính trị của gia đình.
Vị trí trong nhà trường: Ở nhà trường, học tập vẫn là hoạt động chủ đạo nhưng
tính chất và mức độ thì phức tạp và cao hơn hẳn so với tuổi thiếu niên. Đòi hỏi học
sinh THPT phải tự giác, tích cực độc lập hơn, phải biết cách vận dụng tri thức một
cách sáng tạo. Nhà trường lúc này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng vì nội dung học tập
không chỉ nhằm trang bị tri thức và hoàn chỉnh tri thức mà còn có tác dụng hình
thành thế giới quan và nhân sinh quan cho các bạn. Việc gia nhập Đoàn TNCS HCM
trong nhà trường đòi hỏi các bạn phải tích cực độc lập, sáng tạo, phải có tính nguyên
tắc, có tinh thần trách nhiệm, biết phê bình và tự phê bình.

9


Vị trí ngoài xã hội: Xã hội đã giao cho lứa tuổi học sinh THPT quyền công dân,
quyền tham gia mọi hoạt động bình đẳng như người lớn. Khi tham gia vào hoạt động
xã hội các bạn được tiếp xúc với nhiều tầng lớp xã hội khác nhau, quan hệ xã hội
được mở rộng,các bạn có dịp hòa nhập và cuộc sống đa dạng phức tạp của xã hội
giúp các bạn tích lũy vốn kinh nghiệm sống để chuẩn bị cho cuộc sống tự lập sau
này.
2.3.3. Hoạt động học tập của học sinh THPT
Hoạt động học tập vẫn là hoạt động chủ đạo đối với học sinh THPT nhưng yêu

cầu cao hơn nhiều đối với tính tích cực và độc lập trí tuệ của các bạn. Thái độ của các
bạn đối với việc học tập cũng có những chuyển biến rõ rệt.
Học sinh đã lớn, kinh nghiệm của các bạn đã được khái quát, các bạn ý thức
được rằng mình đang đứng trước ngưỡng cửa của cuộc đời tự lập.
3.4. Hoạt động phát triển trí tuệ của học sinh THPT
Lứa tuổi học sinh THPT là giai đoạn quan trọng trong việc phát triển trí tuệ. Do
cơ thể các bạn đã được hoàn thiện, đặc biệt là hệ thần kinh phát triển mạnh tạo
điều kiện cho sự phát triển các năng lực trí tuệ. Cảm giác và tri giác của các bạn đã
đạt tới mức độ của người lớn. Quá trình quan sát gắn liền với tư duy và ngôn ngữ.
Khả năng quan sát một phẩm chất cá nhân cũng bắt đầu phát triển ở các bạn.
Trí nhớ của học sinh THPT cũng phát triển rõ rệt. Trí nhớ có chủ định giữ vai trò
chủ đạo trong hoạt động trí tuệ. Hoạt động tư duy của học sinh THPT phát triển
mạnh. Các bạn đã có khả năng tư duy lý luận, tư duy trừu tượng một cách độc lập và
sáng tạo hơn. Năng lực phân tích, tổng hợp, so sánh, trừu tượng hóa phát triển cao
giúp cho các bạn có thể lĩnh hội mọi khái niệm phức tạp và trừu tượng. Các bạn
thích khái quát, thích tìm hiểu những quy luật và nguyên tắc chung của các hiện
tượng hàng ngày, của những tri thức phải tiếp thu…Năng lực tư duy phát triển đã góp
phần nảy sinh hiện tượng tâm lý mới đó là tính hoài nghi khoa học. Trước một vấn đề
các bạn thường đặt những câu hỏi nghi vấn hay dùng lối phản đề để nhận thức chân
lý một cách sâu sắc hơn.
3. Những đặc điểm nhân cách chủ yếu của học sinh THPT
3.1. Sự phát triển của tự ý thức
Sự tự ý thức là một đặc điểm nổi bật trong sự phát triển nhân cách của học sinh
THPT, nó có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển tâm lý của lứa tuổi này.
10


Biểu hiện của sự tự ý thức:
Là nhu cầu tìm hiểu và tự đánh giá những đặc điểm tâm lý của mình theo
chuẩn mực đạo đức của xã hội, theo quan điểm về mục đích cuộc sống…

Là sự quan tâm sâu sắc tới đời sống tâm lý, những phẩm chất nhân cách và
năng lực riêng.
Là sự tự nhận thức về cái tôi hiện tại của mình, về vị trí của mình trong xã
hội tương lai.
Là ý thức làm người lớn khiến các bạn có nhu cầu khẳng định mình, muốn
thể hiện cá tính của mình một cách độc đáo, muốn người khác quan tâm, chú ý đến
mình.
3.2. Sự hình thành thế giới quan
Sự hình thành thế giới quan là nét chủ yếu trong tâm lý thanh niên vì lứa tuổi
này các em sắp bước vào cuộc sống xã hội nên có nhu cầu tìm hiểu khám phá để có
quan điểm về tự nhiên, xã hội, về các nguyên tắc và quy tắc ứng xử, những định
hướng giá trị về con người.
Thanh niên biết quan tâm đến nhiều vấn đề như: thói quen đạo đức, cái xấu cái
đẹp, cái thiện cái ác, quan hệ giữa cá nhân với tập thể, giữa cống hiến với hưởng thụ,
giữa quyền lợi và nghĩa vụ trách nhiệm…
Tuy nhiên vẫn có thanh niên chưa được giáo dục đầy đủ về thế giới quan, chịu
ảnh hưởng của tư tưởng bảo thủ lạc hậu như: có thái độ coi thường phụ nữ, coi khinh
lao động chân tay, ý thức tổ chức kỉ luật kém, thích có cuộc sống xa hoa, hưởng thụ
hoặc sống thụ động.
3.3. Xu hướng nghề nghiệp
Thanh niên đã xuất hiện nhu cầu lựa chọn vị trí xã hội trong tương lai cho bản
thân và các phương thức đạt tới vị trí xã hội ấy.
Xu hướng nghề nghiệp có tác dụng thúc đẩy các mặt hoạt động và điều chỉnh
hoạt động của các bạn.
Càng cuối cấp học thì xu hướng nghề nghiệp càng được thể hiện rõ rệt và mang
tính ổn định hơn.
11


Nhiều thanh niên biết gắn những đặc điểm riêng về thể chất, về tâm lý và khả

năng của mình với yêu cầu của nghề nghiệp. Tuy vậy, sự hiểu biết về yêu cầu nghề
nghiệp của các bạn còn phiến diện, chưa đầy đủ, vì cậy công tác hướng nghiệp cho
học sinh có ý nghĩa quan trọng. Qua đó giúp cho học sinh lựa chọn nghề nghiệp sao
cho phù hợp với hứng thú, năng lực và phù hợp với yêu cầu của xã hội.
3.4. Hoạt động giao tiếp
Ở lứa tuổi học sinh THPT điều dễ thấy và cũng là nét đặc trưng trong giao tiếp
của các bạn đó là sự trong sáng và thái độ chân thành của các bạn với người đối diện.
Ở lứa tuổi này việc xây dựng lí tưởng sống và một quan điểm cho riêng mình luôn
chi phối quá trình giao tiếp của các bạn. Các bạn luôn hướng tới một tình bạn, tình
cảm trong sáng, chân thành với mọi người, nên những suy nghĩ của các bạn thường
được bộc lộ qua giao tiếp. Mặt khác, đây là lứa tuổi đang ở trong quá trình giáo dục
của nhà trường, những mô phạm trong nhà trường giúp các bạn khi giao tiếp thường
rất lễ phép, đó cũng là đặc điểm mà các lứa tuổi sau đó không dễ duy trì khi ra ngoài
xã hội.
Nhu cầu giao tiếp với bạn bè cùng lứa tuổi trong tập thể phát triển mạnh. Ở đó
các em thấy được vị trí, trách nhiệm của mình và cũng cảm thấy mình cần cho tập
thể. Khi giao tiếp trong nhóm bạn sẽ xảy ra hiện tượng phân cực – có những người
được nhiều người yêu mến và có những người ít được bạn bè yêu mến. Điều đó làm
cho các bạn phải suy nghĩ về nhân cách của mình và tìm cách điều chỉnh bản thân.
Ở lứa tuổi học sinh phổ thông điều dễ thấy và cũng là nét đặc trưng trong giao
tiếp của các em đó là sự trong sáng và thái độ chân thành với người đối diện. Ở lứa
tuổi này việc xây dựng lí tưởng sống và một quan điểm cho riêng mình luôn chi phối
quá trình giao tiếp. Các em luôn hướng tới một tình bạn, tình cảm trong sáng, chân
thành với mọi người, nên những suy nghĩ thường được bộc lộ qua giao tiếp. Mặt
khác, đây là lứa tuổi đang ở trong quá trình giáo dục của nhà trường, những mô phạm
trong nhà trường giúp các em khi giao tiếp thường rất lễ phép, đó cũng là đặc điểm
mà các lứa tuổi sau đó không dễ duy trì khi ra ngoài xã hội.
Khi tiếp cận các mối quan hệ xã hội khác nhau nên tùy theo năng lực của mỗi
em mà hiệu quả giao tiếp cũng không giống nhau, có những em giao tiếp tốt khi đứng
trước đám đông, nhưng cũng có những em khi giao tiếp khả năng diễn đạt ý tưởng

còn hạn chế, phần lớn các bạn biết và nghĩ được nhiều hơn những gì các bạn có thể
nói ra. Do vốn từ ít, diễn đạt không lưu loát vì vậy thường dẫn đến sự nhàm chán và
hiệu quả giao tiếp không cao. Với phần lớn các em được giao làm cán bộ lớp, cán bộ
12


đoàn khi giao tiếp với các bạn thường chưa xác định được mục đích giao tiếp, có
những em khi cần góp ý cho bạn khác thì chưa lựa chọn được hoàn cảnh và ngôn ngữ
giao tiếp phù hợp, chưa hiểu và nắm được đối tượng giao tiếp của mình. Thông
thường, khi các em nói chuyện hay trả lời câu hỏi thì chỉ biết trả lời vào những nội
dung chính, mà chưa biết dẫn dắt, lập luận để câu trả lời, lần giao tiếp của mình có
sức thuyết phục hơn.
Như đã nói ở trên, lứa tuổi học sinh nhu cầu được giãi bày, được người khác
lắng nghe mình lại càng mãnh liệt. Đây là lứa tuổi luôn luôn khao khát được giãi bày
bởi các bạn có quá nhiều điều thắc mắc, quá nhiều thứ muốn nói, nhiều tình cảm
muốn được sẻ chia. Học sinh THPT là lứa tuổi mới lớn, không còn là trẻ con nhưng
cũng chưa thể là người lớn nên luôn muốn tìm tòi, muốn thể hiện, muốn tỏ bày, muốn
được nói lên suy nghĩ của mình với thầy cô, với cha mẹ, với bạn bè, với cả xã hội.
Với thầy cô, các em luôn muốn bày tỏ thái độ của mình về phương pháp giảng
dạy của thầy cô, về cách thầy cô nên quan tâm tới học sinh sao cho hiệu quả.
Với cha mẹ, mỗi học sinh THPT luôn muốn nói thẳng suy nghĩ của mình về
định hướng lựa chọn nghề nghiệp theo sở thích của bản thân, về tâm tư, những trăn
trở về hạnh phúc gia đình, hay sự vô tâm của cha mẹ với con cái.
Với bạn bè, học sinh cũng luôn muốn góp ý với nhau về cách sống, về tính cách
của nhau để cùng tiến bộ.
4. Đặc điểm môi trường giáo dục nhà trường hiện nay với học sinh THPT
4.1. Môi trường giáo dục là gì?
Môi trường là toàn bộ các yếu tố tự nhiên và xã hội hiện hữu, bao xung quanh và
có ảnh hưởng lớn lao đến đời sống con người.
Môi trường giáo dục nhà trường là tập hợp các yếu tố về vật chất và tâm lý, xã

hội có tác động trực tiếp đến hiệu quả và chất lượng quá trình dạy học và giáo dục
nhằm hình thành và phát triển nhân cách cho người học.
Môi trường giáo dục nhà trường là tập hợp các yếu tố bao gồm: yếu tố vật chất
và yếu tố tâm lý, xã hội. Các yếu tố vật chất như sự sắp xếp, bố trí không gian trong
trường học; các điều kiện về cơ sở vật chất, phương tiện hỗ trợ quá trình sư phạm.
Như vậy trường học không chỉ có môi trường vật chất mà là một không gian tâm
lý chất đầy vốn sống của giáo viên và học sinh, luôn có sự tương tác giao tiếp sư
phạm.
4.2. Tác động của môi trường giáo dục đối với sự phát triển của học sinh
THPT.
13


4.2.1. Tác động tích cực
So với gia đình, nhà trường là môi trường rộng lớn hơn, phong phú và hấp dẫn
hơn đối với thế hệ trẻ. Trong nhà trường, học sinh được giao lưu với thầy cô, bạn bè,
được tham gia vào các hoạt động mang tính xã hội. Môi trường nhà trường có ảnh
hưởng rất lớn đến nhận thức, tình cảm và hành vi của học sinh cũng như ảnh hưởng
đến hiệu quả và chất lượng giáo dục. Thông qua môi trường nhà trường, mỗi học sinh
được bồi dưỡng phẩm chất đạo đức, kiến thức khoa học, kỹ năng thực hành cần thiết
để họ hoàn thiện bản thân và phù hợp với yêu cầu của xã hội.
Môi trường nhà trường còn là nơi diễn ra các hoạt động dạy học, giáo dục và
hoạt động giao tiếp sư phạm giữa giáo viên và học sinh và giữa các học sinh với
nhau.
Môi trường nhà trường là điều kiện và chất xúc ảnh hưởng đến việc hình thành
nhận thức, thái độ, tình cảm và hành vi của học sinh. Môi trường nhà trường thân
thiện, lành mạnh với mối quan hệ sư phạm được xây dựng trên sự tôn trọng, hợp tác
và thấu hiểu sẽ thúc đẩy các hành vi tích cực ở người học. Ngược lại, môi trường nhà
trường thiếu tính thân thiện không những không giúp học sinh hình thành hành vi
tích cực mà sẽ tạo điều kiện để học sinh bộc lộ những hành vi tiêu cực. Điều đó cho

thấy trong các điều kiện và môi trường khác nhau sẽ hình thành những đặc điểm tâm
lý khác nhau ở học sinh. Sự phát triển tâm lý và phát triển nhân cách của học sinh
trong môi trường nhà trường không thể tách rời với quá trình giáo dục.
4.2.2. Tác động tiêu cực
Tuy nhiên hiện nay nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục còn lạc hậu,
chậm đổi mới, chậm hiện đại hóa, chưa gắn chặt với đời sống xã hội và lao động
nghề nghiệp, chưa phát huy tính sáng tạo, năng lực thực hành của học sinh. Chất
lượng giáo dục có mặt bị buông lỏng, giảm sút, nhất là giáo dục đạo đức, lối sống;
giáo dục mới quan tâm nhiều đến dạy “chữ”, còn dạy “người” và dạy “nghề” vẫn yếu
kém; yếu về giáo dục tư tưởng, đạo đức, lối sống, lịch sử dân tộc, tư duy sáng tạo, kỹ
năng thực hành, kỹ năng sống…
Trong nhà trường chủ yếu các thầy cô vẫn đơn thuần truyền thụ kiến thức một
cách máy móc, ít cởi mở. Có nhiều giáo viên khó tính, hay quát mắng thậm chí đánh
đập khiến học sinh luôn có tâm lý lo sợ , căng thẳng khi chuẩn bị bước vào tiết học
hay có cơ hội gặp thầy cô ngoài giờ học các bạn vẫn có tâm lý e dè, sợ sệt. Có những
bạn học sinh rất muốn nói lên những quan điểm của mình, rất muốn bày tỏ chính
kiến của mình về phương pháp giảng dạy của thầy cô hay về cách thầy cô quản lý
học sinh nhưng các bạn luôn ngại ngùng. Các bạn thấy thầy cô quá khắt khe, không
cười, không niềm nở. Và như vậy khoảng cách giữa thầy và trò thật sự xa cách.
14


5. Khái niệm và vai trò của phát biểu ý kiến
5.1. Khái niệm phát biểu ý kiến
Có nhiều quan niệm về cách phát biểu ý kiến của học sinh. Dù hiểu theo quan
niệm nào thì phát biểu ý kiến của học sinh đơn giản là cách học sinh phải chủ động
bày tỏ quan điểm, suy nghĩ, hiểu biết của bản thân trong các giờ học, môn học để có
thể thích ứng với những thay đổi diễn ra hằng ngày.
Phát biểu là trình bày bằng lời trước nhiều người về một vấn đề nào đó
nhằm cung cấp thông tin hoặc thuyết phục, gây ảnh hưởng đến người nghe.

Phát biểu là hoạt động thường xuyên, diễn ra hàng ngày của giáo viên và học
sinh trong không gian lớp học và các hoạt động giáo dục.
Qua những phân tích trên ta có thể hiểu:Phát biểu là phương pháp nhằm giúp
cho hoạt động giáo dục giữa thầy và trò đạt hiệu quả cao.
Kỹ năng phát biểu là một trong những kỹ năng được sử dụng phổ biến
trong hoạt động giao tiếp và học tập.
5.2. Các loại phát biểu ý kiến
Trong quá trình hoạt động dạy và học thường xuyên phải thực hiện hoạt động
giao tiếp, trong đó có phần phát biểu ý kiến. Vì thế, kỹ năng phát biểu ý kiến sẽ
được cả giáo viên và học sinh vận dụng trong các tình huống phát biểu ý kiến cụ thể
sau đây:
Phát biểu ý kiến ngắn trước tập thể hoặc thể hiện chính kiến khi tranh
luận, thảo luận các vấn đề trong công việc, học tập.
Phát biểu, diễn thuyết trong các thảo luận, họa động ngoại khóa, ngoài giờ
lên lớp.
Trình bày ý tưởng và kế hoạch công tác với giáo viên, với các nhà quản lí giáo
dục…; giao và yêu cầu các thành viên trong lớp thực hiện nhiệm vụ; trao đổi công việc
với đoàn viên, thanh niên
Giải thích, hướng dẫn cho người nghe hiểu được các các vấn đề cần nói.
5.3. Quá trình hình thành để đi đến phát biểu ý kiến
Phát biểu ý kiến của học sinh được hình thành theo một cách tự nhiên qua những
va chạm, những trải nghiệm trong cuộc sống và qua giáo dục mà có.

15


Tuy nhiên để học sinh có thể học tập đạt hiệu quả cao nhất, đáp ứng yêu cầu đổi
mới của xã hội đòi hỏi học sinh phải có kĩ năng mạnh dạn, tự tin trước mọi người,
trước công việc.
Tất cả những lí do đó khiến các em thiếu tự tin, rụt rè không dám thể hiện mình

dẫn đến nhiều thiệt thòi trong hoạt động học tập và vui chơi của các em. Đây là bài
toán không quá khó, nhưng theo chúng tôi cũng không thật sự dễ dàng nếu muốn giải
quyết tận gốc rễ vấn đề này, chúng ta cần nghiêm túc giải quyết từ cả hai phía người
học và người dạy.
5.4. Vai trò của phát biểu
Bản chất tâm lý của quá trình hình thành khái niệm trong hoạt động học tập của
người học là quá trình người học tích cực, chủ động nắm lấy tri thức, kỹ năng, kỹ xảo
dưới sự hướng dẫn của người dạy. Hoạt động dạy học ở các bậc học, trong đó có bậc
học THPT là lấy học sinh làm trung tâm, phát huy tính tích cực, độc lập, sáng tạo của
người học. Muốn đạt được mục tiêu trên thì giáo viên và học sinh phải có sự hợp tác
chặt chẽ. Giáo viên phải nắm rõ cách thức định hướng, dẫn dắt học sinh tự tìm tòi tri
thức. Học sinh phải biến quá trình học thành quá trình tự học.
Để quá trình học đạt được mục tiêu học tập, học sinh phải có tính tích cực trong
học tập. Tính tích cực trong học tập biểu hiện ở khát khao chiếm lĩnh tri thức, sự năng
động về mặt trí tuệ, hứng thú đối với môn học, nỗ lực ý chí vượt qua những khó khăn
trong quá trình học tập. Thái độ tích cực học tập của học sinh được thể hiện rõ nhất
qua những giờ học trên lớp, trong đó việc phát biểu ý kiến trong giờ học là một minh
chứng quan trọng. Để trả lời những câu hỏi giáo viên đặt ra đòi hỏi học sinh phải có
sự chuẩn bị bài trước ở nhà, có nhu cầu hiểu biết tri thức, có sự động não, có sự tự tin
ở bản thân, sự tập trung chú ý trong giờ học,... Chính vì thế mà:
Phát biểu mang lại hình ảnh, tác phong và quan trọng hơn là sự tự tin khi
đứng trước một đám đông, phát biểu đóng vai trò to lớn trong sự thành công của
mỗi cá nhân.
Phát biểu thể hiện, truyền đạt được những quan điểm, ý kiến, hiểu biết
của bản thân trước một vấn đề nào đó trong cuộc sống hàng ngày cũng như trong
học tập.
Phát biểu thuyết phục được mọi đối tượng hiểu, ủng hộ hoặc thực hiện
những ý tưởng, kế hoạch do mình đề xuất.
Phát biểu giải thích, hướng dẫn, thuyết phục, thương lượng thành công
với đối tượng giao tiếp

16


Phát biểu nâng cao chất lượng công tác, nâng cao uy tín của cá nhân và tổ
chức.
* * * * *

CHƯƠNG 2.
LƯỜI PHÁT BIỂU XÂY DỰNG BÀI THỰC TRẠNG CỦA HỌC SINH THPT HIỆN NAY
Tình trạng học sinh ngày càng lười phát biểu trong giờ học là vấn đề đáng quan
tâm của ngành giáo dục và cả toàn xã hội chúng ta. Một kinh nghiệm cho thấy, một
giờ dạy thành công phải là giờ dạy nhận được nhiều ý kiến phát biểu của học sinh,
nhất là trong giai đoạn mà toàn ngành đang thực hiện cuộc vân động “hai không”,
“đoạn tuyệt với đọc chép” và chủ trương “lấy học sinh làm trung tâm”.
Qua các tiết dự giờ, tìm hiểu và tiếp xúc với giáo viên, học sinh một số năm qua
tại trường học nơi tôi công tác, hiện tượng học sinh lười phát biểu trong các tiết dạy
ngày càng nhiều, đây là một thực trạng đáng buồn, tôi xin nêu ra một số nguyên nhân
có thể dẫn tới thực trạng học sinh lười học như sau:
1. Thực trạng và nguyên nhân chủ quan
1.1. Học sinh lười học, không chuẩn bị bài ở nhà
1.1.1. Biểu hiện
Nếu như trước kia học sinh khi đến trường, lớp đều có tinh thần học tập, hăng
hái phát biểu bài với một khí thế hào hứng sôi nổi. Sau tiết học, thầy trò bước ra khỏi
lớp cảm thấy lòng dạ nhẹ nhàng, nét mặt rạng rỡ, tươi tắn thì hiện nay có một hiện
tượng khá phổ biến là học sinh lười học, thậm chí tình trạng học sinh lười học không
chỉ biểu hiện ở những em học yếu kém, hay vi phạm nội quy, thích ham chơi, không
chịu làm bài tập, học thuộc bài trước khi đến lớp mà còn biểu hiện ở một số tiết
17



học ngay cả đối với những em có học lực khá. Những học sinh ấy thường trốn học,
bỏ tiết, rúc đầu vào quán điện tử cày ngày cày đêm. Đây đang là vấn đề diễn ra ở phổ
biến các cấp học trong lứa tuổi học sinh. Chính vì thế những người làm công tác giáo
dục cũng như toàn xã hội hết sức quan tâm, trăn trở.
Không đọc trước tài liệu ở nhà cũng làm tăng tính rụt rè của học sinh khi phát
biểu trước lớp. Hiện tượng học sinh lười học dường như khá phổ biến. Nó xuất hiện ở
hầu hết các lớp, các trường, từ học sinh lớp một đến lớp chín, lớp mười đều có học
sinh lười học.
Nhiều thầy cô bị “ức chế” vì mỗi khi mình đưa ra câu hỏi là y như rằng học sinh
cúi đầu im thin thít, động viên rồi răn đe đủ kiểu mà không có ai chịu mở miệng.
Cuối cùng đành phải cầm danh sách lớp và chỉ định bất kì. Dù biết như thế là gượng
ép nhưng cũng chẳng còn cách nào. Nhiều giáo viên than phiền: "Thực tế lâu nay học
sinh trường em rất lười phát biểu bài. Thầy cô giáo đặt câu hỏi ra, rồi tự trả lời thôi".
Học sinh càng lên lớp lớn càng lười, ngại phát biểu trong giờ học, không còn là hiện
tượng hiếm, cá biệt, mà là hiện tượng phổ biến trong nhà trường, nhất là ở bậc THPT.
Một giáo viên từng đứng bục giảng ngót 10 năm ở trường THPT Liễn Sơn cũng phàn
nàn: “Các em rất ít chuẩn bị bài trước ở nhà, thay vào đó là thói quen thụ động:
chờ đến lớp chờ thầy cô giảng rồi chép. Thành ra, trong giờ dạy, để chống “cháy giáo
án”, nhiều thầy cô đặt câu hỏi ra, rồi tự trả lời”.
1.1.2. Nguyên nhân
Nguyên nhân chủ yếu là do các em lười học, không chịu, hoặc rất ít chuẩn bị bài
trước ở nhà mà có thói quen đợi đến lớp chờ thầy cô giảng rồi chép vào vở nên không
có kiến thức để trả lời các câu hỏi của giáo viên chiếm con số rất cao là 80%. Trong
đó THPT Liễn Sơn 23/25; THPT Thái Hòa 19/25; THPT Ngô Gia Tự 22/25; THPT
Triệu Thái 23/25 học sinh đều tán đồng, cho đây là một trong những nguyên nhân dẫn
đến việc học sinh lười phát biểu xây dựng bài.
1.2. Học sinh thụ động dẫn tới việc lười phát biểu xây dựng bài.
1.2.1. Biểu hiện
Phần lớn các giáo viên đều nhận thấy thái độ học tập của học sinh còn rất thụ
động bởi trong mỗi giờ học, chuyện học sinh phát biểu ý kiến là rất ít thay vào đó là

“Giáo viên nêu vấn đề, học sinh cúi mặt xuống bàn...”. Chuyện học sinh ngồi im lặng
khi giáo viên đặt câu hỏi khi giảng bài không còn là chuyện lạ. Giáo viên đặt câu hỏi,
thi thoảng vài cánh tay giơ lên. Vẫn những khuôn mặt cũ, những học sinh hay phát
biểu thì giờ nào cũng tích cực phát biểu. Thông thường nó đều nằm trong phạm vi
hiểu biết và có thể trả lời của học sinh. Thế nhưng rất ít có cánh tay nào giơ lên. Ai
18


ngồi im thì cứ thói quen đó từ đầu giờ cho đến cuối giờ. Những học sinh còn lại thì
chăm chú lắng nghe, có học sinh xì xào với bạn bên cạnh. Tuy số lượng học sinh cá
biệt này không nhiều nhưng cũng đủ làm không khí lớp học đơn điệu, tẻ nhạt. Giáo
viên cố gắng đặt câu hỏi nhưng cũng rất ít học sinh hưởng ứng, thậm chí có lớp
chẳng học sinh nào giơ tay phát biểu, giáo viên đành tự mình trả lời câu hỏi. Kể cả
những giờ thực hành, thảo luận, hoạt động nhóm, những giờ học đòi hỏi học sinh phải
trình bày quan điểm, lập luận của riêng mình thì tình hình cũng chẳng khác gì. Nếu
giáo viên không giao nhiệm vụ cho nhóm đặt câu hỏi, nhóm trả lời thì không ai đặt
câu hỏi cả. Điều này ảnh hưởng khá lớn đến không khí học tập trong lớp. Nó gây ra
một cảm giác rất áp lực mỗi khi thầy cô đặt câu hỏi. Học sinh thì cảm thấy áp lực,
còn giáo viên cũng cảm thấy chán nản vì chỉ có sự làm việc một chiều.
Đa phần học sinh rất ngại phát biểu, trừ khi gặp những vấn đề khúc mắc không
tự tìm hiểu được thì mới cần phải hỏi trực tiếp giáo viên. Ở một số môn học, đặc biệt
là các môn Công nghệ, Giáo dục công dân, Sử, Địa… có thể nói giáo viên chỉ truyền
đạt lại cho học sinh theo cách đọc - chép nên không tạo được bầu không khí học tập
sôi động. Một số giáo viên có nêu câu hỏi rồi chỉ định hoặc để học sinh tự giơ tay trả
lời, nhưng phần đông học sinh không hưởng ứng lắm. Nói như TS Phạm Đức Trọng
(Phó trưởng khoa Xã hội học - ĐH Khoa học xã hội và nhân văn TP.HCM):“Không
dám phát biểu nghĩa là bỏ qua một cơ hội” hay như chia sẻ của một học sinh trường
THPT Ngô Gia Tự: "Ngại phát biểu trong giờ học sẽ dẫn đến ngại phát biểu trong
giao tiếp hằng ngày. Ngại phát biểu cũng đồng nghĩa với việc không dám nói lên sự
thật, không dám nhìn nhận cái sai...".

Với lối giảng dạy truyền thống và nếp sống của cộng đồng, học sinh khá thụ
động trong học tập, gần như chỉ tiếp thu kiến thức một chiều và ít khi đặt ra câu hỏi
hay đưa ra những suy nghĩ đi ngược lại với điều được dạy. 39% học sinh “Chỉ thích
ghi chép nội dung bài học”. Vì vậy, các em không hào hứng với việc phát biểu xây
dựng bài.
Tuy nhiên, cũng có một số học sinh dám bộc lộ chủ kiến của mình thì lại ít được
giáo viên khuyến khích, thậm chí còn bị bác bỏ, bị phủ nhận.
1.2.2. Nguyên nhân
Do quan niệm phát biểu là việc của người khác:
Trước hết từ phía sinh viên, nhiều bạn có quan niệm rất kì cục là: Chuyện phát
biểu ý kiến là chuyện của ai đó chứ không phải của mình. Mình không phát biểu thì
sẽ có người khác... Kim Anh, học sinh lớp 12A5 trường THPT Liễn Sơn cho rằng:
“Hầu hết đều không muốn mình là người đầu tiên. Đây là tâm lý khá phổ biến vì
19


mình thấy khi có ai đó đã giơ tay phát biểu ý kiến rồi và thầy cô tiếp tục hỏi thì lại có
khá nhiều người xung phong”.
Không phát biểu không sao, vì thầy cô gọi mãi không ai xung phong thì sẽ
"chọn mặt gửi vàng" trong danh sách lớp. Xong, thế là qua chuyện, họa hoằn lắm
thầy cô mới gọi trúng mình. Các em nghĩ rằng mình không trả lời thì có bạn khác trả
lời, và nếu không có ai trả lời thì đằng nào thầy cô cũng giải đáp thôi.
Đa phần những người hay phát biểu không phải là những "sao" trong lớp.
Không hiểu rằng các "sao" này sợ phát biểu nếu sai sẽ bị mất hình tượng hay sao mà
không bao giờ giơ tay phát biểu nhưng lại thích ngồi ở dưới trả lời nho nhỏ
Do tâm lý học sinh:
“Việc học sinh lười phát biểu nhiều khi không phải vì các em không hiểu bài hay
thiếu sự mạnh dạn mà còn vì những lý do khác về tâm lý” - cô giáo Nguyễn Thị
Thúy, giáo viên Hóa Trường THPT Liễn Sơn nhận định. Cũng theo cô Thúy, hiện
tượng các em lười phát biểu một phần là do chính suy nghĩ của các em. Các em quan

niệm học sinh cấp THPT là lớn rồi và vì thế việc giơ tay xin phát biểu là rất trẻ con,
các em nghĩ mình tự hiểu là được rồi. Bởi khi giáo viên gọi các em, các em vẫn trả
lời được. Nhiều khi có một em hăng hái phát biểu còn bị các bạn khác cười, cho là
thích “chơi trội”.
Không muốn là người đầu tiên phát biểu. Đây là một tâm lý khá phổ biến bởi
học sinh cho rằng khi một người nào đó đã giơ tay phát biểu và khi thầy cô tiếp tục
hỏi về vấn đề đó thì có khá nhiều người xung phong nhưng lại không giơ tay ngay từ
đầu. Tâm lí quen “đọc - chép” mỗi khi trên lớp cũng dẫn tới tình trạng thụ động của
học sinh. Nếu giáo viên không đọc thì học sinh cũng không chép, chỉ ngồi nghe và
thực tế là kiến thức đọng lại trong đầu khi đó sẽ rất ít, thậm chí là không có gì.
Do học sinh chưa hiểu được vai trò quan trọng của việc phát biểu xây dựng
bài: 61% học sinh “Chưa biết được ý nghĩa của việc phát biểu xây dựng bài học” nên
không quan tâm đến việc phát biểu ý kiến. Thật ra việc phát biểu ý kiến trong giờ học
của học sinh dù câu trả lời là đúng hay sai đều có một ý nghĩa tích cực. Đối với học
sinh các em cảm thấy tự tin hơn, ghi nhớ bài tốt hơn, hiểu kiến thức sâu sắc hơn, rèn
luyện kỹ năng giao tiếp, kỹ năng diễn đạt bằng ngôn ngữ, kỹ năng đánh giá, kích
thích sự sáng tạo, rèn tư duy độc lập,…Ngoài ra, học sinh hăng hái phát biểu ý kiến
giúp cho giáo viên hiểu được mức độ nắm vững kiến thức, khả năng tư duy, thậm chí
cả những tâm tư của các em. Từ đó, giáo viên điều chỉnh nội dung dạy học, phương
pháp dạy học phù hợp với đối tượng giảng dạy. Bên cạnh đó, việc tham gia xây dựng
bài còn giúp cho không khí lớp học sôi nổi, sinh động hơn, tạo hưng phấn cho cả
người dạy và người học.
20


Theo phong trào: Một em học sinh lớp 11 chia sẻ “Ở cấp 2 hầu như em tiết
nào em cũng giơ tay 4,5 lần (bất kể là Toán, Lý, Hóa hay Văn, Sử, Địa), thế nhưng từ
khi lên cấp 3 em lại thấy khác, lớp có 36 đứa thì thằng nào cũng học như con trâu,
hầu như câu hỏi thầy cô đặt ra bọn em đều có câu trả lời nhưng chẳng đứa nào dám
giơ tay, em hỏi vài thằng bạn thì tụi nó bảo: "giơ tay làm gì, để lấy lệ à, lớp mình ai

chẳng biết, mày có giơ tay cũng vô ích thôi", cứ thế dần dần em cũng chẳng còn hứng
thú giơ tay nữa, nhiều tiết có thầy cô giáo khác vào dự giờ mà cả lớp cứ ngồi im một
cục, cô giáo chỉ đại một đứa bất kỳ thì đứng lên trả lời được, mà giơ tay thì không
chịu giơ tay”
Sự bị trù dập: một bộ phận học sinh đã từng phát biểu rất hăng trong lớp hồi
học, thậm chí còn thắc mắc rất nhiều đối với những bài giảng của giáo viên, cuối
cùng bị liệt vào loại học sinh cứng đầu, việc này cũng khiến học sinh bị chán việc
phát biểu.
Thiếu kĩ năng: Do học sinh chưa được rèn luyện nhiều về kĩ năng sống, kĩ năng
ứng xử, kĩ năng giao tiếp vì như thế học sinh chưa thực sự chủ động cho việc xây
dựng phát biểu bài.
Học sinh không có động lực để học: Phân tích dưới góc độ tâm lý giáo dục,
Th.s Vũ ĐứcThịnh - hiệu trưởng Trường THPT Liễn Sơn cho rằng, nguyên nhân chủ
yếu vẫn do động lực và ham muốn học của học sinh. Điều này được thể hiện rõ ở chỗ
đối với các lớp chọn đầu cao thì hiện tượng này rất ít nhưng đối với các lớp đại trà
nơi mà có nhiều học sinh yếu kém thì tình trạng học sinh không xác định được mục
đích học là rất phổ biến.
Học sinh ngại phát biểu trước đám đông: 39% học sinh cho rằng “Ngại khi
phải đứng lên và trả lời câu hỏi trước đám đông”. Đây cũng là nguyên nhân khiến các
em không phát biểu ý kiến. Học sinh không trả lời câu hỏi không phải là vì các em
không biết trả lời câu hỏi đó, không có thời gian học mà xuất phát từ chính tâm lý
“ngại” của các em.
1.3. Cảm giác sự sai, bị bạn bè chê cười nên không phát biểu
1.3.1. Biểu hiện
Điều khiến cho học sinh bây giờ ngại phát biểu là cảm giác sợ sai. Sự áp đặt của
giáo viên như trong lớp có người rất hăng hái phát biểu, những ý kiến của học sinh đó
được lớp rất thích nhưng thầy (cô) lại bảo phải làm theo cách của thầy (cô). 55% học
sinh “Sợ trả lời sai” nên không phát biểu ý kiến. Trong thực tế giảng dạy có những
em không giơ tay phát biểu nhưng khi giáo viên mời thì lại trả lời đúng câu hỏi. Khi
được hỏi tại sao em biết nhưng lại không giơ tay phát biểu thì em trả lời rằng do em

21


chưa dám chắc câu trả lời của mình là đúng. Nếu trả lời sai thì xấu hổ với thầy cô và
bạn bè.
Trong một bài viết trên báo, có một bạn trẻ tâm sự: "Tôi ưa nói, ưa tranh luận,
nhưng khi tôi 17 tuổi nếu tôi giơ tay phát biểu trước lớp về một vấn đề không đồng ý
với quan điểm của thầy cô, tôi bị dòm ngó, tẩy chay, cười mỉa...Hình như ở Việt Nam,
người ta rất khó chấp nhận chuyện người nhỏ hơn mình "sửa sai" hay tranh luận
thẳng thắn với người lớn" (Đặng Anh Sống đúng là chính mình, trang wep: tuoitre.vn
ngày 9/9/2013). Nhận định cho thấy những người trẻ tuổi có tư duy độc lập, khi vượt
qua rào cản tuổi tác có chủ kiến cá nhân thường phải đối mặt với cái nhìn và đánh giá
mang tính định kiến của cộng đồng xã hội. Từ đấy, chính bản thân người trẻ cũng dễ
mang tâm lí kém tự tin, luôn có thái độ rụt rè, thụ động khi bộc lộ chủ kiến, thậm chí
không bao giờ nói ra suy nghĩ của mình trước đám đông.
1.3.2. Nguyên nhân
Do ý thức về bản thân và lòng tự trọng, tự ái quá cao: Tình trạng này xảy ra
ở trường THPT nhiều hơn do ý thức về bản thân và lòng tự trọng, tự ái của các bạn
học sinh này cao hơn. Nếu ngày trước đứng trước lớp trả lời những câu hỏi của cô
thầy sai là chuyện quá bình thường, thì khi lên đến cấp III nếu trả lời sai sẽ bị các bạn
khác chê cười và xem thường, đánh giá này nọ về trình độ của mình và chính vì thế
các học sinh ngại vì chuyện này. Tính ngây thơ, vô tư không còn hiện diện ở học sinh
cấp ba. Họ luôn sợ mình trả lời sai này nọ và chấp nhận yên phận ngồi chờ các bạn
khác trả lời, nhất là các bạn có học lực bình thường.
Sự bị bạn bè trêu trọc: 59% học sinh cho rằng Vì sợ phát biểu sai bị bạn bè
cười nhạo và đôi khi sợ bị thầy cô la (hoặc có thể bị trừ điểm) thì "quê độ" làm cho
các em ngại phát biểu. Các em có tâm lý mong muốn hành vi, cách cư xử của mình
hòa nhập với tập thể, sợ bị tập thể lên án, chê trách, bạn bè tẩy chay, cô lập. Do đó,
các em ngại phát biểu, cả lớp không ai phát biểu nếu mình giơ tay thì các bạn cho là
mình chảnh (36%), muốn nổi bật, không giống ai. Thực tế, có rất nhiều học sinh đến

lớp chỉ để nghe giảng bài, ghi bài chứ không phải là để tìm tòi tri thức (39%). Những
lời nói kháy từ phía những người không bao giờ phát biểu làm cho các học sinh có
tinh thần tích cực dần dần cũng không còn ham muốn. Thầy giáo Nguyễn Công
Hoàng, giáo viên dạy môn Hóa học trường THPT Liễn Sơn phân tích tâm lý “lớn lên
ngại nói sai bị các bạn cười” cũng tác động tới hành vi thụ động ngồi nghe bạn khác
trả lời thay vì phát biểu.
1.4. Học sinh nhút nhát, tự ti
1.4.1. Biểu hiện
22


Có dịp đi dự giờ thăm lớp và được các đồng nghiệp trao đổi, bàn tán về hiện
tượng lớp này, lớp kia lười phát biểu, xây dựng bài. Nhiều lần thầy cô giáo ra câu hỏi,
dù chỉ là những câu hỏi trong sách giáo khoa nhưng hỏi đi hỏi lại 2, 3 lượt các em
vẫn ngồi im thin thít như tượng gỗ, và chính thầy cô là người phải trả lời câu hỏi do
mình đặt ra, những tình huống như vậy thường gây tâm lí ức chế cho thầy cô rất
nhiều, thậm chí chán nản, không tha thiết với công việc của mình.
Đa số học sinh hiện nay đều có phương pháp học thụ động kèm theo việc bị
phân tán trong việc lên lớp nên dẫn đến tình trạng thiếu tự tin. Sự thiếu tự tin cộng
với kỹ năng giao tiếp chưa tốt dẫn đến “lười” tham gia phát biểu. Kết quả là học sinh
tốt nghiệp THPT rồi mà vẫn nhút nhát và e ngại khi diễn đạt trước đám đông, dẫn đến
sự hạn chế tinh thần làm việc theo nhóm và khả năng lãnh đạo nhóm. Nếu tâm lý
nhút nhát này phổ biến rộng rãi thì sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của đất nước. Tự
tin phát biểu nghĩa là mạnh dạn trước công chúng. Điều này càng quan trọng học sinh
đi ra ngoài thực tế, vì đây là khả năng thuyết phục được người khác thông qua lời nói.
Trong một số trường hợp, chẳng hạn cả lớp đều ít và lười phát biểu có học sinh
hay phát biểu nhưng nhiều khi câu trả lời chưa được chính xác bị một số bạn
bè chê rằng hay phát biểu lụi mà vẫn còn hay phát biểu vì vậy cũng ngại giơ tay..
1.4.2. Nguyên nhân
Sự thiếu tự tin của học sinh nói cộng với kỹ năng giao tiếp chưa tốt vào bản thân

(58%) trên là do một số các nguyên nhân chủ yếu như sau:
Thứ nhất là, do các em lười học, không chịu, hoặc rất ít chuẩn bị bài trước ở
nhà mà có thói quen đợi đến lớp chờ thầy cô giảng rồi chép vào vở nên không
đủ, hay không có kiến thức để trả lời các câu hỏi của giáo viên.
Thứ hai là, thiếu tự tin vào bản thân mình, ngại ngùng, rụt rè khi đứng lên và trả
lời trước đám đông, nhất là các bạn nữ trong lớp.
Thứ ba là do tâm lý của học sinh "thà im lặng" còn hơn lỡ phát biểu sai thì "ê
mặt" trước “bàn dân thiên hạ”.
Thứ tư là học sinh có hoàn cảnh "cá biệt" như: sống trong gia đình không hạnh
phúc, bổ mẹ ly thân, nghiện ngập, đánh đập nhau... khiến các em tự ti về bản thân
tự các em thấy mặc cảm không muốn giao lưu, tiếp xúc với mọi người. Trong những
nguyên nhân trên nguyên nhân cơ bản nhất dẫn đến sự thiếu tự tin của học sinh là
nguyên nhân thứ hai.
1.5. Chỉ đầu tư vào những môn học chính.
1.5.1. Biểu hiện
23


Do các em càng học lên cao nên chỉ tập trung vào một số môn nhất định. Thực
tế qua quá trình giảng dạy chúng tôi nhận thấy, học sinh ngày nay rất thực dụng, chỉ
quan tâm và đầu tư vào các môn học khối, các môn thi tốt nghiệp, thi Đại học, cao
đẳng như Toán, Vật lý, Hóa học, Ngữ văn, Ngoại ngữ nên những bộ môn các em
không theo khối và đặc biệt các môn không liên quan đến thi cử như Giáo dục công
dân, Công nghệ, Kỷ thuật… các em cho là “môn phụ” nên các em không đầu tư, cá
biệt có những học sinh không học bài cũ, thầy cô chấm điểm thấp cũng không
hề “nao núng”,thậm chí cũng không cần phát biểu để “gỡ” điểm kém, vô hình
trung thầy cô đã hết “thuốc” điều trị rồi.

1.5.2. Nguyên nhân
48% học sinh cho rằng do “Môn học không phải là môn chính” nên học qua loa.

Các em chỉ chú tâm học những môn học chính, còn các môn học khác thì lại xao
lãng, chỉ cần đạt điểm để lên lớp là được. Thậm chí có em đi học không chuyên cần,
ý thức học tập kém, không hoàn thành những nhiệm vụ học tập bị điểm thấp nhưng
vẫn không chịu phấn đấu để đạt điểm cao hơn.
2. Thực trạng và nguyên nhân khách quan tác động đến việc lười phát biểu
của học sinh THPT
Với sự hỗ trợ của Ban Giám hiệu, chúng tôi đã có cuộc khảo sát lấy ý kiến diễn
đàn "Vì sao học sinh ít giơ tay phát biểu?" từ nhiều lớp học trong trường. Dưới đây là
kết quả những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng "ít phát biểu".
2.1. Từ phía các thầy cô giáo
2.1.1. Biểu hiện
Phần lớn học sinh được khảo sát cho rằng những nguyên nhân có ảnh hưởng tiêu
cực tới hứng thú học tập và sự chủ động trong việc phát biểu xây dựng bài là trong
quá trình giảng dạy, giáo viên không đưa ra các tình huống để kích thích học sinh tư
duy, không cập nhật thông tin về đời sống xã hội.
57% học sinh cho rằng do “Câu hỏi quá khó” nên các em không thể trả lời câu
hỏi. Ngoài ra “Sự áp đặt của giáo viên cũng khiến học sinh sợ sai!”. Cụ thể, trong lớp
mình có một bạn rất hăng hái phát biểu. Những ý kiến của bạn được lớp rất thích
nhưng một thầy lại bảo phải làm theo cách của thầy. Thêm vào nữa là thầy cô ngày
càng nói nhiều. Giảng bài lan man, hay lấy ví dụ xa xôi quá, làm cho học trò muốn
phát biểu nhưng cứ ngại thầy cô đang nói không dám làm phiền đến cuối câu chuyện
của thầy cô xong thì trò cũng nản.
24


Bên cạnh đó là trên lớp học, nhiều thầy cô giảng bài quá nhanh hoặc phương
pháp truyền đạt chưa hiệu quả khiến các bạn không hiểu bài. Các bạn cứ ngồi, lắng
nghe một cách thụ động, một số bạn thì ngủ trong giờ hay ngồi làm việc, lười phát
biểu để rồi bị mất gốc các môn học, không hiểu từ những điều sơ đẳng nhất. Các thầy
cô hỏi các câu hỏi thường là có trong sách giáo khoa rồi nên học sinh chán không

muốn trả lời còn không thì hỏi khó quá không biết trả lời như thế nào cả. Nghĩa là từ
trước tới giờ hầu có nhiều tiết học diễn ra theo khuôn: Thầy đọc, trò nghe và chép,
không tạo sự thân thiện giữa thầy và trò. Giáo viên ít tạo ra những câu hỏi gây nên sự
hứng thú để học trò mạnh dạn giơ tay trả lời. Minh chứng cho vấn đề này, một học
sinh chia sẻ: “Thường thì thầy cô chỉ hỏi một vài câu có sẵn trong sách, ai mà chả trả
lời được, thế nên cũng chẳng ai thèm giơ tay trả lời”; “Em thấy chỗ em đa số thầy cô
dạy quá chán toàn như trong sách chả nói thêm ở ngoài. Với mấy câu hỏi là toàn
trong sách khoa mà cũng hỏi. Có còn phải học lớp một đâu mà hỏi gì toàn trong sách
nên nản”.
Thêm vào đó có thể giáo viên giảng bài cũng thao thao bất tuyệt không chú ý tới
học sinh, suy nghĩ và cảm nhận mong muốn của học sinh, đồng thời không lôi cuốn
học sinh vào bài giảng. Giáo viên dạy hay đến đâu nhưng chỉ coi bục giảng là sân
khấu của riêng mình, thì cũng chỉ có thể truyền đạt được kiến thức tới một số học
sinh mà thôi. Đối với những người thầy giỏi luôn biết cách tạo ra sự sôi nổi cho lớp
học, còn những thầy mà yếu kém và kiến thức chưa sâu thì dạy sẽ nhàm chán ngay.
Giảng dạy giống như hoạt động nghệ thuật của một nghệ sĩ đòi hỏi người thầy phải
tìm tòi và sáng tạo”.
Hơn nữa trong một số giờ học giáo viên chưa khích lệ được tính tự giác, tích cực
xây dựng bài của học sinh nên học sinh không thể chủ động phát biểu ý kiến được.
Nhằm làm rõ vấn đề này chúng tôi cũng đã thực tế tại một số trường THPT trên địa
bàn huyện Lập Thạch. Quá trình quan sát cho thấy, đa số giáo viên đều theo con
đường diễn giải bằng cách đọc lại sách giáo khoa phân tích từ đầu đến cuối. Tích cực
hơn một chút thì cho học sinh làm một số bài tập. Giáo viên ít quan tâm đến phương
pháp nêu vấn đề, kỹ thuật đặt câu hỏi trong bài giảng thường không cao.
Như vậy, cần thẳng thắn nhìn nhận rằng dù ở góc độ nào đi chăng nữa thì người
thầy vẫn phải chịu trách nhiệm chính. Hiện nay người thầy chỉ lo về mặt kiến thức
nhưng phương pháp dạy thì không phát huy được trí lực của học sinh, không tổ chức
cho học sinh chiếm lĩnh kiến thức mà chỉ “tung, vãi” kiến thức ai nhặt được gì thì
nhặt.
2.1.2. Nguyên nhân


25


×