BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
1. Lời giới thiệu
Phát triển ngôn ngữ cho trẻ trong trường mầm non là một nhiệm vụ vô cùng
quan trọng bởi vì ngôn ngữ có chức năng là công cụ giao tiếp và công cụ tư duy
cho trẻ. Hoạt động này không những giúp trẻ hình thành và phát triển các năng lực
ngôn ngữ như nghe, nói...mà còn giúp trẻ phát triển khả năng tư duy, nhận thức,
tình cảm...Nó là chiếc cầu nối giúp trẻ bước vaò xã hội loài người vì ngôn ngữ là
một thứ sản phẩm độc quyền của xã hội loài người. Nó chỉ được hình thành, tồn tại
và phát triển trong xã hội loài người, do ý muốn và nhu cầu của con người, bên
ngoài xã hội loài người, ngôn ngữ không thể phát sinh.
Lê-nin đã coi ngôn ngữ là công cụ giao tiếp quan trọng của con người. Ngôn
ngữ không phải là công cụ giao tiếp duy nhất nhưng là công cụ giao tiếp quan
trọng nhất của loài người. Ngôn ngữ có thể giúp con người tàng trữ những kinh
nghiệm sản xuất để truyền từ đời này sang đời khác. Ngôn ngữ giúp trao đổi tư
tưởng, tình cảm, xác lập các mối quan hệ trong cộng đồng xã hội.
Ngôn ngữ còn là công cụ của tư duy bởi vì ngôn ngữ và tư duy cùng xuất hiện
một lúc. Ngôn ngữ là hiện thực trực tiếp của tư duy và chỉ có con người – động vật
cao cấp mới có tư duy. Không có ngôn ngữ thì không có tư duy.
Trẻ từ 24-36 tháng tuổi là giai đoạn quan trọng nhất trong sự phát triển ngôn
ngữ của trẻ. Trẻ lên ba cả nhà học nói”, điều này thật đúng. Do đặc điểm phát triển
và nhu cầu giao tiếp mà vào giai đoạn ba tuổi, lời nói của trẻ phát triển với một tốc
độ mạnh mẽ nhất. Nhiệm vụ phát triển lời nói bao gồm nhiều mặt. Cần dạy trẻ hiểu
lời nói của người lớn không cần sự trợ giúp trực quan, mở rộng vốn từ tích cực,
dạy trẻ các mẫu câu, phát triển ngôn ngữ của trẻ với người lớn và những trẻ khác.
Để thực hiện được vụ này thì cần có rất nhiều điều kiện như: Cơ sở vật chất tốt,
giáo viên có chuyên môn giỏi, trẻ mạnh dạn tự tin cởi mở trong giao tiếp. Nhưng
những điều kiện trên tại lớp 2tuổi A1 còn rất nhiều hạn chế như: Cơ sở vật chất còn
thiếu thốn nhiều chưa có máy chiếu tại lớp, tranh ảnh minh minh họa cho các câu
chuyện bài thơ có rất ít, đồ dùng ,đồ chơi tại lớp còn thiếu . Giáo viên chưa có
nhiều thời gian quan tâm tới từng trẻ. Trẻ ở lớp còn quấy khóc nhiều, các cháu còn
rụt rè, chưa mạnh dạn tự tin khi giao tiếp với người khác.
Nhiệm vụ của giáo dục mầm non là giúp trẻ phát triển toàn diện về cả năm lĩnh
vực là Đức- Trí- Thể- Mĩ và Tình cảm xã hội. Trong đó phát triển ngôn ngữ là một
nhiệm vụ vô cùng quan trọng. Là một giáo viên mầm non đang trực tiếp giảng dạy
các cháu ở độ tuổi từ 24-36 tháng tuổi tôi thấy ngôn ngữ của các cháu ở độ tuổi
1
này còn rất hạn chế như: Trẻ hay nói trống không, nói lắp, nói ngọng, số trẻ nói
được câu đơn có hai thành phần còn ít, trong giao tiếp trẻ còn chưa tự tin. Nghe và
hiểu được cô nói còn gặp nhiều khó khăn, vì lượng vốn từ của trẻ còn quá ít. Xuất
phát từ nhiệm vụ phát triển ngôn ngữ cho trẻ từ 24-36 tháng và những khó khăn tại
lớp tôi đang dạy mà tôi đã chọn đề tài : “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ
cho trẻ 24- 36 tháng tuổi” để làm sáng kiến kinh nghiệm cho mình trong năm học
2018-2019.
2. Tên sáng kiến:
“Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24- 36 tháng tuổi”
3. Tác giả sáng kiến:
- Họ và tên: Phạm Thị Hồng Nhung
- Địa chỉ tác giả sáng kiến: Trường mầm non Liên Bảo – thành phố Vĩnh
Yên – tỉnh Vĩnh Phúc.
- Số điện thoại: 0394879733
Email:
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến
Trường mầm non Liên Bảo – Thành phố Vĩnh Yên
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến:
Sáng kiến được áp dụng đối với trẻ 24- 36 tháng tuổi trường mầm non Liên
Bảo - Thành phố Vĩnh Yên - Tỉnh Vĩnh Phúc.
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu:
- 06/10/2018
7. Mô tả bản chất của sáng kiến:
7.1: Về nội dung của sáng kiến
Đặc điểm phát âm.
Như chúng ta đã biết trẻ trong độ tuổi nhà trẻ từ 24-36 tháng tuổi thì cơ quan
phát âm và tai nghe ngôn ngữ của trẻ đã phát triển, hoàn thiện hơn. Trẻ có khả
năng phát âm được và đúng hầu hết các âm đơn và thanh điệu. Trẻ đã phát âm
được các âm khác nhau. Phát âm được các âm của lời nói nhưng vẫn còn ê a. Trẻ
hay phát âm sai ở những từ khó.
Ví dụ:
- Âm đầu: Khế - kế, đèn pin – đèn bin, thịt gà – chịt gà.
- Âm đệm: Hoa – ha, bánh quy – bánh ki, vô tuyến – vô tiến.
- Thanh điệu: Ngã – ngá, ngủ - ngụ.
2
Đặc điểm vốn từ:
Vốn từ của trẻ 24-36 tháng tuổi tăng nhanh, số lượng từ của trẻ từ 500 - 600
từ. Trong vốn từ của trẻ có tất cả các loại từ đơn, từ ghép. Trẻ có cả từ ghép có 3 4 tiếng. Trẻ đã biết sử dụng các từ chỉ màu sắc như: Màu xanh, màu đỏ ,màu
vàng…. Một số trẻ đã biết sử dụng các từ thể hiện sự lễ phép với người lớn trong
giao tiếp như: Cảm ơn cô, vâng ,dạ…
Đặc điểm ngữ pháp:
Trẻ 24 - 36 tháng tuổi đã liên kết 2,3,4 từ thành câu cụm từ, đặc điểm của
câu cụm từ là chưa phân biệt được các thành phần câu.
Ví dụ: Anh Duy, chị Thảo Nhi
Đa phần trẻ trong độ tuổi đã sử dụng các dạng câu đơn có đủ hai thành phần
là chủ ngữ và vị ngữ, câu đơn của trẻ đã được mở dộng các thành phần khác như:
Bổ ngữ, định ngữ, trạng ngữ.
Ví dụ: Cháu ăn kẹo
Áo màu xanh
Mai con đi cầu trượt
Đặc điểm ngôn ngữ mạch lạc:
Trẻ có thể trả lời được một số câu đơn giản của người lớn. Ngôn ngữ của trẻ
phát triển nhiều hơn, trẻ có thể sử dụng câu trọn vẹn để trả lời người lớn.
Ví dụ: Cô hỏi: Con ăn cơm chưa ?
Trẻ trả lời: Con ăn cơm rồi.
Trẻ bắt đầu biết tham gia nói chuyện với người lớn, với bạn nhưng ở mức độ
và nội dung rất đơn giản. Trẻ có thể hiểu được các tác phẩm văn học có nội dung
đơn giản. Trẻ trình bày yêu cầu của mình có trình tự hơn, người nghe dễ hiểu trẻ
hơn.
Trẻ 24-36 tháng tuổi ngôn ngữ của trẻ còn chưa nhiều và còn rất nhiều mặt
hạn chế như: Trẻ hay nói trống không, nói lắp, nói ngọng, số trẻ nói được câu đơn
có hai thành phần còn ít, trong giao tiếp trẻ còn chưa tự tin. Nghe và hiểu được cô
nói còn gặp nhiều khó khăn, vì lượng vốn từ của trẻ còn quá ít. Trước thực trạng đó
phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24-36 tháng tuổi là một việc làm cần thiết.
Từ những vấn đề nêu trên bản thân tôi đã đưa ra một số biện pháp phát triển
ngôn ngữ cho trẻ 24 -36 tháng tuổi như sau:
a. Biện pháp 1 : Phát triển ngôn ngữ thông chế độ sinh hoạt hàng ngày.
3
* Phát triển ngôn ngữ thông qua giờ đón trẻ và trả trẻ:
Đối với trẻ mầm non nói chung và trẻ 24-36 tháng tuổi nói riêng thì trong giờ
đón trẻ cô đón trẻ với thái độ niềm nở, ân cần, tạo cho trẻ có cảm giác được yêu
thương khi trẻ đến lớp. Giờ đón và trả trẻ tôi luôn nhắc nhở trẻ chào cô, chào ông
bà, bố mẹ để giáo dục trẻ có thói quen lễ phép với người lớn, qua đó còn kích thích
trẻ phát triển ngôn ngữ. Qua giờ đón trẻ cô giáo luôn luôn trò chuyện với trẻ về chủ
đề, chủ điểm, về những vấn đề mà cô cần truyền tải đến trẻ, cần giáo dục trẻ và cần
cho trẻ biết và hiểu. Vì trò chuyện với trẻ là hình thức đơn giản nhất để cung cấp
vốn từ và phát triển ngôn ngữ cho trẻ, bởi qua trò chuyện cô cung cấp và mở rộng
vốn từ mới và củng cố vốn từ cũ cho trẻ, khi trẻ mạnh dạn trò chuyện cùng với cô
có nghĩa là trẻ đã tự tin vào vốn từ của mình, ngôn ngữ của trẻ nhờ đó mà được mở
rộng và phát triển hơn.
Ví dụ: Khi đón trẻ vào lớp và trả trẻ cô luôn nhắc trẻ biết chào cô giáo, chào
bố mẹ.
Con chào cô ạ.
Con chào bố,(mẹ) ạ.
Ví dụ: Trò chuyện với trẻ về tên các đồ dùng cá nhân của trẻ ở giờ đón trẻ.
Cô hỏi trẻ:
Đây là cái gì?
Dùng như thế nào? Có màu gì?
Ba lô của con cất ở đâu?
Ví dụ: Trò chuyện với trẻ về các đồ chơi trong lớp và đồ chơi ngoài trời:
Đây là đồ chơi gì? Có màu gì?
Đồ chơi này chơi ở đâu? Chơi xong con cất ở đâu?
Con thích chơi đồ chơi nào?
Cho trẻ đi lấy đồ chơi theo yêu cầu của cô và cho trẻ gọi tên.
Khi trò chuyện với cô trẻ tự tin vào vốn từ của mình, ngôn ngữ của trẻ nhờ
đó mà được mở rộng và phát triển hơn.
*Phát triển ngôn ngữ cho trẻ qua giờ Chơi hoạt động ở các góc:
Trẻ học mà chơi, chơi mà học. Đối với trẻ mầm non thì vui chơi có vai trò
quan trọng nhất đối với sự phát triển của trẻ, vui chơi ảnh hưởng mạnh đến sự hình
thành tính chủ định của các quá trình tâm lý ở trẻ. Vì thế cần tạo cho trẻ môi
trường để trẻ được hoạt động, trải nghiệm, vui chơi, từ đó trẻ có thể tiếp thu kiến
thức một cách nhẹ nhàng, tự nhiên hơn. Trẻ chơi chủ yếu do nhu cầu và khả năng
của trẻ, nhu cầu muốn bắt chước, muốn làm người lớn, nhưng khả năng và sức lực
4
của trẻ chưa đủ để làm người lớn do đó trẻ giải tỏa nhu cầu đó dưới hình thức là
hoạt động chơi ở các góc: Góc phân vai, góc xây dựng, góc học tập, góc nghệ
thuật, góc thiên nhiên,…Qua đó, trẻ được phát triển và mở rộng tính sáng tạo, độc
đáo và sự tác động qua lại giữa trẻ với môi trường xung quanh một cách tích cực,
tự lực, tự nguyện và tự tin.
Hoạt động chơi ở các góc có giá trị rất lớn và đã trở thành phương tiện để giáo
dục trẻ phát triển ngôn ngữ, giúp trẻ được trò chuyện với bạn, được đóng vai các
nhân vật mà mình thích, được nói nên những suy nghĩ của mình, được quan sát và
sử dụng các đồ dùng đồ chơi ở các góc.
Ví dụ: Trò chơi đóng vai theo chủ đề trẻ chơi trò chơi: “Em bé”
Khi chơi trò chơi này trẻ đóng vai là mẹ của em bé, lúc này ngôn ngữ của trẻ
phải thể hiện đúng với vai chơi như:
Trẻ nịnh em bé: chị yêu con, em ngoan quá...
Trẻ cho em bé ăn: em ăn đi, có ngon không, em ngoan quá....
Khi chơi trẻ giao tiếp, được thể hiện những suy nghĩ, cảm xúc của mình chính
vì vậy ngôn của trẻ được tích lũy và phát triển tự nhiên.
* Phát triển ngôn ngữ thông qua giờ hoạt động ngoài trời:
Hoạt động ngoài trời là một hoạt động không thể thiếu trong chế độ sinh
hoạt hàng ngày của trẻ. Bởi thông qua đó, trẻ được tiếp xúc, gần gũi với thiên
nhiên, hít thở bầu không khí trong lành, đồng thời được khám phá, thoả mãn trí
tò mò của trẻ.
Một lợi ích quan trọng của hoạt động ngoài trời là tăng cường kĩ năng giao
tiếp của trẻ. Trẻ sẽ tiếp xúc, làm quen, nói chuyện với các bạn trong lớp, từ đó
giúp trẻ mạnh dạn, tự tin hơn trong giao tiếp. Ngoài ra, trẻ sẽ dễ dàng thích
nghi, hòa nhập khi đến các môi trường khác. khi trẻ tham gia các hoạt động
ngoài trời, khi trẻ đùa nghịch, cười nói, chạy nhảy… thực chất là trẻ khám phá,
học hỏi và có điều kiện phát triển tốt nhất ngôn ngữ của mình.
Để hoạt động ngoài trời có thể giúp trẻ phát triển ngôn ngữ cho trẻ một cách
tốt nhất tôi đã thực hiện như sau: Có thể chỉ là những hoạt động đơn giản như:
Cho các bé chơi cầu trượt, nhà bóng, đi dạo quanh sân, khi thì nhận biết các
cây xanh, các loài hoa có trong khuôn viên nhà trường…, cũng có thể là những
hoạt động cầu kì hơn như: Cho bé tham gia hội chợ của nhà trường, đi chơi
công viên, tham gia các trò chơi dân gian… Từ đó trẻ được quan sát, trò
chuyện, nêu ra suy nghĩ của về các sự vật hiện tượng xung quanh trẻ. Từ những
hoạt động này vốn từ của trẻ được tích lũy và tăng lên.
5
Ví dụ: Trong giờ hoạt động ngoài trời “ Quan sát cây hoa hồng”
Cô cho trẻ quan sát cây hoa hồng và cho trẻ tự nhận xét về cây hoa hồng
theo sự hiểu biết của trẻ. Cô để cho trẻ được nhìn, được sờ, được ngửi và được
nói thật nhiều. Sau đó cô mới hỏi trẻ:
+ Các con có biết đây là cây hoa gì không?
+ Cây hoa hồng này có những bộ phận nào?
+ Cô hỏi trẻ về đặc điểm, màu sắc của từng bộ phận của cây hoa.
Sau khi hỏi trẻ xong cô mới chốt lại kiến thức cho trẻ: Cô vừa nói vừa chỉ
vào từng bộ phận của cây: Đây là cây hoa hồng, cây hoa hồng có các bộ phận
là rễ cây, thân cây, lá cây và hoa. Rễ cây có màu nâu, thân và lá cây có màu
xanh, trên thân cây có gai nhọn, hoa có màu đỏ và có mùi thơm.
Sau khi quan sát cây hoa hồng xong trẻ sẽ có các biểu tượng về cây hoa
hồng, màu sắc của lá, của hoa , hiểu và sử dụng đúng các từ như màu xanh màu đỏ - gai nhọn ….
* Phát triển ngôn ngữ thông qua giờ ăn:
Giờ ăn ở trường không chỉ cung cấp các chất dinh dưỡng cần thiết cho cơ thể
để trẻ phát triển khỏe mạnh mà còn giúp trẻ phát triển ngôn ngữ để làm được
điều này đòi hỏi các cô phải khéo nhằm tạo cho trẻ có nề nếp, có hiểu biết về
các món ăn, tạo hứng thú cho trẻ khi tham gia ăn uống.
Ví dụ: Tổ chức giờ ăn trưa cho các cháu ở độ tuổi từ 24-36 tháng tuổi .
Sau khi cho trẻ đi rửa tay và ngồi vào bàn ăn để tạo hứng thú cho trẻ tôi cho
các con đọc bài thơ “Giờ ăn” và hỏi trẻ:
- Các con vừa đọc bài thơ gì?
- Khi ngồi ăn cơm các con cần làm gì?
- Trước khi chia ăn cô cần giới thiệu về các món ăn cho trẻ để trẻ được
quan sát và biết được tên gọi của món mà trẻ ăn. Ví dụ như hôm nay các con ăn
món “Cá thu sốt cà chua” rất ngon, cá thu là cá biển rất giàu iốt nó giúp các
con thông minh hơn, cà chua có màu đỏ giàu vitamin A ăn vào giúp sáng mắt
đẹp da.
Bằng các hình thức như đọc thơ, hát, nghe cô giới thiệu và trò chuyện về
các món ăn mà trẻ có thêm những hiểu biết về thế giới xung quanh trẻ, trẻ thêm
hiểu biết về những món ăn mà trẻ được ăn. Khi được trò chuyện cùng cô và các
bạn thì vốn từ của trẻ sẽ phong phú và đa dạng hơn.
b. Biện pháp 2: Phát triển ngôn ngữ cho trẻ qua hoạt động học.
6
* Phát triển ngôn ngữ cho trẻ qua giờ nhận biết :
Ở giờ học này đã hình thành khái niệm ban đầu về sự vật, biểu tượng nhằm
mục đích phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Mỗi một biểu tượng mà trẻ được lĩnh hội được đều phải củng cố ngay bằng
ngôn ngữ, từ đó đã tạo điều kiện để rèn luyện kỹ năng phát âm, rèn luyện câu theo
cấu trúc ngữ pháp và đặc biệt là tăng nhanh vốn từ cho trẻ.
Ví dụ: Nhận biết: “ Hình tròn”
Cô chuẩn bị cô và mỗi trẻ một hình tròn bằng nhựa hoặc bằng bìa cát tông
Cô chuẩn bị cô và mỗi trẻ một hình tròn bằng nhựa hoặc bằng bìa cát tông
có màu sắc rõ nét để cho trẻ được quan sát, sờ và chơi với hình.
Cô cho trẻ quan sát và chơi với hình tròn ( Trải nghiệm với hình tròn)
Cho trẻ nói những đặc điểm cuả hình tròn: Về tên hình, màu sắc....
Các con có hình gì đây ?( Hình tròn )
Các con cùng chơi với hình tròn nào.
Các con cất hình vào rổ và cùng quan sát vật mẫu của cô
Cô có hình gì đây? ( Hình tròn )
Hình tròn có màu gì? ( Màu xanh )
Các con cùng cầm hình tròn và lăn xem hình tròn có lăn được không ?
Các con lăn hình tròn giống cô nào?
7
Vì sao hình tròn lăn được nhỉ ? (Vì hình tròn không có cạnh và không có góc
lên hình tròn lăn được đấy các con ạ)
Ví dụ: Nhận biết: “Quả dưa hấu”
Cô phải chuẩn bị một quả dưa thật, quả dưa có hình dạng và màu sắc rõ nét
để cho trẻ được quan sát. Trẻ được sử dụng các giác quan như: Sờ, nhìn, ăn,……
nhằm phát huy tính tích cực của tư duy, rèn khẳ năng ghi nhớ có mục đích cho trẻ.
Sau khi cho trẻ được quan sát, được sờ quả dưa, được ăn để cảm nhận
hương vị…. giúp trẻ hứng thú tập trung vào đối tượng quan sát cô cần cho trẻ được
nói về quả dưa hấu theo sự hiểu biết của trẻ sau đó cô mới đưa ra hệ thống câu hỏi:
Đây là quả gì? (Quả dưa hấu)
Quả dưa hấu của cô có dạng hình gì? (Hình tròn)
Vỏ quả dưa có màu gì? (Màu xanh)
Vừa rồi các con đã được sờ vào quả dưa hấu, con thấy vỏ quả dưa hấu như
thế nào? (Vỏ nhẵn)
Và đây là một miếng dưa hấu đã cắt sẵn. Cô chỉ vào phần ruột của quả dưa
hấu và hỏi trẻ đây là gì của quả dưa? (Phần ruột)
Ruột có màu gì? (Màu đỏ)
Cô chỉ vào hạt dưa hấu và hỏi trẻ. Đây là gì của quả dưa hấu? (Hạt dưa)
Hạt dưa hấu có màu gì ? (Màu đen)
Hạt dưa có ăn được không ? (Không)
Khi ăn dưa hấu vỏ và hạt dưa hấu phải bỏ vào đâu? (Thùng rác)
* Phát triển ngôn ngữ cho trẻ qua hoạt động làm quen với văn học:
Giời học này có tác dụng làm giàu vốn từ, phát triển ngôn ngữ mạch lạc ở
trẻ , bồi dưỡng năng lực cảm thụ tác phẩm nghệ thuật và diễn đạt bằng ngôn ngữ
văn học.
Ví dụ: Truyện: “Cây táo”
Qua câu truyện “Cây táo” ngoài việc giúp trẻ thể hiện ngữ điệu, sắc thái tình
cảm của các nhân vật trong truyện tôi còn giúp trẻ phát âm chuẩn để trẻ không nói
ngọng, nói lắp, trẻ nói đủ câu.
Để giúp trẻ phát triển ngôn ngữ tốt, tôi đã chuản bị một hệ thống câu hỏi.
Các con vừa được nghe cô kể câu truyện gì?
Trong câu truyện có những nhân vật nào?
Ai đã trồng cây táo? (Ông)
8
Ai tưới nước cho cây?(Bé)
Ai sưởi ấm cho cây? (Ông mặt trời)
Gà trống đi qua nói thế nào với cây? (Cây ơi, cây lớn mau)
Khi nghe gà trống nói những gì đã bật ra? Lá non)
Những con bướm bay qua nói gì? (Cây ơi, cây lớn mau)
Thế là cây như thế nào? (Cây ra đầy hoa)
Và cuối cùng quả gì hiện ra?(Quả táo)
Khi quả táo chín thì bé đã làm gì? (Giơ áo ra)
Qủa táo đã dụng vào đâu? (Lòng bé)
Ví dụ: Bài thơ “Con voi”
Ngoài hệ thống câu hỏi thì tôi còn chuẩn bị tranh ảnh minh họa giúp trẻ
hứng thú hơn.
Hệ thống câu hỏi:
- Cô vừa đọc bài thơ gì?
- Con voi cái vòi đi ở đâu?
- Hai chân trước đi thế nào?
- Hai chân sau đi ở đâu?
- Còn cái đuôi đi phía nào?
* Phát triển ngôn ngữ cho trẻ qua các giờ học khác:
Các giờ học: “Tạo hình”, “Hoạt động với đồ vật”, “Thể chất”, “Âm nhạc”
qua các giời học này trẻ đã rèn luyện về mặt phát âm, có thêm nhiều từ mới và hiểu
được ý nghĩa của từ. Trẻ được rèn thêm về mặt ngữ pháp. Giáo viên còn sử dụng
các giờ học này như một phương tiện để củng cố những ngôn ngữ mà trẻ đã thu
nhận được.
Ví dụ: Giờ: “ Tạo hình ”- Đề tài: Tô bông hoa hồng (Mẫu)
Cô cho trẻ quan sát tranh mẫu, cô cùng trò chuyện với trẻ về bức tranh để
giúp trẻ pháp triển ngôn ngữ và phát âm chuẩn một số từ mới:
Cô có bức tranh vẽ về gì đây ? (Bông hoa hồng)
Bông hoa hồng của cô có màu gì? (Màu đỏ)
Lá hoa của cô có màu gì? (Màu xanh)
Thân cây có màu gì? (Màu xanh)
Khi trẻ bắt đầu thực hiện tô, cô hỏi trẻ:
9
Con sẽ tô cái gì trước? và cái đó con tô màu gì?
Con cầm bút bằng tay nào?....
Ví dụ: Giờ: “Hoạt động với đồ vật” – Đề tài: “Xâu vòng màu đỏ tặng bạn
búp bê”
Cô và trẻ quan sát vật mẫu cùng trò chuyện về vật mẫu.
Cô có cái gì đây? (Cái vòng)
Cái vòng của cô màu gì? (Màu đỏ)
Trong khi trẻ thực hiện cô hỏi trẻ:
Đan ơi! Con có cái gì? (Cái dây), còn đây (Hạt vòng)
Linh ơi! Hạt vòng có màu gì? (Màu đỏ)
Nhi xâu vòng để làm gì vậy? (Tặng búp bê)
Khi xâu vòng xong con phải làm gì? (Buộc 2 đầu dây vào nhau)
Khi hoàn thiện xong chiếc vòng thì các con để sản phẩm của mình nhẹ
nhàng vào khay để lên tặng bạn búp bê nhé ! (Vâng ạ)
Tôi và trẻ cùng trò chuyện và tôi đặt cho trẻ một hệ thống câu hỏi để trẻ trả
lời nhằm kích thích trẻ phát triển tư duy và ngôn ngữ cho trẻ.
Ví dụ: Giờ “ Thể chất”- VĐCB: Đi theo hiệu lệnh
- TC: Dung dăng dung dẻ
Trong vận động cơ bản trẻ nghe và đã hiểu được lời nói của cô, trẻ đã thực
hiện được đúng theo hiệu lệnh của cô như:
- Khi cô hô đi nhanh thì trẻ đi nhanh theo yêu cầu của cô.
- Khi cô hô đi chậm hoặc dừng lại thì trẻ đi theo yêu cầu của cô.
Trong trò chơi “Dung dăng dung dẻ” trẻ vừa chơi vừa đọc bài đồng dao
cùng cô từ đó đã phát triển được ngôn ngữ cho trẻ.
“ Dung dăng dung dẻ,
Dắt trẻ đi chơi.
Đến cửa nhà trời,
Lạy cậu lạy mợ,
Cho cháu về quê,
Cho dê đi học,
Cho cóc ở nhà,
Cho gà bới bếp,
Xì xà xì xụp
Ngồi thụp xuống đây”.
10
Ví dụ: Giờ: Âm nhạc:
NDTT: Dạy hát bài: “Chú mèo”
NDKH:TCÂN:“Bắt trước tiếng kêu của các con vật”
Để pháp triển ngôn ngữ cho trẻ, tôi hỏi trẻ:
Các con vừa được nghe cô hát bài hát gì? (Chú mèo)
Cô cho trẻ đọc lời bài hát cùng cô.
Cô cho trẻ hát theo lời bài hát.
Cô cho trẻ được hát nhiều dưới các hình thức khác nhau như: Tổ, nhóm, cá
nhân. (Cô chú ý rèn cho trẻ hát rõ lời, đúng nhạc.)
Hình ảnh minh họa
Đối với trò chơi, khi cô nói tên con vật nào thì trẻ sẽ bắt trước tiếng kêu của
con vật đấy.
Con chó - trẻ nói: Gâu gâu
Con mèo - trẻ nói: Meo meo
Con gà trống - trẻ nói: Ò ó o
Con vịt - trẻ nói: Cạc cạc
Con gà con - trẻ nói: Chiếp chiếp
Qua tiết học đã giúp trẻ phát triển tai nghe, tư duy, ghi nhớ, phát triển ngôn
ngữ cho trẻ giúp trẻ phát âm chuẩn ngữ pháp, không nói ngọng, nói đủ câu.
11
* Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua việc dạy trẻ tập nói.
Trẻ 24-36 tháng tuổi đây là giai đoạn quan trọng nhất trong sự phát triển
ngôn ngữ của trẻ. Do đặc điểm phát triển và như cầu giao tiếp mà vào giai đoạn
này lời nói của trẻ phát triển với tốc độ mạnh mẽ nhất.
Phát triển lời nói cần phát triển ở trẻ năng lực quan sát, nhận biết các đồ vật,
hiện tượng khác nhau, đồng thời cho trẻ làm quen với các hoạt động lao động của
người lớn. Kết quả là sẽ phát triển được cho trẻ mặt hiểu ý nghĩa của lời nói, khả
năng phát âm, các chức năng giao tiếp và khái quát hóa.
Dạy nói cho trẻ trong các tiết học và trong toàn bộ cả ngày sinh hoạt, vui
chơi của trẻ. Quan sát thế giới xung quanh một cách có tổ chức được mở rộng hơn,
trẻ không chỉ được quan sát các phương tiện giao thông khác nhau mà còn được
phân biệt chúng theo bề ngoài.
Ví dụ: Khi học về ô tô .
Cô cho trẻ quan sát có nhiều loại ô tô khác nhau như: Ô tô tải, xe buýt, xe
ca….chỉ cho trẻ biết chúng được cấu tạo từ những phần: cabin, vô lăng, cửa ra vào.
Trong quá trình quan sát các đối tượng trẻ được chính xác hóa các biểu
tượng đã về các đồ vật, hiện tượng mà trẻ được quan sát. Những quan sát được tiến
hành cả trong trường, ngoài trường, khi dạo chơi tham quan….
Những tiết học sử dụng tranh có chủ đề ảnh hưởng đến sự phát triển nhiều
mặt của trẻ: Làm phong phú các biểu tượng đạo đức, phát triển năng lực trò chơi tự
lập, phát triển lời nói như một phương tiện giao tiếp giữa cô giáo và trẻ, tích cực
hóa vốn từ cho trẻ.
Một phương tiện trực quan nữa là lời nói nghệ thuật cũng được sử dụng
trong các tiết học. Trẻ được nghe và kể lại những câu chuyện, bài thơ, đồng dao
ngắn. Giáo viên cần tổ chức kể chuyện một cách có hệ thống và bằng nhiều cách
khác nhau.
Ví dụ: Bài thơ “ Đôi dép”
Cô có thể cho trẻ đọc thơ dưới nhiều hình thức:
Đọc thơ diễn cảm.
Đọc thơ cùng động tác minh họa.
Việc phát triển lời nói cho trẻ không chỉ được thực hiện ở các tiết học với
những phương tiện trược quan mà còn được phát triển trong trò chơi tự lập của trẻ.
Để phát triển giao tiếp ngôn ngữ, việc tổ chức cho trẻ chơi cùng nhau cũng
có ý nghĩa rất quan trọng. Cô cần dạy trẻ dần dần, không áp đặt. Bắt đầu quan sát
bạn chơi, sau đó từ từ mới đưa trẻ tham gia vào chơi. Từ đó , trò chơi từ độc lập
12
chuyển sang trò chơi có sự hợp tác giữa các vai chơi với nhau, từ đó vốn từ của trẻ
được phát triển khá mạnh.
Cô đặc biệt chú ý đến những cháu nói ngọng, cô phải kiên nhẫn dạy trẻ nói
từng từ một. Cô nói trước để trẻ bắt trước nói theo, cho trẻ phát âm nhiều lần.
Ví dụ: Đối với trẻ nói ngọng.
“Búp bê” trẻ nói thành “Púp bê”
“ Ô tô” trẻ nói thành “Pô tô”
Cô phát âm lại từ “Búp bê”, “Ô tô” rồi yêu cầu trẻ phát âm lại.
Còn với những trẻ nói lắp cô cần rèn cho trẻ nói chậm lại, cô cho trẻ phát âm
từng từ, từng câu một.
Trẻ học phát âm từ cô rất nhiều chính vì vậy cô phải là người phát âm chuẩn
để trẻ học theo.
c. Biện pháp 3: Xây dựng môi trường giáo dục nhằm phát triển ngôn
ngữ cho.
Đối với trẻ mầm non nói chung và trẻ nhà trẻ 24- 36 tháng tuổi nói riêng thì
việc xây dựng môi trường giáo dục là rất quan trọng vì môi trường giáo dục tốt
mới kích thích sự tìm tòi khám phá ở trẻ từ đó ngôn ngữ của trẻ phát triển rất tốt.
Chính vì vậy từ đầu năm học tôi đã tạo cho trẻ một môi trường lớp học sạch sẽ
thân thiện, trang trí các nội dung giáo dục theo chủ đề, chủ điểm làm nhiều góc mở
để lôi cuốn trẻ vào hoạt động. Đặc biệt mỗi góc chơi tôi thường đưa ra một số nội
quy nhỏ giúp trẻ thực hiện đúng theo nội quy của từng góc. Thông qua các hoạt
động hàng ngày trẻ được “Học mà chơi, chơi mà học” từ đó ngôn ngữ của trẻ được
phát triển và hoàn thiện.
Tại các góc trong lớp như: Góc học tập, góc thư viện của bé, góc đóng vai
hay tranh chủ đề…tôi thường sử dụng tranh ảnh minh họa sinh động để tạo hứng
thú cho trẻ tham gia các hoạt động.
Đặc biệt ở góc thư viện của bé cần sưu tầm, bổ sung nhiều loại sách truyện
để trẻ được quan sát, tìm tòi học hỏi. Khi cùng nhau học hỏi sẽ khiến trẻ tích cực
trao đổi trò chuyện với bạn giúp ngôn ngữ của trẻ ngày càng phong phú hơn.
13
Hình ảnh minh họa:
Ví dụ: Trang trí lớp ở chủ đề “Thế giới động vật”
- Tại góc học tập: Tôi sử dụng các hình ảnh trang trí trên tường là các con
vật in 3D, hoặc tranh in màu giúp cho hình ảnh các con vật được chân thật và sinh
động. Ngoài ra tôi còn khâu các con rối dẹt hay chuẩn bị lôtô các con vật để góc
học tập được phong phú, đa dạng.
- Tại góc thư viện của bé: Ngoài trang trí trên mảng tường tôi còn chuẩn bị
thêm các quyển truyện, sách, báo, tranh ảnh, lô tô có hình ảnh của các con vật để
trẻ được quan sát, gọi tên và trẻ trò chuyện với nhau các con vật, thức ăn, môi
trường sống của chúng….
- Tại góc xây dựng: Ngoài những đồ dùng, đồ chơi có sẵn thì tôi thừơng
xuyên tận dụng các nguyên vật liệu có sẵn để làm đồ chơi cho trẻ. Tôi đã tận dụng
bìa cát tông để tạo thành những viên gạch, dùng vải khâu các con vật, dùng xốp VA
để tạo thành những thảm cỏ….
- Góc thiên nhiên: Tạo góc thiên nhiên đa dạng, phong phú, sinh động bằng
cách. Cô trồng các loại cây xanh, cây hoa, rau xanh, bể cá nhỏ…để hàng ngày trẻ
được tưới nước, nhổ cỏ, bắt sâu cho cây, cho cá ăn…Khi cho trẻ được trực tiếp trải
nghiệm thì trẻ sẽ hứng thú, tích cực tham gia hơn.
14
d. Biện pháp 4: Tuyên truyền kết hợp với phụ huynh để phát triển ngôn
ngữ cho trẻ.
Như chúng ta đã thấy môi trường tiếp xúc của trẻ chủ yếu là gia đình và nhà
trường. Chính vì vậy việc kết hợp giữa gia đình và nhà trường là một biện pháp
không thể thiếu. Phụ huynh chính là nhân tố không thể thiếu trong việc tạo môi
trường và hỗ trợ các biện pháp của giáo viên đưa ra để phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Trẻ 24-36 tháng tuổi là trẻ mới đi học lên vốn từ của trẻ còn hạn hẹp, hơn
nữa trẻ rất hay nói ngọng, nói lắp, nói trống không, nói không đủ câu thì vai trò của
phụ huynh kết hợp với cô giáo trong việc trò chuyện với trẻ là rất cần thiết bởi nó
giúp trẻ được vận dụng những kiến thức đã học vào cuộc sống của trẻ, trẻ được
giao tiếp, được sửa âm, sửa ngọng.
Để phối hợp với phụ huynh được hiệu quả trong việc phát triển ngôn ngữ tôi
đã làm như sau:
- Trong cuộc họp phụ huynh: Tôi đã trao đổi với cha mẹ trẻ về những vấn đề
của từng trẻ đang mắc phải như: chặm nói, nói ngọng, nói lắp...Để cha mẹ có thể
nắm rõ được tình hình của con mình.
- Trao đổi với phụ huynh, cố gắng dành nhiều thời gian để trò chuyện với
trẻ. Tránh cho trẻ xem tivi, xem điện thoại nhiều vì đây cũng là một nguyên nhân
dẫn đến trẻ chậm nói và tự kỷ.
Ví dụ: Để cung cấp vốn từ cho trẻ.
Để cung cấp vốn từ cho trẻ ở nhà phụ huynh có thể cho trẻ gọi tên các đồ
dùng, vật dụng trong gia đình như: Tivi, tủ lạnh, quạt, nồi cơm điện. Hay gọi tên
các món ăn trước khi ăn như: Cơm, canh rau ngót, thịt rang...
Cha mẹ hay người thân khi trò chuyện với trẻ phải rõ ràng, mạch lạc, tốc độ
vừa phải, không dùng các từ địa phương. Không bắt trước những từ trẻ nói ngọng
mà cần sử ngay cho trẻ để trẻ nói đúng. Ví dụ: Khi trẻ phát âm là “ Púp bê” thì phải
sửa ngay cho trẻ phát âm thành “Búp bê”, đồng thời phụ huynh phát âm lại cho trẻ
nghe và yêu cầu trẻ phát âm lại từ đó giúp trẻ phát âm đúng, rõ ràng mạch lạc. Cha
mẹ cũng cần chú ý điều chỉnh tốc độ nói của trẻ để khi trẻ nói có tốc độ vừa phải,
dễ nghe.
Tôi đã xây dựng góc thư gỏ để vận động phụ huynh hỗ trợ nguyên vật liệu:
Sách báo cũ, hộp bìa cát tông, chai nhựa, cây xanh,... để làm đồ dùng đồ chơi,
trang trí và tạo môi trường và góc học mở cho trẻ hoạt động trong và ngoài lớp.
Ví dụ: Phát động phụ huynh chung tay xây dựng góc thiên nhiên cho trẻ,
mỗi phụ huynh ủng hộ cho góc thiên nhiên của các con bằng cây xanh, cây hoa,
chậu dựng hoa, giá treo cây cảnh... Qua đợt phát động kết quả thu được rất tốt,phụ
15
huynh ủng hộ rất nhiệt tình, góc thiên nhiên của các con đẹp hơn, phong phú và đa
dạng về các loại cây hơn.
7.2: Về khả năng áp dụng của sáng kiến:
Sáng kiến kinh nghiệm của tôi mang tính cải tiến, các biện pháp trên có tính
khả thi và đạt hiệu quả tốt khi áp dụng cho trẻ 25-36 tháng tuổi ở trường mầm non
Liên Bảo- Thành phố Vĩnh Yên- Tỉnh Vĩnh Phúc, được áp dụng trong tất cả các
hoạt động hàng ngày của trẻ ở trường, có thể nhân diện đại trà các trường mầm non
trong thành phố và mang lại hiệu quả cao.
8. Những thông tin cần được bảo mật : Không
9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
Đối với giáo viên:
Phải có hiểu biết về đặc điểm tâm sinh lý của trẻ, về phương pháp giáo dục
trẻ nói chung cũng như phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ nói riêng , cô giáo
phải là người nắm vững mục đích, thái độ, nội dung phát triển ngôn ngữ cho trẻ và
khả năng thực hiện thực hiện nhiệm vụ và nội dung đó.
Có những kỹ năng thực hành cần thiết như biết giao tiếp với trẻ, biết tổ chức
cho trẻ chơi, biết lên kế hoạch công việc, biết điều khiển các hoạt động của trẻ
trong ngày.
Cô cần phải biết và nắm vững tiếng mẹ đẻ, ngôn ngữ của cô phải chuẩn
mực.
Phải có kiến thức về bộ môn đề tài nghiên cứu
Có sự quan tâm, giúp đỡ và sự ủng hộ nhiệt tình của ban giám hiệu nhà
trường, của phụ huynh học sinh.
Cô giáo phải là người yêu thương trẻ, yêu nghề của mình.
Nhanh nhẹn, hoạt bát, chịu khó tìm tòi nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp
vụ có liên quan đến đề tài.
Đối với gia đình trẻ.
Gia đình có vai trò đặc biệt trong việc phát triển ngô ngữ cho trẻ. Trong đó
phải kể đến vai trò của người mẹ. Chính người mẹ đã đặt cơ sở cho những thói
quen đầu tiên trong việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ và các thành viên khác cũng
cần quan tâm đến nhiệm vụ phát triển ngôn ngữ cho trẻ như: Ông, bà, bố, anh,
chị…
Gia đình và những người lớn xung quanh trẻ phải có ý thức như: Ngôn ngữ
phải chính xác, không nói ngọng, không nói lắp, lời nói phải có văn hóa lịch thiệp
để làm gương cho trẻ bắt chước. Người lớn phải có ý thức sửa sai cho trẻ.
16
Đối với trẻ:
Trẻ có nề nếp, ngoan ngoãn, có khả năng phát triển bình thường.
Trẻ phải được thỏa mái, sung sướng và tự tin khi tham gia các hoạt động.
Ham muốn học hỏi, khám phá, có hiểu biết, tích cực học tập, vui chơi
Cơ sở vật chất:
Môi trường tự nhiên tốt, cơ sở vật chất có đầy đủ và được đảm bảo về chất
lượng cũng như về số lượng để thực hiện đề tài.
Môi trường trong lớp, ngoài lớp đảm bảo an toàn, rộng, đẹp, khoa học và
phù hợp với trẻ ở độ tuổi.
Có máy tính, máy chiếu, đồ dùng trực quan phong phú và đa dạng, sinh
động.
Có đầy đủ các phương tiện, đồ dùng dạy học phục vụ cho nhiệm vụ phát
triển ngôn ngữ cho trẻ 24-36 tháng tuổi.
10. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng
sáng kiến theo ý kiến của tác giả và theo ý kiến của tổ chức, cá nhân đã tham
gia áp dụng sáng kiến lần đầu, kể cả áp dụng thử (nếu có) theo các nội dung
sau:
10.1. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng
giải pháp trong đơn theo ý kiến của tác giả với các nội dung sau:
Sau khi tôi sử dụng một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24-36
tháng tuổi tôi đã thu được kết quả sau:
Áp dụng “ Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24-36 tháng
tuổi” tai trường Mầm non Liên Bảo đã nâng cao được chất lượng trong việc dạy
trẻ không nói lắp, nói trống không, nói đủ câu, nói không bị ngọng và rất tự tin
trong giao tiếp.
Khi trẻ đã có một vốn ngôn ngữ nhất định, trẻ sử dụng ngôn ngữ như
phương tiện biểu cảm của mình. Trẻ có thể dùng lời để diễn đạt những hiểu biết,
những suy nghĩ, những nhu cầu của bản thân, những cảm xúc của mình. Trẻ hiểu
được lời chỉ dẫn của người lớn, của cô giáo.
Rèn luyện cho trẻ kỹ năng nghe và nói để tạo điều kiện cho trẻ phát triển
ngôn ngữ và thể hiện những kỹ năng kiến thức mà mình đã học thông qua giao
tiếp.
17
*Bảng kết quả:
Nội dung
Phát âm rõ ràng
Trẻ chú ý lắng nghe
Khẳ năng nói đúng ngữ
pháp
Nghe hiểu một số từ, câu
nói đơn giản
Trước khi thực hiện
Sau khi thực hiện
Đạt 12/36= 33,3 %
Đạt 31/36 = 86.1 %
Chưa đạt 24/36= 66,7 %
Chưa đạt 5/ 36= 13,9 %
Đạt 13/36= 36.1 %
Đạt 32/36 = 88.8 %
Chưa đạt 23/36= 63,9 %
Chưa đạt 4/36=12.2 %
Đạt 11/36 = 30.5 %
Đạt 30/36 = 83.3%
Chưa đạt 25/ 36= 69,5%
Chưa đạt 6/ 36= 17.7 %
Đạt 11/36 = 30.5 %
Đạt 29/36 = 80.5%
Chưa đạt 25/36= 69,5 %
Chưa đạt 7/36= 19,5 %
+ Mang lại hiệu quả kinh tế:
Giáo viên đã biết tận dụng được những nguyên liệu tự nhiên hoặc đã qua sử
dụng để tạo ra các đồ dùng đồ chơi phục vụ cho các hoạt động trong ngày của trẻ.
Qua công tác này sẽ mang lại hiệu quả kinh tế cao, giảm chi phí mua đồ dùng đồ
chơi cho trẻ.
+ Mang lại lợi ích cho xã hội:
Thông qua đề tài này tôi muốn cùng bạn bè đồng nghiệp chia sẻ một số kinh
nghiệm nhằm tìm ra phương pháp tối ưu nhất để truyền thụ kiền thức cho trẻ. Từ
đó hướng trẻ đến một phương pháp học tốt nhất, phù hợp với tâm sinh lí lứa tuổi
mầm non.
Qua nghiên cứu và áp dụng đề tài tôi kết hợp với phụ huynh học sinh cùng
tham gia với cô giáo tận dụng những vật liệu phế thải, rẻ tiền để làm những bộ đồ
dùng để trẻ luyện tập phát triển ngôn ngữ.
Giúp phụ huynh yên tâm công tác, tạo được sự tin tưởng của phụ huynh khi
gửi con ở trường.
10.2. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến
theo ý kiến của tổ chức, cá nhân:
Sáng kiến được đánh giá đảm bảo tính khoa học, tính sáng tạo, tính hiệu quả
và tính ứng dụng thực tiễn.
Bản thân luôn học hỏi các đồng nghiệp và thực hành, kiến tập các chuyên đề
ở trường, phòng giáo dục và tự bồi dưỡng mình để có thêm nhiều kinh nghiệm và
kiến thức.
18
11. Danh sách những tổ chức/cá nhân đã tham gia áp dụng thử hoặc áp dụng
sáng kiến lần đầu (nếu có):
Số Tên tổ chức/cá
TT
nhân
1
Lớp 2 tuổi A1
2
Lớp 2 tuổi A
Địa chỉ
Phạm vi/Lĩnh vực
áp dụng sáng kiến
Trường mầm non Liên Bảo
Trong các môn học và ở mọi
lúc, mọi nơi.
Trường mầm non Định Trung Trong các môn học và ở mọi
lúc, mọi nơi.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Phương pháp phát triển lời nói trẻ em.
2. Giáo trình Phát triển ngôn ngữ tuổi mầm non.
Liên bảo, ngày 25 tháng 4 năm 2019
Xác nhận của Lãnh đạo nhà trường
Liên Bảo, ngày 25 tháng 4 năm 2019.
Người nộp đơn
Phạm Thị Hồng Nhung
19