Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

SKKN một số biện pháp giúp học sinh làm tốt dạng bài tập tìm hình ảnh so sánh trong phân môn luyện từ và câu lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.2 KB, 25 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TAM DƯƠNG
TRƯỜNG TIỂU HỌC HOÀNG HOA
=====***=====

BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

Tên sáng kiến: Một số biện pháp giúp học sinh làm tốt dạng bài tập tìm hình ảnh
so sánh trong phân môn luyện từ và câu lớp 3.
Tác giả sáng kiến: Lê Thị Tân
Địa chỉ tác giả sáng kiến: Trường TH Hoàng Hoa
Số điện thoại: 0985493261 E_mail:

.

Vĩnh Phúc, năm 2017

1


BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

Tên sáng kiến: Một số giải pháp nâng cao kĩ năng phát triển các yếu tố hình học
cho học sinh lớp 4-5.

.

2



1. Lời giới thiệu
Xuất phát từ yêu cầu đổi mới của đất nước, trong những năm qua Đảng,
Nhà nước ta đã đặc biệt quan tâm đến phát triển giáo dục. Một trong những
nhiệm vụ cơ bản của giáo dục đào tạo hiện nay là: hình thành và phát triển nhân
cách cho học sinh một cách toàn diện theo mục tiêu phát triển nguồn nhân lực
phục vụ công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
Ngôn ngữ nói chung, Tiếng việt nói riêng có mối quan hệ mật thiết với
phương pháp dạy học Tiếng Việt. Ngôn ngữ bao gồm một hệ thống, bao gồm các
bộ phận ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp. Mỗi bộ phận của ngôn ngữ là một hệ
thống nhỏ, có cơ cấu tổ chức riêng, có quan hệ chặt chẽ với nhau trong hệ thống
ngôn ngữ.
Môn Tiếng Việt là một trong những bộ môn cơ bản của nhà trường phổ
thông nên phải thực hiện theo nguyên tắc giáo dục học. Bởi vậy nguyên tắc dạy
học Tiếng Việt phải cụ thể hóa mục tiêu và các nguyên tắc dạy học nói chung
vào bộ môn của mình.
Như vậy mục tiêu của việc dạy và học Tiếng Việt nằm trong mục tiêu
chung của giáo dục nước ta trong giai đoạn mới hiện nay: Nâng cao dân trí, đào
tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, nhằm hình thành đội ngũ lao động có tri thức,
có tay nghề, có năng lực thực hành, tự chủ, năng động sáng tạo.
- Theo mục tiêu của môn Tiếng Việt lớp 3 chương trình Tiểu học được xác
định như sau :
+ Hình thành và phát triển ở học sinh các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt
( Nghe – Nói – Đọc – Viết ) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt
động cùng lứa tuổi. Thông qua việc dạy và học Tiếng Việt góp phần rèn luyện
các thao tác tư duy.
+ Cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về Tiếng Việt và những
hiểu biết sơ giản về xã hội, tự nhiên và con người về văn hóa , văn học của Việt
Nam và nước ngoài.
+ Bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong
sáng, giàu đẹp của Tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con người Việt

Nam xã hội chủ nghĩa.
- Văn học là một loại hình nghệ thuật lấy ngôn từ làm phương tiện thể hiện.
Có khả năng tác động đến đời sống tâm hồn của con người. Trong đó biện pháp
so sánh góp một phần không nhỏ làm lên điều này.

3


Một mặt, so sánh có khả năng khắc họa hình ảnh và gây ấn tượng mạnh mẽ
làm nên một hình thức miêu tả sinh động, mặt khác so sánh còn có tác dụng làm
cho lời nói rõ ràng, cụ thể sinh động, diễn đạt được mọi sắc thái biểu cảm. So
sánh còn là phương thức bộc lộ tâm tư, tình cảm một cách kín đáo và tế nhị.
Như vậy đối với tác phẩm văn học nói chung so sánh mang chức năng nhận thức
và biểu cảm.
Nhờ những hình ảnh bóng bảy, ước lệ, dùng cái này để đối chiếu cái kia
nhằm diễn tả những ngụ ý nghệ thuật mà so sánh tu từ được sử dụng phổ biến
trong thơ ca, đặc biệt là thơ viết cho thiếu nhi. So sánh còn giúp các em hiểu và
cảm nhận được những bài thơ, bài văn hay, từ đó góp phần mở mang tri thức
làm phong phú về tâm hồn, tạo hứng thú khi viết văn, rèn luyện ý thức, yêu quý
Tiếng Việt giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt cho học sinh.
Vậy từ những mục tiêu trên của môn Tiếng Việt nói chung và phân môn “
Luyện từ và câu” nói riêng tôi thấy :
Trong khi nói hoặc khi viết, nếu các em biết sử dụng hình ảnh so sánh sẽ
gây được ấn tượng hơn, dễ nhớ hơn và bài văn sẽ hay hơn, sinh động hơn. Thế
nhưng hiện nay ở lứa tuổi học sinh tiểu học nói chung và ở trường tôi nói riêng,
cụ thể hơn là các em học sinh lớp 3 bắt đầu được nhận biết và làm quen với “
Hình ảnh so sánh”. Vậy làm thế nào để học sinh tìm được những hình ảnh so
sánh ? Đó là một điều mà mọi giáo viên cụ thể là giáo viên trực tiếp giảng dạy
phân môn Luyện từ và câu cần phải quan tâm.
Qua thực tế giảng dạy phân môn Luyện từ và câu, tôi thấy hầu hết có rất

nhiều em còn lúng túng, chưa biết tìm những “ Hình ảnh so sánh” trong những
câu thơ, khổ thơ, bài thơ và trong những đoạn văn mà bài tập đã yêu cầu.
Xuất phát từ tình hình thực tế đó, tôi đã mạnh dạn trao đổi với một số giáo
viên và tìm hiểu về nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó là:
*Về sách giáo khoa:
Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 3 hiện nay nói chung và phân môn Luyện từ
và câu nói riêng còn tồn tại một số điểm chưa hợp lý: mặc dù SGK đã chú trọng
phương pháp thực hành nhưng những bài tập sáng tạo vẫn còn ít, đơn điệu, kiến
thức dạy học sinh còn mang tính trừu tượng nên học sinh còn gặp nhiều khó
khăn trong quá trình lĩnh hội các kiến thức mới.
* Về phía giáo viên:
Người giáo viên còn gặp không ít khó khăn như cơ sở vật chất, phương tiện
dạy học và tài liệu tham khảo còn ít. Một số bộ phận nhỏ giáo viên vẫn chưa chú
trọng quan tâm đến việc lồng ghép trong quá trình dạy học giữa các phân môn
4


của môn Tiếng Việt với nhau, để khơi dậy sự hứng thú học tập và sự tò mò của
phân môn này với phân môn khác trong môn Tiếng Việt.
* Về phía học sinh:
Do khả năng tư duy của học sinh còn dừng lại ở mức độ tư duy đơn giản,
trực quan nên việc cảm thụ nghệ thuật so sánh còn hạn chế. Vốn kiến thức văn
học của học sinh, nhất là học sinh vùng thôn quê của chúng tôi còn rất hạn chế
về nguồn sách báo, tài liệu văn học còn ít ỏi. Vì đa số các em đều là con em gia
đình thuần nông. Một số em nhận biết về vốn từ ngữ còn hạn chế, khả năng giao
tiếp kém, học sinh chỉ mới biết một cách cụ thể. Nên khi tiếp thu về nghệ thuật
so sánh rất khó khăn. Vì vậy đòi hỏi người giáo viên cần hướng dẫn một cách tỷ
mỉ thực tế.
* Gia đình: Một số gia đình chưa quan tâm tạo điều kiện và đầu tư cho
việc học của con em mình như: Chuẩn bị các tài liệu sách tham khảo ...

Như vậy qua thực tế, tôi thấy hoàn cảnh gia đình cũng là một yếu tố quan
trọng ảnh hưởng gián tiếp đến việc học tập của các em, để hiểu rõ hơn về các
em tôi đã tiếp cận gần gũi các em để tìm hiểu tâm lý của mỗi học sinh. Sau khi
tìm hiểu tôi thấy rằng: Nhìn chung các em rất ngoan, rất chăm chỉ học bài. Bên
cạnh đó vẫn còn một số em tiếp thu bài chậm nguyên nhân là do các em mải
chơi và có những em còn phải làm đỡ gia đình nên thời gian học bài không có.
Từ những suy nghĩ và những băn khoăn trên đã thôi thúc tôi đi sâu
nghiên cứu tìm ra những phương pháp tối ưu để thực hiện đề tài “Một số biện
pháp giúp học sinh làm tốt dạng bài tập tìm hình ảnh so sánh trong phân
môn Luyện từ và câu lớp 3”
2. Tên sáng kiến: Một số biện pháp giúp học sinh làm tốt dạng bài tập tìm hình
ảnh so sánh trong phân môn Luyện từ và câu lớp 3
3. Tác giả sáng kiến:
- Họ và tên: Lê Thị Tân
- Địa chỉ tác giả sáng kiến: Trường Tiểu học Hoàng Hoa - xã Hoàng Hoa
- Số điện thoại: 098549326. Email:
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Lê Thị Tân - Giáo viên Trường Tiểu học
Hoàng Hoa.
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: “Nghiên cứu các pháp giúp học sinh làm tốt
dạng bài tập tìm hình ảnh so sánh trong phân môn Luyện từ và câu lớp 3”
5


6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: Tháng
1/10/2017.
7. Mô tả bản chất của sáng kiến:
7.1. Về nội dung của sáng kiến:
a) Về nhận thức của học sinh:
Bước vào đầu năm học, tôi được Ban giám hiệu nhà trường giao trọng
trách làm chủ nhiệm lớp 3C. Lớp tôi có tổng số 35 em học sinh, trong đó có 13

em nữ và 22 em nam. Trong đó có 1 học sinh khuyết tật.
Để biết rõ được chất lượng cụ thể của học sinh tôi đã tiến hành khảo sát
trong hai đợt.
+ Đợt 1 : Khảo sát đầu năm học do nhà trường ra đề .
+ đợt 2: Khảo sát đầu tháng 10 do tôi ra đề thông qua ý kiến của Ban giám
hiệu.
Đề bài :
Bài 1 : Tìm các từ ngữ chỉ sự vật trong khổ thơ sau :
Tay em đánh răng
Răng trắng hoa nhài
Tay em chải tóc
Tóc ngời ánh mai
Bài 2 : Tìm những sự vật được so sánh với nhau trong các câu thơ, câu văn
dưới đây.
a) Hai bàn tay em
Như hoa đầu cành
b) Mặt biển sáng trong như tấm thảm khổng lồ bằng ngọc thạch
c)

Cánh diều như dấu “ á “
Ai vừa tung lên trời.

Qua hai đợt khảo sát chất lượng như sau :
6


Phân loại
Đợt 1
Đợt 2


Sĩ số
35
35

Hoàn thành
SL
20
24

%
57,1
68,5

Chưa hoàn thành
SL
15
11

%
42,8
31,4

Qua hai đợt khảo sát và tìm hiểu thực tế, tôi thấy nguyên nhân chính dẫn
đến kết quả học tập của các em chưa cao là do các nguyên nhân sau:
+ Việc nhận thức của học sinh trong lớp không đồng đều nên việc giảng
dạy của giáo viên gặp nhiều khó khăn. Nhất là với môn Tiếng Việt số lượng học
sinh trung bình nhiều, học sinh yếu vẫn còn, chất lượng học tập chưa cao. Khi
làm bài tập nhiều học sinh không biết cách trình bày bài, thụ động chỉ trông chờ
thầy cô dẫn dắt. Có những học sinh làm bài một cách máy móc, dập khuân, có
những học sinh không hiểu được yêu cầu của đề bài nên làm cho xong.

+ Học sinh đọc đề vội vàng, chưa đọc được câu văn một cách trọn ven, lưu
loát dẫn đến không hiểu nội dung của bài yêu cầu bài tập.
+ Học sinh còn hạn chế nhiều về vốn từ và kĩ năng sử dụng từ ngữ trong khi
nói, viết; kĩ năng đọc hiểu nên hầu hết các em nhầm lẫn giữa dạng bài tìm sự vật
được so sánh với dạng bài tìm hình ảnh so sánh với nhau trong các câu thơ, câu
văn. Bên cạnh đó một số em nắm được yêu cầu của bài nhưng khi làm còn lúng
túng về cách trình bày.
+ Do các em chưa biết phân tích, tìm hiểu kỹ yêu cầu của đầu bài là yêu cầu
tìm “cái gì" ?
+ Do lứa tuổi của các em còn nhỏ, hiếu động, mải chơi.
+ Do một số em kiến thức bị hổng từ lớp 2 nên có ảnh hưởng đến sự tiếp thu
của kiến thức mới.
Từ những nguyên nhân trên đã thôi thúc tôi nghiên cứu, tìm tòi phương
pháp dạy học và các biện pháp kết hợp giữa phương pháp truyền thống với
phương pháp đổi mới. Chắt lọc những tinh hoa của phương pháp truyền thống
và phương pháp hiện đại để có những biện pháp tối ưu nhất trong dạy và học.
b) Những biện pháp thực hiện:
* Biện pháp 1: Củng cố kiến thức cũ ở lớp 2.
Như chúng ta đã biết, các kiến thức mà học sinh được học từ lớp dưới lên
các lớp trên là một vòng tròn xoáy trôn ốc. Vậy để học được các kiến thức mới ở
các lớp trên trước hết các em phải nắm chắc các kiến thức cũ ở lớp dưới.
7


Thông qua việc hiểu và nắm chắc kiến thức cũ này sẽ giúp cho học sinh có
nền móng để tiếp thu những kiến thức mới, đồng thời phát triển được tư duy
sáng tạo của các em.
Ngay sau khi khảo sát chất lượng và nắm được nguyên nhân, tôi đã nghiên
cứu chương trình phân môn Luyện từ và câu ở lớp 2 để bổ sung kiến thức cho
các em. Tôi thấy những dạng bài tập Luyện từ và câu mà học sinh còn yếu, bị

hổng kiến thức như : Từ chỉ sự vật,từ chỉ hoạt động.
Trước hết tôi phải ôn tập cho học sinh những kiến thức từ dễ đến khó, từ
đơn giản đến phức tạp và điều quan trọng là phải bám sát vào chương trình của
sách Tiếng việt 2.
Ví dụ 1:
- Dạng 1 : Tìm các từ chỉ sự vật có trong bảng sau :
Bạn

thân yêu

thước ke

dài

quý mến

cô giáo

chào

thầy giáo

bảng

nhớ

học trò

viết


đi

nai

dũng cảm

cá heo

Phượng vĩ

đỏ

sách

xanh

( SGK Tiếng việt 2 – tập 1- Trang 27)
- Dạng 2 : Từ dạng 1 tôi chuyển sang dạng 2 để nâng cao dần kiến thức lên
cho học sinh.
Đề bài: Tìm các từ theo mẫu trong bảng ( mỗi cột 3 từ)
Chỉ người
Chỉ đồ vật
M : học sinh
M : ghế
..........
.................

Chỉ con vật
M : chim se
..............


Chỉ cây cối
M : xoài
....................

( Sách Tiếng việt 2 - Tập 1 – Trang 35)
Để làm được bài tập ở dạng 2 này , học sinh cần phải hiểu được yêu cầu
của đề bài. Cụ thể đề bài yêu cầu như sau :
8


+ Tìm từ chỉ người – Theo mẫu : Học sinh
+ Tìm từ chỉ đồ vật – Theo mẫu : Ghế
+ Tìm từ chỉ con vật – Theo mẫu : Chim se
+ Tìm từ chỉ cây cối – Theo mẫu : Xoài
- Mỗi cột cần phải tìm thêm 3 từ.
Như vậy với dạng bài này Giáo viên cần khắc sâu cho học sinh biết : tất cả
các từ chỉ người, chỉ đồ vật, chỉ con vật, chỉ cây cối được gọi chung là “Từ chỉ
sự vật”
Ví dụ 2: Chọn từ chỉ hoạt động thích hợp vào mỗi chỗ trống dưới đây :
a) Cô Xuân Mai……………………môn Tiêng việt.
b) Cô ......................................dạy rất dễ hiểu .
c) Cô.......................................chúng em chăm học .
( SGK – Tiếng việt 2 – Tập 1 trang 59)
Giáo viên có thể chọn thêm bài tập để phát triển tư duy cho học sinh :
Đề bài : Tìm các từ chỉ hoạt động, trạng thái của loài vật và sự vật trong
những câu sau :
a) Con trâu ăn cỏ.
b) Đàn bò uống nước dưới sông.
c) Mặt trời tỏa ánh nắng rực rỡ.

( SGK – Tiếng việt 2 – Tập 1 – trang 67)
Sau khi đã thực hiên biện pháp này trong một tháng tôi đã khảo sát và thấy
kết quả như sau :
Tổng số học sinh
35

Hoàn thành
SL
27

%
77,1

Chưa hoàn thành
SL
%
8
22,8

9


Như vậy khi áp dụng thực hiện biện pháp 1, tôi thấy chất lượng học tập
của học sinh có nâng lên nhưng kết quả chưa cao, chưa đáp ứng được mong
muốn và yêu cầu đề ra.
Tôi thấy : Củng cố kiến thức cũ có ưu điểm là giúp học sinh hệ thống hóa lại
các kiến thức đã học và nâng cao phát triển tư duy độc lập, nâng cao hứng thú
học tập cho các em. Qua đó rèn luyện được những kỹ năng, kỹ xảo, nắm chắc
các kiến thức đã học, đồng thời phát huy tính tích cực, sáng tạo của các em.
Tuy nhiên, biện pháp củng cố kiến thức có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong

việc tiếp tục học các kiến thức mới. Nhưng thực tế qua đợt khảo sát cho thấy
việc dạy học sinh nắm được kỹ năng để nhận biết tốt các hình ảnh so sánh trở
nên quan trọng và cần thiết. Chính vì vậy tôi đã đi nghiên cứu và áp dụng biện
pháp dạy kỹ năng làm tốt những bài tập dạng tìm các hình ảnh so sánh.
b. Biện pháp 2: Dạy kỹ năng làm tốt những bài tập (dạng tìm các hình
ảnh so sánh).
Muốn làm được các bài tập về ‘‘Tìm hình ảnh so sánh’’ trước hết học sinh
phải hiểu được yêu cầu của đầu bài.
Khi các em đã hiểu được yêu cầu của đầu bài rồi thì các em sẽ tìm ra được
cách làm hay nhất và có hiệu quả nhất. Để thực hiện được điều đó học sinh cần
phải biết rõ điều kiện và trình độ của mình để tiến hành làm bài.
Vì vậy, khi dạy kỹ năng làm tốt những bài tập dạng tìm các hình ảnh so
sánh trước hết học sinh phải biết được : Từ chỉ người, từ chỉ đồ vật, từ chỉ con
vật, từ chỉ cây cối...
Sau khi học sinh hiểu và nắm chắc được điều đó, tôi đã sử dụng phương
pháp đàm thoại để giảng bài. Dùng các câu hỏi dẫn dắt, gợi mở và trọng tâm cần
khắc sâu kiến thức. Tôi sắp xếp các câu hỏi theo một hệ thống từ dễ đến khó, từ
đơn giản đến phức tạp. Trong quá trình giảng dạy, tôi chỉ là người nêu vấn đề và
học sinh tự tìm ra phương pháp giải quyết vấn đề đó.
Để học sinh nắm được kỹ năng làm tốt các bài tập tìm hình ảnh so sánh,
tôi đã hướng dẫn học sinh cần phải nắm được các bước sau :
Ví dụ 1: Tìm các hình ảnh so sánh trong những khổ thơ sau :
a) Bế cháu ông thủ thỉ :
Cháu khỏe hơn ông nhiều !
Ông là buổi trời chiều
10


Cháu là ngày rạng sáng.
Phạm Cúc

b) Ông trăng tròn sáng tỏ
Soi rõ sân nhà em
Trăng khuya sáng hơn đèn
Ơi ông trăng sáng tỏ.
Trần Đăng Khoa
c) Những ngôi sao thức ngoài kia
Chẳng bằng mẹ đã thức vì chúng con.
Đêm nay con ngủ giấc tròn
Mẹ là ngọn gió của con suốt đời.
Trần Quốc Minh
* Bước 1: Đọc kỹ đề, tìm hiểu đề.
Trước tiên tôi yêu cầu học sinh đọc kỹ đề, vừa đọc vừa suy nghĩ xem yêu cầu
đầu bài cần phải làm gì ? Sau khi học sinh hiểu được yêu cầu của đầu bài rồi
tôi đã yêu cầu học sinh tiến hành đến bước 2.
* Bước 2: Tìm các sự vật được so sánh với nhau.
Trong bước 2 này, tôi sẽ dùng phương pháp đàm thoại và gợi mở hướng dẫn
học sinh làm mẫu phần (a).
giáo viên nêu câu hỏi: Trong phần (a) sự vật nào được so sánh với sự vật nào
?
- Học sinh sẽ tìm được các sự vật so sánh với nhau là: (Cháu – Ông; Ông –
Buổi trời chiều; Cháu – Ngày rạng sáng )
Tương tự như vậy các phần (b) và phần (c) học sinh sẽ tự tìm các sự vật
được so sánh với nhau.
- Phần (b): trăng – đèn
- Phần (c): những ngôi sao – mẹ đã thức vì chúng con, mẹ – ngọn gió.
11


Sau khi học sinh đã tìm đúng các sự vật được so sánh, tôi tiếp tục yêu cầu học
sinh tìm từ so sánh.

* Bước 3: Tìm từ so sánh.
- Trong các dạng bài tập tìm hình ảnh so sánh thì học sinh phải biết:
Từ so sánh nó được đứng sau sự vật được so sánh và đứng trước sự vật so
sánh. Nói tóm lại là từ so sánh đứng ở giữa hai vế :
+ Vế A nêu tên sự vật, sự việc được so sánh .
+ Vế B nêu tên sự vật, sự việc dùng để so sánh .
Sau khi học sinh đã hiểu cách tìm từ so sánh các em sẽ nhận biết rất nhanh
về từ so sánh. Cụ thể các từ so sánh trong bài là :
+ Câu ( a) : hơn – là – là
+ Câu ( b) : hơn
+ Câu ( c) : chẳng bằng – là
* Bước 4 : Tìm hình ảnh so sánh
Như vậy qua bước 2 và bước 3, giáo viên cần khắc sâu cho học sinh thấy rõ:
- Hình ảnh so sánh nó phải có sự vật được so sánh và sự vật dùng để so
sánh. Đặc biệt là phải có cả từ so sánh được đứng giữa hai sự vật ấy. Từ đó học
sinh sẽ hiểu và làm đúng được bài tập.
Bài làm: Các hình ảnh so sánh trong các khổ thơ trên là :
a) Cháu khỏe hơn ông nhiều !
Ông là buổi trời chiều
Cháu là ngày rạng sáng.
b) Trăng khuya sáng hơn đèn
c) Những ngôi sao thức chẳng bằng mẹ đã thức vì chúng con.
Mẹ là ngọn gió của con suốt đời.

12


Qua hai tháng thực hiện biện pháp 2 và một số biện pháp khác kèm theo để
bổ trợ cho biện pháp 2. Tôi thấy chất lượng học tập của học sinh có tính khả
quan rõ rệt qua đợt khảo sát học kỳ I như sau :

Tổng số học sinh
35

Hoàn thành
SL
30

%
88,6

Chưa hoàn thành
SL
5

%
14,3

Sau khi thực hiện biện pháp “Dạy kỹ năng làm tốt những bài tập dạng tìm
các hình ảnh so sánh”. Tôi thấy có ưu điểm là giúp học sinh đã đi đúng hướng
với yêu cầu của đề bài, làm được bài một cách tốt hơn.
Mặc dù biện pháp này vô cùng quan trọng, nó cung cấp cho học sinh bốn
bước tiến hành khi làm bài tập: “Tìm các hình ảnh so sánh” một cách dễ dàng
hơn và đúng hơn. Tuy nhiên biện pháp này vẫn chưa giúp các em tiếp thu bài
một cách linh hoạt và sáng tạo, chưa thu hút được nhiều hứng thú khi tìm các
hình ảnh so sánh.
Chính vì vậy mà tôi tìm tòi và chắt lọc hài hòa các phương pháp dạy học
sao cho đạt kết quả cao trong việc dạy và học. Tôi thấy “Phương pháp gợi mở,
phát huy trí lực của học sinh đã đáp ứng được điều đó”.
c. Biện pháp 3: Phương pháp gợi mở phát huy trí lực của học sinh.
Đối với phương pháp này thì người giáo viên phải kích thích vào trí tuệ

của học sinh, giúp học sinh có tính tư duy từ khái quát đến trìu tượng. Muốn vậy
người giáo viên cần phải xây dựng một hệ thống câu hỏi sao cho phù hợp.
Luôn luôn quan tâm đến trình độ phát triển chung của học sinh, đồng thời
phải quan tâm đến trình độ tiếp thu bài của từng học sinh. Từ đó giúp học sinh
hoàn thành tiếp tục phát triển tư duy cao hơn , đồng thời giúp học sinh chưa
hoàn thành đạt được trình độ chung của giáo dục.
Để phát huy vai trò chủ động, tích cực của học sinh và phát huy khả năng
sẵn có của các em, khi dạy các loại bài tập cho các em, nhất là các bài tập “Tìm
những hình ảnh so sánh” nâng cao, tôi thường dùng các hệ thống câu hỏi gợi mở
đi từ dễ đến khó, đi từ đơn giản đến phức tạp để các em có tư duy độc lập, sáng
tạo trong học tập. Từ đó các em sẽ tìm ra phương pháp để giải quyết vấn đề
Ví dụ ; ( Sách Tiếng việt nâng cao lớp 3 trang 82)
Tìm các hình ảnh so sánh trong những đoạn thơ dưới đây:
a) Khi vào mùa nóng
13


Tán lá xòe ra
Như cái ô to
Đang làm bóng mát.
Bóng bàng tròn lắm
Tròn như cái nong
Em ngồi vào trong
Mát ơi là mát
Xuân Quỳnh
b) Rạng sáng
Mặt trời ngoài biển khơi
Như quả bóng đỏ trên bàn bi-a
Chiều về
Mặt trời lẫn vào đám mây

Như quả bóng vàng trên sân cỏ.
Bùi Việt Mỹ
Muốn làm được bài tập này, yêu cầu học sinh đọc kỹ đề bài xem đề bài yêu
cầu tìm cái gì và cần giải quyết vấn đề gì ?
Sau khi học sinh đã hiểu được yêu cầu của đề bài thì tiếp tục đi tìm :
+ Tìm các sự vật được so sánh với nhau.
+ Tìm từ so sánh
+ Tìm hình ảnh so sánh
Từ những câu hỏi gợi mở đó học sinh sẽ tư duy và tìm ra vấn đề cần giải
quyết mà đề bài đã yêu cầu.
Bài làm :
a) - Tán lá xòe ra như cái ô.
14


- Bóng bàn tròn như cái nong.
b) - Mặt trời ngoài biển như quả bóng đỏ bàn bi-a
- Mặt trời lẫn vào đám mây như quả bóng vàng trên sân cỏ.
Từ bài tập trên để khắc sâu kiến thức cho các em, giúp các em nhận biết
nhanh về hình ảnh so sánh ở những khổ thơ, bài thơ hay những đoạn văn, bài
văn, tôi đã hướng dẫn các em cách tìm những hình ảnh so sánh như sau:
Trước hết phải nắm được các từ so sánh đó là: ( như, là, như là, tựa, tựa như,
giống như, giống, giống hệt, chẳng bằng, hơn, kém, …. )
Sau khi nắm được các từ so sánh ta đi tìm những câu thơ, những câu văn có
từ so sánh.
Sau đó lại tiếp tục đi tìm các sự vật được so sánh đứng trước từ so sánh và
các sự vật dùng để so sánh đứng sau từ so sánh trong các câu thơ, câu văn ấy.
Khi đã tìm được các sự vật được so sánh và các sự vật dùng để so sánh thì ta
ghép lại như sau: ( sự vật được so sánh + từ so sánh + sự vật dùng để so sánh) .
Từ đó sẽ ra hình ảnh so sánh.

Ví dụ : Tìm hình ảnh so sánh sau :
Tán lá bàng xòe ra
Ta thấy : Sự vật được so sánh

như
từ so sánh

cái ô
sự vật dùng để so sánh

Sau hai tháng thực hiện biện pháp 3, tôi đã thấy kết quả học tập của các em
đúng như điều mà tôi hằng mong đợi. Dưới đây là chất lượng học tập của các
em qua đợt kiểm tra học kỳ I như sau :
Tổng số học sinh
35

Hoàn thành
SL
%
32
91,4

Chưa hoàn thành
SL
%
3
8.8

Qua thời gian thực hiện biện pháp 3 và một số biện pháp khác kèm theo tôi
thấy chất lượng học môn Luyện từ và câu được nâng lên rõ rệt. Như vậy biện

pháp “ Gợi mở phát huy trí lực của học sinh ” đã giúp tôi phát huy được năng
lực thực sự của học sinh và giúp học sinh nắm chắc được kiến thức trọng tâm, áp
dụng vào làm bài tập “Tìm những hình ảnh so sánh” một cách nhanh nhạy và
đúng.
Cùng với các biện pháp trên, tôi thấy rằng: Để lôi cuốn sự hứng thú học tập
của các em và sự say mê vào học môn Luyện từ và câu, đồng thời tránh được sự
15


căng thẳng và mệt mỏi của tiết học thì việc học mà chơi, chơi mà học đã giúp
các em rất nhiều vào việc lĩnh hội các tri thức. Vậy cần phải thực hiện biện pháp
này như thế nào để đạt được hiệu quả cao? Tôi đã nghiên cứu, tìm tòi, học hỏi
và sáng tạo ra các trò chơi để thực hiện biện pháp “Vui mà học”.
d. Biện pháp 4: Vui mà học “ Trò chơi : phóng viên, sắm vai, tiếp sức,
trắc nghiệm đúng sai, hái hoa dân chủ, chiếc hộp may mắn ”.
Do đặc điểm tâm lý của học sinh tiểu học còn hiếu động. Là một người giáo
viên tiểu học trực tiếp đứng trên bục giảng, tôi phải luôn luôn phát động các
phong trào học bằng các hoạt động “Vui mà học”. Qua các hoạt động vui chơi
này sẽ kích thích sự say mê học tập của các em. Các em sẽ thích khám phá
những cái mới lạ và tích cực hoạt động để tự chiếm lĩnh kiến thức. Cho nên việc
vừa học vừa chơi giúp học sinh tiếp thu bài một cách hiệu quả nhất. Chính vì
vậy mà cách tổ chức dạy học cũng phải thay đổi, không chỉ còn là một hình thực
dạy học cả lớp nữa mà có hình thức dạy học cá nhân, dạy học theo nhóm, học cả
lớp.
Do đó, để một tiết học đạt được một cách “Nhẹ nhàng, thoải mái, hiệu quả’’
và khắc sâu được kiến thức trọng tâm giúp các em nhớ lâu các kiến thức đã học,
tôi thường xuyên lồng ghép các trò chơi vào trong các bài học .
Ví dụ: (Bài tập 1 trang 24 – SGK Tiếng việt 3/1)
Tìm các hình ảnh so sánh trong những câu thơ, câu văn dưới đây:
a)


Mắt hiền sáng tựa vì sao
Bác nhìn đến tận Cà Mau cuối trời.
Thanh Hải

b) Em yêu nhà em
Hàng xoan trước ngõ
Hoa xao xuyến nở
Như mây từng chùm
Tô Hà
c)

Mùa đông
Trời là cái tủ ướp lạnh
16


Mùa hè
Trời là cái bếp lò nung.
Lò Ngân Sủn
d) Những đêm trăng sáng, dòng sông là một đường trăng lung linh dát vàng.
Với bài này tôi tổ chức cho học sinh thi làm bài tiếp sức. Tôi lấy 2 nhóm,
mỗi nhóm 4 học sinh. Trên bảng dán hai tờ giấy khổ to, mỗi nhóm đều ghi
các hình ảnh so sánh vào băng giấy của nhóm mình. Nếu nhóm nào xong
trước và đúng thì nhóm đó thắng cuộc.
Sau khi nghiên cứu và áp dụng các biện pháp “Vui mà học” tôi thấy tiết
học sinh động và sôi nổi hẳn lên. Học sinh hiểu bài ngay tại lớp, khắc sâu
được kiến thức đồng thời động viên, khích lệ được các em cố gắng học tập.
Để tiết học nào cũng sôi nổi, sinh động và có hiệu quả như vậy thì đòi hỏi
người giáo viên phải biết lựa chọn các trò chơi, cách tổ chức trò chơi áp dụng

phù hợp vào mỗi tiết học sao cho hợp lý.
Thông qua việc học theo nhóm, thông qua các trò chơi đã giúp học sinh có
tính đoàn kết, lòng trung thực, tinh thần cộng đồng có trách nhiệm, học tập lẫn
nhau. Đồng thời khắc phục được những tính xấu như ích kỷ, tính chơi trội, tính
giả dối.
Tuy vậy, biện pháp vui mà học còn có nhược điểm đó là mất nhiều thời gian
trong khi dạy, lớp học dễ ồn ào, mất trật tự. Nhưng ngoài các nhược điểm nói
trên biện pháp này lại có ưu điểm giúp học sinh bộc lộ mình qua trò chơi. Từ đó
giáo viên nắm chắc được đặc điểm, sở thích của học sinh để có những biện pháp
dạy phù hợp, giúp học sinh học tập tốt hơn và hoàn thiện tôt nhân cách người
học sinh tiểu học.
Qua áp dụng và thực hiện bốn biện pháp trên vào dạy môn Luyện từ và câu
làm tốt những bài tập dạng “Tìm các hình ảnh so sánh”. Tôi thấy mỗi biện pháp
đều có những ưu điểm và khuyết điểm nhất định. Nhưng ưu điểm là chiếm ưu
thế hơn cả. Việc kết hợp linh hoạt, hài hòa các phương pháp dạy học truyền
thống và phương pháp dạy học hiện đại sẽ đạt được hiệu quả cao nhất. Vì vậy
người giáo viên phải có tính sáng tạo và biết chắt lọc những tinh hoa của các
phương pháp dạy học truyền thống lẫn các phương pháp dạy học hiện đại trong
việc dạy và học.
e)Biện pháp 5: Củng cố, hệ thống khắc sâu kiến thức.
Để học sinh nắm vững kiến thức về dạng bài tập này tôi thống kê phân tích,
nghiên cứu biện pháp so sánh trong phân môn: "Luyện từ và câu" của chương
17


trình SGK lớp 3 theo hệ thống kiên thức từ đơn giản đến phức tạp mà học sinh
cần nhớ một cách trình tự:
+) Giúp học sinh hiểu rõ: So sánh là biện pháp tu từ dùng để đối chiếu, hai
hay nhiều sự vật khác nhau từ đó tìm ra điểm giống nhau để làm nổi bật sự vật
được so sánh.

+) Việc so sánh như vậy là làm cho sự vật trở lên rõ nét, sinh động và câu
văn, câu thơ hay hơm gợi tả hơn).
Đề học sinh dễ hiểu, dễ nhớ và dễ chiếm lĩnh kiến thức đầy đủ, rõ ràng,
chính xác tôi đưa ra mô hình so sánh như sau:
- Mô hình so sánh đầy đủ gồm 4 yếu tố .
VD1:

Mặt tươi như hoa
2
3 4
1

Trong đó: (1) là sự vật được so sánh.
(2) Là phương diện so sánh.
(3) Từ dùng để so sánh .
(4) Sự vật đưa ra làm chuẩn để so sánh.
Nhưng trong thực tế thì nhiều câu văn, câu thơ đã bị khuyết 1 trong 4 yếu tố đó
chẳng hạn như:
VD2: Đẹp như tiên (Thiếu yếu tố 1) .
Tre em như búp trên cành . (thiếu y/tố 2).
- Yếu tố bị khuyết thường gặp là yếu tố 2. khi đó, học sinh tìm yếu tố 2 bằng
cách đặt câu hỏi .
+ Búp trên cành có đặc điểm gì? (non nớt, tươi non, mềm, yếu, tràn đầy sức
sống, chứa chan hi vọng …)
+ Tại sao lại so sánh tre em với búp trên cành? (Vì tre em còn non nớt, luôn
được bố mẹ che chở …)
VD3: Quả dừa - đàn lợn con nằm trên cao ( thiếu yếu tố 2 và 3)

18



* Lưu ý: - Khi trong câu có từ “là” dùng để giới thiệu, nhận xét, đánh giá thì
những câu đó không phải câu có từ “là” mang hình ảnh so sánh.
- Từ chỉ so sánh bao giờ cũng đứng giữa 2 sự vật.
VD: - Đây là Nam. ( Giới thiệu)
Câu không mang
hình ảnh so sánh

- Nam là học sinh giỏi. ( nhận xét, đánh giá)
- Trước nhà là một con sông. ( chỉ sự tồn tại)

Là gì?

- Học quả là một khó khăn vất vả.( Khẳng định)
VD: Quê hương là bàn tay mẹ ( k/định )

Câu mang hình
ảnh so sánh

Dịu dàng hái lá mồng tơi

Là gì?
Từ những kiến thức kĩ năng đơn giản đó mà học sinh biết phân biệt các
dạnh bài tập với nhau. Đặc biệt là kiểu bài "Tìm sự vật so sánh" và kiểu bài
"Tìm hình ánh so sánh". Giáo viên cần chỉ rõ cho học sinh thấy sự khác nhau
giữa 2 dạng bài tập này bằng cách đưa ví dụ minh họa.
VD1: * Ví dụ: Tìm sự vật được so sánh với nhau trong các câu thơ, câu văn
dưới đây:
a)


"Hai bàn tay em
Như hoa đầu cành"
(Huy Cận)

b)"Mặt biển sáng trong như tấm thảm khổng lồ bằng ngọc thạch"
(Vũ Tú Nam)
c)

"Cánh diều như dấu á
Ai vừa tung lên trời"
(Lương Vĩnh Phúc)

d)

"Ơ cái dấu hỏi
Trông ngộ ngộ ghê
Như vành tai nhỏ
19


Hỏi rồi lắng nghe"
(Phạm Như Hà)
Vấn đề mà học sinh cần giải quyết ở dạng bài tập này là chỉ rõ các sự vật
được so sánh cụ thể là:
+ "Hai bàn tay em" so sánh với "hoa đầu cành"
+ "Mặt biển" so sánh với "tấm thảm khổng lồ".
+ "Cánh diều" so sánh với "dấu á"
+ "Dấu hỏi" so sánh với "vành tai nhỏ".
Vẫn là các câu văn, câu thơ trên nhưng bài tập lại yêu cầu "Tìm các hình
ảnh so sánh" thì vấn đề cần giải quyết của học sinh là phải chỉ ra toàn bộ hình

ảnh được so sánh với nhau trong mỗi câu là
+ "Hai bàn tay em như hoa đầu cành"
+ "Mặt biển sáng trong như tấm thảm khổng lồ bằng ngọc thạch"
+ "Cánh diều như dấu á"
+ "Ơ cái dấu hỏi Như vành tai nhỏ"
Từ 2 ví dụ trên học sinh dễ dàng phân biệt dạng bài tìm sự vật so sánh với
dạng bài tìm hình ánh so sánh hoàn toàn khác nhau. Tìm sự vật so sánh là nêu
tên sự vật kết hợp với lời nói; còn hình ảnh so sánh là bao gồm cả 2 sự vật và từ
chỉ sự so sánh (toàn bộ câu).
7.2. Về khả năng áp dụng của sáng kiến:
Nhờ các biện pháp trên đã được thực hiện nên chất lượng học tập của học
sinh ở tất cả các môn học đều được nâng lên rõ rệt. Tôi thấy các em đã nắm chắc
và khắc sâu được cho mình cách tìm các hình ảnh so sánh một cách nhanh, nhạy
và đúng. Giúp các em có kỹ năng, kỹ xảo khi làm các bài tập về “Tìm các hình
ảnh so sánh”. Thông qua phân môn Luyện từ và câu còn giúp các em làm tốt các
bài văn, có tinh thần tương trợ, phấn đấu thành những con ngoan, trò giỏi.
8. Những thông tin cần được bảo mật(nếu có): Không
9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:

20


- Cơ sở vật chất đảm bảo cho công tác giảng dạy và học tập của giáo viên
và học sinh.
- Các cấp lãnh đạo Đảng và chính quyền địa phương quan tâm, tạo điều
kiện giúp đỡ để nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện.
10. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng
kiến theo ý kiến của tác giả và theo ý kiến của tổ chức, cá nhân đã tham gia
áp dụng sáng kiến lần đầu,kể cả áp dụng thử(nếu có):
Sau khi áp dụng các giải pháp trên tôi nhận thấy:

- Trong các giờ luyện từ và câu, học sinh hứng thú học tập, say mê trong
môn học.
- Học sinh kiên trì trong học tập.
- Trong khi làm các bài tập, kĩ năng dùng từ và vốn từ vựng của học sinh
được nâng cao hơn, các câu văn khi viết học sinh đã biết vận dụng các biện pháp
so sánh, dùng từ ngữ gợi tả có hình ảnh.
- Trong các tiết thực hành vận dụng kiến thức, học sinh không những hiểu
được nội dung của bài mà còn có kĩ năng phân tích đề và giải quyết vấn đề một
cách chính xác và hiệu quả. Từ đó các em có hứng thú học tập và yêu thích môn
học.
- Trau dồi được vốn từ ngữ về kĩ năng "Nghe, đọc, nói, viết" bản thân các
em cảm thấy tự tin hơn, không còn sợ sệt như trước nữa.
10.1. Đánh giá lợi ích thu được theo ý kiến của tác giả
Trong quá trình trước và sau khi thực hiện tôi tiến hành khảo sát kết quả
đạt như sau:
Bảng 1:Khảo sát trước khi thực hiện (tháng 10)
Tổng số
học sinh

Điểm giỏi

Điểm khá

Điểm trung
bình

Điểm yếu

35
Tỉ lệ


2
5,7%

8
22,8%

15
42,8%

10
28,5%

Bảng 2: Khảo sát sau khi thực hiện (tháng 2)
Tổng số học
sinh

Điểm giỏi

Điểm khá

Điểm trung
bình

Điểm yếu
21


35
Tỉ lệ


10
28,5%

16
45,7%

7
20%

2
5,7%

Qua các biện pháp mà tôi đã áp dụng , để có được kết quả như vậy bản
thân tôi đã rút ra cho mình một bài học kinh nghiệm:
* Đối với giáo viên:
+ Phải nắm được từng đối tượng học sinh, phải hiểu rõ được khả năng
nhận thức của từng em, để từ đó áp dụng các biện pháp phù hợp đối với các em.
+ Phải có tính sáng tạo, phải linh hoạt kết hợp hài hòa các phương pháp
dạy học sao cho phù hợp.
+ Phải luôn luôn tìm tòi và học hỏi để nâng cao trình độ chuyên môn
nghiệp vụ, xứng đáng là một người giáo viên mẫu mực để học sinh noi theo.
+ Rèn luyện cho học sinh luôn luôn đọc kỹ yêu cầu của đầu bài, có kỹ
năng, kỹ xảo khi làm từng dạng của bài tập. Cho học sinh nắm chắc các bước
tìm những hình ảnh so sánh từ đó học sinh sẽ nhận biết rất nhanh về hình ảnh so
sánh.
+ Tăng cường bồi dưỡng các dạng bài tập cho học sinh, luôn luôn đổi mới
phương pháp dạy học, lấy học sinh làm trung tâm. Giáo viên là người đưa ra vấn
đề và học sinh phải tìm ra phương pháp giải quyết vấn đề đó.
* Về phía học sinh:

+ Chuẩn bị kĩ bài trưứoc khi đến lớp .
+ Học sinh tự củng cố vốn kiến thức của mình bằng cách đọc nhiều sách
báo phù hợp với lứa tuổi, xem băng hình, quan sát tranh...
+ Cho học sinh giao lưu trực tiếp với các bạn trong lớp, trong trường sau
mỗi bài học: "Luyện từ và câu" dạng này để học sinh khắc sâu kiến thức.
+ Khi làm bài tập yêu cầu học sinh đọc kỹ đề bài, xác định đúng yêu cầu
của bài, phân biệt được chúng thuộc kiểu bài so sánh dạng nào rồi mới bắt tay
vào làm bài.
+ Khi quan sát sự vật , cần quan sát thận tinh tế để tìm ra những điểm
giống nhau, những nét tương đồng .
10.2. Đánh giá lợi ích thu được theo ý kiến của tổ chức, cá nhân.

22


Đề tài sáng kiến này có thể áp dụng rộng rãi cho học sinh khối 3 của
trường Tiểu học hoàng Hoa và các trườn khác trong toàn huyện.
11. Danh sách những tổ chức/ cá nhân đã tham gia áp dụng thử và áp dụng
sáng kiến lần đầu.
Số
TT
1

Tên tổ chức/cá
nhân
Lê Thị Tân

Địa chỉ
Giáo viên Trường Tiểu
học Hoàng Hoa


Hoàng Hoa, ngày 23 tháng 2 năm 2018

Phạm vi/Lĩnh vực áp dụng sáng
kiến
Một số biện pháp giúp học sinh
làm tốt dạng bài tập so sánh trong
phân môn LTVC lớp 3

Hoàng Hoa, ngày 22 tháng 2 năm 2018

Thủ trưởng đơn vị/

Tác giả sáng kiến

Chính quyền địa phương

(Ký và ghi rõ họ tên)

(Ký tên,đóng dấu)

Trần Trung Kiên

Lê Thị Tân

Ý KIẾN ĐÁNH GIÁ CỦA HÔI ĐÔNG KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG
23


- Tổng điểm: ..............................................................................................

- Xếp loại: ....................................................................................................
.................................................................................................................................

Hoàng Hoa ngày 23 tháng 12 năm 2018
TM: HỘI ĐỒNG KHOA HỌC
CHỦ TỊCH

Trần Trung Kiên

Ý KIẾN ĐÁNH GIÁ CỦA HÔI ĐÔNG KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG
24


- Tổng điểm: ..............................................................................................
- Xếp loại: ....................................................................................................
.................................................................................................................................

Tam Dương ngày ... tháng ... năm 2018
TM: HỘI ĐỒNG KHOA HỌC
CHỦ TỊCH

25


×