Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

SKKN phát huy tính tích cựu của học sinh trong luyện tập chạy bền

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (91.38 KB, 15 trang )

PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Năm học 2013- 2014 là năm học tiếp tục thực hiện giảng dạy chương trình
theo SGK mới. Trong bối cảnh hiện nay ngành giáo dục và đào tạo đang nỗ lực đổi
mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của
học sinh trong hoạt động học tập nhằm phù hợp với xu thế của thời đại. Vấn đề này
đã đặt ra yêu cầu cấp thiết đối với giáo viên THCS là phải đổi mới cách dạy: Giáo
viên chỉ là người hướng dẫn chỉ đạo điều khiển học sinh đi tìm kiến thức mới, vận
dụng kiến thức đã học vào thực tiễn. Chính vì vậy học sinh phải là người tự giác,
chủ động, tìm tòi, phát hiện các kiến thức mới một cách linh hoạt, sáng tạo vào
thực tiễn cuộc sống thông qua sự dẫn dắt điều khiển của giáo viên trong tiết dạy.
Do vậy việc lựa chọn phương pháp dạy học sao cho phù hợp với kiểu bài và phát
huy được sự yêu thích môn học đối với học sinh là một vấn đề rất quan trọng, đó
cũng là một thủ thuật sư phạm của người giáo viên. Nhận thức được điều đó tôi
mạnh dạn tìm hiểu và nghiên cứu đề tài “Phát huy tính tích cựu của học sinh trong
luyện tập chạy bền” mà tôi đã áp dụng và theo dõi nhiều năm tại trường THCS Liên
Châu nơi tôi đang công tác.

1. Cơ sở lý luận:
Luật Giáo dục năm 2005 (Điều 5) đã quy định : "Phương pháp giáo dục phải
phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học ; bồi dưỡng
cho người học năng lực tự học , khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí
vươn lên".
Với mục tiêu giáo dục phổ thông là "giúp học sinh phát triển toàn diện về
đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản, phát triển năng lực cá
nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con ngời Việt Nam xã hội
chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân ; chuẩn bị cho học sinh tiếp
tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc" . Chương trình giáo dục phổ thông ban hành kèm theo Quyết định số



16/2006/QĐ-BGD ĐT ngày 5/5/2006 của Bộ trởng Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng
đã nêu : "Phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh ; phù
hợp với đặc trưng môn học, đặc điểm đối tượng học sinh, điều kiện của từng lớp
học ; bồi dưỡng cho học sinh phương pháp tự học, khả năng hợp tác ; rèn luyện kĩ
năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn ; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui,
hứng thú và trách nhiệm học tập của học sinh".
- Hiện nay do yêu cầu đổi mới của phương pháp GD và yêu cầu học tập mà
đòi hỏi học sinh phải có thể lực để tiếp thu tốt các bài học trên lớp và nâng cao sức
đề kháng .
- Để giờ dạy đạt hiểu quả cao giáo viên cần nắm vững tâm lý của học sinh.
- Cần tìm hiểu rõ thể trạng của từng học sinh để đưa ra những phương pháp
luyện tập cho học sinh phù hợp.
- Học sinh THCS bắt đầu và đang bước vào thời kỳ dậy thì nên cơ thể các em
phát triển với tốc độ rất nhanh cả về hình thái, tổ chất thể lực cũng như chức phận
của các hệ cơ quan trong cơ thể. Lúc này TDTT, dinh dưỡng có tác dụng cực kỳ
quan trọng đến việc phát triển toàn diện cơ thể.
- Giáo viên cần tìm hiểu và học tập những phương pháp luyện tập tiên tiến để
áp dụng trong giờ dạy.
- Đặc biệt “chạy bền” là nội dung luyện tập tương đối đơn điệu mà lại đòi
hỏi người học phải vận động nhiều làm học sinh dề nhàm chán và đôi lúc không
đảm bảo lượng vận động cần thiết để phát triển sức bền.

2. Cơ sở thực tiễn:
- Với giáo viên: Việc áp dụng các phương pháp luyện tập chạy bền còn
chậm.
Việc học tập thêm các phương pháp mới còn hạn chế.
- Với học sinh:
. Đa số các em còn coi nhẹ việc luyện tập đặc biệt là môn chạy bền.
. Ở lứa tuổi này cơ thể các em yêu cầu một lượng vận động cao
Giáo viên : Vũ Thị Bích Ngạn


2


một yêu cầu mang tính chất sinh học - bởi vì vận động sẽ giúp cho quá trình
trao đổi chất trong đo dặc biệt là quá trình đồng hóa diễn ra trong cơ thể nhanh hơn,
mạnh hơn, mà đó chính là cơ sở để các em phát triển.
- Tài liệu hướng dẫn gần như không có.
- Đặc biệt tình trạng học sinh không đáp ứng được yêu cầu về thể lực ngày
càng tăng do ý thức yếu kém của các em trong luyện tập ở trường cũng như ở nhà.
Chính vì những lý do trên mà tôi đã thực hiện nghiên cứu đề tài “phát huy
tính tích cực của học sinh trong luyện tập chạy bền” .
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
- Việc phát huy tính tích cựu của học sinh trong luyện tập chạy bền sẽ làm
tăng hiệu quả rất lớn trong việc rèn luyện thể lực của học sinh, giúp các em hoàn
thành mục tiêu môn học THCS là:
. Biết được một số kiến thức, kỹ năng cơ bản để tập luyện gìn giữ sức khoẻ
và nâng cao thể lực.
. Góp phần rèn luyện nếp sống lành mạnh, nhanh nhẹn, khéo léo, thói quen
tự giác tập luyện TDTT, gìn giữ vệ sinh.
. Có sự tăng tiến về thể lực, đạt tiêu chuẩn RLTT và thể hiện bản thân về
TDTT.
. Biết vân dụng vào thực tế.
III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
Là học sinh năng khiếu được lựa chọn cho tập luyện và thi đấu cho các giải
TDTT cấp Huyện, cấp Tỉnh và Quốc gia năm học 2013-2014
IV. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU:
Lựa chọn và xá định các bài tập ứng dụng, một số các bài tập thể lực nhằm
nâng cao thành tích cho các học sinh năng khiếu TDTT.
+ Kiểm tra đánh giá thực trạng tình hình giảng dạy, kết quả học tập ở các

môn của học sinh trung học cơ sở (THCS).

Giáo viên : Vũ Thị Bích Ngạn

3


+ Đánh giá hiệu quả ứng dụng các bài tập thể lực nhằm phát triển sức nhanh,
sức mạnh, sức bền nhằm nâng cao thành tích các môn thể thao cho học sinh năng
khiếu.
V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Để giải quyết nhiệm vụ nghiên cứu trên, tôi đã áp dụng phương pháp
nghiên cứu sau:
1. Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu:
Áp dụng phương pháp này nhằm mục đích xây dựng cơ sở lý luận của đề tài.
Chọn phương pháp nghiên cứu, lựa chọn các chỉ tiêu đánh giá và bài tập chuyên
dụng trong thực tiễn giảng dạy.
2. Phương pháp phỏng vấn (Anket):
Nhằm thu thập các tét và các bài tập được sử dụng nhiều trong thực tiễn
luyện tập.
3. Phương pháp kiểm tra sư phạm:
Nhằm đánh gia sức nhanh, sức mạnh, sức bền thông qua các test có liên
quan, tôi sử dụng các test sau:
+ Chạy 30m tốc độ cao
+ Chạy 100m
+ Chạy 60m xuất phát thấp.
4. Phương pháp thực nghiệm sư phạm:
Tiến hành thực nghiệm song song đơn, tôi chia thành hai nhóm.
Nhóm I: Nhóm đối chứng A:
Gồm 10 học sinh nam khối 8 ( Lớp 8A1 trường THCS Liên Châu).

Nhóm II: Nhóm đối chứng B:
Gồm 10 học sinh nam khối 8 (Lớp 8 A2 trường THCS Liên Châu).
Tôi tiến hành giảng dạy theo các bài tập đã lựa chọn sau khi có kết quả
phỏng vấn.
Dự kiến các bài tập sau:
Giáo viên : Vũ Thị Bích Ngạn

4


- Bật nhảy đổi chân liên tục trên bục.
- Chạy 30m tốc độ cao.
- Tại chỗ nâng cao đùi nhanh 10 giây.
- Bật xa tại chỗ liên tục.
- Chạy 60m xuất phát cao.
- Chạy tăng tốc độ 40m,60m,80m.
- Nằm sấp chống đẩy.
- Lò cò nhanh liên tục.
- Thực hiện động tác đá lăng, xoạc ngang.
5. Giới hạn không gian của đối tượng nghiên cứu:
Tất cả học sinh năng khiếu TDTT trường THCS Liên Châu tham gia thi đấu
các giải TDTT cấp Huyện, Tỉnh năm học 2013- 2014.
Thời gian thực hiện từ tháng 10 năm học 2013- 2014 trong buổi bồi dưỡng
tập luyện học sinh năng khiếu TDTT. Kừt thúc vào tháng 12 năm học 2013- 2014.

Giáo viên : Vũ Thị Bích Ngạn

5



PHẦN II: NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. Cơ sở lý luận:
- Thể lực của học sinh luôn là một vấn đề được đặc biệt quân tâm của giờ thể
dục, là một tiêu chí đánh giá xếp loại học sinh. Tuy nhiên trong giờ dạy thể lực
luôn gặp những hạn chế:
. Học sinh chưa nhận thức nâng cao thể lực cho mình.
. Học sinh lười luyện tập.
. Giáo viên chưa chịu cập nhật các phương pháp luyện tập mới để tạo sự
hứng thú luyện tập của học sinh.
. Dụng cụ luyện tập còn quá ít hoặc không phù hợp hay chất lượng kém.
2. Cơ sở tâm lý:
Học sinh trung học cơ sở, các em đang ở độ tuổi từ 11- 15, có một số đặc
điểm tâm lý mà người giáo viên cần phải nắm được.
Lứa tuổi học sinh THCS đẫ có những điều kiện thuận lợi cho sự hình thành
khả năng tự điều chỉnh trong hoạt động học tập, tính tích cực chung của trẻ, sự sẵn
sàng tham gia vào các hoạt động khác nhau, nguyện vọng muốn có hình thức học
tập mang tính chất người lớn.
3. Cơ sở thực tiễn:
- Do điều kiện sân bãi không tốt, phạm vi hẹp.
- Thiết bị đồ dùng luyện tập còn thiếu.
- Học sinh chưa biết cách áp dụng phương pháp luyện tập và bài tập phù hợp
với thể trạng cơ thể mình.
VD: Khi sử dụng phiếu điều tra hứng thú học tập đầu năm thông qua việc
chọn lựa môn TDTT em ưa thích để luyện tập kết quả thu được như sau:
Chạy bền: 5%
Cầu lông: 20%
Đá bóng: 40%
Giáo viên : Vũ Thị Bích Ngạn


6


Bóng bàn: 2%
Bóng rổ: 15%
Bóng chuyền: 8%
Bơi : 10%
Đa số các em chọn những môn luyện tập theo ý thích chủ quan của mình mà
không để ý đến thể trạng cơ thể cũng như tố chất TT của mình. Một số em có thể
trạng và thể lực yếu lại thích các môn vận động mạnh như: đá bóng, bơi, chạy bền,
có em thấy bạn chọn thì mình cũng chọn hay do các ban rủ tập cùng.
- Cũng có thể do giáo viên hướng dẫn học sinh cách chọn lựa môn TT phù
hợp cho các em cũng như việc áp dụng phương pháp, dung cụ luyện tập còn hạn
chế dẫn đến các em không có hứng thú luyện tập.
- Ngoài ra các em chưa chú trọng đến quá trình khởi động và lượng vận động
của mình.
- Có thể nói chất lượng thể lực của học sinh trong trường là một vấn đề cần
giải quyết không chỉ có tôi mà những giáo viên đi trước đều có thể cảm nhận được.
Thông qua chất lượng kiểm tra 2 năm học trước ta có thể thấy được điều này:
Ở đây tôi chỉ thu thập số liệu của 2 khối 8 - 9 vì 2 ở 2 khối này việc rèn luyện
thể lực là rất quan trọng đến sự phát triển của các em. Thông qua số liệu đó tôi
nhận ra tỷ lệ học sinh đạt loại giỏi và khá là rất ít do các em lười luyện tập trong
giờ học cũng như ở nhà các em chưa có nhận thức về tầm quan trọng của thể lực.
Đặc biệt trong các giải TDTT của Huyện, ngành trường tôi không bao giờ có giải
trong nội dung thi chạy cự li trung bình và dài từ đó việc cấp thiết là tạo cho các em
hứng thú luyện tập thể lực ở trường cũng như ở nhà, trong và ngoài tiết học.
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Qua nhiều năm thực tế giảng dạy, điều mà tôi trăn trở là làm thế nào để học
sinh tiếp cận tốt với môn thể dục, để từ đó yêu thích và say mê môn học.
Các em đang ở độ tuổi từ 11- 15 tuổi có một số đặc điểm tâm lý chưa được

cân bằng nên biểu hiện một số động tác còn lóng ngóng, chân tay còn chưa nhanh
Giáo viên : Vũ Thị Bích Ngạn

7


nhẹn, nên điều khiển các động tác còn khó khăn, hoặc thực hiện được nhưng chưa
được đều, đẹp.
Ngay từ những năm đầu tiên tôI thực hiện giảng dạy và nhận thấy một số tỷ
lệ học sinh yêu thích môn học còn hạn chế, các em rất sợ môn học này, chính vì vậy
đã ảnh hưởng rất nhiều đến kết quả học tập cuối năm của học sinh, đặc biệt là từng
nội dung bài học.
Có thể đưa ra một ví dụ về kết quả tổng kết năm học 2013- 2014 như sau:
Hai khối 8 và 9 có tỷ lệ như sau:
Loại giỏi chiếm 25%, loại khá 55%, loại trung bình 20%, không có học sinh
loại yếu.

III. CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU:
1. Phương pháp nghiên cưú:
- Để nghiên cứu đề tài này tôi đã tìm hiểu nghiên cứu các tài liệu về phương
pháp dạy học môn " chạy bền". Các bài viết có tính chất khoa học và đã thành giáo
trình giảng dạy.
- Lấy thực nghiệm việc dạy học môn chạy bền khối 8, 9 và đánh giá kết quả
luyện tập của học sinh, để từ đó tìm hiểu nguyên nhân rút ra hướng rèn luyện học
sinh.
- Tham khảo ý kiến cũng như phương pháp giảng dạy môn chạy bền của
đồng nghiệp thông qua các buổi họp chuyên đề, dự giờ thăm lớp.

2. Vài nét về địa bàn nghiên cứu:
- Trường THCS Liên Châu là trường đại trà của Huyện Yên Lạc, học sinh

thường xuyên tiếp xúc với các phong trào, trào lưu mới trong sự phát triển của xã
hội, nhất là trong bối cảnh phát triển mạnh của mạng Internet như hiện nay, đặc biệt
trò chơi điện tử đang phát triển rất mạnh đã chi phối đến tâm lí của các em rất
nhiều, từ đó việc học tập và rèn luyện TDTT của các em thực sự bị ảnh hưởng
nhiều.
Giáo viên : Vũ Thị Bích Ngạn

8


- Đặc biệt còn có phụ huynh chưa hiểu hết tác dụng của việc luyện tập TDTT
nên không ủng hộ con em mình luyện tập TDTT.

3. Thực trạng:
- Trong cuộc thi TDTT của Huyện tổ chức có thể nói môn chạy bền là một
trong những môn mà trường THCS Liên Châu luôn có thành tích thấp trong Huyện.
Một phần do môn chạy bền chưa thực sự được quan tâm đúng mức, và một phần do
tố chất thể lực và ý thức luyện tập của VĐV chưa cao nên dẫn tới kết quả không
được tốt trong các cuộc thi TDTT.

4. Kết quả thực hiện:
- Từ những vần đề trên có thể thấy việc ý thức rèn luyện sức bền của đại đa
số học sinh là rất kém, các em thường không có tinh thần cố gắng quyết tâm, chỉ
cần gặp một khó khăn là sẵn sàng bỏ luyện tập, các HLV chưa thực sự tâm huyết
với nghề, không nắm vững được tâm lí của VĐV, chưa chịu tìm kiếm các phương
pháp luyện tập cho phù hợp với từng lứa tuổi.

5. Đề xuất biện pháp :
- Qua việc nghiên cứu tôi đề xuất các biện pháp cụ thể như sau:
. Trong các tiết học cần thường xuyên thay đổi các phương pháp luyện tập

chạy bền cho phong phú, không làm học sinh nhàm chán trong việc luyện tập.
. Tạo cho học sinh hiểu được tầm quan trọng của việc luyện tập chạy bền.
. Để học sinh có thể đánh giá việc rèn luyện của mình đạt kết quả đến đâu
GV cần phải thường tổ chức các cuộc thi chạy bền nhiều cự li từ quy mô lớp đến
cấp trường để tạo ra hứng thú cho học sinh.
. Để đạt thành tích cao trong các cuộc thi trong thể thao nên tổ chức thành
các đội năng khiếu cho các môn khác nhau để từ đó có thể tuyển chọn và luyện tập
tốt hơn cho các em.
. Đưa ra các bài tập rèn luyện sức bên phù hợp cho từng đối tượng học sinh
để học sinh có thể luyện tập ở trường và ở nhà.
6. Khảo nghiệm tính khả thi của các biện pháp đề ra
Giáo viên : Vũ Thị Bích Ngạn

9


- Qua việc khảo nghiệm (xem xét và đánh giá qua ứng dụng, thử thách trong
thực tế), tôi nhận thấy các biện pháp đề ra trong đề tài mang tính khả thi (có thể
thực hiện được) không chỉ với trường THCS Liên Châu mà còn có thể áp dụng đối
với nhiều trường THCS trong huyện nhà. Có thể dạy trong năm học này và áp
dụng dạy trong nhiều năm học tiếp theo.

Giáo viên : Vũ Thị Bích Ngạn

10


7. Kết luận :
Kết quả học tập của học sinh được xem là sản phẩm đầu ra của một quá trình
tác động có chủ đích của hoạt động dạy học. Tác động của quá trình dạy học bao

gồm nhiều yếu tố dựa trên các điều kiện từ thực trạng đời sống kinh tế, cơ sở vật
chất, trình độ nhận thức của học sinh, phương pháp cũng như trình độ giảng dạy
của giáo viên, chương trình sách giáo khoa ... Từ đó sản phẩm (kết quả học tập của
học sinh) được nâng cao, tiếp tục phát triển ở những giai đoạn tiếp theo của quá
trình giáo dục. Kết quả học tập của học sinh đối với môn Thể dục phải được thể
hiện ở việc phát triển toàn diện của học sinh cả về thể chất lẫn tinh thần.

Giáo viên : Vũ Thị Bích Ngạn

11


PHẦN III: KẾT LUẬN
I. KẾT LUẬN CHUNG
- Việc áp dụng các phương pháp rèn luyện thể lực trong quá trình luyện tập
thể lực đã góp phần nâng cao chất lượng cũng như nâng cao thể lực, ý thức rèn
luyện, luyện tập của học sinh trong các giờ học.
- Học sinh được vận động sáng tạo, vui chơi, tìm tòi nhưng vẫn được rèn
luyện thể lực thường xuyên.
- Việc giảng dạy bộ môn thể dục muốn đạt hiệu quả cao trong việc rèn luyện thể lực
giáo viên cần tạo cho học sinh hứng thú trong việc luyện tập và rèn luyện thể lực.
- Giáo viên cần nghiên cứu các phương pháp luyện tập mới cũng như sáng
tạo những dụng cụ luyện tập hỗ trợ cho học sinh luyện tập.
- Cần phải tổ chức phù hợp một tiết dạy sao cho việc luyện tập và rèn luyện
một cách hợp lý không quá nặng về một phần nào đó.
- Tạo cho học sinh ý thức tự quản, ý chí vươn lên, tham gia đánh giá một
cách công bằng, hợp lý như vậy mới có thể phát huy hết khả năng tố chất của học
sinh.

II. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ

- Trang bị đầy đủ các thiết bị dụng cụ hỗ trợ luyện tập.
- Mở các lớp chuyên đề bộ môn để giáo viên đi dự nâng cao chuyên môn.
- Mở các lớp bồi dưỡng học chuyên môn để có thể trao đổi các phương pháp
tập luyện giữa các giáo viên.

Liên Châu,, ngày 11 tháng 5 năm 2015
NGƯỜI VIẾT

Giáo viên : Vũ Thị Bích Ngạn

12


Vũ Thị Bích Ngạn

Giáo viên : Vũ Thị Bích Ngạn

13


NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG,
PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO.
HỘI ĐỒNG KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG

HỘI ĐỒNG KHOA HỌC PHÒNG GD & ĐÀO TẠO:
Giáo viên : Vũ Thị Bích Ngạn

14



Giáo viên : Vũ Thị Bích Ngạn

15



×