Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Sang kien mot so bien phap day giai toan co loi van cho hoc sinh lop 2a4 truong tieu hoc thi tran than uyen

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.94 KB, 22 trang )

BÁO CÁO TÓM TẮT SÁNG KIẾN
1. Đồng tác giả:
1.1. Họ và tên: Đỗ Thị Hòa
Năm sinh: 1972
Nơi thường trú: Khu 1, thị trấn Than Uyên, Than Uyên, Lai Châu
Trình độ chuyên môn: Đại học
Chức vụ công tác: Giáo viên
Nhiệm vụ được phân công: Giáo viên chủ nhiệm
1.2. Họ và tên: Phùng Thanh Thủy
Năm sinh: 1983
Nơi thường trú: Mường Than, Than Un, Lai Châu
Trình độ chun mơn: Cao đẳng
Chức vụ cơng tác: Giáo viên
Nhiệm vụ được phân công: Giáo viên chủ nhiệm
1.3. Họ và tên: Đỗ Thị Kim Dung
Năm sinh: Nơi thường trú: Khu 1, thị trấn Than Uyên, Than Uyên, Lai Châu
Trình độ chun mơn: Đại học
Chức vụ cơng tác: Giáo viên
Nhiệm vụ được phân công: Giáo viên chủ nhiệm
2. Tên sáng kiến: “Một số biện pháp dạy giải toán có lời văn cho học
sinh lớp 2a4 trường Tiểu học thị trấn Than Uyên”
3. Tính mới và sự khác biệt
* Tính mới: Qua việc áp dụng hai biện pháp đã nêu trên chúng tôi nhận
thấy:
Đối với học sinh: Các em có thói quen xác định các dạng tốn trước khi
giải tốn, nắm chắc các dạng tốn đã học, tóm tắt bài tốn đúng và nhanh, lựa
chọn phép tính và lời giải chính xác, hiểu rõ bản chất của bài tốn. Mạnh dạn, tự
tin khi học toán.
1



Đối với chúng tơi: Việc dạy giải tốn có lời văn đã trở nên hứng thú, say
mê và dễ dàng hơn, việc phân tích bài tốn, hướng dẫn các bước giải có cơ sở
khơng bị q tường minh, khơng bị theo khuôn mẫu nên học sinh dù học yếu
cũng hiểu bài tốn một cách cặn kẽ và giải chính xác.
* Sự khác biệt: Khi đưa các biện pháp vào thực hiện chúng tôi nhận thấy
rõ sự khác biệt giữa biện pháp cũ và biện pháp mới như sau:
Giải pháp cũ
Giải pháp mới
- Biện pháp 1: Học sinh giải được bài Học sinh nắm chắc các dạng toán đã
toán ngay trong tiết học, khả năng ghi học, tóm tắt bài tốn và xác định cách
nhớ để giải các bài toán trong thời gian giải một cách thành thạo, chính xác.
dài tiếp theo không cao.
- Biện pháp 2: Học sinh thiếu khả năng Có thói quen lập bài tốn mới, xác định
vận dụng cách giải các bài toán đơn dạng toán cho bước giải thứ hai và giải
vào giải bài toán bằng hai phép tính. chính xác cả về lời giải và phép tính.
Nhiều em giải mị có thể đúng lời giải
hoặc phép tính. Học sinh khơng có kĩ
năng xác định dạng toán trước khi giải
nên thiếu tự tin trong giải toán.
4. Hiệu quả sáng kiến mang lại
Giúp giáo viên nắm được phương pháp vững chắc để áp dụng vào dạy
giải toán nói chung và giải tốn có lời văn nói riêng.
Học sinh không nhút nhát, lúng túng khi thực hiện giải toán, nắm được
dạng toán, cách giải bài toán, biết phân tích, tóm tắt bài tốn, trình bày được bài
giải khoa học, đúng. 100% các em đều giải được các dạng tốn đơn trong
chương trình một cách có cơ sở.
Góp phần trong việc huy động tỷ lệ chuyên cần của lớp. Học sinh có hứng
thú khi học bài, mạnh dạn, tự tin hơn. Giúp phụ huynh biết cách hướng dẫn con
học tập, kiểm tra bài học ở nhà của con. Phụ huynh học sinh yên tâm về việc học
của con em của mình. Học sinh đi học đều, nhiều em nắm chắc và u thích

mơn học, ham học hỏi, tìm tịi hơn, khơng có học sinh bỏ học đảm bảo phổ cập
giáo dục của thị trấn.
2


5. Phạm vi ảnh hưởng của sáng kiến
Chúng tôi đã áp dụng thực hiện và thấy kết quả đạt được rất tốt. Sáng kiến
có thể áp dụng được trong nhà trường không chỉ với học sinh lớp 2a4, mà tất cả
các lớp trong khối 2, từ đó có cơ sở cho việc dạy giải các bài tốn có hai phép
tính trở lên. Mong các bạn đồng nghiệp tham khảo để nâng cao chất lượng toàn
diện cho học sinh. Ngoài ra sáng kiến cịn có thể áp dụng cho các trường có
nhiều em học sinh dân tộc thiểu số để giúp các em nắm chắc các dạng tốn và
cách giải.
I. THƠNG TIN CHUNG
1. Tên sáng kiến:
“Một số biện pháp dạy giải tốn có lời văn cho học sinh lớp 2a4 trường
Tiểu học thị trấn Than Uyên”
2. Đồng tác giả:
2.1. Họ và tên: Đỗ Thị Hòa
Năm sinh: 1972
Nơi thường trú: Khu 1, thị trấn Than Uyên, Than Uyên, Lai Châu
Trình độ chuyên môn: Đại học
Chức vụ công tác: Giáo viên
Nơi làm việc: Trường Tiểu học thị trấn Than Uyên
Điện thoại: 01649999796
Tỉ lệ đóng góp tạo ra sáng kiến: 34%
2.2. Họ và tên: Phùng Thanh Thủy
Năm sinh: 1983
Nơi thường trú: Mường Than, Than Un, Lai Châu
Trình độ chun mơn: Cao đẳng

Chức vụ cơng tác: Giáo viên
Nơi làm việc: Trường Tiểu học thị trấn Than Uyên
Điện thoại: 01649492700
Tỉ lệ đóng góp tạo ra sáng kiến: 33%
2.3. Họ và tên: Đỗ Thị Kim Dung
3


Năm sinh:
Nơi thường trú: Khu 1, thị trấn Than Uyên, Than Un, Lai Châu
Trình độ chun mơn: Đại học
Chức vụ công tác: Giáo viên
Nơi làm việc: Trường Tiểu học thị trấn Than Uyên
Điện thoại:
Tỉ lệ đóng góp tạo ra sáng kiến: 33%
3. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Công tác giảng dạy
4. Thời gian áp dụng sáng kiến: Tiến hành nghiên cứu, điều tra thu thập
thông tin, xử lý dữ liệu và hoàn chỉnh trong thời gian 2 năm (từ tháng 9 năm
2016 đến tháng 5 năm 2018).
Từ tháng 9 năm 2016 đến tháng 8 năm 2017: nghiên cứu và vận dụng tại
lớp 1a4 trường Tiểu học thị trấn Than Uyên.
Từ tháng 9 năm 2017 đến tháng 5 năm 2018: thực hiện tại lớp 2a4 trường
Tiểu học thị trấn Than Uyên
5. Đơn vị áp dụng sáng kiến:
Tên đơn vị: Trường Tiểu học thị trấn Than Uyên
Địa chỉ: Khu 6, thị trấn Than Uyên, Than Uyên, Lai Châu
Điện thoại: 02133784274

4



II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN
1. Sự cần thiết, mục đích của việc áp dụng sáng kiến
1.1. Sự cần thiết
Trong những năm gần đây công tác giáo dục của tỉnh Lai Châu nói chung
và hoạt động giáo dục của huyện Than Uyên nói riêng đã có nhiều thay đổi. Khi
phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” được triển khai
và hưởng ứng mạnh mẽ trong các cấp học, ngoài việc nâng cao chất lượng giáo
dục. Hiện nay trong các trường đã và đang vận dụng phương pháp dạy học đổi
mới, đó là cách dạy hướng vào người học hay còn gọi là “Lấy học sinh làm
trung tâm” người thầy là người hướng dẫn chỉ đạo trong quá trình học sinh lĩnh
hội kiến thức, với các mơn học nói chung và mơn Tốn nói riêng. Để vận dụng
tốt được cách dạy học mới này đòi hỏi người giáo viên phải tâm huyết với nghề,
phải dày công nghiên cứu tìm ra giải pháp thích hợp với đối tượng học sinh
mình dạy.
Để nâng cao chất lượng tồn diện cho học sinh. Ngoài việc dạy cho các
em kiến thức về số học, yếu tố đại số, đại lượng và đo đại lượng, yếu tố hình
học, yếu tố thống kê. Kiến thức về giải tốn có lời văn cũng hết sức quan trọng
vì trong giải tốn có lời văn giúp các em củng cố, vận dụng những kiến thức giải
toán, phát triển kỹ năng, kỹ xảo đã được hình thành. Đặc biệt giải tốn có lời
văn cịn giúp phát triển tư duy ở học sinh.
Qua thực tế dạy học giải tốn có lời văn nói chung và việc giải tốn có lời
văn bằng hai phép tính nói riêng của lớp 3a3 trường Tiểu học thị trấn Than
Uyên, chúng tôi thấy chỉ được khoảng 40% học sinh nắm được cách giải bài
toán giải bằng hai phép tính. Trong đó vẫn cịn học sinh sử dụng câu lời giải
chưa chính xác. Cịn lại 60% học sinh lơ mơ, lúng túng khi phải đứng trước một
bài tốn giải bằng hai phép tính. Có thể các em giải “mị” và tìm ra được kết quả
nhưng lời giải cịn chưa chính xác, khi được giáo viên hỏi lại để khắc sâu kiến
thức thì các em cịn lúng túng và chưa mạnh dạn, tự tin để trả lời.
Trong chương trình lớp 3 ngồi các dạng tốn đơn giải bằng một phép

tính, các em cịn được làm quen với các dạng tốn giải bằng hai phép tính. Bởi
5


vậy để giúp cho các em nắm chắc các dạng toán đơn đã học từ lớp 2 và vận dụng
để giải bài tốn bằng hai phép tính ở lớp 3, giúp cho các em không bị nhầm lẫn
câu lời giải, tự tin khi thực hiện giải bài tốn có lời văn và việc nắm chắc các
dạng tốn, cách giải cịn là cơ sở để các em giải tốt các dạng tốn khác khi học
lên các lớp trên nhóm chúng tơi đã chọn đề tài “Một số biện pháp dạy giải tốn
có lời văn cho học sinh lớp 2a4 trường Tiểu học thị trấn Than Uyên”.
1.2. Mục đích
+ Học sinh nêu được bài tốn có lời văn qua việc tóm tắt bằng sơ đồ, và
nhìn tóm tắt để nêu được nội dung bài toán.
+ Giúp cho học sinh biết xác định dạng tốn của bài tốn có lời văn.
+ Giúp cho học sinh biết xác định phần cho biết của bài tốn thuộc dạng
tốn gì để xác định chính xác câu lời giải thứ nhất.
+ Giúp học sinh sau khi tìm được kết quả của phép tính thứ nhất, dựa vào
câu lời giải của phép tính thứ nhất, ghép với phần cho biết để tạo thành một bài
toán mới.
+ Giúp cho học sinh biết xác định phần hỏi của bài toán thuộc dạng tốn
gì và xác định chính xác câu lời giải thứ hai.
+ Giúp học sinh dựa vào bài toán mới ghép được để có phép tính thứ hai
+ Giúp học sinh nắm chắc được các dạng toán và cách giải bài tốn bằng
hai phép tính.
+ Giúp cho giáo viên dễ dàng hơn khi hướng dẫn học sinh cách giải bài
tốn bằng hai phép tính.
+ Học sinh biết tự trình bày bài giải gồm ba bước: Câu lời giải, phép tính
và đáp số.
+ Học sinh biết tự tìm câu lời giải khác cho bài tốn có lời văn bằng nhiều
câu khác nhau.

2. Phạm vi triển khai thực hiện sáng kiến
Năm học 2015 – 2016: nghiên cứu và vận dụng 2 biện pháp cho 30 học
sinh của lớp 2a3 trường Tiểu học thị trấn Than Uyên.
6


Năm học 2016 – 2017: thực hiện sáng kiến đối với 30 học sinh của lớp
3a3 trường Tiểu học thị trấn Than Uyên.
3. Mô tả sáng kiến
3.1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
3.1.1 Hiện trạng việc thực hiện giải tốn có lời văn cho học sinh lớp 2.
Ở cuối lớp 1, các em được làm quen với giải tốn có lời văn ở mức độ đơn
giản với các dạng tốn có từ khóa thơng thường là: “thêm”, “bớt” ở dữ kiện đã
biết và “tất cả”, “còn lại” ở phần câu hỏi. Dựa vào các từ khóa này học sinh giải
bài toán bằng phép cộng hoặc phép trừ. Lên lớp 2, các em học thêm nhiều dạng
toán đơn mới. Đặc biệt, các em được học giải toán bằng phép nhân hoặc phép
chia. Để giải tốt các bài tốn có lời văn ở lớp hai, địi hỏi các em phải đọc kĩ đề
tốn, phân tích, tóm tắt, nắm được các dữ kiện của bài tốn. Từ đó các em dựa
vào kiến thức đã được học để giải các bài tốn. Trong khi đó khả năng tư duy của
nhiều em cịn chưa tốt, việc phân tích, ghi nhớ cịn hạn chế. Nhiều em có thể giải
bài tốn rất tốt ngay sau khi học bài mới nhưng chỉ một thời gian ngắn sau các em
có thể sẽ quên cách giải và giải mị bằng một trong hai cặp phép tính cộng trừ
hoặc nhân chia. Mặt khác nếu bài tốn khơng được viết theo cấu trúc thông
thường: dữ kiện cho biết rồi đến câu hỏi thì rất nhiều học sinh bị lúng túng. Bởi
vậy trong quá trình giảng dạy để giúp các em hiểu bài chúng tôi đã vận dụng các
phương pháp và hình thức dạy học đặc trưng, truyền thống để giúp cho các em có
kĩ năng phân tích đề bài và xác định dạng toán. Với việc áp dụng các kĩ thuật dạy
học cơ bản, chúng tôi đã giúp học sinh nắm được kĩ năng giải tốn có lời văn
bằng cách yêu cầu các em tự đọc kĩ đề, phân tích, nắm được các từ “khóa” của bài
tốn, từ đó trình bày được bài giải. Tuy nhiên việc giải tốn của các em cịn dừng

lại ở mức độ giáo viên truyền đạt, học sinh tiếp thu, học sinh còn thụ động trong
việc nhận dạng bài tốn. Về phía học sinh, qua quá trình giảng dạy và quan sát bài
làm của các em chúng tôi thấy đa số các em đã nắm được kiến thức, biết cách giải
bài toán, song nhiều em qn cách giải vì lâu khơng được ơn lại dạng tốn đó.
Ngun nhân: Một số giáo viên ngại đổi mới phương pháp, chưa tích cực
tìm tịi những mẹo hay, những bí quyết giải tốn để truyền đạt tới học sinh,
7


chuẩn bị bài còn chưa thật sự chu đáo, hơn thế giáo viên tiểu học ngồi việc dạy
học cịn bị phân tán thời gian và sự chú ý vào việc rèn nề nếp cho học sinh, giữ
trật tự lớp học, học sinh chưa có kĩ năng phân tích đề, máy móc, thụ động, mải
chơi, chưa chú ý đọc kĩ đề bài, chưa có thói quen xác định dạng tốn trước khi
giải.
Thực tế, chúng tôi đã áp dụng hai biện pháp dạy giải tốn có lời văn cho học
sinh như sau:
Biện pháp 1: Dạy giải tốn có lời văn theo các bước thông thường.
Chúng tôi tổ chức hướng dẫn học sinh giải tốn qua 4 bước thơng thường:
Bước 1: Đọc kĩ đề tốn
Bước 2: Tóm tắt bài tốn.
Bước 3: Phân tích bài tốn để tìm cách giải (Bài tốn cho biết gì? Bài tốn hỏi
gì? Bài này giải bằng phép tính nào?)
Bước 4: Giải bài tốn
Với 4 bước thơng thường, học sinh có thể giải bài tốn khá tốt ngay trong
tiết học nhưng sau đó một thời gian nếu gặp dạng toán tương tự hoặc cấu trúc
trong bài toán thay đổi một chút ít mà chúng tơi khơng hướng dẫn giải thì học
sinh sẽ bị lúng túng, hoặc nếu giải đúng thì cũng là do giải “mị” may ra thì đúng
chứ học sinh chưa hiểu bản chất của bài toán.
Biện pháp 2: Dạy đặt đề tốn theo tóm tắt, hình vẽ rồi giải.
Chúng tơi đưa ra một số tóm tắt bằng lời hoặc sơ đồ, hình vẽ, yêu cầu học

sinh đặt đề tốn theo tóm tắt rồi giải.
Ví dụ 1: Giải bài tốn theo tóm tắt sau:
An: 5 bơng hoa
Hùng: 3 bơng hoa
Cả hai bạn: … bơng hoa?
Ví dụ 2: Giải bài tốn theo tóm tắt sau:
Mẹ có: 12kg gạo
Mua thêm: 13 kg gạo
Mẹ có tất cả: …. kg gạo?
8


Ví dụ 3: Có: 50 quả cam
Bán: 20 quả cam
Cịn: … quả cam?
Biện pháp này giúp học sinh tăng cường Tiếng Việt, học sinh biết dựa vào
tóm tắt thành lập bài tốn rồi mới giải. Từ đó, khả năng tư duy và kĩ năng giải
bài toán cũng được cải thiện phần nào.
Kết quả đạt được: Học sinh đã cơ bản giải được các bài tốn có lời văn
ngay sau khi học xong các dạng toán.
Sau một năm thực hiện áp dụng hai biện pháp nêu trên và căn cứ vào kết
quả đạt được, chúng tôi đánh giá ưu và nhược điểm của các biện pháp như sau:
3.1.2 Ưu điểm của các biện pháp cũ
Học sinh thực hiện các bước giải tốn thành thạo.
Học sinh cơ bản biết giải tốn có lời văn ngay trong tiết học và trong thời
điểm học các dạng tốn đó.
3.1.3 Nhược điểm của các biện pháp cũ
a) Biện pháp 1: Dạy giải tốn có lời văn theo các bước thơng thường.
Học sinh lúng túng khi tóm tắt bài toán bằng sơ đồ.
Học sinh lúng túng khi tự giải các bài tập thông thường hoặc các bài tốn

có cấu trúc đề thay đổi. Các em sẽ lẫn lộn từ dạng toán nọ sang dạng toán kia và
làm các phép tính khơng chính xác.
Cách hướng dẫn học sinh của chúng tơi gặp khó khăn: Sau khi phân tích
bài tốn xong, chúng tơi muốn cho các em giải nhưng chỉ có thể hỏi: Bạn nào đã
biết cách giải bài toán này? Hoặc theo em bài toán này giải bằng phép tính gì?
Hoặc chúng tơi sẽ cho học sinh khá giỏi nêu miệng các bước giải thì học sinh
nhận thức chậm mới có thể làm được bài. Như vậy những học sinh nhận thức
chậm không thể nắm vững được bản chất của bài tốn.
Học sinh khơng có thói quen xác định dạng toán để lựa chọn cách giải
đúng, dẫn đến gặp rất nhiều khó khăn khi giải tốn bằng hai phép tính ở lớp Ba.
b) Biện pháp 2: Dạy đặt đề tốn theo tóm tắt, hình vẽ rồi giải.
9


Vì dạng tốn này phải mất thêm thời gian cho việc lập đề toán nên thời
gian dành cho việc phân tích và giải bài tốn đối với học sinh nhận thức chậm
cịn thiếu, đặc biệt là những học sinh khơng chú ý nghe giảng.
Trên cơ sở áp dụng các biện pháp nêu trên trong năm học 2017 – 2018,
sau khi tổng kết, đánh giá lại từng biện pháp và xem xét tính hiệu quả của các
biện pháp đó, chúng tơi nhận thấy các biện pháp đã áp dụng cần bổ sung thêm
cho hồn chỉnh, cũng có biện pháp khơng phù hợp cần thay thế. Để đảm bảo
được hiệu quả của việc dạy giải tốn có lời văn cho học sinh lớp 2a4 nói riêng
và học sinh khối 2 trường Tiểu học thị trấn Than Uyên nói chung trong năm học
2018 – 2019 chúng tôi đã cải tiến hai biện pháp cũ, bổ sung hai biện pháp mới
cho phù hợp với điều kiện thực tế, đó là:
1. Dạy giải tốn dựa vào “từ khóa” để xác định các dạng tốn trước khi
giải.
2. Dạy giải tốn thơng qua bước lập biểu thức trước khi giải.
3.2. Mơ tả giải pháp sau khi có sáng kiến
3.2.1. Tính mới và sự khác biệt của biện pháp mới so với biện pháp cũ

3.2.1.1. Tính mới: Qua việc áp dụng hai biện pháp đã nêu trên chúng tơi
nhận thấy:
Đối với học sinh: Các em có kĩ năng xác định chính xác “từ khóa” của
bài tốn và xác định đúng dạng toán trước khi giải rồi mới thực hiện các bước
giải thông thường.
Đối với giáo viên: Việc dạy giải tốn có lời văn cho học sinh lớp hai đã
trở nên hứng thú, say mê và dễ dàng hơn, việc phân tích bài tốn, hướng dẫn các
bước giải có cơ sở không bị quá tường minh, không bị theo khuôn mẫu nên học
sinh dù học yếu cũng hiểu bài tốn một cách cặn kẽ và giải chính xác.
3.2.1.2. Sự khác biệt
Khi đưa các biện pháp vào thực hiện chúng tôi nhận thấy rõ sự khác biệt
giữa biện pháp cũ và biện pháp mới như sau:
Biện pháp 1: Học sinh nắm chắc các dạng tốn đã học, có thói quen xác
định dạng tốn trước khi giải và giải chính xác cả về lời giải và phép tính.
10


Biện pháp 2: Học sinh biết lập các biểu thức trước khi giải để giải các bài
tốn dạng tìm thành phần chưa biết.
Từ những sự khác biệt giữa các biện pháp cũ và mới như đã nêu trên,
chúng tôi cụ thể hóa các biện pháp mới được mơ tả dưới đây.
3.2.2. Các biện pháp mới áp dụng
3.2.2.1. Biện pháp 1: Dạy giải tốn dựa vào “từ khóa” để xác định các
dạng toán trước khi giải.
Ở lớp một, học sinh được làm quen với các bài toán giải bằng phép cộng
hoặc phép trừ. Nhưng khi lên lớp hai các em được làm quen với nhiều dạng toán
hơn, đặc biệt là các em phải làm quen với việc giải toán bằng phép tính nhân,
chia. Trong đó giải bằng phép tính cộng hoặc trừ cũng thêm một số dạng mới.
a. Cách thực hiện:
* Hướng dẫn xác định “từ khóa” trong bài tốn giải bằng phép cộng:

Tơi chia các bài tốn giải bằng phép cộng thành 2 kiểu:
Kiểu 1: Tìm tổng. Trong đó có hai dạng bài: Thêm vào dữ kiện đã biết
một số đơn vị rồi tính tổng hoặc gộp hai thành phần đã biết lại để tính tổng. Từ
khóa trong dạng tốn này có thể dựa vào dữ kiện đã biết hoặc câu hỏi của bài
toán hoặc cả dữ kiện đã biết và câu hỏi của bài toán.
Kiểu 2: Bài toán về nhiều hơn. Trong đó có bài tốn đại trà và bài toán
nâng cao. Để xác định được dạng toán trong bài tốn nâng cao, tơi hướng dẫn
các em đọc kĩ đề, xác định kĩ đối tượng cần so sánh, lập bài toán mới rồi sử
dụng bài toán mới để xác định dạng tốn rồi mới giải.
Ví dụ bài đại trà: Mận cao 95cm, Đào cao hơn Mận 3cm. Hỏi Đào cao
bao nhiêu xăng-ti-mét?
Ví dụ bài nâng cao: Mận cao 95cm, Mận thấp hơn Đào 3cm. Hỏi Đào cao
bao nhiêu xăng-ti-mét?
Với hai bài tốn này, tơi hướng dẫn học sinh: Ngay sau ý thứ hai của bài
toán là đối tượng khác (trong ví dụ này phải là Đào) thì đó là bài tốn đại trà,
cịn ngay sau ý thứ hai của bài toán, vẫn là đối tượng của ý thứ nhất trong bài
11


(trong ví dụ này lại vẫn là Mận) thì đó là bài toán về nhiều hơn dạng nâng cao.
Cách lập bài toán mới:
Mận cao 95cm, Mận thấp hơn Đào 3cm. Hỏi Đào cao bao nhiêu xăng-ti-mét?
Giữ nguyên

Đào cao hơn Mận

Giữ ngun

Vậy cách xác định các từ khóa trong dạng tốn tính tổng là:
Bài tốn


Dựa vào dữ kiện
đã biết để tìm từ
khóa

Dựa vào câu
hỏi để tìm từ
khóa

Dạng tốn

Trong vườn có 9 cây táo, mẹ
trồng thêm 6 cây táo nữa. Từ khóa: Trồng Từ khóa: có tất
Tìm tổng
Hỏi trong vườn có tất cả bao
thêm
cả
nhiêu cây táo?
Trong thư viện có 25 học
sinh trai và 32 học sinh gái.
Từ khóa: tất cả
Tìm tổng
Hỏi tất cả cóbao nhiêu học

sinh trong thư viện?
Mận cao 95cm, Đào cao hơn
Bài tốn
Từ khóa: Đào cao
Mận 3cm. Hỏi Đào cao bao
về nhiều

hơn Mận
nhiêu xăng-ti-mét?
hơn
Nam có 10 viên bi, Nam có ít Từ khóa: Nam có
Bài tốn
hơn Bảo 5 viên bi. Hỏi Bảo ít hơn Bảo (vẫn là
về nhiều
có mấy viên bi?
đối tượng thứ
hơn dạng
nhất)
nâng cao
Trong quá trình giảng dạy, giáo viên có thể cung cấp cho học sinh một số
từ khóa cho dạng bài này như:
Dữ kiện đã biết: thêm, trồng thêm, bay đến, được cho thêm, …
- Tìm tổng:
Câu hỏi: tất cả, có tất cả, có bao nhiêu … và …
- Bài toán về nhiều hơn: hơn, nặng hơn, cao hơn, dài hơn ... ở phần dữ kiện đã
biết.
* Hướng dẫn xác định “từ khóa” trong bài tốn giải bằng phép trừ:
Tơi chia các bài tốn giải bằng phép trừ thành 4 kiểu:
Kiểu 1: Tìm hiệu: bớt ở dữ kiện đã biết đi một số đơn vị rồi tính hiệu
Kiểu 2: Tách ra làm hai phần: cho biết tổng của hai đối tượng nào đó,
biết số lượng của một đối tượng, tìm đối tượng cịn lại. Dạng tốn này có thể
được coi là dạng tốn tìm số hạng chưa biết, nhưng khi đó các em chưa được
12


học cách tìm số hạng chưa biết, mà ngay đầu năm học các em đã được học dạng
toán này rồi nên tơi đặt tên cho dạng tốn là: Tách ra làm hai phần. Từ khóa

trong dạng tốn này có thể dựa vào cả dữ kiện đã biết và câu hỏi của bài toán.
Kiểu 3: So sánh hai số hơn kém nhau một số đơn vị: So sánh số lớn hơn
số bé bao nhiêu đơn vị hoặc ngược lại, so sánh số bé kém số lớn bao nhiêu đơn
vị.
Kiểu 4: Bài tốn về ít hơn. Trong đó có bài tốn đại trà và bài toán nâng
cao. Để xác định được dạng tốn trong bài tốn nâng cao, tơi hướng dẫn các em
đọc kĩ đề, xác định kĩ đối tượng cần so sánh, lập bài toán mới rồi sử dụng bài
toán mới để xác định dạng toán rồi mới giải (tương tự như bài tốn về nhiều hơn
dạng nâng cao).
Ví dụ bài đại trà: Năm nay anh 16 tuổi, em ít hơn anh 5 tuổi. Hỏi năm nay
em bao nhiêu tuổi?
Ví dụ bài nâng cao: Năm nay anh 16 tuổi, như vậy anh hơn em 5 tuổi. Hỏi
năm nay em bao nhiêu tuổi?
Với hai bài tốn này, tơi hướng dẫn học sinh: Ngay sau ý thứ hai của bài
toán là đối tượng khác (trong ví dụ này phải là em) thì đó là bài tốn đại trà, cịn
ngay sau ý thứ hai của bài toán, vẫn là đối tượng của ý thứ nhất trong bài (trong
ví dụ này lại vẫn là Anh) thì đó là bài tốn về ít hơn dạng nâng cao.
Cách lập bài toán mới:
Năm nay anh 16 tuổi, em ít hơn anh 5 tuổi. Hỏi năm nay em bao nhiêu tuổi?
Giữ nguyên

anh hơn em

Giữ nguyên

Vậy cách xác định các từ khóa trong dạng tốn tính hiệu là:
Bài tốn

Dựa vào dữ kiện
đã biết để tìm từ

khóa

Bình có 11 quả bóng bay,
Bình cho bạn 4 quả. Hỏi
Từ khóa: cho bạn
Bình cịn mấy quả bóng
bay?
Lớp 2A có 30 bạn, trong đó
Từ khóa: Trong
có 12 bạn nữ. Hỏi lớp 2A có
đó
bao nhiêu bạn nam?
13

Dựa vào câu
hỏi để tìm từ
khóa

Dạng tốn

Từ khóa: cịn

Tìm hiệu
Tách ra
làm hai
phần


Lớp 2A có 12 bạn nữ và 18
bạn nam. Hỏi lớp 2A có só

bạn nam nhiều hơn số bạn
nữ bao nhiêu?

Từ khóa:
Nhiều hơn (ở
phần câu hỏi)

Năm nay anh 16 tuổi, em ít
Từ khóa: Em ít
hơn anh 5 tuổi. Hỏi năm nay
hơn anh
em bao nhiêu tuổi?
Năm nay anh 16 tuổi, như
Từ khóa: anh hơn
vậy anh hơn em 5 tuổi. Hỏi
em (vẫn là đối
năm nay em bao nhiêu tuổi?
tượng thứ nhất)

So sánh
hai số hơn
kém nhau
một số
đơn vị
Bài tốn
về ít hơn

Bài tốn
về ít hơn
dạng nâng

cao
Trong q trình giảng dạy, giáo viên có thể cung cấp cho học sinh một số

từ khóa cho dạng bài này như:
Dữ kiện đã biết: cho đi, biếu bớt đi, đã dùng, đã bị hỏng, đã bán,
- Tìm hiệu:

cho, biếu, tặng, ….
Câu hỏi: còn lại, còn, còn phải làm tiếp, …

- Tách ra làm hai phần: phần dữ kiện đã biết: trong đó, riêng
- So sánh hai số hơn kém nhau một số đơn vị: Các từ dùng để so sánh (nhiều
hơn, hơn, nặng hơn, cao hơn, dài hơn …, ít hơn, kém, nhẹ hơn, ngắn hơn, … bao
nhiêu đơn vị ở phần câu hỏi
- Bài tốn về ít hơn: ít hơn, kém, nhẹ hơn, ngắn hơn, … ở phần dữ kiện đã biết.
* Hướng dẫn xác định “từ khóa” trong bài tốn giải bằng phép nhân hoặc phép
chia:
a. Cách thực hiện: Chúng tơi chia các bài tốn trong quá trình hình thành
bảng nhân và bảng chia làm ba dạng tốn cơ bản:
Dạng tốn 1. Biết một – tìm nhiều
Dạng tốn 2. Biết nhiều – tìm một
Dạng tốn 3. Chia thành các phần bằng nhau
Nhưng vấn đề đặt ra là học sinh phải biết tóm tắt và tóm tắt thành thạo
từng dạng toán ngay từ khi bắt đầu học phép tính nhân, chia. Học sinh nhìn vào
tóm tắt để đọc và hiểu được bài toán, xác định được dạng tốn. Sau khi đã tóm
tắt xong, việc giải bài tốn khơng cịn phụ thuộc vào sách giáo khoa nữa.
14


Vậy để tóm tắt thành thạo ba dạng tốn cơ bản ở lớp, chúng tơi dùng

“mẹo” để khi tóm tắt, phần câu hỏi không bị lộn làm cho học sinh khó quan sát,
khó hiểu nội dung bài, giúp học sinh khơng chán nản với việc tóm tắt bài tốn.
b. Các bước thực hiện:
* Dạng tốn 1: Biết một – tìm nhiều
- Bước tóm tắt: Tóm tắt theo trình tự các lời văn trong bài tốn, sau khi
tóm tắt xong, chúng tơi quy ước dịng trên của tóm tắt là dịng các dữ kiện đã
biết và gọi là dòng biết, dòng dưới của tóm tắt là dịng bài tốn hỏi, u cầu
chúng ta phải tìm và gọi là dịng tìm. (Cách làm này cũng được vận dụng cho
các dạng toán khác về phép chia).
Ví dụ: Mỗi lọ hoa cắm được 3 bông hoa. Hỏi 6 lọ hoa như thế cắm được
mấy bơng hoa?
Tóm tắt: 1 lọ: 3 bơng
6 lọ: … bơng?

(Biết 1 lọ có 3 bơng hoa)
(Tìm 6 lọ - nhiều lọ có bao nhiêu bơng hoa)

* Ghi chú: Chúng tơi quy ước với học sinh: các số từ 2 trở lên gọi là
nhiều)
- Bước phân tích và xác định dạng tốn:
Giáo viên
Học sinh
- Bài tốn cho biết gì?
- 1 lọ có 3 bơng hoa.
- Bài tốn hỏi gì?
- 6 lọ có mấy 15ong hoa?
- Bài tốn thuộc dạng tốn nào?
- Biết 1 – tìm nhiều
- Bước giải: Ban đầu chúng tơi thao tác trên vật thật hoặc trên mơ hình để
học sinh nhận biết cách giải, các em có thể giải bằng phép cộng. Khi đó, chúng

tơi hướng dẫn học sinh chuyển thành phép nhân dựa vào mối quan hệ giữa phép
cộng và phép nhân bằng cách hỏi: Dựa vào tóm tắt em hiểu “mấy” được lấy
“mấy” lần (3 được lấy 6 lần và thực hiện phép tính 3 �6). Lúc này chúng tơi
chốt lại dạng tốn biết 1 – tìm nhiều giải bằng phép tính nhân.
* Dạng tốn 2: Biết nhiều – tìm một
- Bước tóm tắt: Dạng tốn này bao giờ cũng xuất hiện từ “đều, như nhau
hoặc bằng nhau” có nghĩa các nhóm được chia với số lượng bằng nhau. Vậy tóm
tắt theo trình tự sau:
15


Ví dụ: Có 18 bơng hoa chia đều vào 6 lọ. Hỏi mỗi lọ cắm được mấy bông hoa?
Dựa vào câu hỏi, ta thấy đại lượng “lọ” viết trước dấu hai chấm, đại lượng
“bông” viết sau dấu hai chấm nên ta cũng tóm tắt ở dịng biết tương tự như vậy.
Với ví dụ này ta sẽ tóm tắt câu đầu của bài tốn nhưng lộn lại để có lọ viết trước,
bông viết sau:
6 lọ: 18 bông

(Biết 6 lọ - nhiều lọ có 18 bơng hoa)

1 lọ: … bơng?

(tìm 1 lọ có bao nhiêu bơng hoa)

Chúng tơi đặc biệt lưu ý học sinh không được chuyển số lượng và đại
lượng tương ứng sai so với đề bài. Ví dụ: 18 bơng

18 lọ hoặc 6 lọ

6 bơng


Bước phân tích và xác định dạng tốn:
Giáo viên
Học sinh
- Bài tốn cho biết gì?
- 6 lọ có 18 bơng hoa.
- Bài tốn hỏi gì?
- 1 lọ có mấy 16ong hoa?
- Bài tốn thuộc dạng tốn nào?
- Biết nhiều – tìm một
Bước giải: Chúng tơi thao tác trên vật thật hoặc trên mơ hình để học sinh
biết gắn bài toán với thực tế. Chia đều 18 bông hoa vào 6 lọ tức là chúng ta thực
hiện động tác chia hoa vào 6 lọ. Vậy trong toán học ta cũng thực hiện phép tính
chia. Và cuối cùng chúng tơi chốt lại dạng tốn biết nhiều – tìm 1 giải bằng
phép tính chia.
* Dạng tốn 3: Chia thành các phần bằng nhau
Bước tóm tắt: Dạng tốn này bao giờ cũng xuất hiện từ “các” hoặc “một
số” có nghĩa chia thành các nhóm bằng nhau. Vậy tóm tắt theo trình tự sau:
Ví dụ: Có 18 bơng hoa cắm đều vào các lọ hoa, mỗi lọ có 3 bơng hoa.
Hỏi cắm được mấy lọ hoa?
Hướng dẫn học sinh hiểu câu hỏi đầy đủ: có 18 bơng hoa thì cắm đều vào
được mấy lọ hoa. Dựa vào câu hỏi đầy đủ vừa khôi phục, ta thấy đại lượng
“bông” viết trước, đại lượng “lọ” viết sau nên ta cũng tóm tắt ở dịng biết tương
tự như vậy. Với ví dụ này ta sẽ tóm tắt dữ kiện thứ hai của bài tốn trước nhưng
phải đảo vị trí các đại lượng để có bông viết trước, lọ viết sau:
3 bông: 1 lọ
18 bông: … lọ?
16



Bước phân tích và xác định dạng tốn: Với dạng tốn này, chúng tơi
hướng dẫn học sinh gắn bài tốn với thực tế bằng cách thao tác trên vật thật hoặc
trên mơ hình, chỉ cho học sinh thấy ở tóm tắt khơng xuất hiện số 1 ở đầu dịng cả
dịng “biết” và dịng “tìm” thì bài tốn thuộc dạng: Chia thành các phần bằng
nhau.
Giáo viên
Học sinh
- Bài toán cho biết gì?
- 3 bơng cắm được 1 lọ.
- Bài tốn hỏi gì?
- 18 bơng cắm được mấy lọ?
- Bài tốn thuộc dạng toán nào?
- Chia thành các phần bằng nhau.
Bước giải: Chúng tôi hướng dẫn chia đều 18 bông hoa vào các lọ, mỗi lọ
có 3 bơng, tức là chúng ta thực hiện động tác chia hoa vào một số lọ sao cho mỗi
lọ có 3 bơng. Vậy trong tốn học ta cũng thực hiện phép tính chia. Và cuối cùng
chúng tơi chốt lại dạng tốn chia thành các phần bằng nhau thì giải bằng phép
tính chia.
Chúng tơi rất quan tâm đến việc tóm tắt bài tốn là vì học sinh tóm tắt
được bài tốn tức là học sinh đã hiểu bài toán và dễ dàng xác định được dạng
toán để chọn được phép tính giải đúng. Mặt khác nó rất thuận lợi cho việc tìm
hiểu và phân tích bài tốn của giáo viên. Sau khi hình thành kĩ năng tóm tắt bài
toán thành ba dạng như trên ta thấy các dữ kiện của bài tốn được sắp xếp theo
hai dịng: dịng trên là điều “bài tốn cho biết gì?”, dịng dưới là điều “bài tốn
hỏi gì?”. Đây là các câu hỏi nhiều giáo viên rất hay dùng để phân tích bài tốn.
3.2.2.2. Biện pháp 2: Dạy giải tốn thơng qua bước lập biểu thức trước
khi giải.
- Bước tóm tắt:
- Bước phân tích và xác định dạng tốn:
- Bước giải

4. Hiệu quả do sáng kiến đem lại
4.1. Hiệu quả kinh tế
Qua thời gian áp dụng, nghiên cứu ở tại lớp 3A3 chúng tơi thấy:
Theo phân phối chương trình, với mỗi dạng tốn có 1 tiết lí thuyết và 2
đến 3 tiết luyện tập thì với 10 dạng tốn đã được thống kê như trên, trong
17


chương trình lớp 3 nếu chưa áp dụng sáng kiến thì với mỗi dạng tốn các em sẽ
phải học lí thuyết và luyện tập khoảng 3 tiết, sau đó lại chuyển sang dạng tốn
mới, tới khi ơn lại các dạng toán đã học các em lại quên và phải nhắc lại lý
thuyết, lặp đi lặp lại như vậy các em không nắm được bản chất nên hay quên và
mất rất nhiều thời gian.
Sau khi áp dụng sáng kiến chúng tôi thấy các em nắm được chắc các dạng
toán, thành thạo các bước giải nên vào các tiết luyện tập ở buổi sáng hay ơn
luyện tổng hợp vào buổi chiều có các bài tập về các dạng bài toán đơn hay bài
tốn giải bằng hai phép tính thì học sinh có thể nắm chắc và thực hiện thành thạo
các bước giải và giải tốt được các bài tập mà giáo viên giao.
Học sinh nắm vững cách giải các dạng toán đơn ngay sau khi học xong
mỗi dạng toán, vận dụng vào giải bài tốn bằng hai phép tính một cách thành
thạo, tiết kiệm khoảng 30% thời gian suy nghĩ và giải bài toán.
4.2. Hiệu quả kĩ thuật
Giúp giáo viên nắm chắc phương pháp để áp dụng vào giảng dạy các
dạng toán có lời văn nói chung, dạy các dạng tốn có lời văn ở lớp 3 nói riêng.
Học sinh khơng nhút nhát, lúng túng khi thực hiện giải toán, nắm được
các dạng bài tốn có lời văn, cách giải bài tốn bằng hai phép tính, biết phân
tích, tóm tắt bài tốn, trình bày được bài giải khoa học, đúng. 100% các em đều
giải được các bài toán giải bằng hai phép tính trong chương trình lớp 3
So sánh kết quả khảo sát như sau:


Giải

Điểm
TSHS

9 - 10
SL %

30
5
16,7
Mới
30
13
43,3
4. 3. Hiệu quả xã hội
pháp

Điểm

Điểm

Điểm

Điểm

7-8
SL %
5
16,7

14 46,7

5-6
SL
%
10
33,3
3
10

3-4
SL
%
6
20
0
0

1-2
SL %
4
13,3
0
0

Góp phần trong việc huy động tỷ lệ chuyên cần của lớp.
Học sinh được tăng cường Tiếng Việt khi học Tốn, có hứng thú khi học
bài, mạnh dạn, tự tin hơn.
18



Phụ huynh học sinh yên tâm về việc học giải tốn có lời văn của con em của mình.
Học sinh đi học đều, nhiều em nắm chắc và yêu thích mơn học, ham học hỏi,
tích cực tìm tịi, khả năng vận dụng giải các bài tập dạng khác khá thành thạo.
5. Đánh giá về phạm vi ảnh hưởng của sáng kiến
Sáng kiến không chỉ với học sinh lớp 3A3, mà đã được triển khai rộng rãi
tới tất cả các khối lớp 2 và 3 trong năm học 2015 – 2016 và 2016 – 2017 của
trường Tiểu học Thị trấn Than Uyên.
Theo đánh giá chủ quan của chúng tôi, sáng kiến có thể áp dụng rất phù
hợp với các trường có nhiều em học sinh dân tộc thiểu số để giúp các em nắm
chắc các dạng toán và cách giải.
6. Các thông tin cần được bảo mật: Không
7. Kiến nghị, đề xuất
a, Về danh sách cá nhân được công nhận đồng tác giả sáng kiến:
1, Đỗ Thị Hòa
2, Phùng Thanh Thủy
b, Kiến nghị khác: Giáo viên cần không ngừng học hỏi đề nâng cao trình
độ chun mơn, trong dạy học sử dụng các tranh ảnh, vật mẫu, đồ dùng trực
quan ... để tạo hứng thú giúp học sinh học tập tích cực. Tổ chức học tập theo
nhóm, cá nhân ... phát huy tính chủ động, sáng tạo của học sinh.
Khảo sát chất lượng, phân loại đối tượng, xây dựng kế hoạch dạy học theo
đúng từng đối tượng trong lớp. Tổ chức các hoạt động vui chơi tốn học cho các
em. Có sự động viên khuyến khích kịp thời với sự tiến bộ của các em. Điều
chỉnh phương pháp và hình thức tổ chức dạy học trong từng tiết dạy, kịp thời
giúp đỡ các em chưa làm được.
Trên đây là một số kinh nghiệm của chúng tôi trong việc giúp học sinh lớp
3A3 trường Tiểu học thị trấn Than Uyên trình bày và giải được bài tốn có lời
văn bằng hai phép tính. Chúng tơi mong muốn sáng kiến của mình sẽ được ứng
dụng rộng rãi vào các trường tiểu học trong những năm học tiếp theo.


19


Chúng tơi rất mong được sự quan tâm và đóng góp ý kiến của các đồng
nghiệp và Ban giám hiệu nhà trường để sáng kiến của tôi được nhân rộng ra các
đơn vị trường bạn.
8. Tài liệu đính kèm: Khơng
Trên đây là nội dung, hiệu quả của nhóm tác giả do chính chúng tơi thực
hiện khơng sao chép hoặc vi phạm bản quyền.
XÁC NHẬN CỦA CƠ QUAN ĐƠN

NHÓM TÁC GIẢ SÁNG KIẾN

VỊ

(Ký tên)
ÁP DỤNG SÁNG KIẾN
(Ký tên, đóng dấu)
Đỗ Thị Hòa

20

Phùng Thanh Thủy


Kính gửi: Hội đồng khoa học cấp cơ sở
Đơn vị trường Tiểu học thị trấn Than Uyên xác nhận bà: Đỗ Thị Hịa,
Phùng Thanh Thủy là nhóm tác giả của sáng kiến: “Một số biện pháp dạy giải
toán bằng hai phép tính cho học sinh lớp 3a3 trường Tiểu học thị trấn Than
Uyên” đã áp dụng tại trường thời gian Từ tháng 9 năm 2015 đến tháng 8 năm

2016: nghiên cứu và vận dụng tại lớp 2a3 trường Tiểu học thị trấn Than Uyên.
Từ tháng 9 năm 2016 đến tháng 5 năm 2017: thực hiện tại lớp 3a3 trường Tiểu
học thị trấn Than Uyên.
Qua thời gian áp dụng sáng kiến tại đơn vị, kết quả đem lại như sau:
Giải
pháp

Mới

TSHS
30
30

Điểm

Điểm

Điểm

Điểm

Điểm

9 - 10
SL %
5
16,7
13
43,3


7-8
SL %
5
16,7
14 46,7

5-6
SL
%
10
33,3
3
10

3-4
SL
%
6
20
0
0

1-2
SL %
4
13,3
0
0

Vậy đề nghị Hội đồng khoa học cấp cơ sở xem xét, ghi nhận kết quả trên.

Hiệu trưởng
(Kí tên, đóng dấu)

- Bài tốn về tìm tổng (giải bằng phép cộng): trong bài tốn có các dữ
kiện:
cho thêm, thêm, bay đến thêm, mua thêm … và bài tốn hỏi: cả hai, tất cả, có tất
cả …
21


- Bài tốn về tìm hiệu (giải bằng phép trừ): trong bài tốn có các dữ kiện:
bớt, cho đi, đem biếu, đem tặng, bay đi … và bài toán hỏi: cịn, cịn lại, …
- Bài tốn về tách ra làm hai phần (giải bằng phép trừ): Từ đặc biệt để xác
định dạng tốn là “trong đó”.
Ví dụ: Mẹ mua 35kg gạo nếp và gạo tẻ. Trong đó có 12kg gạo tẻ. Hỏi mẹ
mua bao nhiêu ki-lơ-gam gạo nếp?
- Bài tốn về nhiều hơn (giải bằng phép cộng): trong bài toán có các dữ
kiện: đại lượng thứ hai (hơn, nhiều hơn, nặng hơn, dài hơn) đại lượng thứ nhất,
và bài toán hỏi về đại lượng thứ hai.
- Bài tốn về ít hơn (giải bằng phép trừ): trong bài tốn có các dữ kiện: đại
lượng thứ hai (kém, ít hơn, ngắn hơn, nhẹ hơn) đại lượng thứ nhất, và bài toán
hỏi về đại lượng thứ hai.

22



×