Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Giải thích các hiện tượng thực tiễn có liên quan đến bài học để tạo hứng thú cho học sinh và nâng cao hiệu quả dạy học môn hoá học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (391.35 KB, 27 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VĨNH PHÚC
TRƯỜNG THPT NGUYỄN THÁI HỌC
=========o0o=========

BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN

Tên sáng kiến: “Giải thích các hiện tượng thực tiễn có liên quan
đến bài học để tạo hứng thú cho học sinh và nâng cao
hiệu quả dạy - học môn Hoá học”
Tác giả sáng kiến: Vũ Khắc Thập
Mã sáng kiến: 05.55

Vĩnh Phúc, năm 2020

1


BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
I. LỜI GIỚI THIỆU
Môn Hoá học giữ một vai trò quan trọng trong việc giáo dục học sinh ở
trường trung học phổ thông. Mục đích của môn học là giúp cho học sinh hiểu
đúng đắn và nâng cao cho học sinh những tri thức, hiểu biết về thế giới, con người
thông qua các bài học, giờ thực hành... của môn Hoá học. Học môn Hoá học để
hiểu và giải thích được các vấn đề thực tiễn thông qua cơ sở cấu tạo nguyên tử,
phân tử, sự chuyển hoá của các chất bằng các phương trình phản ứng hoá học...
Đồng thời là khởi nguồn, là cơ sở phát huy tính sáng tạo ra những ứng dụng phục
vụ trong đời sống của con người. Hoá học góp phần giải tỏa, xoá bỏ hiểu biết sai
lệch làm phương hại đến đời sống, tinh thần của con người...
Để đạt được mục đích của môn Hoá học trong trường phổ thông thì giáo


viên dạy Hoá học là nhân tố tham gia quyết định chất lượng. Do vậy, ngoài những
hiểu biết về Hoá học, người giáo viên dạy Hoá học còn phải có phương pháp
truyền đạt thu hút gây hứng thú khi lĩnh hội kiến thức Hoá học của học sinh.
Xuất phát từ những nhu cầu và thực trạng trên tôi quyết định chọn đề tài:
“Giải thích các hiện tượng thực tiễn có liên quan đến bài học để tạo hứng thú
cho học sinh và nâng cao hiệu quả dạy - học môn Hoá học” với mục đích góp
phần cho học sinh nhận thấy môn Hóa học dễ hiểu, thiết thực, gần gũi với đời
sống và lôi cuốn học sinh khi học… Để Hoá học không còn mang tính đặc thù khó
hiểu như một “thuật ngữ khoa học”.
II. TÊN SÁNG KIẾN
“Giải thích các hiện tượng thực tiễn có liên quan đến bài học để tạo hứng thú
cho học sinh và nâng cao hiệu quả dạy - học môn Hoá học”
III. TÁC GIẢ CỦA SÁNG KIẾN
- Họ và tên: Vũ Khắc Thập
2


- Địa chỉ tác giả sáng kiến: THPT Nguyễn Thái Học, phường Khai Quang, thành
phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc
- Số điện thoại: 0982084468
- Mail:
IV. CHỦ ĐẦU TƯ TẠO RA SÁNG KIẾN
- Họ và tên: Vũ Khắc Thập
- Địa chỉ tác giả sáng kiến: THPT Nguyễn Thái Học, phường Khai Quang, thành
phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc
- Số điện thoại: 0982084468
- Mail:
V. LĨNH VỰC ÁP DỤNG SÁNG KIẾN
- Lĩnh vực: Môn Hóa học
- Vấn đề mà sáng kiến giải quyết: Tạo hứng thú cho học sinh và nâng cao hiệu quả

dạy - học môn Hoá học
VI. NGÀY SÁNG KIẾN ĐƯỢC ÁP DỤNG LẦN ĐẦU: Tháng 9 năm 2019
VII. MÔ TẢ BẢN CHẤT CỦA SÁNG KIẾN
VII.1. VỀ NỘI DUNG SÁNG KIẾN
“GIẢI THÍCH CÁC HIỆN TƯỢNG THỰC TIỄN CÓ LIÊN QUAN ĐẾN
BÀI HỌC ĐỂ TẠO HỨNG THÚ CHO HỌC SINH VÀ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ DẠY - HỌC MÔN HOÁ HỌC”
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
Trong điều kiện hiện nay, khi khoa học kỹ thuật của nhân loại phát triển
như vũ bão, nền kinh tế trí thức có tính toàn cầu thì nhiệm vụ của ngành giáo dục
vô cùng to lớn: Giáo dục không chỉ truyền đạt kiến thức cho học sinh mà còn phải
giúp học sinh vận dụng kiến thức khoa học vào cuộc sống, vừa mang tính giáo
3


dục, vừa mang tính giáo dưỡng nhưng cao hơn là giáo dưỡng hướng thiện khoa
học.
2. CƠ SỞ THỰC TIỄN.
Mục đích của môn học là giúp cho học sinh hiểu đúng đắn và hoàn chỉnh,
nâng cao cho học sinh những tri thức, hiểu biết về thế giới, con người thông qua
các bài học, giờ thực hành... của Hoá học. Học môn Hóa học để hiểu và giải thích
được các vấn đề thực tiễn thông qua cơ sở cấu tạo nguyên tử, phân tử, sự chuyển
hoá của các chất bằng các phương trình phản ứng hoá học... Đồng thời là khởi
nguồn, là cơ sở phát huy tính sáng tạo ra những ứng dụng phục vụ trong đời sống
của con người. Hoá học góp phần giải tỏa, xoá bỏ hiểu biết sai lệch làm phương
hại đến đời sống, tinh thần của con người... Để đạt được mục đích của học hoá học
trong trường phổ thông thì giáo viên dạy môn Hoá học là nhân tố tham gia quyết
định chất lượng. Do vậy, ngoài những hiểu biết về Hoá học, người giáo viên dạy
môn Hoá học còn phải có phương pháp truyền đạt thu hút gây hứng thú khi lĩnh

hội kiến thức hoá học của học sinh. Đó là vấn đề cần quan tâm và nghiên cứu
nghiêm túc. Trong sáng kiến này, tôi có đề cập đến một khía cạnh “Giải thích các
hiện tượng thực tiễn có liên quan đến bài học để tạo hứng thú cho học sinh và
nâng cao hiệu quả dạy - học môn Hoá học” với mục đích góp phần cho học sinh
nhận thấy môn Hóa học dễ hiểu, thiết thực, gần gũi với đời sống và lôi cuốn học
sinh khi học… Để môn Hoá học không còn mang tính đặc thù khó hiểu như một
“thuật ngữ khoa học”.
3. THỰC TRẠNG VÀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
3.1. Thực trạng:
Đổi mới phương pháp dạy học đã và đang thực sự là yếu tố quyết định hiệu
quả giờ dạy. Một trong những yếu tố để đạt giờ dạy có hiệu quả và tiến bộ là phải
phát huy tính thực tế, giáo dục về môi trường, về tư tưởng vừa mang bản sắc dân
tộc mà không mất đi tính cộng đồng trên toàn thế giới, những vấn đề cũ nhưng
4


không cũ mà vẫn có tính chất cập nhật và mới mẽ, đảm bảo: tính khoa học – hiện
đại, cơ bản; tính thực tiễn và giáo dục kỹ thuật tổng hợp; tính hệ thống sư phạm.
Tuy nhiên mỗi tiết học có thể không nhất thiết phải hội tụ tất cả những quan
điểm nêu trên, cần phải nghiên cứu kỹ lưỡng, đừng quá lạm dụng khi lượng kiến
thức không đồng nhất .
* Thực tế giảng dạy cho thấy:
Môn Hoá học trong trường phổ thông là một trong các môn học khó, nếu
không có những bài giảng và phương pháp hợp lý phù hợp với thế hệ học trò dễ
làm cho học sinh thụ động trong việc tiếp thu, cảm nhận. Đã có hiện tượng một số
bộ phận học sinh không muốn học môn Hoá học, ngày càng lạnh nhạt với giá trị
thực tiễn của Hoá học.
Nhiều giáo viên chưa quan tâm đúng mức đến đối tượng giáo dục: Chưa đặt
ra cho mình nhiệm vụ và trách nhiệm nghiên cứu, hiện tượng dùng đồng loạt cùng
một cách dạy, một bày giảng cho nhiều lớp, nhiều thế hệ học trò là không ít. Do

phương pháp ít có tiến bộ mà người giáo viên đã trở thành người cảm nhận, truyền
thụ tri thức một chiều. Giáo viên nên là người hướng dẫn học sinh chủ động trong
quá trình lĩnh hội tri thức Hoá học.
3.2. Kết quả, hiệu quả của thực trạng trên để việc giảng dạy môn Hoá học đạt
hiệu quả cao hơn tôi đã mạnh dạn cải tiến nội dung, phương pháp trong các
bài giảng Hoá học:
Một trong những điểm tôi đã làm là “Giải thích các hiện tượng thực tiễn có
liên quan đến bài học để tạo hứng thú cho học sinh và nâng cao hiệu quả dạy học môn Hoá học”. Có những vấn đề Hoá học có thể giúp học sinh giải thích
những hiện tượng trong tự nhiên, tránh việc mê tín dị đoan, thậm chí hiểu được
những ý nghĩa khoa học Hoá học trong những câu ca dao – tục ngữ mà thế hệ
trước để lại và có thể ứng dụng trong thực tiễn đời sống thường ngày chỉ bằng
những kiến thức rất phổ thông mà không gây nhàm chán, xa lạ; lại có tác dụng
5


kích thích tính chủ động, sáng tạo, hứng thú trong môn học; làm cho hoá học
không khô khan, bớt đi tính đặc thù và phức tạp.
Trong phạm vi đề tài đề tài “Giải thích các hiện tượng thực tiễn có liên
quan đến bài học để tạo hứng thú cho học sinh và nâng cao hiệu quả dạy - học
môn hoá học” chỉ nêu lên một vài suy nghĩ, đề suất của cá nhân coi đó là kinh
nghiệm qua một số ví dụ minh hoạ, với mong muốn góp phần nâng cao hiệu quả
dạy - học môn hoá học.
B/ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Giải thích các hiện tượng thực tiễn có liên quan đến bài học để tạo hứng thú
cho học sinh và nâng cao hiệu quả dạy - học môn Hoá học sẽ khơi dậy niềm đam
mê; học sinh hiểu được vai trò và ý nghĩa thực tiễn trong học hoá học. Để thực
hiện được, người giáo viên cần nghiên cứu kỹ bài giảng, xác định được kiến thức
trọng tâm, tìm hiểu, tham khảo các vấn đề thực tế liên quan phù hợp với từng học
sinh ở thành thị, nông thôn …; đôi lúc cần quan tâm đến tính cách sở thích của đối
tượng tiếp thu, hình thành giáo án theo hướng phát huy tính tích cực chủ động của

học sinh, phải mang tính hợp lý và hài hoà; đôi lúc có khôi hài nhưng sâu sắc, vẫn
đảm nhiệm được mục đích học môn Hoá học. Tuy nhiên, thời gian giành cho vấn
đề này là không nhiều, “nó như thứ gia vị trong đời sống không thể thay cho thức
ăn nhưng thiếu nó thì kém đi hiệu quả ăn uống ”.
1. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN:
“Giải thích các hiện tượng thực tiễn có liên quan đến bài học để tạo hứng
thú cho học sinh và nâng cao hiệu quả dạy - học môn Hoá học” bằng cách:
Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống ngày, thường sau khi đã kết
thúc bài học. Cách nêu vấn đề này có thể tạo cho học sinh căn cứ vào những kiến
thức đã học tìm cách giải thích hiện tượng ở nhà hay những lúc bắt gặp hiện tượng
đó, học sinh sẽ suy nghĩ, ấp ủ câu hỏi vì sao lại có hiện tượng đó? Tạo tiền đề
thuận lợi khi học bài học mới tiếp theo.
6


Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống ngày thường qua các phương
trình phản ứng hoá học cụ thể trong bài học. Cách nêu vấn đề này có thể sẽ mang
tính cập nhật, làm cho học sinh hiểu và thấy được ý nghĩa thực tiễn bài học. Giáo
viên có thể giải thích để giải toả tính tò mò của học sinh. Mặc dù vấn đề được giải
thích có tính chất rất phổ thông.
Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống ngày thường thay cho lời
giới thiệu bài giảng mới. Cách nêu vấn đề này có thể tạo cho học sinh bất ngờ, có
thể là một câu hỏi rất khôi hài hay một vấn đề rất bình thường mà hàng ngày học
sinh vẫn gặp nhưng lại tạo sự chú ý quan tâm của học sinh trong quá trình học tập.
Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống ngày thường thông qua các
bài tập tính toán. Cách nêu vấn đề này có thể giúp cho học sinh trong khi làm bài
tập lại lĩnh hội được vấn đề cần truyền đạt, giải thích. Vì muốn giải được bài toán
hoá đó học sinh phải hiểu được nội dung kiến thức cần huy động, hiểu được bài
toán yêu cầu gì? Và giải quyết như thế nào?
Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống ngày thường thông qua

những câu chuyện ngắn có tính chất khôi hài, gây cười có thể xen vào bất cứ thời
gian nào trong suốt tiết học. Hướng này có thể góp phần tạo không khí học tập
thoải mái. Đó cũng là cách kích thích niềm đam mê học hoá.
Tiến hành tự làm thí nghiệm qua các hiện tượng thực tiễn xung quanh đời
sống ngày thường ở địa phương, gia đình … sau khi đã học bài giảng. Cách nêu
vấn đề này có thể làm cho học sinh căn cứ vào những kiến thức đã học tìm cách
giải thích hay tự tái tạo lại kiến thức qua các thí nghiệm hay những lúc bắt gặp
hiện tượng, tình huống đó trong cuộc sống. Giúp học sinh phát huy khả năng ứng
dụng hoá học vào đời sống thực tiễn.
Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống ngày thường từ đó liên hệ
với nội dung bài giảng để rút ra những kết luận mang tính quy luật. Làm cho học
sinh không có cảm giác khó hiểu vì có nhiều vấn đề lý thuyết nếu đề cập theo tính
7


đặc thù của bộ môn thì khó tiếp thu được nhanh so với gắn nó với thực tiễn hàng
ngày.
2. CÁC BIỆN PHÁP ĐỂ TỔ CHỨC THỰC HIỆN:
2.1. Giáo viên có thể dùng nhiều phương tiện, nhiều cách như sau:
Bằng lời giải thích, hình ảnh, đoạn phim, … có thể tiến hành dạy trong hoàn
cảnh dùng máy chiếu hay không dùng máy chiếu … Điều này cần phụ thuộc vào
điều kiện ở mỗi trường, căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể và phong cách dạy khác nhau
để huy động tối đa. Vì hiệu quả giáo dục với nội dung đề tài này, có những kinh
nghiệm có thể áp dụng cho người này nhưng có những phong cách không thể áp
dụng cho giáo viên khác. Vì phong cách dạy “nó như tính cách của mỗi con người
không thể ai cũng giống ai” nhưng đảm bảo được nội dung dạy học theo yêu cầu
của chương trình.
2.2. Ví dụ minh họa thông qua một số hiện tượng trong thực tiễn:
* Ví dụ 1: Vì sao khi luộc rau muống nên cho một ít muối ăn (NaCl) vào trước khi
luộc?

Do nhiệt độ sôi của nước ở áp suất 1at là 100oC, nếu ta thêm NaCl thì lúc đó
làm cho nhiệt độ của nước muối khi sôi (dung dịch NaCl loãng) là > 100 oC. Do
nhiệt độ sôi của nước muối cao hơn của nước nên rau chín nhanh hơn, thời gian
luộc rau không lâu nên rau ít mất vitamin. Vì vậy khi đó rau muống sẽ mềm hơn
và xanh hơn.
Áp dụng: Vấn đề này có thể có học sinh biết nhưng có học sinh không để ý
và nếu được biết đến thì các em có thể tiến hành thí nghiệm ngay trong mỗi buổi
nấu ăn, góp phần tạo thêm kinh nghiệm cho học sinh, rất thiết thực. Có thể đưa
hiện tượng này vào trong bài: hợp chất muối clorua ở lớp 10 và hợp chất quan
trọng của Natri ở lớp 12.
* Ví dụ 2: Vì sao cồn có thể sát khuẩn?

8


Cồn là dung dịch Ancol etylic (C 2H5OH) có khả năng thẩm thấu rất cao, có
thể xuyên qua màng tế bào tiến sâu vào trong gây đông tụ protein làm cho tế bào
bị chết (Do protein là cơ sở sự sống của tế bào).
Thực tế thấy rằng chỉ có cồn 75% là có khả năng sát trùng tốt nhất, vì nếu
cồn > 75% thì nồng độ cồn quá cao làm cho protein bị đông tụ nhiều, làm protein
trên bề mặt vi khuẩn đông cứng hình thành một lớp vỏ cứng ngăn không cho cồn
thấm vào nên vi khuẩn không bị chết. Nếu cồn quá loãng (< 75%) thì hiệu quả sát
trùng kém.
Áp dụng: Trong y tế, cồn được sử dụng đại trà khi tiêm, rửa vết thương …
nhưng có ít người quan tâm tại sao lại dùng cồn? Trong khi học, nếu học sinh
được biết sẽ rất tốt cho cuộc sống. Giáo viên có thể đưa vấn đề này vào trong các
tiết dạy về bài Ancol etylic (ở lớp 11).
* Ví dụ 3: Tại sao không đựng dung dịch HF trong bình đựng bằng thủy tinh?
Dung dich HF, tuy là axit yếu nhưng có tính chất đặc biệt là ăn mòn được
thuỷ tinh. Do thành phần của thuỷ tinh chính là SiO 2, khi cho dung dịch HF vào

thì có phản ứng:
SiO2 + 4 HF → SiF4 ↑ +2 H 2O

Áp dụng: Đây là vấn đề bắt buộc trong quá trình dạy về Flo và tính chất của
dung dịch HF (lớp 10), giúp học sinh giải đáp được bài tập, mà trong thực tiễn
tránh đựng dung dịch HF trong bình thuỷ tinh khi gặp.
* Ví dụ 4: Làm thế nào để khắc được thuỷ tinh?
Muồn khắc thuỷ tinh, người ta nhúng thuỷ tinh vào sáp nóng chảy, lấy ra
cho nguội, dùng vật nhọn tạo hình, chữ … cần khắc nhờ lớp sáp (nến) mất đi, rồi
nhỏ dung dịch HF vào thuỷ tinh sẽ bị ăn mòn ở những nơi đã bị cạo đi lớp sáp.
SiO2 + 4 HF → SiF4 ↑ +2 H 2O

Nếu không có dung dịch HF, ta có thay bằng dung dịch H2SO4 đặc và bột
CaF2 (màu trắng). Nhúng thuỷ tinh vào sáp nóng chảy, lấy ra cho nguội, dùng vật
9


nhọn tạo hình, chữ … cần khắc nhờ lớp sáp (nến) mất đi, rồi rắc bột CaF 2 vào chổ
cần khắc, cho thêm H2SO4 đặc vào và lấy tấm kính khác hoặc bìa cứng đặt lên trên
khu vực khắc, sau 1 thời gian thuỷ tinh cũng sẽ bị ăm mòn những nơi cạo lớp sáp.
CaF2 + 2 H 2 SO4 → Ca ( HSO4 )2 + 2 HF

Do:

(dùng bìa cứng che)

SiO2 + 4 HF → SiF4 ↑ +2H 2O

Áp dụng: Đây là vấn đề thực tế với những gia đình, xí nghiệp kinh doanh
và sản xuất thuỷ tinh . Không những cung cấp cho học sinh phương pháp khắc

thuỷ tinh mà còn giải thích hiện tượng đó. Giúp học sinh sẽ nhớ đến bài học khi
gặp vấn đề này. Thậm chí đây là cơ sở cho việc học nghề, khơi dậy niềm đam mê
học tập và khám phá, càng tốt hơn nếu học sinh được tiến hành thí nghiệm. Giáo
viên có thể đề cập đến trong bài giảng về Flo, dung dịch HF hoặc trong tiết thực
hành (ở lớp 10).
* Ví dụ 5: Tục ngữ Việt Nam có câu: “Nước chảy đá mòn”, câu này mang hàm ý
của khoa học hoá học như thế nào?
Trong đá thông thường chủ yếu là CaCO3 nên trong nước sẽ tồn tại phương
trình điện ly:
CaCO3  Ca2+ + CO322+
2−
Khi nước chảy sẽ cuốn theo các ion Ca , CO3 , theo nguyên lý chuyển dịch

cân bằng hoá học thì cân bằng (*) chuyển dịch theo phía chống lại sự giảm nồng
2+
2−
độ Ca , CO3 (chiều thuận) nên theo thời gian nước chảy qua đá sẽ mòn dần.

Có thể giải thích bổ sung thêm nguyên nhân khác: Vì trong nước có lẫn khí
CO2 nên sẽ xảy ra phản ứng:

CaCO3 + CO2 + H 2O → Ca ( HCO3 ) 2

. Khi nước chảy sẽ

cuốn Ca(HCO3)2 trôi theo, qua thời gian đá sẽ bị mòn dần.
Áp dụng: Hiện tượng này thường thấy ở những phiến đá ở những dòng chảy
đi qua. Nếu không để ý, trong xây dựng sẽ có ảnh hưởng không ít. Góp phần hiểu
được dụng ý của khoa học của câu tục ngữ, làm cho hoá học trở nên gần gủi, có
10



hồn văn hơn. Giáo viên có thể xen vấn đề này trong khi dạy đến phần về muối
CaCO3 (ở lớp 11 hay lớp 12).
* Ví dụ 6: Cao dao Việt Nam có câu:
“Lúa chiêm lấp ló đầu bờ,
Hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên”
Câu này mang hàm ý của khoa học hoá học như thế nào?
Câu ca dao nhắc nhở người làm lúa: Vụ chiêm khi lúa đang trổ đòng đòng
mà có trận mưa rào, kèm theo sấm chớp thì sẽ rất tốt và cho năng suất cao sau này.
Do trong không khí có ~ 80% khí N 2 và ~ 20% khí O2, khi có chớp (tia lửa
điện) sẽ tạo điều kiện cho N2 hoạt động:
o

3000 C
N 2 + O2 
→ 2 NO

Sau đó:

2 NO + O2 → 2 NO2

Khí NO2 sẽ tan vào trong nước mưa:
4 NO2 + O2 + 2 H 2O → 4 HNO3
HNO3 → H + + NO3−

Nhờ hiện tượng này, hàng năm làm tăng 6 − 7 kg N cho mỗi mẫu đất. Ngày
nay, người ta đã điều chế Ure [(NH2)2CO] từ không khí để chủ động bón cho cây
trồng. Trong nền nông nghiệp hiện đại cần phải dùng nhiều phân bón và nhiệm vụ
của nghành công nghiệp hoá chất “hướng về không khí đòi lương thực” là càng

lớn.
Áp dụng: Đây là một câu ca dao mang một ý nghĩa thực tiễn, thấy rõ trong
đời sống. Vấn đề này có thể xen vào trong tiết dạy phân đạm (ở lớp 11). Tạo cho
học sinh khu vực làm nông nghiệp có thể tiện kiểm nghiệm trong đời sống, tự
quan sát.
* Ví dụ 7: Hiện tượng tạo hang động và thạch nhũ với những hình dạng phong
phú đa dạng như thế nào?

11


Trong đá thông thường chủ yếu là CaCO3, khi trời mưa, trong không khí có
CO2 tạo môi trường axit làm tan được đá vôi, những giọt nước mưa rơi xuống
như vô vàn mũi dao nhọn, sắc khắc vào đá những đường nét khác nhau
CaCO3 + CO2 + H 2O → Ca ( HCO3 ) 2

Và xuất hiện quá trình điện ly:
Ca ( HCO3 ) 2 → Ca 2+ + 2 HCO3−

CaCO3  Ca2+ + CO32– Theo thời gian dần tạo ra các hang động khi nước có Ca(HCO3)2 ở đất đá do áp
suất nhiệt độ đột nhiên thấp nên khi giọt nước nhỏ từ từ có tồn tại phương trình:
Ca(HCO3)2  CaCO3 + CO2 + H2O
Như vậy lớp CaCO3 lưu lại ngày càng nhiều, dày gọi đó là nhũ có màu, hình thù
đa dạng.
Áp dụng: Hiện tượng này thường thấy trong các hang động núi đá. Giáo
viên có thể xen vấn đề này trong khi dạy đến phần về các muối cacbonat (ở lớp
11) hay hợp chất của Canxi (ở lớp 12).
* Ví dụ 8: Tại sao nước máy lại có mùi clo?
Khi sục vào nước một lượng nhỏ Clo vào nước có tác dụng sát trùng do clo
tan 1 phần (gây mùi) và phản ứng 1 phần với nước:

H2O + Cl2  HCl + HClO
Hợp chất HClO không bền có tính oxi hoá mạnh:
HClO  HCl + O.
Oxi nguyên tử có khả năng diệt khuẩn.
Áp dụng: Vấn đề này đang đang được sử dụng làm sạch nước hiện nay
trong các nhà máy nước cung cấp nước trong thành phố, thị xã, thị trấn… Giúp
học sinh hiểu và giải toả thắc mắc, hiểu được vai trò của hoá học và học sinh có
thể kiểm nghiệm qua thực tế. Giáo viên có thể xen vào bài giảng về Clo (ở lớp
10).
12


* Ví dụ 9: Tại sao sau những cơn mưa có sấm chớp, đường xá, khu phố, rừng cây,
… sạch quang, mát mẻ, trong lành hơn?
Do trong không khí có 20% O2 nên khi có sấm chớp tạo điều kiện:
3 O2  2 O3
Tạo ra một lượng nhỏ O3, O3 có khả năng sát trùng:
O3  O2 + O. (sát trùng)
Nên ngoài những hạt mưa cuốn theo bụi thì O3 là tác nhân làm môi trường sạch sẽ
và cảm giác tươi, mát.
Áp dụng: Vấn đề này giáo viên nên đề cập trong bài giảng về Ozon (ở lớp
10), giúp học sinh kiểm nghiệm trong cuộc sống mà đôi khi có nhiều học sinh
không chú ý đến. Đây là một hiện tượng tự nhiên không xa lạ với học sinh.
* Ví dụ 10: Ma trơi là gì? Ma trơi thường gặp ở đâu?
“Ma trơi” chỉ là cái tên gọi mê tín mà thực chất, trong cơ thể (xương động
vật) có chứa một hàm lượng P khi chết phân huỷ tạo 1 phần thành khí PH 3
(Photphin) khi có lẫn một chút khí P2H4 (Diphotphin), khí PH3 tự bốc cháy ngay
trong điều kiện thường tạo thành khối cầu khí bay trong không khí
P2 H 4
2 PH 3 + 4O2 

→ P2O5 + 3 H 2O

Điều trùng lặp ngẫu nhiên là: Người ta thường gặp “Ma trơi” ở các nghĩa địa càng
tăng nên tính chất kịch tính.
Áp dụng: Vấn đề này phải được đề cập trong bài giảng về P để giải thích
hiện tượng trong đời sống “Ma trơi”. Tránh tình trạng mê tín dị đoan, làm cho
cuộc sống lành mạnh. Hiện tượng này giáo viên có thể đề cập trong bài về P (ở lớp
11).
* Ví dụ 11: Tại sao phải ăn muối có iot ?
Ăn muối để bổ sung hàm lượng Iod cho cơ thể, trong cơ thể một người
trưởng thành có chứa 20 – 50mg iot chủ yếu tập trung tuyến giáp trạng, thiếu Iod
trong tuyến này thì cơ thể sẽ bị một số bệnh: Bướu cổ, nặng hơn là dẫn đến đần
13


độn, phụ nữ thiếu iot dẫn dến vô sinh, có biến chứng sau khi sinh. Mỗi ngày phải
đảm bảo cho cơ thể tiếp xúc với < 150 mcrogam iot.
Áp dụng: Điều này đề cập trong bài giảng về Iod (ở lớp 10) giúp học sinh
hiểu được vai trò tại sao toàn dân phải ăn muối iot. Giúp các em tự nhận thấy tầm
quan trọng của muối iot, tăng tính hiểu biết hơn.
* Ví dụ 12: Tại sao khi nấu, xào thịt, đậu phụ không nên cho muối ăn (chứa
NaCl) vào quá sớm?
Vì trong đậu, thịt chứa protein (protit), vốn có tính keo khi gặp những chất
điện ly mạnh, sẽ bị ngưng tụ thành những “óc đậu” khi nấu, xào nếu như cho
muối ăn vào sớm, gây khó khăn cho thẩm thấu vào đậu, thịt và bị đông tụ cứng lại
không có lợi cho tiêu hoá…
Áp dụng: Giáo viên có thể xen vào bài giảng protein (ở lớp 12). Đây cũng là
vấn đề thiết thực bắt găp trong cuộc sống và phục vụ thiết yếu trong việc chế biến
thực phẩm.
* Ví dụ 13: Tại sao khi nấu nước giếng ở một số vùng lại có lớp cặn ở dưới đáy

ấm? Cách tẩy lớp cặn này?
Trong tự nhiên nước ở một số vùng là nước cứng tạm thời, là nước có chứa
muối Ca(HCO3)2, Mg(HCO3)2. Khi nấu sôi sẽ xảy ra phản ứng hoá học :
t
Ca ( HCO3 ) 2 
→ 2CaCO3 ↓ +  CO2 ↑ +  H 2O
o

t
Mg ( HCO3 ) 2 
→ 2 MgCO3 ↓ +  CO2 ↑ +  H 2O
o

CaCO3, MgCO3 sinh ra đóng cặn.
Cách tẩy cặn ở ấm: Cho vào ấm 1 lượng dấm (CH3COOH 5%) và rượu, đun
sôi rồi để nguội qua đêm thì tạo thành 1 lớp cháo đặc chỉ hớt ra và lau mạnh là
sạch.
Áp dụng: Giáo viên có thể xen vào trong bài giảng về nước cứng (ở lớp 12).
Mục đích cung cấp mẹo vặt trong đời sống cũng góp phần cho học sinh hiểu bản
chất của vế đề có trong đời sống hàng ngày, học sinh có thể ứng dụng trong đời
gia đình mình, tạo sự hưng phấn trong học tập. Đó là một thí nghiệm tự làm được.
14


* Ví dụ 14: Vì sao nước biển lại mặn?
Các con sông, suối, … Các dòng nước trên lục địa đều chảy về biển, đại dương và hoà tan mọi vật thể có thể hoà tan. Do quá trình bay hơi, các nguyên tố,
hợp chất tụ tập trong nước biển ngày càng nhiều theo thời gian, vị mặn của nước
biển chủ yếu do NaCl gây nên. Trong nước biển có khoảng hơn 80 nguyên tố, các
halogen có nhiều trong nước biển, nguyên tố Br có trong nước biển tới 99% tổng
lượng tồn tại và chiếm 0,065% trong nước biển.

Áp dụng: Điều này là hiển nhiên thấy trong đời sống, bất kể ai cũng có thể
biết hiện tượng này, vấn đề này có thể đưa vào trong trong khi dạy về bài: halogen
(ở lớp 10), clo (ở lớp 10) với mục đích giải thích nước biển lại mặn? Có thể đặt ra
câu hỏi: Vì sao nước biển lại mặn? Căn cứ vào sự trả lời của học sinh giáo viên
thông báo lại chính xác hơn.
* Ví dụ 15: Vì sao tay một người dính cồn iod cầm bánh mì thì có chấm xanh trên
bánh?
Do cồn iod là hỗn hợp tan của Iod và Ancol etylic (C2H5OH), Iod gặp tinh
bột tạo ra phức màu xanh dương.
Điều này cũng có thể giải thích khi bôi cồn iod lên phía trong quả chuối
xanh lại cũng có hiện tượng tương tự (do trong chuối xanh có tinh bột (C6H10O5)n).
Nhưng nếu là chuối chín thì không thấy hiện tượng này (do chuối chín chuyển tinh
bột thành đường Glucozo (C6H12O6). Người ta sử dụng tinh bột để nhận biết iod và
ngược lại.
Áp dụng: Điều này được đề cập khi dạy về Iod (ở lớp 10) và Tinh bột (ở lớp
12), giúp học sinh có thể giải thích 1 hiện tượng trong đời sống vì thực tế cồn iod
có rất đại trà trong đời sống đặc biệt là trị ghẻ thú y, cung cấp cách nhận biết tinh
bột.
* Ví dụ 16: Dấm ăn là gì? Có ích gì?

15


Trong dấm ăn có vị chua vì có 3 - 5% là Axit axetic (CH 3COOH). Dấm ăn
có tác dụng tạo vị chua và có tác dụng làm cho cơ thể có cảm giác muốn ăn và tiêu
hoá tốt, có khả năng tiêu độc, sát khuẩn.
Áp dụng: Dấm ăn là một thứ gia vị rất gần gũi trong đời sống, giáo viên có
thể xen vào trong bài giảng về axit axetic (ở lớp 12) để học sinh liên hệ trong thực
tế, hiểu biết về vai trò của dấm ăn đối với con người.
* Ví dụ 17: Vì sao có thể đánh cảm bằng dây bạc và khi đó dây bạc bị hóa đen?

Để dây bạc trắng sáng trở lại, người ta sẽ ngâm vào nước tiểu?
Người bị cảm trong cơ thể thường sinh ra những hợp chất dạng sunfua (S 2−)
vô cơ hay hữu cơ đều có tính độc. Khi đánh cảm bằng bạc, do S có ái lực mạnh
với Ag nên xảy ra phản ứng tạo Bạc sunfua (Ag 2S) kết tủa màu đen. Do đó loại
được chất độc ra khỏi cơ thể và cũng làm cho dây bạc chuyển thành màu đen.
Ag + − S − → Ag 2 S ↓

Trong nước tiểu có NH3, khi ngâm dây bạc vào thì sẽ xảy ra phản ứng:
+

Ag 2 S + 4 NH 3 → 2  Ag ( NH 3 ) 2  + S 2−

Nên Ag2S bị hoà tan, bề mặt dây bạc lại trở nên sáng bóng.
Áp dụng: Đây là những ứng dụng rất hay của bạc. Giáo viên có thể đưa
những vấn đề này vào bài về kim loại (ở lớp 12).
* Ví dụ 18: Tại sao khi ăn cơm nhai kỹ sẽ thấy vị ngọt?
Cơm chứa một lượng lớn tinh bột, khi ăn cơm trong tuyến nước bọt của
người có các enzim. Khi nhai kỹ trộn đều, tuyến nước bọt làm tăng cơ hội chuyển
hoá một lượng tinh bột theo phản ứng thuỷ phân thành mantozơ, glucozơ gây ngọt
theo sơ đồ:
Amilaza , H O
Mantaza , H O
→ C12 H 22O11 
→ C6 H12O6
( C6 H10O5 ) n 
2

TB

2


Mantozo

Glucozo

Áp dụng: Vấn đề này có thể đề cập đến trong bài dạy về tinh bột (ở lớp 12),
cung cấp cho học sinh kiến thức cơ bản của sự chuyển hoá tinh bột trong khi ăn.
16


Đó cũng là một hiện tượng tự nhiên đều cảm nhận được trong các bữa cơm của
chúng ta.
* Ví dụ 19: Vì sao không nên ăn hoa quả ngay sau bữa ăn?
Trái cây có loại đường đơn là monosaccarit và một số loại axit sẽ kết hợp
với axit trong dạ dày tạo ra Axit tactaric, Axit citric làm cho dạ dày đầy hơi.
Một số loại hoa quả có hàm lượng Tanin và Pectin cao, chúng sẽ kết hợp với
dịch vị, chất xơ và protein trong thức ăn, dễ tạo thành những hạt rắn, khó tiêu hóa.
Những hạt này hình thành sỏi ở dạ dày, ruột.
Nên ăn hoa quả sau bữa ăn khoảng 1−3 giờ.
Áp dụng: Giáo viên có thể áp dụng vấn đề này vào bài axit cacboxylic (ở
lớp 12)
* Ví dụ 20: Vì sao vắt chanh vào cốc sữa đặc có đường sẽ thấy có kết tủa?
Trong sữa có thành phần protein gọi là Cazein. Khi vắt chanh vào sữa làm
tăng độ chua, tức làm giảm pH của dung dịch sữa tới pH đúng với điểm đẳng điện
của cazein thì chất này sẽ kết tủa.
Khi làm phomat, người ta cũng tách Cazein theo nguyên tắc tương tự và cho
lên men tiếp.
Áp dụng: Giáo viên có thể đưa các vấn đề thực tế này vào bài axit
cacboxylic (ở lớp 12).
* Ví dụ 21: Gương soi có lịch sử như thế nào?

Thời xa khi muốn soi mình phải soi qua mặt nước, khi đến thời đồ đồng
thau thì bằng gương làm bằng đồng nhưng nhanh ố, sau dần chuyển sang thuỷ
ngân tráng sau tấm kính phẳng, nhưng thuỷ ngân gây ngộ độc cho người sản xuất.
Dần dần và ngày nay người ta đã thay thế bằng bạc tráng sau tấm kính nhờ phản
ứng anđehit (R−CHO) với dung dịch AgNO3/NH3 hay thay andehit bằng glucozơ.
RCHO + 2 AgNO3 + 3NH 3 + H 2O → RCOONH 4 + 2 Ag ↓ + NH 4 NO3

Ag tạo ra bám chặt vào gương, người ta quét lên mặt sau chiếc gương một lớp sơn
dầu bảo vệ. Phích nước cũng chế tạo kiểu này.
17


Áp dụng: Đây là một ứng dụng của hợp chất có chức andehit vào đời sống.
Giáo viên có thể nêu vấn đề này trong các tiết dạy về andehit, glucozơ…(ở lớp 11
hay lớp 12). Để học sinh hiểu phần nào về sự tạo gương, ruột phích mà hàng ngày
ai cũng bắt gặp.
* Ví dụ 22: Vì sao phèn chua có thể làm trong nước?
Phèn chua là muối sunfat kép của nhôm và kali ở dạng tinh thể ngậm nước:
[K2SO4.Al2(SO4)3.24H2O]
Phèn chua không độc, có vị chua chát, ít tan trong nước lạnh nhưng tan nhiều
trong nước nóng. Khi tan trong nước, phèn chua sẽ bị thủy phân và tạo thành
Al(OH)3 ở dạng kết tủa keo lơ lững trong nước
Al2(SO4)3  2Al3+ + 3SO42Al3+ + H2O  AlOH2+ + H+
AlOH2+ + H2O  Al(OH)2+ + H+
Al(OH)2+ + H2O  Al(OH)3 + H+
Al2(SO4)3 + 3H2O  Al(OH)3 + H2SO4
Chính những hạt Al(OH)3 kết tủa dạng keo lơ lững ở trong nước này đã kết
dính với các hạt bụi bẩn, các hạt đất nhỏ để trở thành hạt đất to hơn, nặng hơn và
lắng xuống. Vì vậy mà nước trở nên trong hơn.
Áp dụng: Đây là một ứng dụng quan trọng của phèn chua trong đời sống.

Giáo viên có thể nêu vấn đề này trong bài dạy về muối sunfat hoặc về các hợp chất
quan trọng của nhôm (ở lớp 10 hay lớp 12).
* Ví dụ 23: Hàn the là chất gì?
Hàn the có thành phần chính là chất Natri tetraborat (hay là Borac), ở dạng
tinh thể ngậm nước. Tinh thể trong suốt, tan nhiều trong nước nóng, không tan
trong cồn 90o.
Trước đây, người ta thường dùng hàn the làm chất phụ gia cho vào giò lụa,
bánh phở, bánh cuốn, … để cho những thứ này khi ăn sẽ cảm thấy dai và giòn.
18


Ngay từ năm 1985, Tổ chức Y tế thế giới đã cấm dùng hàn the làm chất phụ gia
cho thực phẩm vì nó độc, có thể gây sốc, trụy tim, co giật và hôn mê.
Áp dụng: Hàn the là chất được dùng trong buôn bán nhưng đã bị cấm sử
dụng từ lâu. Giáo viên có thể nêu vấn đề này trong bài dạy về một số hợp chất
quan trọng của Natri (ở lớp 12).
* Ví dụ 24: Cloramin là chất gì mà sát trùng được nguồn nước?
Cloramin là chất NH2Cl và NHCl2. Khi hoà tan cloramin vào nước sẽ giải
phóng cho ra khí Clo. Clo tác dụng với nước tạo ra HClO.
H2O + Cl2  HCl + HClO
HClO có tính oxy hóa rất mạnh nên phá hoại hoạt tính một số enzim trong
vi sinh vật, làm cho vi sinh vật chết.
Cloramin không gây độc hại cho người dùng nước đã được khử trùng bằng chất
này.
Áp dụng: Cloramin là chất được sử dụng nhiều để làm sạch nước trong
những vùng lụt bão. Giáo viên có thể đề cập đến chất này trong bài Clo (ở lớp 10).
* Ví dụ 25: Teflon là chất gì?
Teflon có tên thay thế là: Poli(tetrafloetilen) [(−CF2−CF2−)n]. Đó là loại
polime nhiệt dẻo, có tính bền cao với các dung môi và hóa chất. Nó độ bền nhiệt
cao, có độ bền kéo cao và có hệ số ma sát rất nhỏ. Teflon bền với môi trường hơn

cả Au và Pt, không dẫn điện.
Do có các đặc tính quý đó, teflon được dùng để chế tạo những chi tiết máy
dễ bị mài mòn mà không phải bôi mỡ (vì độ ma sát nhỏ), vỏ cách điện, tráng phủ
lên chảo, nồi,… để chống dính.
Áp dụng: Giáo viên có thể vận dụng vào bài polime (ở lớp 12)
* Ví dụ 26: Thuốc chuột là chất gì? Nếu sau khi ăn thuốc mà không có nước uống
thì chuột chết mau hơn hay lâu hơn?
Thuốc chuột có thành phần chính là Zn 3P2. Sau khi ăn, Zn3P2 bị thủy phân
rất mạnh, tạo thành khí PH3 (photphin) rất độc:
19


Zn3 P2 + 6 H 2O → 3Zn(OH ) 2 + 2 PH 3 ↑

Làm cho hàm lượng nước trong cơ thể chuột giảm; nó khát và đi tìm nước.
Chính PH3 đã giết chết chuột.
Càng nhiều nước đưa vào cơ thể chuột → PH 3 thoát ra càng nhiều → chuột
càng nhanh chết. Nếu không có nước, chuột càng lâu chết hơn.
Áp dụng: Giáo viên có thể vận dụng ứng dụng này trong bài Photpho (lớp
11).
* Ví dụ 27: Vì sao than đá chất thành đống lớn có thể tự bốc cháy?
Do than đá tác dụng với khí O2 trong không khí tạo ra khí CO2, phản ứng
tỏa nhiệt.
C + O2 → CO2 ↑

∆H < 0

Nhiệt tỏa ra được tích góp dần dần, khi đạt đến nhiệt độ cháy của than thì
than tự bốc cháy.
Áp dụng: Giáo viên có thể đưa vấn đề này vào bài C (ở lớp 11) hoặc bài O 2

(ở lớp 10).
* Ví dụ 28: Vì sao bôi vôi vào chỗ ong, kiến đốt sẽ đỡ đau?
Do trong nọc ong, kiến, nhện có axit hữu cơ tên là axit fomic (HCOOH).
Vôi là chất bazơ nên trung hòa axit làm ta đỡ đau.
2 HCOOH + Ca(OH ) 2 → ( HCOO ) 2 Ca + 2 H 2O

Áp dụng: Giáo viên có thể vận dụng vấn đề này vào bài axit cacboxylic (ở
lớp 11) hoặc bài một số hợp chất quan trọng của canxi (ở lớp 12).
* Ví dụ 29: Vì sao ban đêm không nên để nhiều cây xanh trong nhà?
Ban ngày, do có ánh sáng mặt trời nên cây xanh tiến hành quá trình quang
hợp, hấp thụ CO2 và giải phóng khí O2.
as
6nCO2 + 5nH 2 O 
→(C6 H10O5 )n + 6nO2 ↑
clorophin

20


Nhưng ban đêm, do không có ánh sáng mặt trời, cây xanh không quang
hợp, chỉ có quá trình hô hấp nên cây hấp thụ khí O2 và thải ra khí CO2 làm cho
phòng thiếu khí O2 và quá nhiều khí CO2.
Áp dụng: Giáo viên có thể vận dụng vấn đề này vào bài tinh bột (ở lớp 12).
* Ví dụ 30: Vì sao ném đất đèn xuống ao làm cá chết? Trong nông nghiệp, đất
đèn dùng để làm gì?
Đất đèn có thành phần chính là canxi cacbua (CaC 2), khi tác dụng với nước
sinh ra khí axetilen và canxi hidroxit.
CaC2 + 2 H 2O → C2 H 2 ↑ +Ca (OH ) 2 ( ∆H < 0)

Axetilen có thể tác dụng với nước tạo ra andehit axetic (CH 3CHO). Các chất

này làm tổn thương đến hoạt động hô hấp của cá vì vậy có thể làm chết cá.
Trong nông nghiệp, từ lâu người ta đã dùng đất đèn để làm kích thích quả
xanh mau chín và chín đồng loạt ở các kho, thường dùng để dấm dứa, chuối, cà
chua,… vào dịp cuối mùa đông, đầu mùa xuân.
Áp dụng: Giáo viên có thể vận dụng vào bài Axetilen (ở lớp 11)
* Ví dụ 31: Vì sao muối NaHCO3 được dùng để chế thuốc đau dạ dày?
Trong dạ dày, có chứa dung dịch HCl. Người bị đau dạ dày là người có
nồng độ dung dịch HCl cao làm dạ dày bị bào mòn. NaHCO 3 dùng để chế thuốc
đau dạ dày vì nó làm giảm hàm lượng dung dịch HCl có trong dạ dày nhờ phản
ứng:
NaHCO3 + HCl → NaCl + CO2 + H 2O

Áp dụng: Giáo viên có thể vận dụng kiến thức này vào bài HCl (ở lớp 10),
bài một số hợp chất quan trọng của Natri (ở lớp 12).
* Ví dụ 32: Vì sao trong công nghiệp thực phẩm, muối (NH 4)2CO3 được dùng làm
bột nở?
NH4)2CO3 được dùng làm bột nở vì khi trộn thêm vào bột mì, lúc nướng
bánh thì (NH4)2CO3 sẽ bị phân hủy thành các chất khí và hơi nên làm cho bánh
xốp và nở hơn.
21


0

t
( NH 4 )2 CO3 
→ 2 NH 3 ↑ +CO2 ↑ + H 2O ↑

Áp dụng: Giáo viên có thể áp dụng vấn đề này vào bài muối amoni (ở lớp
11) hoặc muối cacbonat (ở lớp 11).

* Ví dụ 33: Vì sao khi cơm khê người ta thường cho vào nồi cơm một mẩu than
củi?
Do than củi xốp có tính hấp phụ, nên hấp phụ được mùi khét của cơm làm
cho cơm đỡ mùi khê.
Áp dụng: Đây là tính chất vật lí quan trọng của C, nó có khả năng hấp phụ
màu và mùi. Giáo viên có thể đưa vấn đề này vào trong bài cacbon (ở lớp 11).
* Ví dụ 34: Vì sao nước rau muống đang xanh, khi vắt chanh vào thì chuyển sang
màu đỏ?
Có một số chất hoá học được gọi là chất chỉ thị màu, chúng làm cho màu
của dung dịch thay đổi khi độ axit thay đổi.
Trong rau muống (và vài loại rau khác) có chất chỉ thị này. Trong chanh có
7% axit citric. Vắt chanh vào nước rau làm thay đổi độ axit, do đó làm thay đổi
màu nước rau. Khi chưa vắt chanh, nước rau muống có màu xanh lét là chứa chất
kiềm canxi.
Áp dụng: Giáo viên có thể đưa các vấn đề thực tế này vào bài axit
cacboxylic (ở lớp 12).
* Ví dụ 35: Vì sao sau khi ăn trái cây thì không nên đánh răng ngay?
Các nhà khoa học khuyến cáo: Ai ăn trái cây thì phải một giờ sau mới được
đánh răng. Tại sao vậy? Vì chất chua (axit hữu cơ) trong trái cây sẽ kết hợp với
những thành phần trong thuốc đánh răng theo bàn chải sẽ tấn công các kẽ răng và
gây tổn thương lợi. Bởi vậy phải đợi đến khi lượng nước bọt trung hòa axit trong
trái cây, nhất là táo, cam, nho, chanh.
Ta đã biết thức ăn vào dạ dày phải lưu giữ lại từ 1−2 giờ. Nếu sau bữa ăn, ta
ăn ngay trái cây sẽ làm tăng thêm sự lưu trệ trong dạ dày.
22


Áp dụng: Giáo viên có thể áp dụng vấn đề này vào bài axit cacboxylic (ở
lớp 12)
* Ví dụ 36: Vì sao các đồ vật bằng bạc để lâu ngày thường bị xám đen? Vì sao

dùng đồ bằng bạc đựng thức ăn, thức ăn lâu bị ôi?
Do bạc tác dụng với khí O2 và H2S có trong không khí tạo ra bạc sunfua
(Ag2S) màu đen.
4 Ag + O2 + 2 H 2 S → 2 Ag 2 S ↓ +2 H 2O

Khi bạc sunfua gặp nước sẽ có một lượng rất nhỏ đi vào nước thành ion
Ag+. Ion Ag+ có tác dụng diệt khuẩn rất mạnh, chỉ cần 1/5 tỉ gam bạc trong 1 lít
nước cũng đủ diệt vi khuẩn. Không cho vi khuẩn phát triển nên giữ cho thức ăn
lâu bị ôi thiu.
Áp dụng: Đây là những ứng dụng rất hay của kim loại bạc. giáo viên có thể
đưa những vấn đề này vào bài về kim loại (ở lớp 12).
* Ví dụ 37: Làm cá bớt tanh bằng phương pháp nào?
Khi nấu canh cá thì cho thêm chất chua (me, giấm,…) để làm giảm mùi
tanh của cá.
Chất chua (axit lactic có trong nước dưa, me, axit axetic có trong giấm, axit
citric có trong chanh…) nâng cao hương vị và hạn chế mùi tanh của cá.
Trong chất tanh của cá, có chứa hỗn hợp các amin [(CH 3)2NH và (CH3)3N],
có tính bazơ yếu. Các chất chua dùng để nấu canh cá đều là axit hữu cơ, chúng có
phản ứng với các amin tạo thành muối. Do đó làm giảm hoặc làm mất vị tanh của
cá.
Ví dụ:

CH 3COOH + (CH 3 ) 2 NH → [ (CH 3 ) 2 NH 2 ] [ CH 3COO ]
+



Áp dụng: Giáo viên có thể vận dụng vấn đề này vào bài Amin (ở lớp 12)
* Ví dụ 38: Tại sao khi đánh rơi nhiệt kế thủy ngân thì không được dùng chổi quét
mà nên rắc bột S lên trên?


23


Thủy ngân (Hg) là kim loại ở dạng lỏng, dễ bay hơi và hơi thủy ngân là một
chất độc. Vì vậy khi làm rơi nhiệt kế thủy ngân nếu như ta dùng chổi quét thì thủy
ngân sẽ bị phân tán nhỏ, làm tăng quá trình bay hơi và làm cho quá trình thu gom
khó khăn hơn. Ta phải dùng bột S rắc lên những chỗ có thủy ngân, vì S có thể tác
dụng với thủy ngân tạo thành HgS dạng rắn và không bay hơi.
Hg + S → HgS ↓

Quá trình thu gom thủy ngân cũng đơn giản hơn.
Áp dụng: Giáo viên có thể vận dụng vấn đề này vào bài Lưu huỳnh (lớp 10),
tính chất hóa học của kim loại (ở lớp 12)
* Ví dụ 39: Giải thích vì sao khi nấu canh cua thì có gạch cua nổi lên? Khi nấu
trứng thì lòng trắng trứng kết tủa lại?
Vì trong những trường hợp đó có xảy ra sự kết tủa protit bằng nhiệt, gọi là
sự đông tụ. Một số protit tan trong nước tạo thành dung dịch keo, khi đun nóng sẽ
bị kết tủa.
Áp dụng: Giáo viên có thể đưa vấn đề này vào bài protit (ở lớp 12) để giải
thích hiện tượng thực tế này và học sinh có thể làm thí nghiệm tại nhà.
* Ví dụ 40: Nhôm lại được dùng làm dây dẫn điện cao thế? Còn dây đồng lại
được dùng làm dây dẫn điện trong nhà?
Tuy đồng dẫn điện tốt hơn nhôm nhưng nhôm (khối lượng riêng của nhôm
là 2,70g/cm3) nhẹ hơn đồng (khối lượng riêng của đồng là …… Do đó, nếu như
dùng đồng làm dây dẫn điện cao thế thì phải tính đến việc xây các cột điện sao cho
chịu được trọng lực của dây điện. Việc làm đó không có lợi về mặt kinh tế. Còn
trong nhà thì việc chịu trọng lực của dây dẫn điện không ảnh hưởng lớn lắm. Vì
vậy ở trong nhà thì ta dùng dây đẫn điện bằng đồng.
Áp dụng: Giáo viên có thể vận dụng vấn đề này vào bài Tính chất vật lý của

kim loại (ở lớp 12)

24


C/ KẾT LUẬN
Để có những tiết học đạt hiệu quả cao nhất luôn là niềm trăn trở, suy nghĩ là
mục đích hướng tới của từng người giáo viên có lương tâm và trách nhiệm nghề
nghiệp, nhưng đây không phải là điều đạt được dễ dàng. Người giáo viên phải
nhận thức rõ vai trò là người “thắp sáng ngọn lửa” chủ động lĩnh hội tri thức trong
từng học sinh . Trong nội dung đề tài mình, tôi đã đề cập đến một số vấn đề xung
quanh cuộc sống và có ý nghĩa thực tiễn, thậm chí có thể gặp, tiếp xúc hàng
ngày.Tôi hi vọng đây là vấn đề gợi mở ra một quan niệm trong dạy − học Hoá học,
mặc dù trong đề tài này tôi không thể đề cập mọi hiện tượng có liên quan.
1/ Kết quả nghiên cứu:
Riêng bản thân tôi nhờ vận dụng phương pháp dạy “Giải thích các hiện tượng thực tiễn có liên quan đến bài học để tạo hứng thú cho học sinh và nâng cao
hiệu quả dạy - học môn hoá học” kết hợp với nhiều phương pháp khác, tôi đã đạt
được một số kết quả nhất định.
Học sinh trở nên thích học hoá hơn, thích những giờ dạy của tôi nhiều hơn,
thậm chí có cả những học sinh đã về nhà tự quan sát và tái tạo lại hiện t ượng thức
tế, rồi lại đến hỏi tôi.
Trong giờ học, tôi đã kết hợp hài hoà trong phong cách dạy của mình có thể
làm cho giờ học mang không khí rất thoải mái, nhưng khả năng tiếp thu bài cũng
rất tốt. Như tôi đã khẳng định: Thời gian giành cho vấn đề này là không nhiều nên
cần phụ thuộc vào người dạy cần phải linh hoạt và khéo léo. Bất cứ một vấn đề gì
nếu chúng ta quá lạm dụng thì đề không tối. Vì thế tôi vẫn luôn nghĩ: Dạy như thế
nào cho tốt là một điều không dễ.
2/ Kết quả đối chứng:
Thực tế giảng dạy cho thấy các lớp không hoặc ít áp dụng so với lớp áp
dụng giải thích thường xuyên có sự khác nhau rõ rệt.

Ví dụ gần đây nhất qua học kỳ I năm học từ 2019 – 2020 giảng dạy ở
trường tôi đã có số liệu cụ thể theo bảng sau:
25


×