Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ ÁP DỤNG CHỨNG KHOÁN HÓA TẠI VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.5 KB, 10 trang )

GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ ÁP DỤNG CHỨNG
KHOÁN HÓA TẠI VIỆT NAM
3.1 Các giải pháp phát triển hoạt động Ngân hàng đầu tư tại Việt Nam
Xây dựng lộ trình đào tạo, nâng cao nhận thức chung của thị trường trước khi có thể
phát triển mạnh mẽ các sản phẩm tài chính cao cấp
Cần thiết phải xây dựng khung pháp lý về việc thành lập, tổ chức, cơ chế hoạt động
và giám sát các Ngân hàng đầu tư một cách độc lập, có sự phân biệt rõ ràng giữa hai mô
hình Ngân hàng thương mại và Ngân hàng đầu tư, tiến tới thành lập các ngân hàng tổng
hợp và các tập đoàn tài chính vững mạnh.
Cần sớm đưa ra quy định về các sản phẩm tài chính mới như sản phẩm phái sinh,
trái phiếu cơ cấu, các sản phẩm hình thành từ chứng khoán hoá và trái phiếu có lợi suất
cao, từ đó các công ty chứng khoán phát triển thành những dịch vụ tài chính của mình
nhằm bổ sung vào lĩnh vực kinh doanh.
Cần áp dụng chính sách bắt buộc phải thực hiện định mức tín nhiệm khi phát hành
chứng khoán nợ.
Đào tạo nhân sự một cách chuyên nghiệp về cả kiến thức lẫn kinh nghiệp thực tế
theo chuẩn mực quốc tế. Những chương trình đào tạo chuyên môn này tại các trường đại
học cũng chưa thực sự bám sát thực tế và chưa theo kịp yêu cầu phát triển của ngành tài
chính, do vậy cần có sự cải tiến về chương trình đào tạo ngay tại các trường đại học.
3.2 Giải pháp để áp dụng kỹ thuật chứng khoán hóa thành công
3.2.1 Kinh nghiệm CKH của các nước trên thế giới
 Thị trường CKH luôn ra đời cùng với sự bảo trợ của chính phủ
Sự phát triển của nghiệp vụ CKH cần phải có sự ủng hộ tích cực của nhà nước thông
qua việc tạo hành lang pháp lý nhằm thúc đẩy hoạt động thị trường tài chính nói chung và
hoạt động CKH nói riêng.
Trong cả ba nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ nhà nước đều đóng vai trò quan trọng
trong việc hình thành thị trường CKH và những định chế trung gian cho thị trường này, đặc
biệt là các SPV. Sự hỗ trợ của chính phủ các nước bằng việc thường xuyên điều chỉnh, bổ
xung các quy định để ngày càng đẩy mạnh thị trường này cũng góp phần hoàn thiện và
thúc đẩy hoạt động của các định chế trung gian này. Các SPV khi thành lập thông thường
thuộc quyền sở hữu của Nhà nước, dần dần được tư nhân hóa. Đến nay, các nước ứng dụng


CKH thành công đều đã thành lập công ty CKH riêng.
Quốc gia
Công ty chứng khoán
hóa( SPV)
Năm thành
lập
Ghi chú
Mỹ FNMA
GNMA
Fredie Mac
1948
1968
1968
FNMA đến năm 1968
được tư nhân hóa
Pháp Fonds Commun de
Créande(FCC)
1988 Tương tự FNMA đã có
hơn 120 FFC
Hàn Quốc Korean Mortgage
Corporation
1998 Liên doanh giữa các
ngân hàng trong nước
và IFC
Malaysia Cagamas Berhad 1986
Hongkong Hong Kong Mortgage
Corporation (HKMC)
1997
Nhật Tokobetsu Mokukeiki
Kaisha (TMKs)

1998 Gần 40 TMKs được
thành lập, 17 TMKs
hoạt động trong lĩnh
vực BĐS
(Nguồn: www.Vinodkothari.com)
Bảng 3.1: Một số SPV tại các quốc gia trên thế giới
Bên cạnh đó các quy định vể xử lý tài sản đảm bảo nợ vay, các loại tài sản được phép
CKH, các cá nhân tổ chức được tham gia CKH, quyền lợi và nghĩa vụ của các bên tham
gia CKH… cũng là những quy định pháp lý rất quan trọng ảnh hưởng đến quá trình thực
hiện CKH.
 Mô hình CKH được sử dụng phổ biến trên thế giới là mô hình CKH qua trung gian
thanh toán
Kỹ thuật CKH được bắt đầu với mô hình qua trung gian chuyển đổi với những khoản
cho vay lãi suất cố định. Tuy nhiên theo thởi gian, mô hình CKH được sử dụng ở hầu hết
các quốc gia đã ứng dụng kỹ thuật này là mô hình qua trung gian thanh toán bởi nguyên
nhân sau:
Mô hình qua trung gian thanh toán cho phép tách biệt phần thanh toán lãi và gốc của
các khoản cho vay cơ sở. Chi phí trả lãi cho người sở hữu trái phiếu được trả định kỷ theo
hợp đồng trái phiếu, còn phần nợ gốc được giữ lại cho đến khi CKH đáo hạn. Nhà phát
hành không phải thanh toán nợ gốc cho người sở hữu CK trước thời hạn vì vậy họ có thể
đầu tư số tiền này để thu thêm lợi nhuận trước khi CKH được thu hồi.
Tuy nhiên, lúc mới bắt đầu ứng dụng CKH nên sử dụng mô hỉnh qua trung gian
chuyển đổi vì mô hình này vửa đơn giản, dễ thực hiện, vửa tạo được sự tin tưởng nơi
những nhà đầu tư vì họ có thể nhận được các khoản thanh toán cả gốc lẫn lãi từng kỳ cho
đến khi trái phiếu này đáo hạn.
 Sự ra đời của các công ty định mức tín nhiệm
Sự xuất hiện của các công tu định mức tín nhiệm có ý nghĩa quan trọng đối với việc
triển khai CKH. Bởi vì sư đánh giá của các công ty này sẽ tạo niềm tin nơi các nhà đầu tư.
Ở Mỹ, các công ty đánh giá mức tín nhiệm Moody’s hay Standard & Poor’s sẽ cung
cấp các hạn mức tín nhiệm cho các trái phiếu CKH bằng cách đánh giá các khoản vay cơ

sở hay cho tổ chức khởi tạo CKH. Trong khi đó, ở Úc hay Hongkong thì các công ty bảo
hiểm sẽ cung cấp mức xếp hạng tín nhiệm này. Các trái phiếu xếp hạng càng cao thì càng
dễ tiếp cận thị trường và được nhà đầu tư ưa chuộng.
 Tạo các trái phiếu CKH có mệnh giá bằng một ngoại tệ mạnh
Kinh nghiệm của các quốc gia cho thấy để huy động được nguồn vốn lớn thì không
chỉ huy động ở thị trường trong nước mà còn phải huy động trên thị trường quốc tế. Nhưng
để có thể tham gia được thì trường nước ngoài thì cần phải phát hành những CK có mệnh
giá bằng những ngoại tệ mạnh như USD, EUR… mới có thể thu hút được những nhà đầu
tư nước ngoài. Thực tế hiện nay thị trường CK Việt Nam mặc dù đang mở rộng về quy mô
nhưng mức vốn hóa thị trường chưa cao do đó định hướng phát hành CK ra thị trường
nước ngoài là một chiến lược lâu dài.
3.2.2 Đề xuất mô hình chứng khoán hóa với thực tiễn Việt Nam
Trên thế giới hiện nay, đa số sản phẩm của chứng khoán hóa đều được đóng gói
thông qua mô hình trung gian thanh toán. Còn đối với mô hình trung gian chuyển, việc
thanh toán gốc và lãi của khoản vay chưa được tách rời như mô hình trung gian thanh toán
mà thanh toán cả lãi và một phần gốc; không thể loại bỏ hay phòng ngừa rủi ro thanh toán
sớm một cách hiệu quả, đặc biệt là khi lãi suất thị trường xuống thấp, người đi vay có thể
hoàn toàn có quyền tất toán hợp đồng tín dụng cũ và mử một hợp đồng tín dụng mới để
hưởng một mức lãi suất thấp hơn. Điều này làm ảnh hưởng đến dòng tiền tương lai của nhà
đầu tư, nhà đầu tư sẽ phải nhận lại tiền đã đầu tự và tái đầu tư vào một danh mục mới. Tuy
nhiên mô hình này lại đơn giản và dễ thực hiện, bên canh đó còn tạo được lòng tin cho nhà
đầu tư vì họ định kì được cả gốc và lãi. Và đối với thị trường Việt Nam khi mà nghiệp vụ
chứng khoán hóa còn quá mới vẻ, nên so với mô hình trung gian thanh toán thì mô hình
trung gian chuyển đổi phù hợp hơn trong giai đoạn hiện nay.
3.2.3 Giải pháp để áp dụng kỹ thuật chứng khoán hóa thành công tại Việt Nam
 Xây dựng hệ thống pháp lý cho hoạt động chứng khoán hóa
Thứ nhất: chế độ pháp lý đối với bên khởi tạo tài sản
Theo Luật Doanh nghiệp 2005, chỉ có hai hình thức tổ chức kinh doanh phù hợp với
chức năng của bên khởi tạo tài sản thế chấp là công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu
hạn vì những doanh nghiệp này được phép phát hành chứng khoán (công ty trách nhiệm

hữu hạn chỉ có thể phát hành chứng khoán nợ). Hiện nay, pháp luật Việt Nam cho phép
thành lập các quỹ đầu tư chứng khoán được quản lý bởi công ty quản lý quỹ và có một số
đặc điểm pháp lý gần giống với quỹ tín thác. Tuy nhiên quỹ đầu tư chứng khoán lại không
thể là một hình thức tổ chức phù hợp cho bên khởi tạo tài sản thế chấp trong giao dịch
chứng khoán hóa tại Việt Nam.
Như vậy để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp huy động vốn thông qua giao dịch
chứng khoán hóa, các nhà làm luật Việt Nam cần nghiên cứu việc cho phép các doanh
nghiệp thành lập quỹ tín thác cho các giao dịch chứng khoán hóa. Quỹ tín thác này có tài
sản hoàn toàn tách bạch với bên thế chấp và đi vay và chỉ đầu tư vào các khoản phải thu và
được phép phát hành chứng khoán dưới dạng chứng chỉ quỹ với các mức độ ưu tiên thanh
toán khác nhau.
Thứ hai: Chế độ đăng ký kinh doanh
Theo quy định hiện hành, mọi doanh nghiệp đều phải đăng ký ngành nghề kinh
doanh tại phòng đăng ký kinh doanh (theo hệ thống mã số ngành nghề theo quy định).
Trong giao dịch chứng khoán hóa, bên khởi tạo tài sản bị hạn chế không cho phép tham gia
vào các hoạt động kinh doanh. Do vậy, trong tương lai, khi thị trường chứng khoán hóa bắt
đầu hình thành, cần cho phép bổ sung ngành nghề hoạt động chứng khoán hóa để có thể
đăng ký kinh doanh cho các bên khởi tạo tài sản.
Thứ ba: Luật Phá sản
Luật Phá sản Việt Nam mặc dù đã ban hành nhưng vẫn còn nhiều bất cập, đối với
các nhà đầu tư trong giao dịch chứng khoán hóa, việc tòa án có thể coi các giao dịch bán tài
sản trong vòng sáu tháng trước ngày nộp đơn phá sản của doanh nghiệp là vô hiệu và phải
được hoàn trả lại cho doanh nghiệp phá sản là một rủi ro pháp lý đáng cân nhắc. Ngoài ra
Luật Phá sản doanh nghiệp cũng chưa quy định rõ cách thức xử lý phần vốn góp của doanh

×