Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.44 KB, 18 trang )

LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI
1.1 KHÁI QUÁT VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1 KHÁI NIỆM
A. Khái niệm về Tổ Chức Tín Dụng:
Là doanh nghiệp thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt động ngân hàng. tổ chức
tín dụng (TCTD) bao gồm: Ngân Hàng, TCTD phi ngân hàng, tổ chức tài chính vi mô và
quỹ tín dụng nhân dân.
B. Khái niệm về Ngân Hàng:
Là loại hình TCTD có thể được thực hiện tất cả các hoạt động của Ngân Hàng theo
luật TCTD. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng bao gồm: ngân
hàng chính sách,ngân hàng hợp tác xã, ngân hàng thương mại (NHTM)
B.1 Ngân hàng hợp tác xã: Là ngân hàng của tất cả các quỹ tín dụng nhân dân và một số
pháp nhân góp vốn thành lập nhằm mục tiêu chủ yếu là tương trợ nhau phát triển sản xuất,
kinh doanh đời sống.
B.2 Ngân hàng chính sách: Chính phủ thành lập ngân hàng chính sách hoạt động không
vì mục tiêu lợi nhuận nhằm thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội của nhà nước.
B.3 Thế nào là Ngân hàng Thương mại? Là một trong những định chế tài chính mà đặc
trưng là cung cấp đa dạng các dịch vụ tài chính với nghiệp vụ cơ bản là nhận tiền gửi, cấp
tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán qua tài khoản. Ngoài ra, NHTM còn cung cấp
nhiều dịch vụ khác nhằm thoả mãn tối đa nhu cầu về sản phẩm dịch vụ của xã hội nhằm
mục tiêu lợi nhuận.
1.1.2 CHỨC NĂNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
A. Chức năng trung gian tín dụng
Chức năng trung gian tín dụng được xem là chức năng quan trọng nhất của ngân
hàng thương mại
[5]
. Khi thực hiện chức năng trung gian tín dụng, NHTM đóng vai trò là
cầu nối giữa người thừa vốn và người có nhu cầu về vốn. Với chức năng này, ngân hàng
thương mại vừa đóng vai trò là người đi vay, vừa đóng vai trò là người cho vay và hưởng
lợi nhuận là khoản chênh lệch giữa lãi suất nhận gửi và lãi suất cho vay và góp phần tạo lợi


ích cho tất cả các bên tham gia: người gửi tiền và người đi vay.
B. Chức năng trung gian thanh toán
Ở đây NHTM đóng vai trò là thủ quỹ cho các doanh nghiệp và cá nhân, thực hiện
các thanh toán theo yêu cầu của khách hàng như trích tiền từ tài khoản tiền gửi của họ để
thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi của khách hàng tiền thu
bán hàng và các khoản thu khác theo lệnh của họ. Các NHTM cung cấp cho khách hàng
nhiều phương tiện thanh toán tiện lợi như séc, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, thẻ rút tiền, thẻ
thanh toán, thẻ tín dụng… Tùy theo nhu cầu, khách hàng có thể chọn cho mình phương
thức thanh toán phù hợp. Nhờ đó mà các chủ thể kinh tế không phải giữ tiền trong túi,
mang theo tiền để gặp chủ nợ, gặp người phải thanh toán dù ở gần hay xa mà họ có thể sử
dụng một phương thức nào đó để thực hiện các khoản thanh toán. Do vậy các chủ thể kinh
tế sẽ tiết kiệm được rất nhiều chi phí, thời gian, lại đảm bảo thanh toán an toàn. Chức năng
này vô hình chung đã thúc đẩy lưu thông hàng hóa, đẩy nhanh tốc độ thanh toán, tốc độ lưu
chuyển vốn, từ đó góp phần phát triển kinh tế.
C. Chức năng tạo tiền
Tạo tiền là một chức năng quan trọng, phản ánh rõ bản chất của ngân NHTM. Với
mục tiêu là tìm kiếm lợi nhuận như là một yêu cầu chính cho sự tồn tại và phát triển của
mình, các NHTM với nghiệp vụ kinh doanh mang tính đặc thù của mình đã vô hình chung
thực hiện chức năng tạo tiền cho nền kinh tế. Chức năng tạo tiền được thực thi trên cơ sở
hai chức năng khác của NHTM là chức năng tín dụng và chức năng thanh toán. Thông qua
chức năng trung gian tín dụng, ngân hàng sử dụng số vốn huy động được để cho vay, số
tiền cho vay ra lại được khách hàng sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ trong khi
số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng vẫn được coi là một bộ phận của
tiền giao dịch, được họ sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ… Với chức năng
này, hệ thống NHTM đã làm tăng tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế, đáp ứng
nhu cầu thanh toán, chi trả của xã hội.
1.1.3 HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Hoạt động ngân hàng: Là việc kinh doanh, cung ứng thường xuyên một hoặc một số
nghiệp vụ sau đây:
a) Nhận tiền gửi;

b) Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản;
c) Cấp tín dụng.
A. Nhận tiền gửi: Là hoạt động nhận tiền gửi của tổ chức, cá nhân dưới hình thức tiền
gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ
phiếu, trái phiếu và các hình thức nhận tiền gửi khác theo nguyên tắc có hoàn trả đầy đủ
tiền gốc, lãi cho người gửi tiền theo thỏa thuận.
A.1 Tiền gửi không kỳ hạn: (Tiền gửi thanh toán)
Ngân hàng thương mại từ khi mở cửa hoạt động thì không ngừng động viên khuyến
khích khách hàng mở tài khoản tại ngân hàng. Tiền gửi thanh toán là loại tiền gửi mà người
gửi tiền có thể rút ra bất cứ lúc nào mà cũng không cần báo trước cho Ngân hàng và Ngân
hàng phải đáp ứng được yêu cầu đó của khách hàng.
Tài khoản được sử dụng cho tiền gửi thanh toán được coi là tài khoản giao dịch hay
gọi là tài khoản Sec. Tài khoản Sec ngày nay chia ra hai loại: Tài khoản thanh toán dùng
cho các tổ chức kinh tế và tài khoản thanh toán dùng cho cá nhân.
Đặc điểm nổi bật của loại tiền gửi này là khách hàng gửi tiền vào Ngân Hàng đã
hình thành một khế ước mặc nhiên, trong đó Ngân Hàng phải thỏa mãn nhu cầu chi trả của
khách hàng bất cứ lúc nào. Nếu vi phạm Ngân Hàng sẽ bị xử lý theo quy định của pháp
luật.
Mục đích của loại tiền gửi này nhằm đảm bảo an toàn về tài sản, thực hiện các
khoản chi trả trong hoạt động sản xuất kinh doanh, trong tiêu dùng, tiện lợi trong việc
thanh toán bằng tiền mặt. Đối với ngân hàng loại tiền gửi thanh toán thường có sự dao
động lớn, do đó Ngân Hàng chỉ áp dụng một tỉ lệ nhất định để cho vay nên Ngân Hàng
thường áp dụng với lãi suất thấp.
Trong việc sử dụng tiền gửi thanh toán, khách hàng thường dùng các công cụ thanh
toán để chi trả như: séc, lệnh chuyển tiền… trong đó séc được coi là công cụ thanh toán
chủ yếu vì sử dụng séc một mặt bảo đảm an toàn về ngân quỹ mặt khác séc là hình thức chi
trả đơn giản và tiện lợi.
Ưu điểm: Loại tiền gửi này có lãi suất thấp nên làm giảm chi phí huy động vốn của Ngân
Hàng.
Nhược điểm: Tài khoản tiền gửi này thường xuyên biến động nên Ngân Hàng không chủ

động trong việc sử dụng nguồn vốn này.
A.2 Tiền gửi có kỳ hạn: (Tiền gửi định kỳ)
Hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp và cá nhân sau khi thu được lợi nhuận
mà tạm thời chưa sử dụng đến trong một thời gian nhất định nào đó có thể ký thác vào
Ngân Hàng một cách có kỳ hạn. Đối với loại tiền gửi này, người gửi tiền chỉ được rút ra
khi đáo hạn. Tuy nhiên, trên thực tế do áp lực cạnh tranh, các Ngân Hàng cho phép khách
hàng rút tiền trước hạn với điều kiện là người gửi tiền không được trả lãi hoặc chịu một
mức lãi suất thấp hơn lãi suất trả cho tiển gửi có kỳ hạn, điều kiện tuỳ thuộc vào chính sách
huy động của Ngân Hàng và loại tiền gửi định kỳ.
Tiền gửi định kỳ có nhiều loại khác nhau, thông thường có kỳ hạn 3 tháng, 6 tháng,
12 tháng. Khác với tiền gửi thanh toán tiền gửi định kỳ là tiền gửi tạm thời chưa sử dụng
hoặc tiền gửi để dành của cá nhân. Vì vậy, mục đích gửi tiền vào Ngân Hàng là nhằm kiếm
lợi tức. Do đó thường dùng biện pháp lãi suất để huy động nguồn vốn này chủ yếu.
Hiện nay, các Ngân Hàng Thương Mại đang áp dụng hai loại tiền gửi định kỳ: tiền
gửi định kỳ theo tài khoản và tiền gửi định kỳ với hình thức phát hành kỳ phiếu. Nguồn
tiền gửi định kỳ là nguồn tiền gửi có tính chất ổn định ở Ngân Hàng Thương Mại. Do vậy,
nó có thể dùng để cho vay trung và dài hạn với lãi suất cao hơn lãi suất tiền gửi thanh toán
không kỳ hạn. Ngân hàng áp dụng nguyên tắc kỳ hạn càng dài lãi suất càng cao.
Ưu điểm: Đối với ngân hàng tiền gửi có kỳ hạn là số tiền có hẹn đến một ngày nhất định
mới trả lại cho khách hàng gửi tiền, điều này giúp cho ngân hàng chủ động được nguồn
vốn trong các thời kỳ để có kế hoạch cho vay, do đó việc sử dụng nguồn này để cho vay rất
hiệu quả.
Nhược điểm: Lãi suất để huy động nguồn vốn này cao và tùy thuộc vào kỳ hạn gửi và số
tiền gửi của khách hàng.
A.3 Tiền gửi tiết kiệm
Tiền gửi tiết kiệm là loại tiền gửi mà khi khách hàng gửi vào thì được ngân hàng
cấp cho một quyển sổ gọi là sổ tiết kiệm. Khách hàng có trách nhiệm quản lý sổ và mang
theo khi đến ngân hàng để giao dịch. Hiện nay một số ngân hàng đã bỏ sổ tiết kiệm và thay
vào đó là cung cấp cho khách hàng một bản kê khi lúc gửi tiền đầu tiên và hàng tháng để
phản ánh tất cả các số phát sinh.

Ưu điểm: Đây là nguồn vốn có tính ổn định và chiếm tỉ lệ khá cao, Ngân Hàng không phải
cung cấp dịch vụ cho khách hàng.
Nhược điểm: Do mục đích của loại tiền gửi này là để dành nên lãi suất cao.
Ở Việt Nam, tiền gửi tiết kiệm hết sức đa dạng và phong phú được chia ra làm nhiều loại:
* Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: Là loại tiền gửi không có thời gian đáo hạn, khi nào
người gửi muốn rút tiền thì phải thông báo cho Ngân Hàng một thời gian, tuy nhiên ngày
nay Ngân Hàng cho phép khách hàng rút tiền ra không cần thông báo trước. Đây là hình
thức mà đối tượng gửi chủ yếu là người tiết kiệm, dành dụm nhằm trang trãi những chi tiêu
cần thiết đồng thời có một khoản lãi góp phần vào việc chi tiêu hàng tháng. Ngoài ra, đối
tượng gửi tiền có thể là những người thừa tiền nhàn rỗi muốn gửi vào Ngân Hàng để thu
hoạch lợi tức đồng thời đảm bảo an toàn hơn tiển cất ở nhà.
Loại tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn lãi suất thấp do Ngân hàng không chủ động
được nguồn vốn và lãi luôn được nhập vốn và thường tính lãi theo nhóm ngày gửi tiền.
Còn đối với tiền gửi thanh toán thì lãi nhập vốn vào cuối tháng.
* Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn:
Đây là loại hình cá nhân gửi tiền có sự thoả thuận về thời gian với ngân hàng, chỉ
rút tiền khi đến thời hạn thoả thuận. Còn trường hợp đặc biệt rút ra trước thời hạn thì lãi
suất thấp hơn. Lãi suất tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn lớn hơn tiền gửi tiết kiệm không kỳ
hạn.
Về nguyên tắc khách hàng chỉ được rút vốn khi đến hạn. Nếu rút trước hạn phải
được sự đồng ý của Ngân Hàng và chỉ được hưởng lãi suất của tiền gửi tiết kiệm không kỳ
hạn hoặc không được hưởng lãi nếu gửi có kỳ hạn mà rút ra chưa được 1 tháng.
A.4 Phát hành các chứng từ có giá:
Gồm kỳ phiếu Ngân hàng và trái phiếu Ngân hàng
* Kỳ phiếu ngân hàng: Kỳ phiếu ngân hàng là loại chứng từ có giá được ngân hàng phát
hành để huy động tiết kiệm trong xã hội nhằm mục đích phục vụ cho việc kinh doanh trong
thời kỳ nhất định. Thời hạn của kỳ phiếu còn phụ thuộc vào chính sách huy động vốn của
ngân hàng, có thể là: 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng, trên 12 tháng.
Ưu điểm: Thời gian huy động nhanh, số tiền lớn.
Nhược điểm: Ngắn hạn và lãi suất cao hơn tiền gửi tiết kiệm.

* Trái phiếu ngân hàng: Trái phiếu ngân hàng là công cụ huy động vốn trung và dài hạn
vào ngân hàng, nó là một loại chứng khoán có thể dùng để mua bán trên thị trường chứng
khoán. Ở nước ta, trái phiếu có kỳ hạn trên một năm. Khi Ngân Hàng phát hành trái phiếu
thì Ngân Hàng có mục đích dùng số vốn đó để đầu tư vào các dự án mang tính chất dài hạn
như: đầu tư vào các công trình, dự án liên doanh, cho vay dài hạn…
Đối với khách hàng, trái phiếu Ngân Hàng là một khoản đầu tư mang lại thu nhập
ổn định và ít rủi ro so với cổ phiếu doanh nghiệp.
Ưu điểm: Đối với Ngân Hàng vốn huy động từ trái phiếu lãi suất thấp và ổn định trong
thời gian dài. Do vậy ngân hàng có thể chủ động trong việc sử dụng nguồn vốn này để cho
vay trung và dài hạn.
Nhược điểm: Do lãi suất thấp và thời gian dài nên rất khó thu hút khách hàng.
Lãi suất của hai loại này thường cao hơn các loại tiền gửi khác.
B. Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản: Là việc cung ứng phương tiện thanh
toán; thực hiện dịch vụ thanh toán séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ thu, ủy nhiệm thu, thẻ
ngân hàng, thư tín dụng và các dịch vụ thanh toán khác cho khách hàng thông qua tài
khoản của khách hàng.
C. Cấp Tín Dụng: Là việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền hoặc
cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ cho
vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ
cấp tín dụng khác.
1.1.4 VỐN ĐI VAY
Nguồn vốn đi vay của các Ngân Hàng khác là nguồn vốn được hình thành bởi các
mối quan hệ giữa các tổ chức tín dụng với nhau hoặc giữa các tổ chức tín dụng với Ngân
hàng Nhà nước. Nguồn vốn đi vay bao gồm:
A. Vay các tổ chức tín dụng khác: Trong quá trình kinh doanh của các Ngân Hàng, cũng
có lúc Ngân Hàng tập trung huy động được vốn nhưng lại không cho vay hết, trong khi đó
vẫn phải trả lãi tiền gửi. Tương tự, có thời điểm nhu cầu cho vay vốn lớn, nhưng khả năng
nguồn vốn mà Ngân Hàng huy động được lại không đáp ứng đủ. Vì vậy, trong những
trường hợp đó Ngân Hàng cũng có thể tiếp tục gửi vốn tạm thời chưa sử dụng vào Ngân
Hàng khác để lấy lãi hoặc đi vay của các Ngân hàng khác có phát sinh tình trạng thừa vốn

để nhằm khôi phục khả năng thanh toán của Ngân Hàng.
Do Ngân Hàng Thương Mại là một doanh nghiệp hoạch toán ngành, vì vậy khi phát
sinh tình trạng tạm thời thừa vốn, các chi nhánh của Ngân Hàng thường phải điều chuyển
vốn thừa về Ngân Hàng cấp trên, để tiếp tục điều chuyển cho các Ngân Hàng thiếu vốn.
B. Vay từ Ngân hàng Trung Ương:
Ngân hàng Trung Ương đóng vai trò là Ngân Hàng của các Ngân Hàng, là người
cho vay cuối cùng đối với các Ngân Hàng Thương Mại. Việc cho vay vốn của Ngân Hàng
Trung Ương đối với các Ngân Hàng Thương Mại thông qua hình thức tái cấp vốn. Tái cấp
vốn là hình thức cấp tín dụng có đảm bảo của Ngân Hàng Trung Ương nhằm cung ứng vốn
ngắn hạn và các phương tiện thanh toán cho các Ngân Hàng Thương Mại.
Ưu điểm: Ngân Hàng có thể vay số tiền lớn và nhanh.
Nhược điểm: Khi vay vốn của Ngân Hàng Trung Ương hoặc của các Tổ chức tín dụng
khác, các Ngân Hàng Thương Mại thường phải chịu chi phí lớn, do Ngân Hàng Trung
Ương cho vay theo lãi suất chiết khấu, các TCTD khác cho vay theo lãi suất thị trường. Vì
vậy, hiệu quả kinh tế mang lại từ việc sử dụng nguồn vốn này đối với các ngân hàng
thương mại không cao. Trong thực tế nguồn vốn này cũng chỉ chiếm một tỷ trọng rất nhỏ
trong tổng nguồn vốn kinh doanh của các Ngân Hàng Thương Mại.
1.2 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÍN DỤNG
1.2.1 KHÁI NIỆM
Tín dụng là một phạm trù kinh tế tồn tại và phát triển qua nhiều hình thái kinh tế -
xã hội. Ngày nay tín dụng được hiểu theo những định nghĩa sau:
Định nghĩa 1: Tín dụng là quan hệ kinh tế được biểu hiện dưới hình thái tiền tệ hay hiện
vật, trong đó người đi vay phải trả cho người cho vay cả gốc và lãi sau một thời gian nhất
định.
Định nghĩa 2: Tín dụng là phạm trù kinh tế, phản ánh quan hệ sử dụng vốn lẫn nhau giữa
các pháp nhân và thể nhân trong nền kinh tế hàng hoá.
Định nghĩa 3: Tín dụng là một giao dịch giữa hai bên, trong đó một bên (trái chủ - người
cho vay) cấp tiền, hàng hoá, dịch vụ, chứng khoán,… dựa vào lời hứa thanh toán lại trong
tương lai của bên kia (thụ trái - người cho vay).
Như vậy, “Tín dụng” có thể diễn đạt bằng nhiều cách khác nhau. Nhưng nội dung

cơ bản của những định nghĩa này là thống nhất: Đều phản ánh một bên là cho vay, còn bên
kia là người đi vay. Quan hệ giữa hai bên được ràng buộc bởi cơ chế tín dụng và pháp luật
hiện hành.
1.2.2 KHÁI NIỆM VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng, các tổ chức tín dụng khác
với các chủ thể trong nền kinh tế như nhà doanh nghiệp và cá nhân. Trong nền kinh tế,
ngân hàng đóng vai trò là một định chế tài chính trung gian, vì vậy trong quan hệ tín dụng
với các nhà doanh nghiệp và cá nhân , ngân hàng vừa là người cho vay đồng thời cũng là
người đi vay.
- Với tư cách là người đi vay, ngân hàng nhận tiền gửi từ các doanh nghiệp và cá
nhân hoặc phát hành chính chỉ tiền gửi, trái phiếu để huy động vốn trong xã hội.
- Với tư cách là người cho vay, ngân hàng cấp tín dụng cho các doanh nghiệp và cá
nhân.
- Chủ thể tham gia gồm một bên là ngân hàng, bên còn lại là các chủ thể trong nền
kinh tế như doanh nghiệp, hộ gia đình, cá nhân,…
- Vốn tín dụng cấp chủ yếu là tiền tệ,cũng có thể là tài sản. Nguồn vốn này chủ yếu
hình thành từ vốn huy động tiền gửi, hoặc có thể phát hành các chứng chỉ, giấy tờ có giá
tạo tiền để cho vay…
- Thời hạn cho vay rất linh hoạt, có thể ngắn hạn, trung hạn, dài hạn.
- Công cụ của tín dụng ngân hàng cũng rất linh hoạt, có thể là kì phiếu, trái phiếu
ngân hàng, các hợp đồng tín dụng…
- Đây là hình thức tín dụng mang tính gián tiếp, trong đó ngân hàng là trung gian tín
dụng giữa những người tiết kiệm và những người cần vốn để sản xuất kinh doanh hoặc tiêu
dùng qua đó thu được lợi nhuận.
Trong nền kinh tế thị trường, đại bộ phận quỹ cho vay tập trung qua ngân hàng và từ đó
đáp ứng nhu cầu vốn bổ sung cho các doanh nghiệp vá cá nhân. Tín dụng ngân hàng không
chỉ đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn để dự trữ vật tư hàng hoá, trang trải chi phí sản xuất và
thanh toán các khoản nợ mà còn tham gia cấp vốn cho đầu tư xây dựng các xí nghiệp mới,
các cơ sở kinh tế hạ tầng, cải tiến kĩ thuật.
1.2.3 CHỨC NĂNG TÍN DỤNG

A. Chức năng phân phối lại tài nguyên
Tín dụng là sự chuyển nhượng vốn từ chủ thể này sang chủ thể khác. Thông qua sự chuyển
nhượng này tín dụng góp phần phân phối lại tài nguyên, thể hiện ở chỗ.
- Người cho vay có một số tài nguyên tạm thời chưa dùng đến, thông qua tín dụng, số tài
nguyên đó được phân phối lại cho người đi vay.
- Ngược lại, người đi vay cũng thông qua quan hệ tín dụng nhận được phần tài nguyên
được phân phối lại.
B. Chức năng thúc đẩy lưu thông hàng hoá và phát triển sản xuất
Nhờ tín dụng mà quá trình chu chuyển tuần hoàn vốn trong từng đơn vị nói riêng và trong
toàn bộ nền kinh tế nói chung đựơc thực hiện một cách bình thường và liên tục. Do đó, tín
dụng góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất và lưu thông hàng hoá.

×