Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ CHO VAY MUA NHÀ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (192.16 KB, 18 trang )

ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ CHO VAY MUA NHÀ ,XÂY MỚI VÀ SNN TẠI
NH TMCP CÔNG THƯƠNG-CHI NHÁNH ĐÀ NẴNG
3.1. Kết quả đạt được
Hoạt động cho vay mua nhà,xây mới và SCN ở tại chi nhánh tuy tỉ trọng còn thấp
trong tổng dư nợ bình quân và lợi nhuận mang lại, nhưng nếu xét trên con số tuyệt đối thì
hoạt động này cũng mang lại kết quả không nhỏ. Điều này cũng nhờ sự nỗ lực, cố gắng hết
mình của chi nhánh trong thời gian qua với nhiều mặt mạnh như:
3.1.1. Trước hết, tỷ lệ nợ xấu tại chi nhánh trong thời gian qua còn khá thấp: dưới
1% và hoàn toàn trong mức kiểm soát với mục tiêu nợ xấu dưới 2%, dư nợ bình quân có
tăng trưởng mặc dầu tình hình kinh tế gặp rất nhiều khó khăn, điều này chứng tỏ công tác
thẩm định, kiểm tra và giám sát các khoản vay rất chặt chẽ với mục tiêu đảm bảo an toàn
nguồn vốn, thể hiện tinh thần, trách nhiệm và năng lực của cán bộ đội ngũ nhân viên trong
chi nhánh nói chung và CBTD nói riêng. Theo tình hình thời gian qua ta thấy CBTD rất
thận trọng trong tiếp nhận hồ sơ và cho vay. Mặc dầu, cho vay mua nhà, xây mới và SCN ở
với hình thức bảo đảm chủ yếu là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, đây là loại
hình tài sản rất đa dạng và phức tạp nhưng vẫn đảm bảo chất lượng vay tốt và nhiều hồ sơ
khi rơi vào tình trạng nợ xấu, công tác phát mãi tài sản thế chấp thu hồi nợ tổn thất không
nhiều cũng chính nhờ vào năng lực của CBTD.
3.1.2. Trong thời gian qua, chi nhánh cũng đã có sự quan tâm đến huấn luyện, đào
tạo chuyên môn nghiệp vụ cho CBTD:
như mới đây 9/2009 tổ chức hướng dẫn cho họ về cho vay mua nhà dự án trong toàn hệ
thống ngân hàng.
3.1.3. Chính sách cho vay: mức cho vay tối đa trên TSBĐ tương đối phù hợp, chấp nhận
nhiều hình thức bảo đảm khác nhau, thời gian vay mua nhà lên đến 20 năm, lãi suất mang
tính cạnh tranh.
3.1.4.Có mạng lưới phòng giao dịch rộng khắp trên địa bàn như:
Hệ thống nằm rải rác trên các tuyến đường Hùng Vương, Trần Cao Vân, Núi Thành, Phan
Châu Trinh,..và mới đây nhất là trên đường Ông Ích Đường thuộc quận Cẩm Lệ - mới đưa
vào hoạt động năm 2008. Đây là khu vực mới được quy hoạch, số lượng hộ gia đình có
nhu cầu mua nhà, xây mới là rất lớn, bên cạnh đó do bị địa bàn thấp trũng nên chịu ảnh
hưởng nặng nề của ngập lụt, nhu cầu sửa chữa nhà ở cũng rất cao. Việc phát triển thêm


PGD tại đây là điều hoàn toàn đúng đắn của ban quản lý chi nhánh. Chứng tỏ chi nhánh rất
cố gắng nỗ lực trong tìm hiểu nhu cầu thị trường với xu hướng nhà ở chung cư, các dự án
tiến hành xây dựng nhà ở chung cư, căn hộ bán cho người dân ngày càng nhiều, và cũng
nhằm tăng sức cạnh tranh trên địa bàn.
3.1.5 Tăng khả năng thu hút khách hàng tìm hiểu và đặt quan hệ vay vốn:
Do hiện nay nhờ phát triển các dịch vụ hướng đến. nhóm khách hàng cá nhân như séc du
lịch, chuyển tiền trong nước và quốc tế, trả lương qua thẻ, cho vay hỗ trợ du học, phát hành
thẻ thanh toán nội địa và quốc tế (Visa, Master card,..)…chính vì vậy mà tính đến năm
2008 chi nhánh đã thu hút được 2,381 khách hàng cá nhân giao dịch và mở tài khoản.
3.1.6. Có lợi thế huy động vốn giá rẽ hơn so với các ngân hàng TMCP khác:
Do xuât thân từ nhóm ngân hàng quốc doanh nên có khả năng tiếp cận tài khoản tiền gửi
của các doanh nghiệp nhà nước, nguồn vốn viện trợ, tài trợ của chính phủ theo chương
trình, dự án.
3.1.7. Ngoài ra, chi nhánh cũng có thương hiệu và uy tín với lịch sử hoạt động lâu
đời:
được đánh giá cao trong phục vụ các doanh nghiệp vừa và nhỏ, với xu hướng mở rộng đối
tượng khách hàng cá nhân thì chi nhánh cũng dần tạo được uy tín trong lĩnh vực này với rất
nhiều sản phẩm, dịch cụ cung cấp có chất lượng kết hợp với công nghệ cao như: triển khai
thành công kiến trúc SONA (Service Oriented Network Architechture) - kiến trúc mạng
hướng dịch vụ của hãng Cisco. Ở Việt Nam, Vietinbank là đơn vị tiên phong áp dụng kiến
trúc này, bước lớn tiếp theo là triển khai hệ thống AD và các công cụ quản lý hệ thống của
Hãng Microsoft. Đây là bước quan trọng nhằm xây dựng một hệ thống quản lý hệ thống,
quản lý thông tin và tri thức trong nội bộ của ngân hàng TMCP Công Thương. Bên cạnh
đó, chi nhánh cũng triển khai áp dụng và tương đối thành công trong các dịch vụ Internet
banking, SMS banking, sử dụng hệ thống email Exchange 2007 người dùng có thể truy cập
vào hệ thống bằng nhiều cách … cũng góp phần gia tăng uy tín của chi nhánh trên địa bàn.
Sự kiện ngân hàng niêm yết trở thành NHTMCP và lên sàn giao dịch năm 2009 đã khẳng
định được sự lớn mạnh của toàn hệ thống nói chung và của chi nhánh nói riêng.Với những
nỗ lực đó VietinBank vinh dự được ghi nhận là một trong 10 thương hiệu mạnh nhất Việt
Nam liên tục từ năm 2004 đến nay.

3.2. Hạn chế :
Mặc dù cho vay mua nhà,xây mới và SCN ở trong những năm qua đã phát triển nhanh
chóng nhưng nếu đem so sánh với dư nợ chung của cả ngân hàng thì tỷ lệ này vẫn chiếm
một phần rất nhỏ, và tương ứng với tỷ trọng doanh thu từ hoạt động này cũng sẽ không
cao. Bên cạnh những nguyên nhân nêu trên còn do những hạn chế sau:
3.2.1. Về chính sách cho vay và áp dụng chính sách cho vay: Do yếu tố lịch sử của chi
nhánh, trứơc đây đối tượng cho vay chủ yếu của chi nhánh là những pháp nhân, việc triển
khai cho vay tiêu dùng nói chung và mua nhà, xây mới và SCN ở nói riêng chưa được quan
tâm đúng mức trong chính sách cũng như áp dụng chính sách trong thực tế như:
+ Thời hạn cho vay xây nhà còn ngắn: một mặt,chưa mang tính cạnh tranh với các ngân
hàng hàng khác trên địa bàn. Mặt khác, còn gây khó khăn cho người vay khi áp lực chi trả
hàng kì quá cao phần lớn chưa đáp ứng đủ.
+ Mức cho vay tối đa, thời gian vay và đối tượng cho vay bảo đảm không bằng TS còn
hạn chế.
+ Tỷ trọng cho vay /giá trị tài sản bảo đảm chưa linh hoạt: theo chính sách cho vay tiêu
dùng tại chi nhánh thì khách hàng được vay tối đa 70% giá trị của tài sản đảm bảo(phần
lớn là giá trị nhà đất) giá trị này do CBTD định giá (và thường thấp hơn so với giá trị thị
trường). Mặc dầu đã có những biện pháp điều chỉnh so nhằm phù hợp hơn với tình hình giá
cả thị trường song do công tác phân công trách nhiệm tại chi nhánh tạo nhiều áp lực cho
CBTD, khả năng thu thập thông tin còn hạn chế. Bên cạnh đó, chưa có tổ chuyên môn
định giá nên đa số vẫn áp dụng theo phương pháp cũ nên ngân hàng thường chỉ cho vay ở
mức 45%-60% giá trị tài sản đảm bảo, không thỏa mãn được tối đa nhu cầu của khách
hàng.
+ Phương thức thu nợ, thời gian giải quyết hồ sơ, mức phí chưa thực sự mang
tính cạnh tranh: phí hồ sơ vay cũng là điều cần cân nhắc cùng với khả năng cho vay tối
đa của ngân hàng. Tuy nhiên, hiện nay nhiều ngân hàng đều không thu phí làm hồ sơ vay
tín chấp như ABC,SacomBank, MB… trong khi đó hiện nay ngân hàng chưa có chính sách
miễn giảm phí đối với lĩnh vực cho vay này.
+ Tài sản đảm bảo là nhà đất được quyền thế chấp thì phải được cấp giấy chứng nhận
quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở: Vì thế nhiều khách hàng có nhân thân tốt,

đủ khả năng tài chính để trả nợ nhưng không được vay vốn vì không đủ điều kiện về tài
sản đảm bảo (chưa được cấp quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở) hạn chế số
lượng khách hàng được vay vốn ngân hàng.
+ Chi nhánh tuy đã triển khai loại hình cho vay bảo đảm không bằng TS tuy
nhiên lại không mang lại hiệu quả cao: Bên cạnh những hạn chế về thời hạn và mức cho
vay tối đa thì đối tượng cho vay tại chi nhánh vẫn còn hạn chế. Những đối tượng có khả
năng vay cao nhất là cán bộ công nhân viên, Nhà nước, được cơ quan chứng nhận có thu
nhập ổn định và cam kết thu đủ nợ vay trong trường hợp người đi vay không có khả năng
hoàn trả vốn vay và nguồn trả nợ từ việc trích một phần thu nhập hàng tháng nhưng do
chưa có sự phối hợp đồng bộ của CBTD với các cơ quan quản lý người lao động xin vay
gây khó khăn trong công tác thẩm định, xét duyệt điều kiện cho vay và theo dõi, giám sát
thu hồi nợ.
Bên cạnh đó, do mức khống chế cho vay còn thấp chưa phù hợp với nhu cầu,
những người như giáo viên, bác sĩ hoặc một số người làm trong lĩnh vực khác, thu nhập từ
lương thấp nhưng thu nhập làm thêm hợp pháp của họ khá cao. Như vậy, nếu chỉ dựa trên
mặt bằng lương phổ biến của CBCNV một cách chung chung để khống chế mức vay là
chưa hợp lý. Đây cũng là đối tượng có tỷ lệ quá hạn thấp nhất, khả năng trả nợ cao. Tuy
nhiên, với đối tượng này khi triển khai tại chi nhánh và các ngân hàng khác cũng nảy sinh
một số vấn đề như:
Thực tế triển khai chương trình cho vay CBCNV, số khách hàng liên hệ vay theo chương trình
này tại các ngân hàng là rất lớn, nên chi nhánh cũng nên có biện pháp khắc phục tình trạng cho
vay kém hiệu quả, rút kinh nghiệm của các ngân hàng khác đã mở rộng hình thức này nhằm
phát triển hoạt động cho vay đầy tiềm năng này.
+ Chưa có chính sách bố trí với CBTD hợp lí: Mặt dầu cán bộ làm công tác tín dụng tại chi
nhánh đa số đã có kinh nghiệm và trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp nhưng do số
lượng còn ít, một cán bộ phải giải quyết quá nhiều khoản vay dẫn tới chất lượng thẩm định
từng khoản vay có thể không cao.
+ Chưa có các bộ phận hỗ trợ tín dụng: Nếu như một số các NHTMCP khác ví dụ như
ngân hàng ACB ngoài tổ thẩm định thì có tổ dịch vụ khách hàng tín dụng riêng và tổ hỗ trợ
tín dụng ( bộ phận pháp lý chứng từ, chuyên môn hóa về mặt pháp lí), sự hỗ trợ này giúp

đẩy nhanh quá trình hoàn thiện hồ sơ. Bên cạnh đó, thì quá trình xét duyệt hồ sơ còn mang
tính thủ công phải tới ngân hàng để nộp hồ sơ và biết kết quả làm tốn nhiều thời gian và
công sức của khách hàng.
3.2.2. Về công tác Marketing:
+ Trong số các ngân hàng trên địa bàn NHTMCP Công Thương – Chi nhánh Đà Nẵng chưa
tạo được hình ảnh và uy tín như một số các NHCP khác như ACB, Sacombank, hay NH
Đông Á trong lĩnh vực cho vay tiêu dùng.
+ Cùng đối tượng khách hàng cá nhân nhưng chi nhánh chưa có chiến lược kinh doanh cụ
thể để cạnh tranh về sản phẩm, dịch vụ ( về giá cả, thời gian phục vụ, ưu đãi khuyến mãi,..)
so với các ngân hàng khác. Các sản phẩm, dịch vụ chưa gắn kết được với công nghệ hiện
đại. Hiện nay, các NHTM đưa ra các sản phẩm tuy không mới về nội dung nhưng mới về
hình thức, như sản phẩm “ nhà mới ” của Techcombank, “ an cư lạc nghiệp ” của
Sacombank,…
+ Bên cạnh đó, hoạt động markeing chưa thực sự phát huy hiệu quả, hiện tại chi nhánh đã
có bộ phận marketing và phát triển sản phẩm mới, thuộc phòng tổng hợp với nhiệm vụ tìm
kiếm các cộng tác viên và phát triển sản phẩm mới, tuyên truyền, quảng cáo. Nhưng sự
phối kết hợp các hoạt động giữa các phòng ban chưa tốt dẫn đến hiệu quả hoạt động chung
của toàn chi nhánh chưa cao. Hoạt động marketing của bộ phận tín dụng chủ yếu do CBTD
đảm trách, song song với theo dõi quản lý hồ sơ cho vay họ còn phải tiếp thị mở rộng thị
trường.
+ Việc quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng như truyền hình,báo chí về cho
vay tiêu dùng của chi nhánh còn hạn chế, chủ yếu là trên internet. Việc giới thiệu còn
chung chung chưa thật sự đi vào chi tiết nhằm giúp khách hàng biết được những lợi ích
cũng như việc hướng dẫn chi tiết cho khách hàng về thủ tục hồ sơ thiết yếu,.. như các ngân
hàng khác. Cũng chính vì thế có thể nhận thấy, khách hàng đến vay tiêu dùng tại ngân hàng
chủ yếu là khách hàng truyền thông gắn bó lâu năm với ngân hàng hoặc qua sự giới thiệu
của người thân, bạn bè, cán bộ công nhân viên của chi nhánh. Trong khi sự cạnh tranh diễn
ra ngày một gay gắt thì đây có thể xem là một trong những nguyên nhân cơ bản.
3.2.3. Các nhân tố bên ngoài:
+ Tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và sử dụng đất ở trên địa

bàn thành phố còn rất chậm.
Một hạn chế nữa trong cho vay xây dựng nhà ở là các món vay có sự đảm bảo bằng tài sản
thế chấp của người đi vay hay của bên thứ ba (bảo lãnh). Các tài sản thế chấp này chủ yếu
là nhà đất. Theo quy định, chi nhánh chỉ nhận tài sản đảm bảo là nhà, đất đã được cấp giấy
chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở. Thủ tục liên quan đến nó rất phức
tạp và có nhiều trở ngại như: có đầy đủ thủ tục Pháp lý cần thiết, không bị tranh chấp,
không nằm trong diện quy hoạch giải toả, người đi vay phải có giấy chứng nhận quyền sở
hữu... .Trong khi đó ở thành phố còn có nhiều hộ chưa được giải quyết cụ thể. Theo nghị
định 181 về thi hành luật đất đai có quy định không quá 55 ngày người dân phải được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở nhưng không quy định cụ thể, nên nhiều trường hợp
đơn giản lý ra có thể giải quyết sớm hơn nhưng vẫn không được xem xét và giải quyết sớm
Chính vì thế nhiều khách hàng có nhân thân tốt, khả năng trả nợ tốt nhưng không được vay
vốn ngân hàng do không đủ điều kiện về tài sản đảm bảo và gây khó khăn cho việc quản
lý và xét duyệt cho vay, về lâu dài có thể gây khó khăn trong việc thu hồi nợ của ngân
hàng.
Bên cạnh đó, quá trình xét duyệt cho vay còn gặp nhiều bất cập trong khâu thẩm định. Vì
theo hình thức cho vay này, tài sản thế chấp chủ yếu là tài sản bất động sản. Như ta đã biết,
thị trường nhà đất biến động liên tục, mà cán bộ tín dụng khi thẩm định phải dựa vào
khung giá nhà đất do UBND thành phố đưa ra. Chính vì vậy, giá trị TSBĐ của khách hàng
thường không tương xứng với giá trị thực, nhất là quyền sử dụng đất ở. Bởi giá trị quyền
sử dụng đất ở mà UBND các tỉnh, thành phố đưa ra chỉ để áp dụng tính thu thuế chứ không
phải để bán và trao đổi trên thị trường. Gây nhiều khó khăn cho nhân viên trong công tác
thẩm định, nếu không chính xác có thể gây thiệt hại cho ngân hàng.
+ Về phía khách hàng: Phần lớn dân nhập cư tới thành phố chưa có công việc ổn định, thu
nhập không đều và phần lớn chưa có hộ khẩu nên khó khăn trong việc đi vay. Do đó, khó
khăn cho Ngân hàng khi muốn mở rộng nghiệp vụ này. Bên cạnh đó, thì tỷ lệ người có thu
nhập thấp trên địa bàn còn khá cao nhu cầu về nhà ở là rất lớn, nhưng trong thực tế họ khó
có thể tiếp cận nguồn vốn vay từ ngân hàng do điều kiện đưa ra quá cao. Cho vay mua nhà,
xây mới và SCN ở đối với người có thu nhập thấp đang tồn tại một nghịch lý, người có thu
nhập thấp đủ điều kiện mua nhà giá thấp thì không đủ điều kiện vay vốn, còn người đủ

điều kiện vay vốn thì không được mua nhà thu nhập thấp. Vì thế, tín dụng cho người có thu
nhập thấp vẫn chưa thực sự có chuyển biến.
Rất dễ hiểu khi trong thời gian qua, các doanh nghiệp công bố rất nhiều dự án nhà giá rẻ,
dành cho người thu nhập thấp với giá bán căn hộ khoảng 300-450 triệu đồng/căn nhưng
chẳng có người thu nhập thấp nào có thể mua được nhà tại các dự án này. Vì nếu mua trả
góp, ngoài khoản tiền 30% đóng trước (khoảng 100 triệu đồng), khách hàng cần phải
chứng minh hàng loạt điều kiện thu nhập mà chỉ những người có thu nhập cao mới đáp
ứng được.Thêm vào đó, thu nhập của người mua nhà sau khi trả tiền hàng tháng thường
còn dư rất ít do đó họ sẽ khó khăn trong việc dành dụm tiền cho các chi tiêu sinh hoạt hàng
ngày. Thời gian trả góp quá ngắn (thường là 10 - 15 năm) nên số tiền trả mỗi tháng lớn.
+ Tồn tại các hình thức cạnh tranh khác: Hiện nay, một số cá nhân kinh doanh mang tính
tập thể như các tiểu thương trong chợ ,tổ hội phụ nữ,…tồn tại rất phổ biến hình thức biêu,
hụi là một dạng tiết kiệm trong dân, đây cũng có thể là nguồn vốn góp hỗ trợ vào mục đích
mua nhà, xây mới và SCN ở rất hữu hiệu, họ cho rằng phương pháp này thuận lợi hơn các
hình thức cho vay với thủ tục phiền hà, tốn nhiều công sức đi lại và khắc phục tâm lý e
ngại khi đến ngân hàng vay vốn.
+ Tình hình biến động giá cả thị trường: Bên cạnh đó, do ảnh hưởng lạm phát, lãi suất,
giá cả nguyên vật liệu tăng cao cũng gây tâm lý e ngại của người dân khi tiến hành vay vốn
để xây dựng, sửa chữa nhà ở trong giai đoạn này.
+ Đối thủ cạnh tranh:
Do sự phát triển ngày càng dày đặt trên địa bàn không chỉ giữa các ngân hàng với nhau mà
với cả các tổ chức tài chính phi ngân hàng. Cạnh tranh về cả huy động nguồn vốn và cho
vay.
3.3 Định hướng phát triển trong thời gian tới :
Qua hơn nhiều năm hoạt động tại Đà Nẵng.Chi nhánh Công Thương Đà Nẵng đã đạt được
nhiều thành quả to lớn, không những mang lại lời nhuận cho Ngân hàng mà còn giúp hỗ trợ
kịp thời vốn cho các tổ chức và dân cư thực hiện tốt hoạt động sản xuất kinh doanh của
mình, nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho người dân.
Phát huy những thành quả đạt được trong thời gian qua, Chi nhánh Công Thương tiếp tục
mở rộng mạng lưới hoạt động, không ngừng nâng cao và xây dựng nền tảng vững chắc để

chuẩn bị cho việc phát triển sau này.
Triển khai kế hoạch phát triển nguồn nhân lực để đáp ứng yêu cầu trong giai đoạn mới, đào
tạo chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ trong các lĩnh vực cho vay khác nhau, nhất là trong
cho vay xây dựng nhà ở.Tổ chức cho nhân viên đi học các lớp phân tích thị trường nhà đất,
giúp cán bộ nắm rõ thông tin và những biến động của thị trường này.
Tăng cường huy động vốn ở dân cư để phục vụ cho hoạt động tín dụng.Như đã phân tích
nguồn vốn huy động chủ yếu của Ngân hàng là từ các tổ chức tín dụng, khai thác nguồn
vốn từ dân cư nhiều thì sẽ góp phần cho vòng luân chuyển vốn của Ngân hàng nhanh
hơn.Bên cạnh đó, cần chú trọng khai thác nguồn vốn không kỳ hạn của các tổ chức kinh tế,
góp phần ổn định nguồn vốn cho vay của chi nhánh.
Cho vay mua nhà.xây và sửa chữa nhà cũng cần nguồn vốn dài hạn để cho vay nên chi
nhánh cần tăng cường huy động vốn dài hạn để đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng
Đầu tư mạnh vào hệ thống công nghệ thông tin, nhằm thiết lập giao dịch trực tuyến trong
toàn hệ thống nhằm phục vụ khách hàng ngày càng tốt hơn.Liên kết với các trung tâm thị
trường nhà đất, để tìm kiếm nhu cầu khách hàng.
3.4 Giải pháp phát triển hoạt động cho vay mua nhà, xây mới và SCN ở tại ngân
hàng TMCP Công Thương – Chi nhánh Đà Nẵng.
Qua quá trình phân tích ta thấy rằng dư nợ bình quân hoạt động cho vay mua nhà, xây
mới và SCN ở tại chi nhánh còn chiếm tỷ trọng rất thấp so với tổng dư nợ tương ứng với đóng
góp thu nhập của hoạt động này cũng còn rất thấp. Nhưng ta cũng thấy rằng đây là hoạt động
cho vay đầy tiềm năng và là xu hướng tất yếu trong thời gian tới, nên qua quá trình phân tích ta
có thể đưa ra một số giải pháp đề xuất như sau:
3.4.1 Hoàn thiện chính sách tín dụng và việc áp dụng chính sách tín dụng:
+ Tăng mức cho vay tối đa với hình thức BĐ không bằng TS:
Không nên giới hạn mức vay trong 50 triệu đồng. Tùy theo nhu cầu và khả năng trả
nợ của khách hàng mà chi nhánh ấn định mức dư nợ cho vay đối với từng khách hàng.
Cũng như đã nói ở trên, CB – CNV thường có thu nhập do làm thêm hợp pháp là rất cao
nên nếu một khách hàng có thu nhập cao và họ chứng minh được thu nhập của họ là dài
hạn thông qua các hợp đồng lao động thì Chi nhánh có thể xem xét cho vay với mức cao
hơn và với thời hạn dài hơn chứ không nên khống chế mức vay theo tiền lương cơ bản.

+ Mở rộng đối tượng vay vốn trong hình thức bảo đảm không bằng TS:
Chi nhánh có thể mở rộng đối tượng vay vốn ra các công ty có vốn đầu tư nước
ngoài,công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân,...Hiện nay, các doanh nghiệp
này phát triển rất nhanh trên địa bàn, thu hút đông đảo số lượng lao động tham gia, họ đa
số là những người trẻ tuổi, người từ nơi khác đến, thu nhậpcũng khá cao và ổn định. Để
đảm bảo an toàn chi nhánh nên đưa ra một số điều kiện, chỉ tiêu đánh giá tình hình hoạt
động ổn định đối với các doanh nghiệp như: phải làm ăn kinh doanh có lãi trong khoản

×