Tải bản đầy đủ (.docx) (40 trang)

TÌNH HÌNH CHO VAY TRUNG DÀI HẠN TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG HAI BÀ TRƯNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (240.61 KB, 40 trang )

TÌNH HÌNH CHO VAY TRUNG DÀI HẠN TẠI NGÂN HÀNG CÔNG
THƯƠNG HAI BÀ TRƯNG
I. GIỚI THIỆU CHUNG
1. Lịch sử hình thành.
Từ tháng 7/1988, Ngân hàng Công thương Việt Nam đã chính thức trở thành
một tổ chức kinh doanh với chức năng tiền tệ, tín dụng và dịch vụ Ngân hàng.
Thời gian đầu Ngân hàng Công thương Việt Nam thực hiện mô hình ba cấp: Cấp
trung ương, cấp tỉnh thành phố, cấp quận huyện. Đây quả là một mô hình kồng
kềnh, phức tạp. Theo mô hình đó ngân hàng Công thương Hai Bà Trưng trực
thuộc hạch toán chung, chịu sự chỉ đạo trực tiếp từ Ngân hàng Công thương Hà
Nội. Ngay từ khi ra đời, hoạt động ngân hàng Công thương Hai Bà Trưng vẫn
mang tính bao cấp hoạt động kinh doanh kém hiệu quả, hệ số sử dụng vốn thấp,
thua lỗ liên miên. Cụ thể năm 1992 tổng nguồn vốn huy động bình quân là: 168
tỷ đồng, tổng dư nợ bình quân đạt 12%, hệ số sử dụng vốn chỉ đạt 12% là quá
thấp, Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng lỗ trầm trọng, cả năm lỗ 46 tỷ đồng,
ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống của cán bộ công nhân viên.
Sau quyết định số 93/NHCT - TCCB của tổng giám đốc Ngân hàng Công
thương Việt Nam, Ngân hàng Công thương Việt nam đã đổi mới cơ chế quản lý
từ Ngân hàng ba cấp sang Ngân hàng hai cấp (Ngân hàng hội sở - các chi nhánh
trực thuộc). Lúc này ngân hàng Công thương Hai Bà Trưng là một chi nhánh trực
thuộc của Ngân hàng Công thương Việt Nam. Đồng thời với việc đổi mới cơ chế
quản lý là sự đổi mới của các chỉ tiêu quản lý và điều hành kinh doanh. Trước kia
Ngân hàng công thương Việt Nam quản lý và điều hành với chỉ tiêu: Nguồn vốn
huy động, dư nợ, doanh thu, chi phí... thì lúc này có thêm hệ thống chỉ tiêu mới
là: nộp vốn điều hoà, thu nghập, lợi nhuận hạch toán gắn với thu nhập và kết quả
hoạt động kinh doanh của chi nhánh...
2. Cơ cấu tổ chức của ngân hàng Công thương Hai Bà Trưng
Chi nhánh ngân hàng Công thương Hai Bà Trưng là Chi nhánh khá lớn mạnh
với số lượng cán bộ công nhân viên hơn 300 người, trong đó hơn 60% có trình độ
cao đẳng, đại học và trên đại học. Về cơ cấu tổ chức: Ngoài một giám đốc và 4
phó giám đốc Ngân hàng còn có 8 phòng chức năng


Phòng kinh doanh đối nội: Gồm có tổ cho vay quốc doanh, tổ cho vay ngoài
quốc doanh và các tổ cho vay tại các phường hoạt động chủ yếu của phòng này là
cho vay, tiến hành các hoạt động tiếp thị, tổng hợp thông tin và báo cáo
Phòng kinh doanh đối ngoại: Thực hiện nhiệm vụ thanh toán quốc tế bằng
các hình thức như: Mở L/C, thông báo L/C, nhờ thu, lập bộ chứng từ với những
đơi vị suất nhập khẩu, kinh doanh thu đổi ngoại tệ trên cơ sở tỷ giá chính thức
của Ngân hàng Nhà Nước công bố và biên độ cho phép và cung cấp các dịch vụ
khác như: Chi trả kiều hối, thanh toán thẻ tín dụng...
Phòng kế toán tài chính: Làm nhiệm vụ kế toán Ngân hàng, hạch toán tiền
gửi, tiền vay, thanh toán chuyển tiền, chuyển khoản giữa các Ngân hàng trong
cùng và khác hệ thống, quản lý tài khoản của khác hàng.
Phòng ngân quỹ: Có chức năng chủ yếu là thu chi tiền mặt, ngân phiếu đáp
ứng nhu cầu tiền mặt cho Ngân hàng, đảm bảo an toàn kho qũy.
Phòng nguồn vốn: Có nhiệm vụ chủ yếu là nhận tiền gửi tiết kiệm không kỳ
hạn, có kỳ hạn, phát hành kỳ phiếu, trái phiếu theo chỉ định của Ngân hàng Công
thương Việt Nam, chịu trách nhiệm về công tác huy động vốn của Ngân hàng.
Phòng kiểm soát: Có chức năng kiểm tra, giám soát toàn bộ nghiệp vụ và
hoạt động kinh doanh của Chi nhánh trong việc thực thi các quy định, quy chế
của Nhà Nước, của Ngân hàng cấp trên.
Phòng hành chính tổ chức: Có nhiệm vụ bố trí sắp xếp nhân lực, tiếp nhận
và tổ chức đào tạo cán bộ cho Ngân hàng.
Phòng giao dịch: Được thành lập với mục đích mở rông hoạt động kinh
doanh của Chi nhánh trên trên địa bàn, thực hiện hoạt động tín dụng, thu chi tiền
mặt.
Ngoài trụ sở chính ở 306 Bà Triệu Ngân hàng còn bố trí 9 quỹ tiết kiệm và
một số địa điểm cho vay kinh tế ngoài quốc doanh tại các phường trên địa bàn
quận nhằm đáp ứng nhu cấu huy động vốn và cho vay các cá nhân, tổ chức kinh
tế trên địa bàn quận Hai Bà Trưng cũng như ở mọt số quận khác.
3.Tình hình hoạt động kinh doanh của ngân hàng Công thương Hai Bà
Trưng

a. Tình hình huy động vốn.
Nhìn chung nguồn vốn huy động Chi nhánh tăng đều qua các năm 1996, 1997,
1998
Ngân hàng, mở rộng mạnh lưới giao dịch tăng cường mối quan hệ với khách
hành. Cụ thể như sau:
Về nguồn tiền gửi của các tổ chức kinh tế: Trong thời gian qua Chi nhánh đã
không ngừng tăng cường công tác tiếp thị, thực hiện tốt chiến lược khách hàng để
thu hút và giữ vững các doanh nghiệp có số lượng tiền gửi lớn nhằm không
ngừng tăng cường nguồn tiền này cả VND và ngoại tệ bảo đảm nguồn này tăng
đều qua các năm.
Về nguồn tiền gửi tiết kiệm: Đây là nguồn quan trọng nhất trong các nguồn
của Ngân hàng và thường chiếm tỷ trọng cao
Cân đối của tổng nguồn so với sử dụng cho vay tại cơ sở, ở Ngân hàng công
thương Hai Bà Trưng thường thuộc loại thừa vốn cho nên có khả năng tham gia
vào hoạt động điều hoà và cân đối vốn trong toàn hệ thống Ngân hàng Công
thương.
b.Tình hình sử dụng vốn của ngân hàng Công thương Hai Bà Trưng
Hình thức sử dụng vốn của ngân hàng Công thương Hai Bà Trưng khá phong
phú và đa dạng bao gồm: Cho vay ngắn hạn, cho vay trung và dài hạn, tín dụng
thuê mua và liên doanh , cho vay tài trợ uỷ thác... Để nâng cao hiệu quả tín dụng,
Ngân hàng đã không ngừng tăng cường trách nhiệm khi phát tiền vay để thu hồi
đúng thời hạn, hạn chế nợ quá hạn...
Ngân hàng đã áp dụng cơ chế cho vay linh hoạt, đầu tư khách hàng đúng hướng
cụ thể như:
Ngân hàng đã lựa chọn những khách hàng sản xuất kinh doanh có uy tín, có
khả năng tài chính vững mạnh, lựa chọn những ngành, những mặt hàng mũi
nhọn, các công trình trọng điểm của Nhà Nước.
Ngân hàng ưu tiên đầu tư cho các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu.
Mở rộng địa bàn hoạt động không chỉ trong quận Ba Đình mà còn tới các
khách hàng ở các vùng khác.

Ngân hàng bám sát các doanh nghiệp vừa và nhỏ xem xét, đầu tư vốn hợp
lý giúp doanh nghiệp từng bước ổn định sản xuất kinh doanh.
Quan tâm đầu tư tín dụng đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh...
Biểu 3: Tình hình sử dụng vốn phân theo thành phần kinh tế tại ngân hàng
Công thương Hai Bà Trưng
Biểu 3: TÌNH HÌNH SỬ DỤNG VỐN PHÂN THEO THÀNH PHẦN KINH
TẾ TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG HAI BÀ TRƯNG
Chỉ tiêu
31/12/1996 31/12/1997 31/12/1998 1997
so
với
1996
(%)
1998
so với
1997
(%)
Số
tuyệt
đối
(tr đ)
%
Số
tuyệt
đối
(tr đ)
%
Số
tuyệt
đối

(tr đ)
%
Tổng dư nợ 489580 100 555998 100 551735 100 113.5 99.2
Dư nợ NH 408923 83.5 455634 81.9 443144 80.3 111.4 97.2
+QD 394230 80.5 450502 81.0 437973 79.4 114.2 97.2
+NQD 14693 3.0 5132 0.9 5171 0.9 35.0 100.7
Dư nợ
TDH
80657 16.5 100364 18.1 108591 19.7 124.4 108.1
+QD 64805 13.2 87557 15.7 99346 18.0 135.1 113.5
+NQD 15852 3.3 12807 2.4 9245 1.7 80.8 78.2
Chú thích:
( QD : kinh tế quốc doanh
NQD: kinh tế ngoài quốc doanh)
Ngoài các hoạt động tín dụng, Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng còn
thực hiện nhiều hoạt động đầu tư khác như: Tín dụng thuê mua và liên doanh, cho
vay tài trợ uỷ thác của các tổ chức tín dụng nước ngoài như: Ngân hàng tái thiết
và phát triển Đức.. . Đã được ngân hàng Công thương Hai Bà Trưng triển khai
kịp thời theo hợp đồng đã ký kết. Cuối năm 1998 dư nợ tín dụng Đài Loan là:
12460 tr đồng, cho vay EU, Việt Đức là: 155 tr đ
Tuy còn một số hạn chế song những kết quả trên đây đã chứng tỏ rằng Ngân
hàng công thương Hai Bà Trưng đã và đang phát triển trên mọi lĩnh vực, mọi
phương diện. Không ngừng tăng trưởng nguồn vốn phục vụ sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp, chiến lược phát triển kinh tế của đảng và Nhà Nước.
II. TÌNH HÌNH CHO VAY TRUNG VÀ DÀI HẠN TẠI NGÂN HÀNG
CÔNG THƯƠNG HAI BÀ TRƯNG.
1. Tình hình cho vay trung và dài hạn.
Trong những năm qua ( kể từ năm 1996 -1998 ) cho vay và đầu tư của chi
nhánh đã bám sát được mục tiêu chung của Ngân Hàng Công Thương Việt Nam
và phù hợp với tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế trên địa bàn. Với quan điểm

“Đầu tư theo chiều sâu cho doanh nhiệp chính là đầu tư cho tương lai của Ngân
hàng “ ngân hàng công thương Hai Bà Trưng đã chủ động khai thác bổ xung các
nguồn vốn trung - dài hạn bằng VND và ngoại tệ với lãi suất hợp lý để đáp ứng
nhu cầu phát triển công nghiệp theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá đất
nước , bám sát kế hoạch phát triển của đất nước.
Ngân hàng đã tập trung vào các dự án mua sắm máy móc, thiết bị, công nghệ
tiên tiế, xây dựng cơ sở sản xuất kinh doanh mới, cải tạo, mở rộng đầu tư theo
chiều sâu... Những kết quả đó được thể hiện cụ thể như sau: Căn cứ vào biểu 4 “
Tình hình cho vay trung và dài hạn tại Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng “ ta
thấy: Năm 1996 dư nợ cho vay trung và dài hạn bình quân cả năm đạt: 73537
triệu đồng chiếm 16.5% ttổng dư nợ cho vay bình quân. Nếu xét số dư ngày
31/12/1996 thì dư nợ cho vay trung và dài hạn đạt: 80657 triệu đồng và chiếm
16.5% tổng dư nợ cho vay cùng thời điểm. Sang năm 1997 tổng dư nợ cho vay
trung và dài hạn bình quân cả năm là: 89101 triệu đồng, tăng 21.1% so với bình
quân năm 1996 tương đương chiếm 18.4% tổng dư nợ cho vay bình quân. Tính
đến 31/12/1997 dư nợ cho vay trung và dài hạn đạt: 100306 triệu đồng tăng 24.4
% so với 31/12/1996 và chiếm 18.1% tổng dư nợ cho vay. Đến năm 1998 nếu
xem xét tổng quan thì cho vay trung và dài hạn không có biến động lớ, dư nợ cho
vay bình quân cả năm đạt:1045213 triệu đồng tăng 17.3% so với năm 1997, nếu
tính số dư thời điểm (31/12/1998) thì đạt 108591 triệu đồng và tăng 8.2% so với
năm 31/121997 và chiếm 19.68% so với tổng dư nợ. Trong năm 1998 do bị ảnh
hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế cho nên ít nhiều ảnh hưởng đến hoạt động
của chi nhánh. Các chỉ tiêu tổng quan về cho vay trung và dài hạn (như đã phân
tích ở trên) tuy rằng có tăng trưởng so với năm 1997 nhưng tốc độ tăng lại có su
hướng giảm (Dư nợ trung dài hạn năm 1997 tăng 24.4% so với năm 1996 nhưng
trong năm 1998 tốc độ tăng này chỉ đạt 8.2%).
Với số lượng dư nợ cho vay trung dài hạn lớn như vậy ngân hàng công
thương Hai Bà Trưng đã góp phần không nhỏ vào đổi mới công nghệ, tăng năng
lực sản xuất kinh doanh theo hướng hiện đại hoá công nghệ sản xuất đặc biệt
trong các tổng công ty xây dựng , bộ giao thông vận tải, bộ xây dựng ... Để xây

dựng các cỏ sở hạ tầng cho đất nước, đầu tư năng lực sản suất cho các doanh
nghiệp nâng cao chất lượng hàng hoá, tăng doanh số hàng suất khẩu trong các
doanh nghiệp doanh nghiệp thuộc nghành chế biến...
Nếu xem xét tình hình cho vay trung và dài hạn theo VND và ngoại tệ ta
thấy: Dư nợ ngoại tệ chiếm tỷ trọng tương đối cao trong tổng dư nợ cho vay
trung dài hạn. Trong năm 1996 tỷ lệ cho vay trung và dài hạn bằng ngoại tệ
chiếm: 60% tổng cho vay trung và dài hạn và bằng 37.2% tổng dư nợ bằng ngoại
tệ (cả ngắn hạn và trung dài hạn). Sang năm 1997 dư nợ cho vay trung dài hạn
bằn ngoại tệ đạt 47361 triệu đồng và chỉ bằng 97.7% so với năm 1996 và chiếm
tỷ trọng 47.2% trên tổng dư nợ cho vay trung và dài hạn (bằng 45.2% tổng dư nợ
cho vay bằng ngoại tệ của chi nhánh).Trong năm 1998 tổng dư nợ cho vay trung
và dài hạn bằng ngoại tệ tiếp tục giảm sút, tính đến 31/12/1998 dư nợ trung dài
hạn bằng ngoại tệ là: 400897 triệu đồng và bằng 84.6% so với cùng kỳ năm
1997. Và tỷ trọng trên tổng dư nợ trung dài hạn cũng giảm so với năm 1997 (năm
1998 chỉ đạt 36.9%). Sở dĩ có tình trạnh giảm sút đối với cho vay trung dài hạn
bằng ngoại tệ là vì vào cuối năm 1997, đầu năm 1998 do ảnh hưởng của cuộc
khủng hoảng tiền tệ ở Đông Nam á dẫn đến sự phá giá của hàng loạt đồng tiền
trong khu vực trong đó có đồng VND. Tỷ giá USD/VND tăng mạnh, dẫn đến tình
trạng các doanh nghiệp không muốn vay băng ngoại tệ (chủ yếu là bằng đồng
USD) bởi vì nếu vay bằng ngoại tệ trong điều kiện không ổn định nói trên thì các
doanh nghiệp chịu rủi ro về tỷ giá (mặc dù lãi suất cho vay bằng ngoại tệ thường
nhỏ hơn đối với lãi suất cho vay bằng VND khoảng 7.5% / năm đối với USD).
Một nguyên nhân nữa dẫn đến tình trạng trên là do sự điều chỉnh lãi suất cho vay
bằng ngoại tệ tăng (theo chủ trương của Ngân hàng Nhà nước là “từng bước điều
chỉnh lãi suất cho vay VND bằng với lãi suất cho vay bằng ngoại tệ”).
Cũng như tình hình chung của cho vay trung dài hạn thì cho vay bằng ngoại
tệ trung dài hạn cũng chủ yếu tập trung vào các doanh nghiệp quốc doanh và
thường chiếm tỷ trọng khá cao. Trong năm 1996tỷ lệ này là: 83.3%, năm 1997 là:
84.3% Và năm 1998 là 84.2%.
Nếu phân chia tình hình cho vay trung và dài hạn tại ngân hàng công thương

Hai Bà Trưng theo thành phần kinh tế thì ta thấy xu thế chung là chi nhánh chủ
yếu tập trung vào thành phần kinh tế quốc doanh, khu vực kinh tế ngoài quốc
doanh vẫn còn bị xem nhẹ. Căn cứ vào biểu 4 “Tình hình cho vay trung và dài
hạn tại Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng” ta có thể phân tích cụ thể như sau:
Năm 1996 dư nợ cho vay trung và dài hạh khu vực kinh tế quốc doanh đạt
64805 triệu đồng chiếm 13.2% trên tổng dư nợ cho vay (tương đương chiếm 80%
trên tổng dư nợ cho vay trung và dài hạn ). Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh chỉ
chiếm 3.3% trên tổng dư nợ cho vay (tương đương chiếm 20% trên tổng dư nợ
cho vay trung và dài hạn).Tính đến 31/12/1997 dư nợ cho vay trung dài hạn đối
với khu vực kinh tế quốc doanh đạt: 87557 triệu đồng tăng 35% so với năm 1996
(với số tuyệt đối tăng:22752 triệu đồng ) chiếm tỷ trọng 15.7%trên tổng dư nợ
(tương đương chiếm 87% trên tổng dư nợ cho vay trung và dài hạn). Còn lại dư
nợ cho vay trung dài hạn khu vực kinh tế ngoài quốc doanh chỉ chiếm 2.4% trên
tổng dư nợ (tương đương 13% dư nợ trung dài hạn). Do việc cho vay trung dài
hạn đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh có phần không được an toàn so với
khu vực quốc doanh, hơn nữa trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh vốn tự
có thường thấp, khả năng quản lý kinh doanh yếu kém và đặc biệt là thiếu các các
dự án đầu tư theo chiều sâu nên doanh số cho vay trung dài hạn đối với khu vực
kinh tế này tại Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng có su hướng giảm sút. Kể
cả trong năm 1998 tình hình này vẫn chưa được cải thiện, tính đến 31/12/1998
tổng dư nợ cho vay trung dài hạn khu vực quốc doanh là: 9346 triệu đồng chiếm
tỷ lệ 18% trên tổng dư nợ cho vay (tương đương chiếm: 91.4% tren tổng dư nợ
cho vay trung và dài hạn), khu vực kinh tế ngoài quốc doanh có tổng doanh số dư
nợ: 9245 triệu đồng giảm 38.8% so với năm 1997 và chỉ chiếm 1.7% trên tổng dư
nợ cho vay. Sự hạn chế trong cho vay trung dài hạn đối với khu vực kinh tế ngoài
quốc doanh này cần từng bước được khắc phục.
BIỂU 5:CƠ CẤU CHO VAY TRUNG VÀ DÀI HẠN THEO THÀNH PHẦN
KINH TẾ TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG HAI BÀ TRƯNG
Chỉ
Tiêu

31/12/1996 31/12/1997 31/12/1998
Số tiền
(tr đ)
Tỷ trọng
(%)
SốTiền
(tr đ)
Tỷ trọng
(%)
Số tiền
(tr đ)
Tỷ trọng
(%)
Tổng 80657 100.0 100306 100.0 108591 100.0
-QD 64805 80.3 87557 87.3 99396 91.5
-NQN 15852 19.7 12807 12.7 9245 8.5
Qua biểu 5: “Chi tiết về cho vay trung dài hạn theo các thành phần kinh tế”
Ta thấy các ngành có quan hệ vay vốn trung dài hạn tại ngân hàng công thương
Hai Bà Trưng chủ yếu là các ngành xây dựng, ngành giao thông vận tải, ngành
công nghiệp chế biến, khách sạn nhà hàng... Sở dĩ có đặc trưng như vậy một phần
là do địa bàn quận Hai Bà Trưng chủ yếu tập trung các tổng công ty, các doanh
nghiệp hoạt động theo các lĩnh vực trên là chủ yếu. Còn lại một số ngành khác
như ngành lâm nghiệp, mặc dù tổng công ty Vi Na cà phê là một trong những
khách hàng lớn nhất của Ngân hàng với mức dư nợ thường xuyên khoảnh 100 tỷ
đồng nhưng lại không có nhu cầu vay vốn trung dài hạn mà chỉ vay vốn ngắn
hạn. Có thể còn do nhiều yếu tố mà Ngân hàng và khách hàng còn chưa gặp nhau
trong việc cho vay trung và dài hạn nhưng qua phân tích ta thấy tình hình cho vay
trung và dài hạn tại chi nhánh là rất đa dạng và phong phú.
Để nghiên cứu kỹ hơn về tình hình cho vay trung và dài hạn tại ngân hàng
công thương Hai Bà Trưng ta tiến hành phân tích quan hệ cho vay trung dài hạn

của chi nhánh với từng ngành kinh tế :
+Ngành giao thông vận tải: Có mức dư nợ năm 1996 là 21139 triệu đồng
chiếm tỷ trọng 26.2% , năm 1997 dư nợ : 34751 triệu đồng tăng 64% so với năm
1996, chiếm tỷ trọng 34.6% và tính đến 31/12/1998 tổng dư nợ ngành này là:
36319 triệu đồng, tăng 4.5%, chiếm tỷ trọng 33.5%. Mặc dù trong năm 1998 tốc
độ tăng dư nợ ngành này có chậm lại nhưng nhìn chung thông qua số liệu trên ta
thấy mức đầu tư trung dài hạn cho ngành giao thông vận tải của Ngân hàng công
thương Hai Bà Trưng tăng đáng kể trong thời gian gần đây. Nguyên nhân chính là
do đây là ngành tập trung chủ yếu các dự án đầu tư máy móc, thiết bị để tăng
năng suất và chất lượng thi công các công trình thuộc chiến lược phát triển hệ
thống cơ sở hạ tầng của đất nước. Trong năm1998 Ngân hàng đã tiến hành đầu tư
mới hàng loạt các dự án với số lượng vốn khoảng 20 tỷ VND và 700.000 USD
cho ngành giao thông vận tải để mua sắm các thiết bị thi công như: Cần cẩu, máy
xúc, trạm trộn bê tông, các phương tiện vận tải... Cho các tổng công ty như: Tổng
công ty xây dựng đường thuỷ, tổng công ty xây dựng công thình 1, các công ty
trực thuộc tổng công ty cầu Thăng Long... Để thi công các công trình phát triển
giao thông đường bộ, xây dựng các cầu trên quốc lộ 1A...
+Ngành xây dựng: Năm 1996 dư nợ đạt 21186 triệu đồng chiếm 26.3% tổng
dư nợ trung dài hạn, năm 1997 đạt 8405 triệu đồng, giảm 60.3% so với năm 1996
và chiếm tỷ trọng 8,3%. Sang năm 1998 dư nợ đối với ngành xây dựng chỉ còn:
2812 triệu đồng tức giảm 66.5% so với năm 1997 và chiếm 2.6%. Qua số liệu
trên ta thấy được sự giảm sút nhanh chóng trong dư nợ của ngành này từ 21186
triệu đồng (năm 1996) xuống còn 2812 triệu đồng (năm 1998). Nguyên nhân chủ
yếu của tình trạng này là do đặc điểm hoạt động của ngành chủ yếu cần vốn lưu
động để mua sắm nguyên vật liệu, chi phí nhân công đến khi công trình bàn giao
họ có thể hoàn vốn lại cho Ngân hàng ngay vì vậy họ chủ yếu có nhu cầu vay vốn
ngắn hạn. Bên cạnh đó sau một thời gian tăng nhanh chóng các công trình xây
dựng đến nay số lượng các công trình xây dựng giảm đi một cách nhanh chóng
do những biến động về kinh tế xã hội, các doanh nghiệp này hiện nay gặp rất
nhều khó khăn do chính phủ chưa phê duyệt các dự án xây dựng lớn, cũng như kế

hoạch quy hoạch tổng thể đến năm 2010. Tính đến nay chỉ còn ba doanh nghiệp
còn dư nợ trên tài khoản đó là: Tổng công ty xây dựng Hà Nội dư nợ:450 triệu
đồng, Công ty xây dựng số 1 dư nợ: 787 triệu đồng, công ty xây dựng số 4 dư nợ:
1575 triệu đồng.
+Ngành công nghiệp: Năm 1996 dư nợ 10320 triệu đồng chiếm13%, năm
1997 dư nợ: 39806 triệu đồng tăng 3.85 lần so với năm 1996 và chiếm:39.6%,đến
năm 1998 doanh nghiệp đạt 53680 triệu đồng tăng 1.34 lần so với năm 1997 và
chiếm tỷ trọng 49.4%. Như vậy ta thấy có một sự tăng trưởng đáng kể trong dư
nợ cho vay trung và dài hạn trung dài hạn đối với ngành công nghiệp, sự tăng
trưởng trên là do trong thời gian qua ngân hàng công thương Hai Bà Trưng đã
chú trọng đến việc đầu tư cho các doanh nghiệp thuộc ngành công nghiệp chế
biến hàng xuất khẩu như: Công ty may Chiến Thắng, công ty gốm Hữu Hưng...
Để đầu tư mua sắm các trang thiết bị sản xuất nhằm nâng cao chất lượng, tăng
khả năng cạnh tranh trên thị trường và nước ngoài đối với các mặt hàng xuất
khẩu.
*Về quan hệ giữa cho vay và thu nợ: Xem xét cụ thể biểu 7: “Tình hình cho
vay và thu nợ trung dài hạn tại Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng” ta thấy:
Trong năm 1996 doanh số cho vay trung dài hạn đạt: 58320 triệu đồng, trong đó
kinh tế quốc doanh chiếm 97.9%. doanh số thu nợ trung dài hạn trong năm đạt:
37664 triệu đồng và cũng như cho vay thu nợ trung dài hạn chỉ tập trung vào khu
vực kinh tế quốc doanh. Sang năm 1997mặc dù dư nợ trung dài hạn tăng nhưng
doanh số cho vay và thu nợ bị giảm cụ thể: Doanh số cho vay trung dài hạn chỉ
bằng 94% so với năm 1997, doanh số thu nợ chỉ bằng 92% so với năm 1997. Tuy
nhiên tính đến năm 1998 thì tình hình lại có chuyển biến ngược lại:Doanh số cho
vay trung và dài hạn58057 triệu đồng tăng 6% so với năm 1997, doanh số thu nợ
trung dài hạn đạt 49706 triệu đồng tăng 43% so với 1997. Trong đó cũng chủ yếu
là cho vay và thu nợ đối với khu vực kinh tế quốc doanh. Qua phân tích trên đây
ta thấy mặc dù có giảm về doanh số cho vay và thu nợ trong năm 1997 nhưng
sang năm 1998 lại tăng chứng tỏ tình hình cho vay và thu nợ của chi nhánh đang
phát triển theo chiều hướng tốt. Nhìn chung doanh số cho vay và thu nợ trong các

năm là khá cân bằng.
2. Tình hình nợ quá hạn tại chi nhánh.
Nhìn chung tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ của cho vay là tương đối thấp
cụ thể như sau: Đến 31/12/1997 tổng nợ quá hạn 18488 triệu đồng và chiếm tỷ lệ
3.32% trên tổng dư nợ. Sang đấu năm 1998 do ảnh hưởng biến động nhỏ của nền
kinh tế dẫn đến nợ quá hạn có tăng, tính đến 30/6/1998 tổng dư nợ quá hạn là:
20403 triệu đồng với tỷ lệ 3.55% trên tổng dư nợ. Tuy nhiên vào những tháng
cuối năm tình hình có chuyển biến ngược lại. Tính đến31/12/1998 tổng dư nợ quá
hạn giảm xuống còn 15286 triệu đồng và với tỷ lệ 1.81% trên tổng dư nợ cho vay.
Nếu so sánh với tỷ lệ nợ quá hạn của các Ngân hàng nói chung (thường tỷ lệ này
khoảng 5%) thì đối với chi nhánh vấn đề nợ quá hạn có thể chấp nhận được. Có
được những kết quả như trên một phần là nhờ vào việc các cán bộ tín dụng luôn
bám sát khách hàng vay vốn tạo điều kịên cho các khoản vay được sử dụng đúng
mục đích, có hiệu quả cao, các khoản vay đến thời gian thu hồi đều được các cán
bộ tín dụng theo dõi sát sao, có nhiều hình thức đôn đốc đơn vị vay trả nợ kịp
thời và có được những kết quả như vậy là nhờ vào việc chi nhánh có được số
lượng khách hàng có tình hình tài chính lành mạnh, có uy tín và đặc biệt là có
quan hệ lâu dài với Ngân hàng nhìn chung việc thu hồi vốn đều được tiến hành
nhanh, thuận lợi đảm bảo an toàn vốn.
“Tình hình nợ quá hạn tại Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng.” Ta thấy
dư nợ quá hạn ở khu vực kinh tế ngoài quốc doanh là rất lớn trong tổng dư nợ
quá hạn tính đến cuối năm 1997là: 4785 triệu đồng chiếm gần 30% tổng dư nợ
quá hạn. Trong khi đó mức dư nợ đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh cùng
thời gian đó chỉ chiếm khoảnh 32% trên tổng dư nợ. Chính vì tình trạng trên mà
Ngân hàng có su hướng giảm cho vay đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh
nhờ đó mà nợ quá hạn đã giảm xuống đáng kể đối với khu vực ngoài quốc doanh
vào cuối năm 1998 và đầu năm 1999. Đến 31/12/1998 tổng nợ quá hạn khu vực
kinh tế ngoài quốc doanh giảm xuống còn 3216 triệu đồng chiếm 26.2% tổng dư
nợ quá hạn và với tỷ tệ 22.2% trên tổng dư nợ ngoài quốc doanh. Đến 31/03/1999
nợ quá hạn khu vực này còn 3061 triệu đồng chiếm tỷ lệ 22.1% trên tổng dư nợ

khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.
Qua phân tích trên đây ta thấy trên thực tế nợ quá hạn khu vực kinh tế ngoài
quốc doanh có giảm nhưng thực chất lại là do doanh số cho vay của khu vực này
giảm. Chính vì vậy nếu so sánh tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ của kinh tế ngoài
quốc doanh thì ta thấy tỷ lệ này không hề giảm thậm chí còn tăng và tỷ lệ này còn
quá cao. Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng thu hẹp
cho vay đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh của ngân hàng công thương
Hai Bà Trưng.
Vấn đề đặt ra cho chi nhánh trong thời gian tới không những phải nâng dần
doanh số cho vay với khu vực ngoài quốc doanh mà còn phải hạ thấp dần tỷ trọng
nợ quá hạn của khu vực này tạo ra sự cân bằng giữa các thành phần kinh tế trong
việc đầu tư tín dụng của chi nhánh.
Khu vực kinh tế quốc doanh tuy rằng tỷ trọng nợ quá hạn so với tổng dư nợ
thấp nhưng mức dư nợ nợ quá hạn không phải là nhỏ cụ thể như sau: Vào thời
điểm cuối năm 1997nợ quá hạn là: 13703 triệu đồng, sang năm 1998 vào những
tháng đầu năm mức dư nợ quá hạn có tăng nhưng lai giảm vào những tháng cuối
năm và đến 31/12/1998 tổng dư nợ quá hạn đối với khu vực kinh tế quốc doanh
là:12052 triệu đồng chiếm tỷ trọng 2.24% trên tổng dư nợ khu vực quốc doanh,
đến 31/03/1999 còn tiếp tục giảm và chỉ còn: 7084 triệu đồng chiếm tỷ trọng
1.3% trên tổng dư nợ khu vực kinh tế quốc doanh. Nhìn chung các doanh nghiệp
quốc doanh có tình hình tài chính lành mạnh, sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
Tuy nhiên các doanh nghiệp này thường vay với số tiền lớn nên khi gặp rủi ro bất
khả kháng thì dư nợ quá hạn của kinh tế quốc doanh sẽ làm tăng nhanh chóng dư
nợ quá hạn của toàn chi nhánh.
BIỂU PHÂN TÍCH NỢ QUÁ HẠN THEO KỲ HẠN NỢ TẠI NGÂN HÀNG
CÔNG THƯƠNG HAI BÀ TRƯNG
Chỉ tiêu 12/1998 01/1999 02/1999 03/1999
Tổng dư nợ 551735 531909 563808 558480
-Trong đó NQH (tr đ) 15268 11454 9759 10145
-Tỷ lệ (%) 2.76 2.15 1.73 1.80

Phân theo kỳ hạn nợ
1.Cho vay ngắn hạn
 Tổng dư nợ (tr đ) 443144 424067 45808 445997
-Trong đó NQH (tr đ) 13042 9311 7521 7904
-Tỷ lệ (%) 2.90 2.19 1.64 1.77
+NQH < 6 tháng 0 2283 494 878
+NQH 6T - 12T 3850 7 7 7
+NQH > 12 T 9192 7021 7020 7019
2.Cho vay trung dài hạn
 Tổng dư nợ (tr đ) 108591 107542 107000 112463
-Trong đó NQH (tr đ) 2117 2034 2129 2132
-Tỷ lệ (%) 1.95 1.88 1.98 1.90
+NQH < 6T 1177 659 1879 757
+NQH 6T - 12T 285 250 250 250
+NQH > 12 T 655 1125 0 1125
3. Cho vay khác
Nợ quá hạn (tr đ) 109 109 109 109
III. ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ TÍN DỤNG TRUNG DÀI HẠN TẠI
NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG HAI BÀ TRƯNG
Như đã đề cặp đến khái niệm và các chỉ tiêu đánh giá cho vay trung và dài
hạn ở chương I. Vì vậy để xem xét hiệu quả cho vay trung dài hạn tại ngân hàng
công thương Hai Bà Trưng chúng ta sẽ dựa trên các chỉ tiêu đó để đánh giá những
kết quả và những tồn tại.

×