Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

SKKN một số kinh nghiệm dạy phân môn chính tả lớp 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.41 MB, 23 trang )

Một số kinh nghiệm dạy phân môn Chính tả lớp 1

MỤC LỤC
PHẦN I: MỞ ĐẦU
I.

Lí do chọn đề tài.

II. Mục đích nghiên cứu.
III. Đối tượng nghiên cứu.
IV. Đối tượng khảo sát thực nghiệm.
V. Nhiệm vụ nghiên cứu
VI. Kế hoạch nghiên cứu
VII. Phương pháp nghiên cứu
PHẦN II: NỘI DUNG
I. Cơ sở lí luận.
II. Cơ sở thực tiễn.
III. Một số biện pháp cụ thể:
1.Luyện phát âm:
2. Giúp học sinh hiểu nghĩa của từ - ghi nhớ từ:
3. Dạy học sinh viết - trình bày bài chính tả:
3.1. Tập chép và viết chính tả.
3.2.Hướng dẫn trình bày bài chính tả.
4. Dạy theo nhóm đối tượng học sinh, kết hợp sử dụng một số
“mẹo luật” chính tả.
5. Dạy chính tả theo nguyên tắc tích hợp.
6. Chú ý tư thế ngồi viết và cách cầm bút.
7. Đổi mới phương pháp dạy học:
8. Thi đua – khen thưởng:
9. Phối hợp chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường:
IV. Kết quả đạt được:



2
3
3
3
3
3
3
4
4
7
7
7
8
8
9

11
14
15
16
17
18
19

PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận:
2. Bài học kinh nghiệm:
3. Đề xuất – khuyến nghị:


20
20
21

1


Một số kinh nghiệm dạy phân môn Chính tả lớp 1

PHẦN I: MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài
Giáo dục là nền tảng của sự phát triển con người về mọi mặt. Thời gian
qua giáo viên là những người cố gắng hết sức trong sự nghiệp giáo dục thế hệ
trẻ. Nhờ đó mà ngành giáo dục đã đạt được những thành tích đáng kể. Những
người làm giáo dục phải có lòng nhiệt huyết với nghề. Ngoài việc rèn luyện
phẩm chất đạo đức, tác phong, giáo viên còn có nhiệm vụ không kém phần quan
trọng đó là không ngừng học hỏi và nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
Giáo viên luôn là chiếc cầu nối cho học sinh nắm bắt được kiến thức cơ bản
về con người, tự nhiên, xã hội… và một số kĩ năng cơ bản: nghe, nói, đọc, viết,
của Tiếng việt, là một trong những mảng kiến thức quan trọng ấy. Đọc - viết,
nghe - viết là những kĩ năng đặc trưng của phân môn Chính tả là một trong
những vấn đề đang được quan tâm nhằm nâng cao chất lượng của môn Tiếng
Việt trong nhà trường.
Chính tả là một trong những phân môn Tiếng Việt ở tiểu học. Phân môn
Chính tả trong nhà trường giúp học sinh hình thành thói quen viết đúng chính tả.
Đây là phân môn mang đậm dấu ấn truyền thống của việc dạy và học Tiếng
Việt. Vì tôi đã tìm hiểu và nhận thấy những điểm mới, điểm nổi trội trong nội
dung và phương pháp dạy học phân môn này để có những cách tiếp cận và
chuyển tải phù hợp hơn đến các đối tượng học sinh, nhằm đạt được hiệu quả tốt
trong việc hình hành kĩ năng nghe – viết cho cơ cấu chương trình môn Tiếng

Việt nói riêng, các môn học ở trường phổ thông nói chung.
Muốn đọc thông viết thạo, học sinh phải được học phân môn chính tả.
Chính tả là phân môn có tính chất công cụ. Nó có vị trí quan trọng trong giai
đoạn học tập đầu tiên của học sinh. Nó cũng có ý nghĩa quan trọng đối với việc
học tập Tiếng Việt. Ngoài ra, phân môn Chính tả còn rèn luyện cho học sinh một
số phẩm chất như: Tính cẩn thận, óc thẩm mĩ, bồi dưỡng cho học sinh lòng yêu
quý Tiếng Việt và chữ Tiếng Việt.
Ở bậc tiểu học, phân môn Chính tả có vị trí vô cùng quan trọng. Vì học
sinh Lớp 1 là giai đoạn đầu cấp và cũng là giai đoạn then chốt trong quá trình
hình thành khả năng chính tả cho học sinh. Không phải ngẫu nhiên mà ở bậc
tiểu học học chính tả còn được bố trí thành một phân môn độc lập (thuộc môn
Tiếng Việt) có tiết dạy riêng. Giống như các phân môn khác, tính nổi bật của
môn Chính tả là tính thực hành, chỉ có thể hình thành các kỹ năng, kỹ xảo cho
học sinh thông qua việc thực hành và luyện tập.
Đối với học sinh Lớp 1 khi học phân môn Chính tả sẽ gặp những khó khăn
nhất định. Vì các em là lứa tuổi đầu tiên phải làm quen với môn học này một
cách mới lạ, bỡ ngỡ. Nó đòi hỏi các em phải có trí tư duy về nhiều mặt đối với
những bài chính tả nghe/ viết vừa phải nghe bằng tai và viết thành chữ cho
đúng. Điều mà tôi băn khoăn lo lắng là làm thế nào để tiết dạy không còn nhàm
chán giữa thầy, trò để đạt kết quả cao.
Trong quá trình giảng dạy tôi cũng đã tích luỹ được một số kinh nghiệm để
dạy tốt phân môn Chính tả. Trong phạm vi bài viết này, tôi xin giới thiệu “Một
số kinh nghiệm dạy phân môn Chính tả lớp 1” để bạn bè đồng nghiệp cùng
tham khảo.
2


Một số kinh nghiệm dạy phân môn Chính tả lớp 1
II. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu, tìm tòi 1 số biện pháp hướng dẫn học sinh viết đúng chính tả

trong các tiết học.
III. Đối tượng nghiên cứu
Các biện pháp giúp học sinh lớp 1 viết đúng chính tả.
IV. Đối tượng khảo sát thực nghiệm
Học sinh lớp 1`
V. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm sáng tỏ cơ sở lí luận, cơ sở thực tiễn về việc dạy chính tả ở lớp 1.
- Tìm hiểu nội dung, phương pháp, thực trạng dạy và học các bài chính tả lớp 1
ở trường đang giảng dạy.
- Đề xuất và thử nghiệm các biện pháp viết đúng chính tả để học sinh lớp 1
học tốt phân môn chính tả lớp 1.
- Trên cơ sở đó rút ra kết luận và khuyến nghị cần thiết.
VI. Kế hoạch nghiên cứu
Từ tháng 9 năm 2017 đến tháng 4 năm 2018.
VII. Phương pháp nghiên cứu
1. Đọc sách giáo khoa, tài liệu tham khảo
2. Dự giờ đồng nghiệp
3. Phương pháp điều tra
4. Phương pháp khảo sát
5. Phương pháp đàm thoại
6. Phương pháp dạy thực nghiệm
7. Phương pháp tổng hợp kinh nghiệm
8. Phương pháp thống kê tính toán
9. Phương pháp đối chiếu, so sánh

3


Một số kinh nghiệm dạy phân môn Chính tả lớp 1


PHẦN II: NỘI DUNG
I. Cơ sở lí luận
Mỗi dân tộc, mỗi quốc gia đều có một ngôn ngữ riêng, một tiếng nói riêng.
Tiếng Việt là ngôn ngữ được thống nhất trên toàn đất nước ta. Để giữ gìn và phát
triển vốn chữ viết của Tiếng Việt thì nhà trường đóng vai trò vô cùng quan trọng,
ảnh hưởng lớn đến sự phát triển ngôn ngữ cả một quốc gia trong một giai đoạn
xã hội – lịch sử nhất định, là nơi thực hiện nhiệm vụ giáo dục đào tạo ở mỗi cấp
học, bậc học. Trong đó dạy chính tả ở Tiểu học là một trong những vấn đề đang
được quan tâm nhằm nâng cao chất lượng của môn Tiếng Việt trong nhà trường.
Thông qua việc học chính tả mà các em nắm được quy tắc chính tả và hình
thành những kỹ năng, kỹ sảo về chính tả. Từ đó, mà nâng cao dần tình cảm quý
trọng tiếng mẹ đẻ và nền văn học dân tộc.
Trong những năm gần đây, phong trào vở sạch chữ đẹp đã và đang được mọi
người quan tâm và gặt hái được những thành tích đáng kể, được tất cả giáo viên
và học sinh chú trọng tham gia nhiệt tình với quyết tâm cao. Bên cạnh đó, còn
được các bậc phụ huynh, các cấp các ngành quan tâm, khuyến khích động viên.
đó chính là động lực giúp giáo viên và học sinh thực hiện tốt mục tiêu giáo dục
đề ra “ Giáo dục con người toàn diện”.
II. Cơ sở thực tiễn.
Chúng ta ai cũng biết nếu là người dân Đất Việt, dù được sinh ra ở đâu là
dân tộc nào thì đều phải biết nói tiếng mẹ đẻ của mình - đó là Tiếng Việt. Nhưng
không ít người trong chúng ta lại hay nói phát âm một cách chính xác từng
tiếng, từng từ trong Tiếng Việt. Đặc biệt là học sinh lớp 1- lớp học đầu tiên của
bậc Tiểu học. Khả năng tư duy của các em còn rất hạn chế, còn mang nặng tính
trực quan. Trong chương trình sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 1: Từ tuần 1 đến
tuần 24 học sinh được học phần học vần, viết chữ theo cỡ chữ vừa. Từ tuần 25
trở đi học sinh được học Tiếng Việt với nội dung tổng hợp trong đó có phân môn
chính tả. Ở đây, yêu cầu từ sự hiểu biết, từ thói quen có được trong phần học
vần, trong các môn học khác, học sinh phải vận dụng, phải chuyển từ viết chữ
cỡ vừa sang cỡ chữ nhỏ để chép và viết chính tả. Đó là một sự khó khăn đối với

học sinh lớp 1. Các em còn lúng túng trong khi viết, khi trình bày bài, chữ viết
không đều nét, không đúng cỡ và mắc nhiều lỗi chính tả.
Qua thực tế giảng dạy lớp 1, qua tìm hiểu học sinh tôi thấy:
- Học sinh lớp 1 viết chính tả nhìn chung đảm bảo tốc độ viết chữ theo
qui định.
- Có nhiều học sinh viết bài sạch sẽ, trình bày đẹp, chất lượng về vở sạch
chữ đẹp đều đạt kết quả cao trong các đợt kiểm tra. Song bên cạnh đó, giáo viên
và học sinh còn gặp rất nhiều khó khăn trong giờ học chính tả. Cụ thể:
+ Học sinh còn viết sai nhiều về độ cao các con chữ (đặc biệt là ở những
bài chính tả đầu tiên), nét chữ chưa chuẩn, sai cách ghi dấu thanh.
+ Một số học sinh còn ngọng: l – n , ch – tr, s – x, ưu – ươu … nên khi
viết chính tả hay mắc lỗi.
+ Một số học sinh không nhớ qui tắc chính tả: g – gh, ng – ngh, c – k nên
khi gặp bài chính tả nghe-viết, học sinh dễ viết sai.
4


Một số kinh nghiệm dạy phân môn Chính tả lớp 1
+ Trong các buổi học, học sinh thường viết chính tả đẹp và đúng hơn khi
làm bài kiểm tra trong các đợt kiểm tra định kì.
+ Học sinh không biết cách trình bày một bài viết chính tả (đoạn văn, đoạn
thơ hay bài thơ). Đặc biệt với bài thơ viết theo thể lục bát hoặc viết chính tả tập
chép, học sinh nhìn bài “mẫu” của giáo viên hoặc trong vở chính tả để chép và
khi thấy giáo viên xuống dòng ở đâu ( ở chữ nào) thì học sinh cũng xuống dòng
ở chữ đó, hoặc vở hết chỗ viết nhưng học sinh không xuống dòng viết tiếp mà
cố viết chữ đó cho giống bài mẫu ( vì học sinh không hiểu bản chất của vấn đề).
Vậy, tại sao học sinh lại hay mắc lỗi chính tả như vậy ? Ở đây, tôi xin mạnh
dạn đưa ra một số nguyên nhân mắc lỗi chính tả của học sinh như sau:
1. Nguyên nhân khác quan:
* Về phía gia đình:

+ Ở nhà, khi các em nói sai, nói ngọng thường là phụ huynh bỏ qua, chỉ có
số ít phụ huynh chú ý sửa sai cho con em mình.
+ Một số phụ huynh thường xuyên để con tự học mà không có sự kiểm tra
giám sát.
+ Bản thân một số phụ huynh còn nói sai, viết sai chính tả. Cụ thể khi trao
đổi trực tiếp với giáo viên hay trao đổi với giáo viên chủ nhiệm qua sổ liên lạc.
Vậy khi học sinh nói sai, viết sai không được sửa, và khi nhìn thấy phụ
huynh viết sai thì các em thường cho đó là đúng, đâu có biết như vậy là sai. Chỉ
có phần ít các em biết phát hiện đúng – sai. Do đó, các em cứ theo cái sai đó dẫn
đến các em sẽ nói sai, viết sai.
Ngoài ra còn nhiều người nói không chuẩn, đặc biệt là những người ở thôn,
xóm nơi các em sinh sống(do ảnh hưởng tiếng địa phương).
* Về phía học sinh:
Một số học sinh do hoàn cảnh gia đình khó khăn về kinh tế, có em do bố mẹ bỏ
nhau nên ít được quan tâm đến việc học tập.
2. Nguyên nhân chủ quan
*Về phía giáo viên:
+ Một số giáo viên chưa vận dụng một cách nhuần nhuyễn các phương pháp
trong dạy chính tả ở lớp 1 chính vì vậy mà trong quá trình dạy chủ yếu dạy theo
cảm tính, chưa thật sự phân tích cẩn thận giữa các chữ viết đúng với các chữ viết
sai dẫn đến tình trạng một số học sinh viết sai mà vẫn không biết mình sai chỗ
nào. Bên cạnh đó chưa có trách nhiệm trong việc tìm ra nguyên nhân học sinh
viết sai do đâu
+ Bản thân một số giáo viên còn phát âm ngọng.
+ Trong các giờ học chính tả, giáo viên chưa thực sự tổ chức tiết học sôi
nổi, chưa có sự đổi mới phương pháp – hình thức dạy học chưa phong phú.
+ Giáo viên chưa phát động các cuộc thi “vui học” ngoài phong trào “vở
sạch - chữ đẹp” để phát triển tối đa khả năng viết chính tả của học sinh.
* Về phía học sinh:
+ Một số em phát âm chưa chuẩn( nói ngọng).

+ Chưa nắm chắc về âm – vần nên khi phân tích để viết một số tiếng khó còn
lúng túng, không phân tích được.
5


Một số kinh nghiệm dạy phân môn Chính tả lớp 1
+ Các em nghe hiểu còn hạn chế. Còn nhiều em không nắm được nghĩa của
các từ.
+ Các em chưa thật sự nắm vững kĩ thuật viết chữ (viết liền mạch, kĩ thuật
“rê bút”, kĩ thuật “lia bút” nên khi viết các em không thể hiện được nhanh đúng
tốc độ quy định.
+ Một số học sinh tư thế ngồi viết và cách cầm bút chưa đúng.
+ Đôi lúc học sinh còn viết theo cảm tính và chưa hợp tác với giáo viên.
+Tính tự giác trong ý thức học tập của một số học sinh còn hạn chế, đặc
biệt là trong việc rèn luyện kĩ năng viết chính tả.
Từ thực trạng trên tôi nhận thấy để dạy tốt phân môn Chính tả giáo viên
phải nắm vững các phương pháp dạy học chính tả và đổi mới phương pháp dạy
học. Đồng thời trong các tiết học giáo viên phải giúp cho học sinh hiểu được
nghĩa của một số từ, cung cấp một số quy tắc viết chính tả. Từ đó, giúp học sinh
viết đúng, đẹp và yêu thích môn học hơn. Sau đây tôi xin trình bày một số kinh
nghiệm mà bản thân đã tích lũy được trong quá trình dạy học.

6


Một số kinh nghiệm dạy phân môn Chính tả lớp 1
III. MỘT SỐ BIỆN PHÁP CỤ THỂ:
1. Luyện phát âm:
Muốn học sinh viết đúng chính tả, tôi phải chú ý luyện phát âm cho học
sinh, giúp các em phân biệt các âm đầu, âm chính, âm cuối qua giọng đọc mẫu

của giáo viên.
Ví dụ 1: Dạy bài chính tả tập chép “Tặng cháu”, tôi cho học sinh luyện đọc
lại bài sau đó đưa ra một số từ khó mà học sinh lớp tôi hay viết chưa đúng như:
lòng, nước non. Sau khi đọc xong tôi cho học sinh phân tích âm tiết. Đồng thời
tôi cho học sinh phân biệt cách đọc hai âm l – n.
Ví dụ 2: Khi dạy bài chính tả nghe – viết: “Cái Bống” tôi cho học sinh luyện
đọc lại bài sau đó đưa ra một số từ khó mà học sinh lớp tôi hay viết chưa đúng
như: khéo sảy, khéo sàng... Sau khi đưa ra tôi cho học sinh đọc, phân tích âm
tiết: chữ “khéo” gồm có chữ “kh” nối với chữ ghi vần “eo” và dấu thanh sắc:
khéo = kh + eo + ( / ). Bên cạnh đó tôi cho học sinh phân biệt cách đọc hai âm s
– x.
Như vậy, học sinh đọc, phân tích, nhận diện rồi viết, học sinh sẽ ghi nhớ chữ
viết và viết chính tả tốt hơn.
Việc rèn phát âm được tôi thực hiện thường xuyên không chỉ trong các tiết
Tập đọc, tiết Chính tả mà cả một số môn học khác như môn Toán khi dạy học
sinh đọc số.
Ví dụ: Khi dạy học sinh đọc số 5: đọc đúng là năm không đọc là lăm. Hay
đọc các số có hai chữ số như 55 đọc là: năm mươi lăm không đọc là lăm mươi
năm.
2. Giúp học sinh hiểu nghĩa của từ - ghi nhớ từ:
Là giáo viên giảng dạy lớp 1, tôi luôn chú trọng yếu tố này. Ngay từ các bài
học vần, tôi luôn giải nghĩa từ khoá, từ áp dụng trong các bài học vần qua tranh
ảnh, mô hình, lời giải thích giúp học sinh hiểu nghĩa từ, hiểu câu. Đồng thời, tôi
đưa từ, câu văn vào văn cảnh cụ thể để học sinh dễ dàng hiểu từ, hiểu câu và
hiểu sâu hơn ( Phần luyện nói, đoạn ứng dụng ).Từ đó, giúp học sinh có cách
đọc đúng, viết đúng.
Bài viết chính tả phần lớn là viết lại một phần nội dung bài tập đọc đã học.
Vì vậy, để học sinh viết tốt các bài chính tả thì ngay các tiết học tập đọc, tôi luôn
có ý thức giúp cho học sinh hiểu nghĩa của từ trong bài đọc, hiểu câu, hiểu nội
dung cơ bản của bài đọc.

Ví dụ: Bài tập đọc: Tặng cháu, tôi giúp học sinh hiểu: Bác Hồ đã mong
muốn điều gì ở các bạn học sinh?
Trước khi viết bài chính tả, tôi gợi ý, hướng dẫn học sinh tìm hiểu nội dung
bài viết. Như vậy, khi viết chính tả, học sinh bắt đầu đã có vốn từ, nắm được nội
dung bài, học sinh sẽ tự đọc - phân tích - viết đúng, đặc biệt là những tiếng, từ
viết khó, hạn chế sự mắc lỗi.
Ví dụ: Khi dạy bài chính tả tập chép Tặng cháu: Tôi cũng giúp học sinh tìm
hiểu nội dung bài viết bằng cách đặt câu hỏi: Bác hồ đã tặng vở cho ai? Bác
Hồ mong các cháu làm điều gì?
Kết quả học tập của học sinh là thước đo kết quả hoạt động của giáo viên và
học sinh. Trong quá trình dạy học, điểm tập trung là bản thân người học chứ
7


Một số kinh nghiệm dạy phân môn Chính tả lớp 1
không phải người dạy. Tức là hoạt động dạy học cần dựa trên nhu cầu hứng thú,
thói quen và năng lực của người học. Như vậy, mục đích của dạy học ở đây là
trẻ em phát triển trên nhiều mặt chứ không chỉ nhằm lĩnh hội kiến thức. Khi dạy
học, hoạt động tư duy của trẻ được khơi dậy, phát triển và coi trọng. Đó chính là
dạy học phát huy tính tích cực của học sinh.
Trong các giờ chính tả, giáo viên thường lạm dụng con đường giải thích cách
viết, nhận xét luôn bài viết của học sinh. Như vậy chưa phát huy tính tích cực
của học sinh.Vì vậy, khi dạy chính tả giáo viên cần lưu ý:
+ Với những tiếng khó viết trong bài, giáo viên nên để học sinh tự phát âmphân tích - viết bảng. Sau đó, học sinh tự nhận xét, sửa sai cho nhau. Giáo viên
chỉ là người hướng dẫn rồi tổng kết.
+ Qua những bài tập chính tả để giúp học sinh hiểu nghĩa từ - ghi nhớ từ,
nắm qui tắc chính tả. Giáo viên không nên giảng từ thay học sinh mà giáo viên
phải biết giúp học sinh dựa vào tranh vẽ, biết đưa từ vào văn cảnh cụ thể để hiểu
nghĩa từ - ghi nhớ từ. Có như vậy, học sinh ghi nhớ từ sẽ chính xác, lâu bền hơn.
3. Dạy học sinh viết - trình bày bài chính tả:

Từ tuần 25 học sinh lớp 1 bắt đầu viết chính tả. Giai đoạn này học sinh vừa
luyện chữ cỡ vừa và bắt đầu học phân môn chính tả. Như vậy, học sinh lớp 1
không có một tiết học riêng nào và cũng chưa có lần nào để làm quen với cách
viết các chữ theo cỡ chữ nhỏ trước khi các em viết bài chính tả. Do đó học sinh
thường lúng túng khi viết chính tả.
Vậy, chúng ta cần phải làm gì giúp các em khỏi bị lúng túng khi viết chính
tả, đặc biệt ở những bài đầu của phân môn chính tả ?
Với học sinh Tiểu học, đặc biệt là học sinh lớp 1, các em rất dễ nhớ nhưng
cũng rất nhanh quên. Nếu như các em không được làm quen, được nhắc nhở
thường xuyên thì các em sẽ không biết làm, nếu có làm thì dễ bị sai, bị nhầm lẫn
và không tránh khỏi lúng túng.
Với lớp tôi, tôi đã thực hiện như sau:
3.1. Tập chép và viết chính tả :
Khi mới bắt đầu chuyển sang tiết dạy học viết chính tả luôn cho học sinh
quan sát bài mẫu của các anh chị năm trước để học tập nhưng cũng có rất nhiều
học sinh viết không đúng cỡ chữ, chữ chưa đều, chưa đẹp. Với những trường
hợp này, tôi luôn hướng dẫn tỉ mỉ để các em viết đúng mẫu và tìm biện pháp để
giúp các em khắc phục nhược điểm của mình. Còn những học sinh yếu, tôi đã áp
dụng việc viết mẫu trong một số bài chính tả của những tuần đầu. Ở mỗi bài
chính tả, tôi viết mẫu cho các em một câu văn hoặc một dòng thơ. Viết thật ngay
ngắn và đẹp cho các em quan sát. Đến khi viết bài, tôi yêu cầu các em nhìn theo
mẫu rồi viết kể cả trong bài tập chép hay nghe - viết, tôi đều làm như vậy, tăng
cường viết mẫu hướng dẫn vào buổi luyện Tiếng Việt hay tiết tự học chỉ sau một
tuần làm như vậy tôi thấy chữ viết của các em đã tiến bộ rõ rệt. Đặc điểm của
học sinh Tiểu học là rất hay bắt chước và bắt chước cũng rất nhanh, hơn nữa ở
lớp 1 các bài chính tả hầu như là tập chép nên tăng cường việc tri giác chữ viết
bằng thị giác cho học sinh thì việc viết mẫu của giáo viên không những giúp cho
các em viết đẹp mà còn giảm đáng kể tình trạng mắc lỗi.
8



Một số kinh nghiệm dạy phân môn Chính tả lớp 1
Để làm tốt việc này đòi hỏi mỗi giáo viên phải có ý thức luyện chữ và không
phải chỉ ở giờ chính tả, tập viết mà tất cả các giờ học khác đòi hỏi chữ viết trên
bảng của giáo viên phải thật sự mẫu mực.
3.2. Hướng dẫn trình bày bài chính tả:
Việc trình bày bài chính tả của học sinh ở những bài đầu khó khăn.
Học sinh không biết cách trình bày như thế nào cho đúng chứ chưa nói gì
trình bày cho đẹp, từ cách ghi tên bài viết rồi đến trình bày nội dung bài viết.
Chúng ta đã biết, học sinh Tiểu học, đặc biệt là đối với học sinh lớp 1, các
em luôn luôn bắt chước và thậm chí bắt chước một cách máy móc do các em
không hiểu bản chất của vấn đề. Ví dụ về hiện tượng học sinh mắc lỗi cách trình
bày xuống dòng như tôi đã trình bày ở phần thực trạng. Vậy làm thế nào để khắc
phục tình trạng này? Ở đây tôi xin được trình bày cách làm mà tôi đã thực hiện
và thấy có hiệu quả như sau :
- Cách ghi thứ, ngày - tháng - ghi tên môn – ghi tên bài viết.
Tôi luôn luôn chú ý đến cách trình bày bảng của mình đặc biệt trong giờ
chính tả. Khi hướng dẫn học sinh viết vở, tôi đưa ra quy định chung cho học
sinh của lớp mình.
+ Cách ghi thứ - ngày - tháng: chữ “Thứ” cách lề vở 1 ô
+ Cách ghi tên phân môn: “Chính tả” cách lề 5 ô
+ Cách ghi tên bài: tùy theo số lường chữ( giáo viên quy ước)
Cách ghi tên bài không phải là đến khi viết chính tả tôi mới giới thiệu cho
học sinh. Với tôi, ngay trong các bài học vần, trong các môn học khác khi ghi
tên bài tôi luôn chú ý trình bày làm sao cho đúng, cho khoa học và đẹp mắt tức
là viết đúng và trình bày cân đối trên bảng. Đặc biệt trong giờ học “mĩ thuật, thủ
công” chúng ta giáo dục học sinh cái đẹp của hình ảnh, của cách trình bày (bố
cục, khoảng cách) ngay sự khéo léo, óc sáng tạo của học sinh. Vì thế, khi ghi tên
bài vào vở tổng hợp, tôi kết hợp hỏi học sinh tại sao lại trình bày như vậy ?
Qua đó, tôi giúp cho học sinh thấy được cái đẹp ở đây không những chỉ về

chữ viết mà còn cả về cách trình bày. Từ đó, hình thành cho học sinh cách trình
bày bài một cách khoa học và đẹp mắt. Cách trình bày đó được tôi nhắc nhở xen
kẽ trong các bài học của môn học khác. Đến khi viết chính tả, tôi chỉ cần lưu ý
học sinh là các em có thể tự ước lượng và trình bày vào vở của mình (có thể
chưa thật cân đối) và dần dần trở thành thói quen. Được thực hành nhiều lần các
em sẽ có kỹ năng trình bày bài đúng, đẹp và khoa học. Đối với những học sinh
yếu, tôi sẽ chỉ và hướng dẫn các em ở một số bài đầu tiên về cách viết, viết cách
lề khoảng mấy ô. Sau đó yêu cầu học sinh tự ước lượng, tự thực hành.
- Cách trình bày đoạn văn, đoạn thơ:
Khi viết chính tả, tôi luôn hướng dẫn và giúp học sinh hiểu được cách trình
bày một đoạn văn hay một khổ thơ như sau:
+ Tất cả các chữ đầu mỗi dòng thơ phải được viết hoa con chữ đầu tiên (đối
với chữ viết), in hoa (đối với chữ in)
+ Cuối đoạn thơ có dấu chấm.
Hơn nữa, ở đây giáo viên còn phải giúp học sinh nhận thấy số chữ ở từng
dòng thơ và cách trình bày khác với bài trước.
Dòng 6 chữ phải lùi vào 2 ô so với lề vở.
9


Một số kinh nghiệm dạy phân môn Chính tả lớp 1
Dòng 8 chữ phải lui ra khoảng 1 ô so với dòng 6.
Đoạn văn : giáo viên phải giúp học sinh thấy được: chữ đầu đoạn văn, chữ
đầu câu phải viết hoa con chữ đầu tiên, cuối câu có sử dụng dấu câu “.”. Như
vậy, ngay từ các bài học vần, giáo viên giới thiệu cho học sinh, cách trình bày
cách viết hoa (viết hoa tên riêng …) cách ghi dấu chấm, cách ghi dấu phẩy hay
cả cách ghi dấu chấm hỏi có trong bài.
Ví dụ1: Khi dạy bài chính tả: “Trường em”, học sinh phải chép một câu
ở đoạn một và một câu trong đoạn hai của bài, học sinh không hiểu cách trình
bày một bài viết có nhiều đoạn. Chính vì thế, ngay từ bài tập đọc, giáo viên cần

hướng dẫn học sinh xác định rõ đoạn 1, đoạn 2 của bài tập đọc. Sau đó, giáo
viên cho học sinh nhắc rõ từng đoạn như thế học sinh cũng phần nào hiểu về
cách trình bày hết đoạn 1 sang đoạn 2 ta phải xuống dòng, viết lùi vào 1 ô và
viết hoa con chữ đầu tiên.
Ví dụ 2: Khi dạy bài chính tả: “Cái Bống”, Sau khi học sinh đã nắm được
đây là bài đồng dao được viết theo thể thơ lục bát, tôi hướng dẫn học sinh cách
trình bày: tên bài viết cách lề vở 5 ô; câu 6 tiếng viết cách lề vở 2 ô; câu 8 tiếng
viết cách lề vở 1 ô.
Bên cạnh đó trong những bài chính tả của những tuần đầu, tôi luôn luôn có
bài chép mẫu. Tôi lựa chọn những bài viết đúng, đẹp, các con chữ đều, chuẩn để
học sinh quan sát. Bên cạnh đó tôi lưu cả bài viết có mắc lỗi về cách trình bày để
học sinh sửa sai...
Trước khi học sinh chép bài chính tả, tôi đưa ra bài mẫu này để học sinh nhận
xét, rút ra cái sai. Từ đó giúp học sinh không mắc phải cái sai đó.

10


Một số kinh nghiệm dạy phân môn Chính tả lớp 1

4. Dạy theo nhóm đối tượng học sinh, kết hợp sử dụng một số “mẹo luật”
chính tả.
Là giáo viên Tiểu học vừa làm công tác chủ nhiệm, vừa trực tiếp giảng dạy
nên hiểu rất rõ về học sinh cũng như chất lượng chữ viết của học sinh lớp mình.
Để khắc phục những nhược điểm, phát huy được mặt mạnh, giáo viên phải biết
phân loại học sinh thành các nhóm theo các lỗi sai cơ bản học sinh hay mắc để
trong các giờ học, đặc biệt là giờ luyện Tiếng Việt, giáo viên thấy học sinh lớp
mình yếu về mặt nào thì chủ động rèn cho học sinh về mặt đó. Giáo viên phải
phân loại một cách rõ ràng: Em nào sai cách trình bày; Em nào sai khi đọc và
viết l - n, r – gi – d, ch – tr ; sai các nét; sai cách viết dấu thanh… thì phân biệt

riêng để có những bài tập phù hợp.
Đối với phân môn chính tả, nhược điểm chính của học sinh lớp 1 là viết sai
các lỗi thông thường như: l – n, d – gi – d, tr – ch…, sai khoảng cách các con
chữ, nét chữ chưa chuẩn, sai cách ghi dấu thanh…Vì vậy, giáo viên cần lưu ý:
+ Ngay từ những bài học vần đầu tiên cho đến khi học sinh viết chính tả,
giáo viên cần luôn luôn chú ý đến từng nét chữ của học sinh. Giáo viên viết mẫu
hướng dẫn học sinh, chữ viết của giáo viên rõ ràng chính xác thế nhưng không
phải em nào cũng viết được đúng, được đẹp như giáo viên hướng dẫn có em viết
đúng chữ nhưng sai nét như: Nét chữ không bám dòng kẻ, nét chữ viết nghiêng
không đều, sai độ rộng… giáo viên phải sửa từng nét chữ cho học sinh, dùng
phấn, bút khác màu mực (màu đỏ) sửa cho các em, giúp các em có ý thức tự sửa
sai trong các lần viết sau. Đối với học sinh khá, giỏi, giáo viên có thể cho học
sinh tự nhận xét, sửa sai hoặc sửa sai khi giáo viên chỉ rõ cái sai đó. Điều này
giáo viên phải chú ý sửa sai cho các em từ các bài tập viết phần học vần (gạch
chân – sửa những nét học sinh hay mắc lỗi). Trước khi viết bài mới, giáo viên
cho học sinh viết lại những lỗi viết sai chính tả của mình, giúp các em không bị
mắc sai trong các lần sau. Khi viết chính tả, giáo viên có những nhận xét chung
11


Một số kinh nghiệm dạy phân môn Chính tả lớp 1
hoặc góp ý trực tiếp với học sinh để học sinh thấy được những lỗi chính tả của
mình cũng như cách sửa.
+ Trong những bài đầu viết chính tả, còn nhiều học sinh hay mắc lỗi trình
bày. Với những trường hợp này, trong giờ luyện Tiếng Việt, giáo viên cho học
sinh viết một bài chính tả và giáo viên chú ý hướng dẫn cách trình bày.
+ Với những học sinh hay mắc lỗi đọc – viết sai : l – n, d – gi – d, tr – ch…,
muốn sửa lỗi đọc , viết sai l – n, d – gi – d, tr – ch…, giáo viên cần cho học sinh
phát âm nhiều lần rồi phân tích trước khi viết. Ngoài ra, giáo viên kết hợp với
môn “Âm nhạc” giúp học sinh đọc đúng, phát âm chuẩn (vì trong khi hát không

bao giờ các em hát ngọng). Từ việc đọc đúng, phát âm chuẩn, các em sẽ viết
đúng chính tả.
Ví dụ: Bài chính tả tập chép “Tặng cháu”.
Khi hướng dẫn học sinh viết : “cháu ” tôi cho học sinh đọc ( phát âm ) đúng.
sau đó yêu cầu học sinh phân tích : cháu = ch + au + (thanh sắc). Cuối cùng
mới yêu cầu học sinh viết : cháu. Với cách làm như vậy học sinh sẽ không bị
viết sai hay nhầm lẫn với chữ khác.
Để sửa lỗi chính tả này cho học sinh, giáo viên không chỉ thực hiên như trên
mà phải biết thực hiện phối kết hợp với các biện pháp sửa lỗi khác để đạt hiệu
quả tốt hơn.
+ Luôn coi trọng các bài tập mang tính “củng cố qui tắc chính tả” để sửa các
lỗi về âm – vần cho học sinh.
“Điền vần”, “Điền chữ” là những thao tác ôn lại cấu trúc của âm tiết. Khi đã
đánh vần thành thạo, kết hợp quan sát tranh vẽ minh hoạ cụ thể trong bài, học
sinh dễ dàng lựa chọn vần, chữ để điền đúng. Từ ngữ đi cùng hình ảnh trực quan
giúp các em ghi nhớ từ tốt hơn. Vì vậy, giáo viên phải biết khai thác hợp lí, khoa
học tranh vẽ trong sách giáo khoa để giúp học sinh có kết quả học tập tốt hơn.
Khi làm xong bài tập, tôi luôn cho học sinh đọc lại(chú ý cách phát âm) và cho
học sinh phân tích tiếng. Từ đó, để học sinh nắm rõ cấu tạo của tiếng, từ giúp
học sinh khi viết sẽ không nhầm lẫn.
Giáo viên lưu ý: với những bài tập dạng này, lời giải đúng là từ chọn phù
hợp với tranh vẽ. Nếu học sinh chọn nhầm thì sau khi xác định lời giải đúng,
giáo viên có thể nói thêm chữ chọn nhầm kia sẽ cho từ mang nghĩa gì.
Ví dụ: Điền chữ ch hay tr : thi …ạy …anh bóng ( TV1 – tập 2 trang 59 )
Sau khi học sinh thực hành làm và chữa bài : thi chạy , tranh bóng. Giáo
viên đưa ra kết luận: tranh bóng phải viết là tr, và nếu là ch ta sẽ có từ chanh
trong quả chanh, cây chanh. viết là tranh trong từ tranh bóng, bức tranh,
tranh giành.
Hay giáo viên vận dụng một số “mẹo luật” giúp học sinh ghi nhớ khi viết
chính tả để giúp học sinh viết đúng giữa ch và tr.

Viết là ch với những từ chỉ đồ vật, những đại từ chỉ quan hệ thân thuộc trong
gia đình chứ không bao giờ viết là tr.
Ví dụ: chăn, chiếu, chum, chai,… cha, chú, chị, cháu,…
Hay trong chữ âm tiết có oa, oă, oe, uê thì âm tiết đó có thể âm đầu viết ch
( không viết tr ).
* Giúp các em phân biệt giữa l - n:
12


Một số kinh nghiệm dạy phân môn Chính tả lớp 1
Trong những âm tiết có êm đệm thì viết là l chứ không viết là n (trừ 2 tiếng
noãn, noa nhưng rất ít dùng). Do đó, khi gặp chữ âm tiết có hai hay ba chữ
nguyên âm đi liền với o hay u đứng trước thì chữ phụ âm chỉ viết l: loa, loăn,
luân, loe, luyện,…
Những từ chỉ màu sắc viết là n và n chỉ lặp lại với chính nó không lặp lại
với bất cứ phụ âm nào khác.
Ví dụ: nợ nần, nao núng, no nê,…
Trong các bài tập có một âm tiết viết là l hay n yêu cầu điền tiếp âm đầu của
tiếng nữa thì chắc chắn nó sẽ lặp lại là l hay n.
Ví dụ: lo …ắng, no …ê.
* Ngay từ các bài học vần và sau những bài tập chính tả g – gh; ng – ngh; c –
k – qu giáo viên cần cho học sinh thấy được:
+ Viết là gh khi đứng trước các nguyên âm i, e, ê.
+ Viết là g khi đứng trước các nguyên âm a, ă, â, o, ô, ơ, u, ư.
+ Viết là ngh khi đứng trước các nguyên âm i, e, ê.
+ Viết là ng khi đứng trước các nguyên âm a, ă, â, o, ô, ơ, u, ư.
+ Viết là k khi đứng trước các nguyên âm i, e, ê.
+ Viết là c khi đứng trước các nguyên âm a, ă, â, o, ô, ơ, u, ư.
+ Viết là “qu” khi đứng trước các nguyên đôi: ua, âu, yê.
Chỉ có riêng tiếng “cuốc” trong từ “con cuốc, cái cuốc” và tiếng “cuống” thì

viết là “c”.
Ngoài ra trong quá trình dạy học tôi luôn giúp học sinh nắm được âm đứng
cuối vần, cuối âm tiết trong Tiếng Việt có các phụ âm cuối: p, t, m, n, ng (nh),
ch và 2 bán nguyên âm i (y); u (o)
Ví dụ: tắt, xắp, chắc, bám, bán, ngang, cách, tai, tay, tàu,...
Những âm tiết có âm cuối là p, t, c chỉ có 2 thanh điệu (/ và .)
Ngoài các âm trên, ở ví trí cuối âm Tiếng Việt không có một âm nào khác.
Đây là một trong những đặc điểm riêng của cấu trúc âm tiết Tiếng Việt.
Muốn đạt được những điểm trên đòi hỏi người giáo viên phải biết hướng
dẫn học sinh chuẩn bị trước bài và đọc thông, viết thạo bài chính tả sẽ viết, nắm
được nội dung chính tả của bài, nhận xét những hiện tượng chính tả hoặc cách
trình bày một văn bản. Mặt khác, học sinh phát âm chuẩn xác giữa cách đọc và
cách viết phải thống nhất với nhau. Điều mà giáo viên cần chú trọng ở đây là
làm sao cho học sinh của mình không mắc sai nhiều lỗi chính tả khi viết, gặp
phải nhiều tiếng có vần khó làm ảnh hưởng đến thói quen của các em.
Ví dụ: tàu thủy thì viết tàu thỉ, ngoằn ngoèo thì viết ngoằn ngoè,…
Phân môn Chính tả Lớp 1 nói về hình thức các em chỉ học kiểu bài tập
chép (nhìn viết) là hình thức chủ yếu. Ở kiểu bài này, giáo viên phải đọc cả bài
viết cho học sinh nghe trước khi viết. Giáo viên viết theo mẫu chữ hiện hành
trên bảng lớp rõ ràng. Hình thức tập chép đòi hỏi học sinh chuyển từ hình ảnh
thị giác (nhìn bảng viết) thành hành động tái tạo lại dạng thức viết. Tập chép là
hình thức lặp đi, lặp lại nhiều lần dạng thức viết của các chữ cái các từ trong văn
bản. Do đó, tập chép vừa giúp học sinh củng cố kỹ năng viết các chữ cái, định
hình dạng thức các đơn vị ngôn ngữ, vừa có tác dụng hoàn thiện kỹ năng đọc.
13


Một số kinh nghiệm dạy phân môn Chính tả lớp 1
Ngoài ra, giáo viên còn cho học sinh luyện viết đúng chữ cái ở các vị trí có phụ
âm đầu hoặc vần và thanh dễ nhầm lẫn.

Nói về dấu thanh gồm 5 thanh đệm (trừ thanh 1 – thanh ngang không có
dấu ghi), thanh 2 – dấu huyền (`), thanh 3 – dấu ngã (~), thanh 4 – dấu hỏi (?),
thanh 5 – dấu sắc(/), thanh 6 – dấu nặng (.).
Nếu âm chính ghi bằng hai chữ nguyên âm đôi: ia, ya, ie, ua, uô, ưa, ươ thì dấu
ghi thanh thường ghi bằng 2 cách:
+
Các âm chính viết ia, ya, ua, ươ ghi dấu thanh trên
chữ cái đầu:
Ví dụ: mía, múa, sữa, …
+
Các âm chính viết ie, yê, uô, ươ ghi dấu thanh trên
chữ cái sau:
Ví dụ: tiết, thuyền, buổi, …
Điều mà giáo viên cần lưu ý là khi giáo viên đang đọc văn bản của bài viết
thì giáo viên phải hết sức tập trung quan sát và phát hiện kịp thời hiện tượng học
sinh vội vã ghi lại lời giáo viên đọc. Kinh nghiệm cho rằng, ở học sinh cấp 1 với
sự vội vã như vậy sẽ không đạt được kết quả tốt. Chính vì thế đòi hỏi giáo viên
không chỉ dạy mà còn phải biết bao quát lớp học và phải thống nhất một tiến
trình một bài dạy môn chính tả sao cho phù hợp với học sinh lớp mình.
Khi học sinh viết bài xong, giáo viên nên đọc lại một lần để học sinh rà soát
lại bài viết của mình. Hướng dẫn học sinh theo dõi bài viết để sửa lời văn. Giáo
viên cần đọc chậm khi đọc từ khó có thể phân tích cách viết cho học sinh sửa lỗi
ngay lúc đó. Sau mỗi bài viết là phần bài tập. Những hình thức bài tập thường
được sử dụng là: Điền phụ âm đầu g/gh, ng/ngh, c/k/q, … Điền vần và thanh …
Hình thức bài tập chính tả âm, vần phong phú và mang đậm tính tình huống cho
học sinh. Ngoài ra, giáo viên cần hết sức chú ý cách hướng dẫn học sinh làm bài
tập, giúp các em nắm vững yên cầu của bài tập giáo viên nên chuẩn bị vật thật,
tranh ảnh phù hợp với nội dung bài tập, hệ thống câu hỏi, bằng lời giải thích
hoặc bằng cách hướng dẫn học sinh cách làm mẫu, nhẹ nhàng, khéo léo lôi cuốn
các em vào các tình huống nhằm kích thích sự ham muốn giải bài tập của các

em, tránh mang lại cảm giác nặng nề, tâm lý ngại khó trước các yêu cầu rất đa
dạng của hệ thống bài tập này.
Tuy nhiên, điều giáo viên cần lưu ý cần khai thác có hiệu quả các bài tập
trong sách giáo khoa, tổ chức cho học sinh làm bài tập cũng như uốn nắn thường
xuyên kịp thời những lỗi các em dễ mắc phải nhằm củng cố bền vững kĩ năng
viết chính tả ở học sinh nói chung.
5. Dạy chính tả theo nguyên tắc tích hợp.
Môn chính tả là một phân môn trong bộ môn Tiếng Việt. Chính vì vậy không
thể tách rời chính tả khỏi môn Tiếng Việt, cũng như không thể tách môn Tiếng
Việt ra khỏi các môn học khác.
* Muốn viết đúng, viết đẹp trước hết các em phải đọc tốt, không phát âm
ngọng. Từ đó, hình thành cho các em kĩ năng: nghe đúng - viết đúng, viết nhanh
và viết đẹp. Đối với học sinh lớp 1 thì nó thực sự cần thiết. Muốn vậy, giáo viên
và học sinh phải thực hiện thật tốt ngay từ các bài học vần và trong các giờ học
khác.
14


Một số kinh nghiệm dạy phân môn Chính tả lớp 1
+ Ở lớp 1, khi viết bài chính tả học sinh có 2 hình thức: tập chép hoặc
nghe viết.
Yêu cầu của bài tập chép là tích hợp của các yêu cầu về nhiều mặt: tư thế
ngồi viết, tay cầm bút, nét chữ, đánh vần, đọc trơn, hiểu bài, viết liền mạch. Yêu
cầu bài nghe - viết học sinh phải từ giọng của thầy cô mà nhớ lại cách viết các từ
nghe được.
Như vậy, yêu cầu học sinh phải tự đánh vần, đọc trơn được các tiếng có
trong bài tự chép, tự nhớ lại các tiếng khi nghe giáo viên đọc trong bài nghe viết để viết được bài chính tả theo yêu cầu. Nếu không, học sinh không viết liền
mạch được và sẽ có những lỗi viết không thành chữ, tương tự người lớn phải
chép một bài viết bằng một tiếng nước ngoài mà mình không biết, chắc chắn vất
vả và mắc nhiều lỗi. Do đó, ngay từ các bài học vần, giáo viên phải thật chú

trọng rèn luyện kỹ năng đánh vần, đọc trơn (đọc đúng - đọc hay) và kỹ năng viết
của học sinh. Đánh vần, đọc trơn tốt giúp học sinh viết chữ đúng.
+ Học sinh lớp 1, các em luôn có thói quen bắt chước theo cô, các em luôn
cho rằng cô làm gì cũng đúng, tất cả những hành vi, việc làm, đều học học sinh
coi đó là “mẫu”, là “chuẩn” cần phải làm theo. Vậy giáo viên cần làm gì để đáp
lại sự mong mỏi, tin cậy đó của học sinh?
+ Trong những lúc tiếp xúc với học sinh, trong mọi tiết học, đặc biệt là trong
giờ học Tiếng Việt. Giáo viên là người đọc mẫu cho học sinh. Vì vậy, giáo viên
phải đọc đúng, đọc hay để học sinh bắt chước theo (chú ý phát âm chuẩn). Có
đọc đúng thì mới viết đúng.
Khi viết đúng, khi chấm bài, đặc biệt là những bài viết mẫu cho học sinh,
chữ viết của giáo viên phải chân phương mẫu mực. Khi viết mẫu bài chính tả,
giáo viên chú ý cách trình bày bài khoa học, đúng mẫu chữ, cỡ chữ. Như vậy,
giáo viên cần luôn chú ý đến cách viết, cách trình bày của mình cũng như chú ý
sửa sai cho học sinh về khoảng cách các con chữ, khoảng cách chữ, cách ghi dấu
thanh, cách viết liền nét, viết liền mạch. giáo viên giúp học sinh biết :
Khoảng cách chữ - chữ khoảng một thân con chữ o.
Khoảng cách chữ - dấu phẩy, dấu chấm khoảng nửa thân con chữ o.
Khoảng cách dấu phẩy – chữ một thân con chữ o.
Khoảng cách dấu chấm – chữ xa hơn một thân con chữ o.
Khi đã có sự hiểu biết này ở những bài học vần, sang viết chính tả học sinh
sẽ tránh được những lỗi này.
Muốn trình bày bài tốt, giáo viên cần hướng dẫn tỉ mỉ, từng bước kết hợp
trong các môn học như phần hướng dẫn trình bày bài chính tả đã trình bày. Như
vậy, dạy học sinh viết chính tả không chỉ thực hiện ở phân môn chính tả mà phải
thông qua tất cả các môn học, không chỉ rèn viết mà còn rèn cả đọc – nghe – nói
cho học sinh.
6. Chú ý tư thế ngồi viết và cách cầm bút.
Hiện nay, trong các trường học vẫn còn tồn tại không ít học sinh ngồi viết
không đúng tư thế và cách cầm bút. Có trách nhiệm đầu tiên và lớn nhất trong

hiện trạng nói trên là những người dạy các em cầm bút tập viết lần đầu tiên. Các
em ngồi không ngay ngắn và cầm bút không đúng kiểu mà không được uốn nắn
ngay cho đến khi có cách ngồi và cách cầm bút đúng thì sau này rất khó sửa.
15


Một số kinh nghiệm dạy phân môn Chính tả lớp 1
Luyện cho học sinh tư thế ngồi và cách cầm bút viết cho đúng không phải
chỉ là việc làm ở đầu học kì I của lớp 1 mà là việc làm thường xuyên của giáo
viên.Tay các em còn non, cầm bút không nhẹ nhàng như người lớn. Nhưng nếu
cầm sai mà được uốn nắn ngay thì cũng dễ sửa hơn người lớn. Lưng các em còn
rất mềm ngồi viết không đúng kiểu sẽ dẫn đến bệnh cong vẹo cột sống và cận
thị.
Chính vì vậy, ngay từ các buổi học đầu tiên của lớp 1, tôi hướng dẫn học
sinh tỉ mỉ, cẩn thận về cách cầm phấn, cầm chì cũng như tư thế ngồi, cách để vở,

*Tư thế ngồi của học sinh.
Nhiều giáo viên chỉ mải hướng dẫn, chú ý đến chữ của học sinh mà quên đi
tư thế ngồi của học sinh mình. Để mặc học sinh ngồi tự do như ngồi lệch người,
đầu cúi sát vở, ngả nghiêng người,... Trước khi viết giaó viên chỉ cần nhắc các
em phải ngồi đúng tư thế thì học sinh sẽ biết ngay là mình phải ngồi ngay ngắn,
thẳng lưng, không tì ngực vào bàn, vai thăng bằng, đầu hơi cúi, mắt cách vở
khoảng 25- 30cm. Hai tay để trên bàn, tay trái giữ vở, tay phải cầm bút, hai chân
để song song vuông góc với mặt bàn.
* Cách cầm bút, tay viết.
Cầm bút bằng 3 ngón tay. Ngón tay giữa ở phía dưới, ngón trỏ ở phía trên,
và ngón cái giữ bút ở phía ngoài cho ngón tay cái thẳng với cánh tay. Bàn tay để
lên trang vở, cổ tay thẳng thoải mái. Bút nghiêng về phía cánh tay khoảng 45 độ
so với mặt giấy và song song mép dọc của trang vở. Ngòi bút úp xuống mặt
giấy. Giáo viên không chú ý có những học sinh cầm bút bằng 4 ngón tay để

khuỳnh ra rất khó viết khi lên lớp trên sửa lại cho các em thật khó.
7. Đổi mới phương pháp dạy học:
Để dạy tốt phân môn Chính tả người giáo viên phải không ngừng học hỏi,
tìm tòi, và đổi mới các phương pháp sao cho phù hợp với đối tượng học sinh,
với nội dung bài dạy, với điều kiện thực tế của lớp mình. Theo tinh thần đổi mới
phương pháp giảng dạy, tiết chính tả cần tạo điều kiện để học sinh chủ động tiếp
nhận kiến thức (tự quan sát - nhận xét - ghi nhớ), tự giác luyện tập và rút kinh
nghiệm qua thực hành luyện viết dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
Học sinh lớp 1 còn rất nhỏ tuổi, các em còn mải chơi chưa xác định được
nhiệm vụ học tập của mình. Vì vậy, giáo viên phải là người hướng học sinh vào
quá trình học tập để các em chủ động tìm tòi, khám phá và chiếm lĩnh tri thức.
Muốn vậy, giáo viên cần tổ chức cho học sinh: “Học mà vui – vui mà học” qua
các hình thức và phương pháp khác nhau.
Đối với học sinh lớp 1, việc viết bài chính tả là một việc làm căng thẳng đối
với các em. Các em phải tập trung, chú ý nhiều giác quan để viết liền mạch bài
viết. Để gây hứng thú cho học sinh, để học sinh thấy thoải mái, thích thú, tiết
học sôi nổi, đạt hiệu quả cao, trong các giờ học, tôi luôn tổ chức các cuộc thi,
các trò chơi giúp các em hứng thú học tập.Qua đó, các em ghi nhớ kiến thức một
cách chủ động có hiệu quả.
Ví dụ: Dạy bài chính tả tập chép: Ngưỡng cửa. (Tiếng Việt lớp 1 – Tập 2 –
Trang 111)
16


Một số kinh nghiệm dạy phân môn Chính tả lớp 1
+ Hướng dẫn viết tiếng khó: buổi, lớp, xa tắp, con đường. Sau khi cho
học sinh đọc phân tích tiếng, từ nói trên tôi cho học sinh viết bảng con các từ đó
và cho học sinh tự nhận xét bài của bạn.
+ Bài tập 3: điền chữ g - gh
Tôi hướng dẫn học sinh quan sát SGK trang 111 tự điền chữ thích hợp để

có từ đúng ứng với câu trong đoạn văn (làm việc cá nhân). Sau đó chữa bài. Tôi
dùng máy chiếu bài của học sinh để nhận xét và chốt đáp án đúng.
Sau khi chữa bài chốt đáp án đúng tôi yêu cầu học sinh nhớ và nêu lại quy
tắc:
Viết là g khi đứng trước các nguyên âm nào?
Viết là gh khi đứng trước các nguyên âm nào?
Học sinh lớp 1, khi viết chính tả học sinh chủ yếu là tập chép. Nhưng mỗi
lần kiểm tra định kì (trong học kì II), học sinh đều phải nghe viết. Hơn nữa,
trong các buổi học, đặc biệt giờ chính tả học sinh chỉ quen nghe giọng đọc của
giáo viên chủ nhiệm. Do đó, trong các đợt kiểm tra định kì, giáo viên khác vào
lớp đọc chính tả cho các em, các em không quen giọng đọc đó. Do vậy, các em
sẽ mắc lỗi chính tả nhiều hơn. Để khắc phục tình trạng này, tôi đã có hình thức
tổ chức dạy học như sau:
+ Đến giờ chính tả nghe - viết, chủ yếu là giờ luyện Tiếng Việt tôi cùng với
giáo viên trong khối, tổ đổi lớp cho nhau để đọc chính tả cho học sinh viết, học
sinh viết song chính tả giáo viên trở về lớp của mình.
+ Cũng trong một số giờ học Tiếng Việt, giáo viên đưa ra một số từ, câu.
Sau đó, giáo viên gọi một học sinh có kỹ năng đọc tốt lên đọc cho cả lớp viết.
Với hình thức như vậy, học sinh được nghe nhiều giọng đọc khác nhau, học
sinh làm quen với các giọng đọc. Lúc đó, học sinh sẽ không bỡ ngỡ với những
giọng đọc không quen.
8. Thi đua – khen thưởng:
Để gây không khí hào hứng thi đua rèn chữ sạch đẹp, tôi thường xuyên tổ
chức các cuộc thi, cuộc triển lãm vở sạch chữ đẹp trong nội bộ lớp vào các tiết
sinh hoạt tập thể, cuối tuần (lớp học 2 buổi/ ngày ). Những bài viết đẹp, sạch sẽ
được trưng bày ở bảng danh dự cuối lớp để các em học tập. Những bài viết có
tiến bộ cũng được giáo viên nêu tên và lớp tuyên dương khuyến khích.
Qua việc tổ chức như vậy, giáo viên thấy đựơc khả năng của từng em để có
biện pháp rèn luyện phù hợp. Còn học sinh thì phấn khởi, quyết tâm giữ vở sạch
- viết chữ đẹp đạt ở mức cao nhất mình có thể.

Ngoài ra, trong giờ học tôi còn tổ chức cho học sinh “đôi bạn giúp nhau tiến
bộ” đối với học sinh của lớp. cụ thể:
+ Những học sinh đọc - viết đúng l – n hoặc ch – tr,…sẽ giúp đỡ bạn còn
đọc, viết sai ( nếu ở gần nhà nhau càng tốt ).
+ Học sinh viết chữ đẹp sẽ giúp bạn còn viết sai nét, sai chính tả.
Để việc thực hiện có hiệu quả, giáo viên chủ động xếp học sinh ngồi gần
nhau để học sinh tự sửa khi nói, khi viết cho nhau và cả khi trò chuyện cùng
nhau hay lúc ra chơi. Xưa có câu “Học thày không tày học bạn”. Chính vì vậy,
khi giáo viên giúp học sinh hiểu rõ điều này trong học tập thì việc tổ chức cho
học sinh cùng nhau học hỏi, cùng nhau thi đua, rèn luyện đó là việc làm tốt, nên
17


Một số kinh nghiệm dạy phân môn Chính tả lớp 1
làm. Sau từng tuần, từng tháng, giáo viên tổng kết, tuyên dương từng em, từng
“đôi bạn”. Nhận xét mang tính khuyến khích, động viên các em là chính.
Một trong các phương pháp giúp trẻ học tốt đó chính là phương pháp nêu
gương. Học sinh lớp 1 rất thích được khen. Vì vậy, khi học sinh đạt được thành
tích gì dù là nhỏ nhưng giáo viên cũng phải biết để động viên, khuyến khích học
sinh kịp thời. Khi viết chính tả cũng vậy, nếu thấy học sinh nào đó có tiến bộ, có
những thành tích về chữ viết dù là chút ít, tôi cũng thường tuyên dương các em
trước lớp trong giờ học đó hoặc trong giờ sinh hoạt lớp.
Ngoài ra, tôi còn kể cho học sinh nghe gương rèn chữ của ông Cao Bá Quát
ngày xưa, gương vượt khó học tập của anh Nguyễn Ngọc Ký hay gương rèn chữ
của các anh chị năm trước, đã đạt được thành tích cao trong các cuộc thi tỉnh,
huyện và các cuộc thi trong toàn quốc. Rồi cho học sinh xem vở rèn chữ của cô,
của những học sinh tiêu biểu. Từ đó, giúp học sinh thêm quyết tâm say mê rèn
chữ viết của mình
9. Phối hợp chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường:
Một trong những nguyên nhân dẫn đến thực trạng học sinh viết chính tả

chưa tốt đó là phụ huynh học sinh. Thì ngược lại, một trong những người giúp
các em đọc - viết chính tả tốt đó cũng chính là phụ huynh học sinh.
Đối với học sinh lớp 1, mỗi nét chữ của học sinh không chỉ có bàn tay của
cô giáo mà còn có sự hỗ trợ rất lớn của cha mẹ các em.
Chính vì vậy mà giáo viên cần biết kết hợp cùng với phụ huynh để trao đổi
cùng nhau tìm ra biện pháp tốt nhất giúp học sinh khắc phục những nhược điểm
đó.
Cần giúp cho phụ huynh học sinh hiểu rằng, chính bản thân họ cũng phải
đọc chuẩn - viết chuẩn thì việc rèn chính tả cho con em họ mới có hiệu quả cao.
Vì vậy ngay từ cuộc họp cuối học kì 1 tôi đã thông báo kết quả học tập của các
con trong học kì 1 qua đó tôi cũng hướng dẫn các bậc phụ huynh cách hướng
dẫn con học ở nhà và mong muốn các bậc phụ huynh hãy quan tâm, kiểm tra,
giúp đỡ con em mình hơn nữa. Đặc biệt là chương trình Tiếng việt ở học kỳ II
có nhiều thay đổi, mức độ của chương trình được nâng cao, so với học kỳ I học
sinh chỉ học âm, ghép vần nhưng học kỳ II các em được tiếp cận với nhiều phân
môn như: Tập đọc, Chính tả, Tập viết, Kể chuyện, mỗi phân môn có những đặc
thù riêng. Mỗi tuần các em được học 2 tiết với hình thức chính tả tập chép và
chính tả nghe/ viết.
Riêng phân môn Chính tả là phân môn hoàn toàn mới lạ đối với các em, khi
học bài chính tả nghe/viết học sinh phải vận dụng các kĩ năng nghe, viết, mà
phải nắm được quy tắc chính tả mới viết chính xác bài viết ….
Nếu có những trường hợp cá biệt vì hoàn cảnh gia đình mà ít quan tâm đến
đến việc học của con em dẫn đến tình trạng các em lơ là việc học, tôi trao đổi
riêng sau giờ họp nêu rõ lực họcvà khả năng học chính tả của các em, ngoài giờ
học trên lớp thì sự hỗ trợ của phụ huynh ở nhà là vô cùng quan trọng. Tôi tha
thiết mong được sự hỗ trợ đắc lực của phụ huynh để cùng với giáo viên, nhà
trường giúp các em học tập tốt.

18



Một số kinh nghiệm dạy phân môn Chính tả lớp 1

IV. Kết quả đạt được:
Tóm lại phân môn chính tả là một trong những phân môn Tiếng Việt ở tiểu
học và là một môn học có ví trí rất quan trọng đối với học sinh đầu cấp.
Việc rèn chữ viết cho học sinh là trách nhiệm của mỗi thầy cô giáo. Rèn được
học sinh viết chữ đẹp là niềm vui của thầy cô, hạnh phúc của trẻ và là niềm tự
hào của cha mẹ. Nhưng chúng ta không chỉ rèn đọc - viết cho học sinh trong
chốc lát, mà đó là cả một quá trình rèn luyện lâu dài và liên tục. Vì vậy, đòi hỏi
người giáo viên phải có năng lực chuyên môn vững vàng, có lòng yêu nghề mến
trẻ, giáo viên cần có tính cẩn thận tỉ mỉ, tránh nóng nảy. Có vậy việc rèn chính tả
cho học sinh mới thành công. Không chỉ có vậy, người giáo viên cần phải lựa
chọn, phối hợp sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học sao cho phù hợp với
nội dung từng bài, với đối tượng học sinh, tạo điều kiện cho các em chủ động
tìm và lĩnh hội kiến thức.
Trong mọi giờ học, giáo viên chỉ đóng vai trò là người hướng dẫn, định
hướng hoạt động cho các em. Vì vậy, người giáo viên cần không ngừng học hỏi,
tìm tòi, đổi mới phương pháp dạy học để giờ học sôi nổi, học sinh hào hứng học
tập tiếp thu bài một cách chủ động. Học sinh lớp 1 rất thích được khen. Lời khen
kịp thời sẽ giúp các em có hứng thú học tập và mau tiến bộ. Do vậy, giáo viên
phải biết động viên khuyến khích các em kịp thời, giúp các em tự tin hơn trong
học tập.
Rèn kỹ năng viết chính tả không chỉ đòi hỏi yêu cầu ở người thầy hướng
dẫn, mà phần quyết định đó chính là học sinh. Học sinh phải biết lắng nghe, biết
tiếp thu ý kiến đóng góp của bạn, của thầy; chịu khó tự giác học tập rèn luyện
dưới sự dẫn dắt của thầy cô.
Trong quá trình giảng dạy, tôi đã áp dụng các biện pháp trên và nhận thấy
học sinh có tiến bộ rõ rệt. Học sinh hứng thú trong giờ học chính tả không còn
“sợ” học chính tả như trước đây.


19


Một số kinh nghiệm dạy phân môn Chính tả lớp 1

PHẦN III: KẾT LUẬN – KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận:
Sau khi áp dụng các giải pháp trên vào thực tiễn giảng dạy trong năm học
vừa qua tôi thấy: Dù học sinh mới được làm quen và thực hành viết chính tả
nhưng tình trạng học sinh mắc những lỗi về chính tả đã giảm hẳn. Cụ thể:
Không có học sinh nào mắc lỗi về trình bày, kể cả ở trình bày đoạn văn, đoạn
thơ hay bài thơ. Học sinh hiểu nghĩa từ - ghi nhớ từ, đọc - phát âm tốt nắm được
qui tắc chính tả, các em đã viết đúng khoảng cách giữa chữ với chữ, giữa từ với
từ …cách viết dấu chấm, dấu phẩy. các em viết đúng tốc độ, bài viết sạch đẹp,
không mắc lỗi chính tả. Nhờ được rèn đọc, rèn viết ngay từ đầu năm, trong tất
cả các môn học nên đến nay các em đã đọc rất tốt, đặc biệt là học sinh đã tự
chép hoặc nghe - viết một bài chính tả theo đúng mẫu yêu cầu của cô. Trong các
bài thi viết chính tả do giáo viên trong tổ tự tổ chức vào các buổi chiều (luyện
Tiếng Việt) học sinh đã viết, trình bày bài chính tả đúng và đẹp, không còn bị
bỡ ngỡ do không phải là giáo viên chủ nhiệm đọc chính tả. Học sinh tự tin khi
viết và làm bài.
2. Bài học kinh nghiệm.
Từ những kết quả đã gặt hái được, giờ đây, tôi đã đúc kết được một số kinh
nghiệm như sau:
Giáo viên phải thật sự yêu nghề, có trách nhiệm trong giảng dạy, chịu khó
kiên nhẫn trong việc uốn nắn học sinh.
Phát hiện lỗi chính tả, thống kê, tìm nguyên nhân mắc lỗi từ đó đưa ra
hướng khắc phục là không thể thiếu trong quá trình giảng dạy.
Muốn dạy tốt phân môn chính tả, giáo viên cần phải rèn luyện cho mình

giọng đọc to rõ ràng và diễn cảm đễ thu hút sự chú ý của học sinh. Khi đọc, giáo
viên phải đọc chính xác, đọc chậm rãi, thong thả. Đó là điều quan trọng để khi
học sinh nghe được rõ ràng và viết đúng chính tả.
Bên cạnh đó giáo viên cần quan tâm đến các em học sinh trong giờ dạy học
và đặc biệt là đối tượng học sinh yếu kém. Giáo viên phải rèn luyện, hướng dẫn
khéo léo, mềm mỏng với những học sinh cá biệt. Phải dùng nhiều hình thức rèn
luyện, khen thưởng và động viên các em kịp thời. Để kết quả phân môn Chính
tả đạt hiệu quả cao, giáo viên luôn đào sâu suy nghĩ, tìm tòi hình thức phù hợp
để dạy, luôn đưa được những điều đã được tìm hiểu kỹ vào bài giảng. Phối hợp
linh hoạt các phương pháp và hình thức tổ chức học tập, để tiết học diễn ra nhẹ
nhàng thu hút học sinh.
Giáo viên phải luôn tích cực tự bồi dưỡng, sưu tầm, trau dồi ở đồng nghiệp
và không ngừng học hỏi để nâng cao trình độ chuyên môn. Phải phối hợp chặt
chẽ giữa nhà trường và gia đình, tạo điều kiện nhắc nhở, kiểm tra học sinh rèn
thêm ở nhà, có như vậy các em sẽ nhanh tiến bộ trong học tập.
Người giáo viên không nên bằng lòng với kết quả đã đạt được, nên tìm tòi
khám phá, cập nhật thông tin để làm phong phú phương pháp và hình thức dạy

20


Một số kinh nghiệm dạy phân môn Chính tả lớp 1
học cho mỗi tiết học luôn là những điều mới mẻ tạo cho học sinh hứng thú, say
mê môn học, nhằm phát huy tính tích cực của học sinh.
3. Đề xuất- khuyến nghị:
Thực tế cho thấy: Khi áp dụng những biện pháp nêu trong đề tài vào trong
giảng dạy, tôi đã thu được những kết quả đáng mừng (như đã nêu trên). Tôi
nghĩ, đề tài của tôi có thể phổ biến, áp dụng rộng rãi và chắc chắn sẽ cho hiệu
quả cao.
Về phía bản thân, trong thời gian tới, tôi sẽ vẫn tiếp tục áp dụng những kinh

nghiệm đã nêu trên đồng thời cùng trao đổi trong tổ chuyên môn để học tập
thêm những cách làm khác của bạn bè nhằm giúp học sinh có được kết quả học
tập nội dung này một cách cao nhất.
Với thời gian có hạn, ở bài viết này có lẽ còn những chỗ trình bày, diễn đạt
chưa thật rõ ràng và cũng không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi mong nhận
được sự góp ý kiến của bạn bè đồng nghiệp khi đọc sáng kiến kinh nghiệm này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!

21


Một số kinh nghiệm dạy phân môn Chính tả lớp 1

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Dạy chính tả ở trường Tiểu học: Hoàng Văn Thung, Đỗ Xuân Thảo.
2. Phương pháp dạy Tiếng Việt 1: Lê Phương Nga, Đỗ Xuân Thảo, Lê Hữu
Tỉnh, Đặng Kim Nga.
3. Phương pháp dạy Tiếng Việt 2: Lê Phương Nga, đỗ Xuân Thảo, Lê Hữu Tỉnh,
Đặng Kim Nga.
4. Sách giáo viên Tiếng Việt lớp 1 Tập 2.
5. Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 1 Tập 1.
6. Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 1 Tập 2.
7. Vở bài tập Tiếng Việt lớp 1 Tập 2

22


Một số kinh nghiệm dạy phân môn Chính tả lớp 1

23




×