Tải bản đầy đủ (.docx) (65 trang)

CHƯƠNG II TÌNH HÌNH THỰC HIỆN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM THỜI GIAN QUA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (447.85 KB, 65 trang )

CHƯƠNG II TÌNH HÌNH THỰC HIỆN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC
NGOÀI TẠI VIỆT NAM THỜI GIAN QUA
I. ĐÁNHGIÁTỔNGQUANVỀ FDI TẠI VIỆT NAM
1. Thực trạng cấp giấy phép đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1. Tình hình chung
Từ khi Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam có hiệu lực cho đến hết tháng 12 năm
2000, Nhà nước ta đã cấp giấy phép cho 3254 dựán đầu tư trực tiếp nước ngoài với
tổng số vốn đăng ký là 38.553 triệu USD. Tính trung bình mỗi năm chúng ta cấp phép
cho 250 dựán với mức 2965,62 triệu USD vốn đăng ký. Cũng trong thời gian này, đã
có 1067 dựán mở rộng quy mô vốn đầu tư với lượng vốn bổ sung thêm là 6034 triệu
USD. Như vậy tổng số vốn cấp mới và bổ sung đến thời điểm hết năm 2000 đạt
khoảng 44.587 triệu USD.
Trong số các dựán đã nêu trên, đã có 30 dựán hết hạn hoạt động với số vốn hết
hạn là 291 triệu USD. Bên cạnh đó, đã có một số lượng đáng kể dựán bị giải thể, rút
giấy phép đầu tư (645 dựán), lượng vốn giải thể là 7952 triệu USD, chiếm gần 21%
tổng lượng vốn đăng ký. Như vậy, tính đến ngày 15/03/2001, tổng số dựán còn hiệu lực
là 2701 với tổng vốn đăng ký (kể cả phần vốn bổ sung) là 36.329,775 triệu USD.
Nhịp độ thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của ta có xu hướng tăng nhanh từ
1988 đến 1995 cả về số dựán cũng như vốn đăng ký. Riêng năm 1996 sở dĩ có lượng
vốn đăng ký tăng vọt là do có 2 dựán đầu tư vào lĩnh vực phát triển đô thịở Hà Nội và
TP Hồ Chí Minh được phê duyệt với quy mô dựán lớn (hơn 3 tỷ USD/ dựán). Như vậy
nếu xét trong cả thời kỳ 1988-2000 thì năm 1995 có thểđược xem là năm đỉnh cao về
thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam (cả về số dựán, vốn đăng ký cũng
như quy mô dựán). Từ năm 1997 đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam có biểu
hiện suy giảm, nhất làđến các năm 1998, 1999 thì xu hướng giảm đó càng rõ rệt hơn.
So với năm 1997, số dựán được duyệt của năm 1998 chỉ bằng 79,71%, năm 1999 chỉ
bằng 80,58%. Số liệu tương ứng của vốn đăng ký là 83,83% và 33,01%. Trong các năm
này, số dựán giải thể và số lượng vốn giải thể tăng mạnh. Lượng vốn giải thể năm 1998
là 2428 triệu USD, gấp 4,5 lần so với năm 1997. Đến năm 2000, sự giảm sút có chiều
hướng dừng lại và bắt đầu có sự phục hồi. Số dựán và lượng vốn đầu tư của năm 2000
đã tăng lên so với năm 1999, tuy nhiên vẫn còn khá nhỏ so với cả những năm 1997 và


1998.
Nếu nhìn lại một cách thuần tuý trên cơ sở các con số thì có thể nói chúng ta đã
ngăn chặn được đà giảm sút đầu tư. Song nếu nhìn nhận một cách tổng quát và khách
quan hơn, thì vẫn còn khá nhiều thách thức trong tương lai. Nếu không tính đến dựán
khí Nam Côn Sơn (1080 triệu USD) được cấp phép vào những ngày cuối cùng trong
năm, thì trên thực tế năm 2000, tổng vốn FDI đăng ký chỉđạt 1318 triệu USD, thấp hơn
nhiều so với năm 99 (2196 triệu USD). Dựán này đã hình thành từ nhiều năm trước
nhưng bị trắc trở chủ yếu do vấn đề giá cả về khí giữa các đối tác. So với năm 1999, số
dựán tăng vốn chỉ bằng 94% (153/163 dựán) và số vốn tăng thêm chỉ bằng 68%
(427/629 triệu USD).
Bảng 1: Tình hình thực hiện FDI qua các năm
Đơn vị : triệu USD
Chỉ tiêu
Số dựán đầu tư Vốn đăng ký cấp mới và tăng vốn
Cấp
mới
Lượt
tăng vốn
Giải
thể
Hết
hạn
Vốn
đăng ký
Tăng
vốn
Giải
thể
Hết
hạn

Còn hiệu
lực
Tổng
88-2000
3254 1067 645 30 38553 6034 7952 291
3 năm
88-90
214 1 6 2 1582 0.3 26 0.3 1556
1991 151 9 37 2 1275 9 240 1 2598
1992 197 13 48 3 2027 50 402 13.9 4260
1993 274 60 34 4 2589 240 79 38 6971
1994 367 84 60 1 3746 516 292 0.1 10941
1995 408 151 58 3 6607 1318 509 45.5 18311
5 năm
91-95
1397 262 237 12 16244 2132 1522 98.6
1996 365 162 54 4 8640 788 1141 146.1 26453
1997 348 164 85 6 4649 1173 544 24.4 31706
1998 275 162 101 2 3897 884 2428 19.1 34040
1999 311 163 85 2 1568 629 624 1.1 35613
2000 344 153 77 2 1973 427 1666 1.9 36344
5 năm
96-2000
1643 804 402 16 20727 3902 6403 193
Vốn còn hiệu lực = vốn cấp mới + tăng vốn - vốn hết hạn - vốn giải thể
Nguồn : Vụ Quản lý dựán - Bộ KH-ĐT
Trong bối cảnh đầu tư quốc tế vào các nước ASEAN suy giảm và môi trường đầu
tưở nước ta vẫn còn những hạn chế nhất định, sự phục hồi bước đầu của đầu tư nước
ngoài qua các số liệu nêu trên là các dấu hiệu rất đáng khích lệ và là một phần hệ quả
từ các tác động tích cực của các giải pháp thu hút đầu tư mà Chính phủđã thực thi trong

những năm gần đây. Tuy nhiên chúng ta cần nỗ lực hơn nữa để tạo ra sự phục hồi thực
sự vững chắc trong lĩnh vực này.
Quy mô dựán đầu tư (triệu USD/ dựán)
Năm 91 92 93 94 95 96 97 98 99 2000
Quy mô
8.76 11 10.8 10.98 17.6 26.1 13.5 14.2 5.52 5.73
Nguồn : Những vấn đề kinh tế thế giới, Số 2(64) 2000.
Nếu theo số lượng vốn đăng ký thì quy mô dựán thời kỳ 1988 - 2000 là 11,85 triệu
USD / 1dựán. So với một số nước ở thời kỳđầu thực hiện chính sách thu hút đầu tư
trực tiếp nước ngoài thì quy mô dựán đầu tư vào nước ta bình quân ở thời kỳ này là
không thấp. Nhưng vấn đềđáng quan tâm là quy mô dựán theo vốn đăng ký bình quân
của năm 1999 và năm 2000 lại nhỏđi một cách đột ngột vàở mức thấp nhất từ trước
đến nay (5,52 triệu USD/ 1dựán năm 1999 và 5,73 triệu USD/ 1dựán năm 2000). Quy
mô dựán năm 2000 chỉ bằng 48,35% quy mô dựán bình quân của thời kỳ 1988 - 2000
và bằng 32,4% so với quy mô dựán bình quân của năm cao nhất (năm 1995, ta không
so sánh với năm 1996 vì có 2 dựán đặc biệt nhưđã nêu trên), trong khi quy mô dựán
bình quân của năm 2000 đã có sự tăng trưởng so với của năm 1999. Đây là những vấn
đề rất cần được lưu tâm trong chiến lược thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của
nước ta thời gian tới.
1.2. Các đối tác được cấp giấy phép đầu tư
Tính đến hết năm 2000 đã có hơn 700 công ty thuộc 66 nước và vùng lãnh thổ
(gọi tắt là các nước) có dựán đầu tư trực tiếp tại Việt Nam. Nếu chỉ tính các dựán còn
hiệu lực, tới ngày 15/03/2001 có 58 nước cóđầu tư trực tiếp tại Việt Nam trong đó 12
nước có tổng số vốn đăng ký hơn 1 tỷ USD mỗi nước. Chỉ với 12 nước (bằng 20,6% số
nước) đã chiếm tới 85,54% tổng số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam
(Singapore: 18,22%; Đài Loan: 13,74%; Nhật Bản:10,69%; Hàn Quốc: 8,76%; Hồng
Kông: 7,83%; Pháp: 5%; Quần đảo Virgin: 4,92%; Nga: 4,07%; Hà Lan: 3,25%;
Vương quốc Anh: 3,2%: Thái Lan: 3,03%; Malaixia: 2,83%). Trong tổng số vốn đầu tư
của 12 nước này thì có tới trên 70% là thuộc các nước Châu Á. Các nhàđầu tư Châu Á
vào muộn hơn nhưng tốc độ tăng nhanh với quy mô rộng lớn trên nhiều lĩnh vực. Điều

đó chứng tỏ môi trường đầu tư của Việt Nam hiện đang thu hút được sự quan tâm của
các nhàđầu tư Châu Á. Và trình độ, điều kiện, khả năng của các nhàđầu tư Châu Á
cũng phù hợp với điều kiện, yêu cầu phát triển của Việt Nam trong thời gian qua. Đồng
thời đây cũng là nguyên nhân làm cho nền kinh tế nước ta phải chịu ảnh hưởng khá
mạnh của cuộc khủng hoảng tiền tệ khu vực Châu Á.
Trong khi đó, nguồn vốn đầu tư từ các nước công nghiệp phát triển khác
nhưĐức, Mỹ, Anh...còn chiếm tỷ trọng tương đối thấp, chứng tỏ môi trường đầu tưở
Việt Nam chưa gây được sự chúý nhiều của các nhàđầu tư phương Tây và Mỹ.
Bảng 2: 12 đối tác nước ngoài đầu tư lớn nhất vào Việt Nam
(Tính đến 15/03/2001 - chỉ tính các dựán còn hiệu lực)
Đơn vị : triệu USD
STT
Nước
Vùng lãnh thổ
Số dựán
Tổng vốn
đầu tư
Vốn pháp
định
Đầu tư
thực hiện
1 Singapore 236 6619,871 2036,066 2048,154
2 Đài Loan 662 4990,669 2120,096 2411,855
3 Nhật Bản 304 3884,892 1927,881 2623,879
4 Hàn Quốc 277 3181,738 1226,648 1911,570
5 Hồng Kông 208 2844,499 1231,076 1431,662
6 Pháp 107 1818,607 1219,716 587,320
7 Virgin Islands 107 1786,941 695,456 858,341
8 Liên bang Nga 35 1479,722 916,897 600,255
9 Hà Lan 40 1179,956 951,962 504,055

10 V. Quốc Anh 35 1163,254 394,840 670,909
11 Thái Lan 93 1102,472 441,250 494,310
12 Malaixia 81 1026,914 476,433 876,157
Nguồn : Vụ Quản lý dựán ĐTNN - Bộ KH-ĐT
Tuy vậy cho đến nay, trong số các nhàđầu tư nước ngoài vào Việt Nam thì sự có
mặt của các nhàđầu tư thuộc các tập đoàn lớn chưa nhiều (mới có khoảng 50/500 tập
đoàn kinh tế lớn của thế giới có dựán đầu tư tại Việt Nam), còn lại chủ yếu là các công
ty vừa và nhỏ và không ít các nhà môi giới đầu tư. Các tập đoàn lớn, có năng lực tài
chính và công nghệ, chủ yếu là của Hàn Quốc và Nhật Bản. Còn trong số các nhàđầu tư
Châu Á nếu không kể các nhàđầu tư Nhật Bản và Hàn Quốc thì phần lớn là người Hoa.
Đây làđặc điểm rất cần được chúý trong việc lựa chọn các đối tác đầu tư sắp tới nhằm
làm cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài theo yêu cầu của công cuộc công nghiệp
hóa, hiện đại hóa của ta đạt hiệu quả hơn.
1.3. Cơ cấu đầu tư theo vùng lãnh thổ
Với mong muốn hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần làm chuyển dịch
cơ cấu giữa các vùng kinh tế nên Chính phủ ta đã có những chính sách khuyến khích,
ưu đãi đối với các dựán đầu tư vào “những vùng cóđiều kiện kinh tế - xã hội khó khăn,
miền núi, vùng sâu, vùng xa”. Tuy vậy, các cấp độưu đãi chưa tương ứng với mức độ
chênh lệch vềđiều kiện giữa các vùng do đó, vốn nước ngoài vẫn được đầu tư tập trung
chủ yếu vào một sốđịa bàn cóđiều kiện thuận lợi về kết cấu hạ tầng và môi trường kinh
tế-xã hội. Nói riêng trong lĩnh vực nông lâm nghiệp, các dựán đầu tư tập trung chủ yếu
vào các vùng Đông Nam Bộ, đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu Long. Riêng
3 vùng này đã chiếm tới 63,5% số dựán và 70% vốn đầu tư. Trong khi đó, có 15 tỉnh
thuộc trung du và miền núi phía Bắc, tuy vẫn là những địa bàn có nhiều tiềm năng mở
rộng và phát triển nông lâm nghiệp và có nhu cầu lớn về thu hút đầu tư, nhưng do
cóđiều kiện khó khăn nên hầu như chưa có dựán đầu tư nước ngoài nào vào lĩnh vực
nông lâm nghiệp ở các vùng này.
Hoạt động đầu tư tập trung ở các tỉnh phía Bắc và phía Nam, các tỉnh miền Trung
chiếm tỷ lệ rất nhỏ. Riêng vùng Đông Nam Bộđã chiếm tới 53,13% tổng lượng vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài của cả nước, trong khi vùng Tây Bắc và Tây Nguyên chiếm

chưa đầy 1%. Sự phân bổ FDI cũng chênh lệch rất nhiều giữa khu vực thành thị và
nông thôn. Trên 80% tổng số vốn đầu tư tập trung ở khu vực thành thị, chỉ còn chưa tới
20% cho khu vực nông thôn, trong khi 80% dân số Việt Nam sinh sống ở nông thôn,
làm cho khoảng cách thu nhập giữa hai khu vực ngày càng lớn.
Vốn đầu tư vào các vùng (1988-1999) được xếp thứ tự như sau:
Bảng 3: Cơ cấu đầu tư theo vùng (%)
1. Đông Nam Bộ 53,13 5. Đồng bằng sông Cửu Long 2,46
2. Đồng Bằng sông Hồng 29,6 6. Bắc Trung Bộ 2,38
3. Duyên hải Nam Trung Bộ 7,64 7. Tây Nguyên 0,16
4. Đông Bắc 4,46 8. Tây Bắc 0,15
Nguồn : Những vấn đề kinh tế thế giới, Số 2 (64) 2000.
Cũng trong thời kỳ này, nếu như hai thành phố lớn là Hà Nội và TP Hồ Chí Minh
đã chiếm tới hơn nửa (50,3%) tổng số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của cả nước thì
10 địa phương cóđiều kiện thuận lợi cũng chiếm tới 87,8%. TP Hồ Chí Minh chiếm
26,6% tổng vốn đăng ký của cả nước. Số liệu tương ứng của các địa phương tiếp theo
như sau : Hà Nội: 21,15%; Đồng Nai: 12,5%; Bình Dương: 6,4%. Đến nay, phần lớn
các tỉnh, thành phốđều đã có hoạt động hợp tác đầu tư với nước ngoài. Tuy nhiên, trừ
hoạt động thăm dò và khai thác dầu khíở thềm lục địa, vốn đầu tư tập trung nhiều vào 3
vùng kinh tế trọng điểm là những nơi có nhiều thuận lợi. Vùng kinh tế trọng điểm phía
Nam, với ưu thế vượt trội về cơ sở hạ tầng, sự thuận lợi về giao thông thủy, bộ, hàng
không và năng động trong kinh doanh là vùng thu hút được nhiều vốn FDI nhất, 1.378
dựán, chiếm 57% tổng số dựán của cả nước, vốn đầu tưđăng kýđạt 17,3 tỷ USD, chiếm
đến 48% tổng vốn đăng ký cả nước. Đây cũng là vùng kinh tế sôi động nhất của cả
nước, chiếm đến 66% giá trị doanh thu và 84% giá trị xuất khẩu của khu vực FDI năm
1999. Vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, đứng đầu là thủđô Hà Nội, trung tâm chính trị
và kinh tế của cả nước là vùng thu hút FDI thứ hai, với 493 dựán còn hiệu lực chiếm
20,5% về số dựán và 30% tổng vốn đăng ký, làđầu tàu phát triển của cả khu vực phía
Bắc. Trên địa bàn kinh tế trọng điểm miền Trung, tính riêng dựán lọc dầu Dung Quất
với tổng số vốn đầu tưđăng ký 1,3 tỷ USD đã cao hơn tổng vốn đăng ký của 113 dựán
tại đồng bằng sông Cửu Long là 300 triệu USD. Dưới đây là số liệu về 10 địa phương

có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cao nhất:
Bảng 4: Mười địa phương có vốn đầu tư cao nhất
(Tính đến 15/03/2001 - chỉ tính các dựán còn hiệu lực)
Đơn vị : triệu USD
STT
Địa phương
Số
dựán
Tổng vốn
đầu tư
Vốn pháp
định
Đầu tư thực
hiện
1 TP Hồ Chí Minh 921 9673,464 4610,524 4641,441
2 Hà Nội 365 7684,434 3364,454 2773,569
3 Đồng Nai 287 4534,895 1741,576 2119,190
4 Bình Dương 393 2325,312 1083,049 1057,800
5 Dầu khí 24 1788,000 1263,000 1955,487
6 Quảng Ngãi 5 1327,723 813,000 555,458
7 Hải Phòng 86 1283,294 570,218 915,483
8 Bà Rịa-Vũng Tàu 67 1203,097 502,946 397,702
9 Lâm Đồng 46 841,767 101,305 86,155
10 Quảng Ninh 38 617,021 218,516 174,283
Nguồn : Vụ Quản lý dựán - Bộ KH-ĐT
Các số liệu trên cũng phần nào nói lên rằng vấn đề thu hút vốn đầu tư nước ngoài
theo vùng lãnh thổđể kết hợp hoạt động này với việc khai thác các tiềm năng trong
nước đạt kết quả chưa cao. Cơ cấu FDI theo vùng còn nhiều bất hợp lý. Như vậy, đây
cũng là một trong những vấn đề rất cần được chúýđểđiều chỉnh hoạt động của chúng ta
trong thời gian tới đối với lĩnh vực này.

1.4. Cơ cấu đầu tư theo ngành kinh tế
Những năm đầu 1988-1990, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài phần lớn tập trung
vào lĩnh vực thăm dò, khai thác dầu khí (32,2%) và khách sạn, du lịch, căn hộ cho thuê
(20,6%). Nhưng từ năm 1994 trở lại đây, đầu tư vào khu vực sản xuất vật chất của nền
kinh tế ngày càng gia tăng (nhất là lĩnh vực công nghiệp). Hiện nay, các dựán đầu tư
vào ngành công nghiệp chiếm tỷ trọng lớn nhất cả về số lượng dựán lẫn vốn đầu tư,
tiếp đến là các lĩnh vực khách sạn, du lịch và dịch vụ. Các ngành nông, lâm nghiệp có
số dựán khá lớn nhưng vốn thấp, chỉ chiếm 5,79% tổng vốn đầu tư, chứng tỏ quy mô
dựán ở lĩnh vực này tương đối nhỏ. Quy mô dựán đầu tư vào ngành thủy sản là nhỏ
nhất, khoảng 3 triệu USD. Ngành dịch vụ có quy môđầu tư lớn nhất, khoảng 25 triệu
USD/dựán, nếu không tính 2 dựán xây dựng khu đô thị mới tại Hà Nội thì quy mô bình
quân 1 dựán là 21,7 triệu USD.
Tính đến ngày 15/03/2001, khu vực công nghiệp có 1715 dựán đầu tư trực tiếp
nước ngoài còn hiệu lực, với tổng vốn đầu tư 19430,413 triệu USD, chiếm 53,5% tổng
vốn FDI của cả nước; tiếp theo là ngành dịch vụ với 638 dựán và lượng vốn đầu tư
14796,008 triệu USD, chiếm 40,73%; khu vực nông lâm nghiệp có 348 dựán với số
vốn đầu tư 2103,353 triệu USD, chiếm 5,77% tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của
cả nước. Vốn đầu tư vào công nghiệp chủ yếu tập trung vào các ngành công nghiệp
nặng, sau đó dến công nghiệp nhẹ, xây dựng, công nghiệp dầu khí và công nghiệp thực
phẩm . Ngành dịch vụ các dựán tập trung vào xây dựng văn phòng, căn hộ, xây dựng
khu đô thị mới; khách sạn du lịch, giao thông vận tải và bưu điện.
Bảng 5: Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo ngành
(Tính đến 15/03/2001 - chỉ tính các dựán còn hiệu lực)
Đơn vị : triệu USD
Chuyên ngành
Số dựán Tổng vốn
đầu tư
Vốn pháp
định
Đầu tư

thực hiện
Công nghiệp
1715 19430,413 8824,962 11037,702
CN dầu khí
29 3154,826 2094,106 2555,553
CN nhẹ
681 4198,597 1859,332 2022,423
CN nặng
659 6616,185 2784,646 3526,042
CN thực phẩm
142 2303,174 971,524 1318,477
Xây dựng
204 3157,628 1115,352 1615,207
Nông, lâm nghiệp
348 2103,354 992,655 1209,544
Nông-Lâm nghiệp
298 1942,614 912,947 1113,656
Thủy sản
50 160,739 79,708 95,888
Dịch vụ
638 14796,008 6547,210 5595,08
GTVT- Bưu điện
93 2571,986 2027,826 849,204
Khách sạn-Du lịch
123 3497,052 1126,845 1853,834
Tài chính-Ngân hàng
49 552,250 521,650 494,535
Văn hóa-Y tế- GD
92 566,045 243,832 144,568
XD Khu đô thị mới

3 2466,674 675,183 0,394
XD Văn phòng-Căn hộ
116 3781,909 1351,182 1640,271
XD hạ tầng KCX-KCN
13 807,221 274,961 460,988
Dịch vụ
149 552,870 325,729 151,285
Tổng số 2701 36329,775 16364,827 17842,325
Nguồn : Vụ Quản lý dựán ĐTNN - Bộ KH-ĐT
Thực trạng cơ cấu vốn đầu tư vào các ngành, các lĩnh vực kinh tếđang đặt ra
những vấn đề cần suy nghĩ. Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực nông, lâm nghiệp
vốn đãít lại đang có xu hướng chững lại và giảm dần vìđây là lĩnh vực chịu nhiều rủi
ro, thời gian thu hồi vốn dài, trình độ quản lý dựán còn nhiều hạn chế. Đến cuối 1999,
trong lĩnh vực này đã có tới 74 dựán đầu tư nước ngoài bị giải thể trước thời hạn với số
vốn 287 triệu USD. Trong đó 35 dựán thuộc lĩnh vực trồng trọt và chế biến nông sản,
39 dựán chế biến gỗ và lâm sản.
Vốn đầu tư nước ngoài vào các ngành như trên đã biểu hiện phù hợp các chỉ số
của cơ cấu kinh tế hiện đại, công nghiệp hóa: Công nghiệp - Dịch vụ - Nông nghiệp.
Tuy vậy, trong điều kiện ở giai đoạn đầu tiến hành CNH-HĐH và với đặc trưng của
nền kinh tế trong đó nông nghiệp nhiệt đới đang là một trong những thế mạnh của Việt
Nam thì tình hình thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực này như hiện nay còn khoảng
cách khá xa so với yêu cầu, mong muốn và mục tiêu mà chúng ta đặt ra. Sở dĩ như vậy
là vìđối với Việt Nam, nông nghiệp là một trong những lĩnh vực đang có nhiều tiềm
năng mà chúng ta chưa cóđiều kiện để khai thác. Và, từđặc điểm phân bố dân cư, lao
động, việc làm như hiện nay thì sự thành công trong phát triển nông thôn, nông nghiệp
là một trong những chỉ tiêu cơ bản đểđánh giá thành công của sự nghiệp CNH-HĐH.
Thực hiện CNH-HĐH trong nông thôn, nông nghiệp cũng tức là tạo được việc làm và
thu nhập cho sốđông lao động cũng như tác động làm chuyển biến đáng kểđến sản xuất
vàđời sống của đa số nhân dân Việt Nam.
1.5. Cơ cấu đầu tư theo hình thức đầu tư

Trong giai đoạn 1988-1999, liên doanh là hình thức phổ biến nhất của đầu tư trực
tiếp nước ngoài tại Việt Nam, chiếm tới khoảng 60% số dựán và 70% vốn đăng ký.
Hiện nay, trong số các dựán còn hiệu lực thì hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước
ngoài chiếm tỷ lệ lớn về số dựán (56,64%), tuy nhiên vốn đầu tư chỉ chiếm 30,17%
tổng vốn đầu tư FDI. Đối với hình thức liên doanh, các con số này là 38,47% và
58,33%.
Bảng 6: Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hình thức đầu tư
(Tính đến 15/03/2001 - chỉ tính các dựán còn hiệu lực)
Đơn vị : triệu USD
Hình thức đầu tư Số DA Tổng VĐT Vốn PĐ Vốn TH
Tỷ lệ (%)
BOT
4 415,125 140,030 37,112 1.14
Hợp đồng hợp tác KD
128 3762,541 3156,998 2645,37 10,36
100% vốn nước ngoài
1530 10962,092 4863,514 5236,300 30,17
Liên doanh
1039 21190,017 8204,284 9923,542 58.33
Tổng số 2701 36329,775 16364,826 17842,325
100%
Nguồn : Vụ Quản lý dựán ĐTNN - Bộ KH-ĐT
Sở dĩ hình thức liên doanh chiếm tỷ lệ lớn là do thời kỳđầu, các thủ tục để triển
khai dựán còn đòi hỏi nhiều giấy tờ, lại phải thông qua nhiều khâu, nhiều nấc và rất
phức tạp, người nước ngoài còn ít hiểu biết về các điều kiện kinh tế-xã hội và pháp luật
của Việt Nam, họ thường gặp khó khăn trong giao dịch, quan hệ cùng một lúc với khá
nhiều cơ quan chức năng của Việt Nam để cóđược đầy đủ các điều kiện triển khai xây
dựng cơ bản cũng như tổ chức thực hiện dựán đầu tư. Trong hoàn cảnh như vậy, đa số
các nhàđầu tư thích lựa chọn hình thức liên doanh để bên Việt Nam đứng ra lo các thủ
tục pháp lý cho sự hoạt động của doanh nghiệp hiệu quả hơn.

Sau một thời gian hoạt động trong môi trường đầu tưở Việt Nam, các nhàđầu tư
nước ngoài, đặc biệt là các nhàđầu tư Châu Á cóđiều kiện hiểu biết hơn về pháp luật,
chính sách, phong tục tập quán và cách thức hoạt động kinh doanh ở Việt Nam. Vì vậy,
nhu cầu cóđối tác Việt Nam giảm đi một cách đáng kể. Không những thế, khi tham gia
liên doanh, khả năng của phía Việt Nam thường yếu cả về vốn đóng góp lẫn cán bộ
quản lý, mặt khác nhiều nhàđầu tư nước ngoài không muốn chia sẻ quyền điều hành
doanh nghiệp với bên Việt Nam nên họ thấy không cần thiết phải cóđối tác Việt Nam
trong hoạt động đầu tư. Do đó, số dựán đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam dưới
hình thức 100% vốn nước ngoài ngày càng có xu hướng tăng lên cả tuyệt đối lẫn tương
đối. Các dựán 100% vốn nước ngoài tập trung chủ yếu trong các khu công nghiệp và
khu chế xuất vìđảm bảo các điều kiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật, tránh được nhiều thủ tục
hành chính phức tạp.
Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh đến nay chỉ chiếm 4,74% số dựán và
10,36% tổng vốn đầu tư, chủ yếu trong lĩnh vực thăm dò và khai thác dầu khí, các dịch
vụ viễn thông. Hợp đồng BOT là hình thức chúng ta đưa vào áp dụng từ năm 1993 với
mong muốn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng. Mặc dù Nhà
nước đã có nhiều ưu đãi như không thu tiền thuêđất, hưởng các mức thuế thấp nhất,
được chuyển đổi ngoại tệ... nhưng số dựán thuộc hình thức này vẫn còn rất ít. Đến nay
mới chỉ có 4 dựán đầu tư nước ngoài theo hình thức BOT với số vốn đăng ký hơn 415
triệu USD. Điều này chủ yếu là do các bên chưa thực sự gặp nhau trong các ý tưởng
khi thương lượng, như không thống nhất được cách tính giá cảđầu vào, đầu ra đối với
các đối tác cung ứng nguyên, nhiên vật liệu và mua sản phẩm...
2. Tình hình thực hiện của các dựán Đầu tư trực tiếp nước ngoài
2.1. Tiến độ thực hiện vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
Sau hơn mười năm thực hiện Luật đầu tư nước ngoài, nhiều dựán được cấp giấy
phép đã hoàn thành giai đoạn xây dựng, đi vào hoạt động, có sản phẩm tiêu thụ tại Việt
Nam và xuất khẩu đến nhiều nước trên thế giới, đóng góp đáng kể vào sự tăng trưởng
và phát triển kinh tế xã hội của nước ta.
Có 1067 dựán sau một thời gian triển khai có nhu cầu xin được tăng vốn, mở rộng
quy mô sản xuất. Tổng số vốn đãđược phê duyệt tăng thêm là 6034 triệu USD (bằng

32,8% số dựán được cấp giấy phép và 16,6% tổng vốn đăng ký ban đầu). Nhưvậy tổng
số vốn cấp mới và bổ sung đến thời điểm hết năm 2000 đạt khoảng 44.587 triệu USD.
Trong số các dựán đã nêu trên, đã có 30 dựán hết thời hạn thực hiện hợp đồng với
số vốn hết hạn là 291 triệu USD. Bên cạnh đó, đã có một số lượng đáng kể dựán bị giải
thể, rút giấy phép đầu tư (645 dựán), lượng vốn giải thể là 7952 triệu USD, chiếm gần
21% tổng lượng vốn đăng ký. Nguyên nhân dẫn đến các dựán bị rút giấy phép trước
hết là do ta chọn nhầm đối tác, nhất là những năm đầu thực hiện Luật đầu tư. Đó là
những công ty môi giới buôn bán hợp đồng, khi không thực hiện được mục đích này,
họ không trở lại Việt Nam thực hiện dựán. Tiếp theo là sự thiếu hụt tài chính của bên
nước ngoài, không thực hiện được cam kết góp vốn, huy động vốn vay; sự biến động
phức tạp của thị trường và giá cả làm đảo lộn tính toán ban đầu của dựán; sự phá sản
của bên nước ngoài ở các địa bàn khác làm cho họ không có khả năng hoạt động ở Việt
Nam...Ngoài ra những yếu kém trong công tác quản lý nhà nước cũng góp phần làm
tăng thêm số dựán đổ vỡ như không chọn lựa kỹ, dễ dãi trong bố trí cán bộ Việt Nam
tham gia liên doanh, không kịp thời nhắc nhở và xử lý những vi phạm pháp luật và giấy
phép đầu tư, không có biện pháp hữu hiệu hòa giải các bất đồng, tranh chấp; sự thay
đổi chính sách sử dụng nguyên vật liệu...
Như vậy, tính đến ngày 15/03/2001, trên lãnh thổ Việt Nam còn 2701dựán đầu tư
trực tiếp nước ngoài đang hoạt động với tổng vốn đăng ký (kể cả phần vốn bổ sung)
của các dựán còn hiệu lực là 36.329,775 triệu USD.
Tính đến 31 tháng 12 năm 2000, số vốn đã thực hiện của các dựán đầu tư trực tiếp
nước ngoài bằng 44,82% của tổng số vốn đăng ký (bao gồm cả vốn bổ sung), trong đó
88,34% vốn thực hiện là của phía đối tác nước ngoài, 11,66% là vốn của doanh nghiệp
Việt Nam. Tỷ lệ vốn thực hiện trên tổng vốn đăng ký của các dựán 100% vốn nước
ngoài và dựán Hợp đồng hợp tác kinh doanh cao hơn nhiều so với hình thức liên
doanh.
Các dựán trong lĩnh vực thăm dò và khai thác dầu khíđạt tỷ lệ thực hiện cao hơn
vốn cam kết 4%, do trong ngành dầu khí, cam kết trên giấy phép chỉ là vốn tối thiểu.
Ngành tài chính ngân hàng, do tính đặc thù phải nộp ngay vốn pháp định mới được
phép triển khai hoạt động nên tỷ lệ giải ngân cao (93%). Nhìn chung, các dựán đầu tư

vào lĩnh vực công nghiệp xây dựng có tỷ lệ giải ngân cao nhất, trên 50%. Các dựán
nông nghiệp đạt tỷ lệ giải ngân 43%, trong khi các dựán thuỷ sản chỉ giải ngân được
36%.
Dưới đây là số liệu về tình hình thực hiện dựán qua các thời kỳ:
Bảng 7: Tình hình thực hiện dựán qua các năm
(Tính đến 31 tháng 12 năm 2000)
Đơn vị : triệu USD
Chỉ tiêu Vốn thực hiện
Trong đó chia ra
Vốn từ nước ngoài Vốn DN V.Nam
Tổng 88-2000 19984 17654 2330
1991 428 375 53
1992 575 492 83
1993 1118 931 187
1994 2241 1946 295
1995 2792 2343 449
5 năm 91-95 7153 6086 1067
1996 2923 2518 405
1997 3137 2822 315
1998 2364 2214 150
1999 2179 1971 208
2000 2228 2043 185
5 năm 96-2000 12831 11568 1263
Nguồn : Vụ Quản lý dựán ĐTNN - Bộ KH-ĐT
Trong điều kiện của một nền kinh tế kém phát triển, kết cấu hạ tầng lạc hậu, các
nguồn lực cũng như chính sách đối với đầu tư nước ngoài còn nhiều biến động, thị
trường phát triển chưa đầy đủ...thì tỷ lệ vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện được
ở mức như vậy là không thấp. Tuy vậy, xuất phát từđặc điểm, các dựán sau khi phê
duyệt thường chưa đủ các điều kiện để triển khai ngay, do đó số vốn thực hiện trong
năm chủ yếu là của các dựán đãđược phê duyệt từ các năm trước đó. Nếu so sánh số

vốn thực hiện của từng năm với số vốn đăng ký còn lại (tổng số vốn đăng ký từ trước
trừđi số vốn đã thực hiện) thì tỷ lệ vốn thực hiện diễn biến theo xu hướng thiếu ổn
định. Tỷ lệ này tăng nhanh từđầu đến năm 1995 (vốn thực hiện 1992/vốn đăng ký
1988-1991 còn lại = 13,6%; số tương ứng 1993=23,5%; 1994=30,1%; 1995=32,2%) và
sau đó giảm dần từ 1996 đến nay (số liệu tương ứng 1996=21,8%; 1997=18,1%;
1998=10,1%; 1999=7,1%). Điều này một phần là do tác động của cuộc khủng hoảng
tiền tệ trong khu vực, một số nhàđầu tư thuộc các quốc gia xảy ra khủng hoảng đang
còn số vốn mà họ chưa thực hiện lại phải dùng đểđối phó với tình trạng xấu, buộc họ
phải dừng hoặc chấm dứt không thể tiếp tục đầu tư. Mặt khác, một số nhàđầu tư khi lập
dựán đã tính toán chưa thật sát với thực tế nên khi triển khai dựán đã gặp phải một số
vấn đề phát sinh vượt cả khả năng tài chính cũng như các yếu tố, điều kiện cho doanh
nghiệp vận hành. Thậm chí có một số nhàđầu tư nước ngoài, thực chất là yếu về năng
lực tài chính nên mặc dùđãđược cấp giấy phép đầu tư, nhưng không huy động được
vốn đúng như dự kiến buộc họ phải triển khai thực hiện dựán chậm, có khi mất khả
năng thực hiện.
2.2. Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở một số lĩnh vực kinh tế tiêu biểu
a. Lĩnh vực dầu khí: So với các ngành kinh tế Việt Nam thìđây là một trong rất ít
ngành thu hút được các tập đoàn kinh tế lớn của thế giới tham gia đầu tư. Đến nay,
ngoài xí nghiệp liên doanh dầu khí VietsoPetro đã sản xuất được hơn 60 triệu tấn dầu
thô và hiện đang tiếp tục kinh doanh có hiệu quả, chúng ta đã cấp 33 giấy phép hoạt
động cho các tập đoàn dầu khí lớn thuộc Bắc Mỹ, Châu Âu, Châu Úc và Châu Á vào
thăm dò, khai thác tại thềm lục địa Việt Nam theo hình thức hợp đồng phân chia sản
phẩm. Các mỏĐại Hùng, Rạng Đông, Hồng Ngọc, mỏ khí Lan Đỏ - Lan Tây và mỏ
dầu trên vùng chồng lấn với Malaixia đều đang được khai thác. Sự quan tâm của các
tập đoàn lớn trên thế giới chứng tỏ tính hấp dẫn và tiềm năng dầu khí của nước ta.
Vào cuối năm 1998, Việt Nam đã cấp giấy phép đầu tư cho liên doanh xây dựng
nhà máy lọc dầu đầu tiên tại Dung Quất (Quảng Ngãi) với số vốn đầu tư 1,3 tỷ USD.
Các nhàđầu tư nước ngoài (không kể Vietsopetro) đãđầu tư trên 2,6 tỷ USD vào khâu
thăm dò, giúp Việt Nam dần dần cóđủ cơ sở dữ liệu về trữ lượng dầu khíđể xác định
chiến lược phát triển.

Công nghiệp dầu khíđã góp phần ngày càng lớn vào tăng trưởng GDP và thu ngân
sách Nhà nước.
b. Lĩnh vực công nghiệp điện tử : là lĩnh vực mà các nhàđầu tư nước ngoài có mặt
tương đối sớm, vốn thực hiện chiếm tỷ lệ cao so với vốn đăng ký, có tiến độ thực hiện
đúng với cam kết được ghi trong giấy phép đầu tư vàđây là lĩnh vực sớm phát huy hiệu
quả. Đến nay, đã có 22 dựán đầu tư với tổng số vốn đăng ký 615 triệu USD, trong đó
có hơn 60% vốn đã thực hiện (379 triệu USD). Một trong những yếu tố hơn hẳn so với
nhiều lĩnh vực khác là các nhàđầu tư vào lĩnh vực này phần lớn thuộc các hãng điện tử
mạnh trên thế giới như: SONY, JVC, TOSHIBA, PHILIP, LG, FUJITSU, SAMSUNG,
MATSUSHITA... Tuy nhiên các dựán đầu tư chủ yếu vào điện tử gia dụng, chưa chúý
nhiều đến điện tử công nghiệp.
c. Lĩnh vực công nghiệp ô tô và xe máy :Đây cũng là một trong những lĩnh vực thu
hút được các nhàđầu tư thuộc các hãng lớn mà sản phẩm của họđã trở thành nổi tiếng
và có lợi thế cạnh tranh so với những sản phẩm cùng loại trên thế giới nhưTOYOTA,
FORD, HONDA, SUZUKI...Đến nay đã có 14 dựán sản xuất ô tô và 4 dựán sản xuất xe
máy được cấp giấy phép. Số vốn đăng ký của các liên doanh ô tô là 872 triệu USD,
trong đóđã thực hiện được 376 triệu USD (43,12% vốn đăng ký). Các liên doanh này
có thể sản xuất hàng năm 140 nghìn xe ô tô các loại. Trong số 14 dựán trên đã có 3
dựán không triển khai và 1 dựán tuy đãđầu tư 16 triệu USD nhưng tạm dừng không đầu
tư tiếp (dựán Mercedes-Benz) và liên doanh MêKông cũng đã ngừng sản xuất. Nói
chung, thị trường ô tô của nước ta còn hạn hẹp. Ngành công nghiệp xe máy cũng thu
hút được những hãng xe nổi tiếng thế giới mà sản phẩm đã quen thuộc với người Việt
Nam như Honda, Suzuki, VMEP. Hiện tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
sản xuất mỗi năm khoảng 200 nghìn xe máy với tỷ lệ nội địa hóa từ 20-50%.
Các dựán ô tô và xe máy đãđược cấp giấy phép đầu tư có tác động dây chuyền đối
với các dựán sản xuất linh kiện, phụ tùng; do vậy đã kéo theo hàng chục nhàđầu tư vốn
là bạn hàng của họ vào Việt Nam; đồng thời đã mở rộng quan hệ hợp tác chế tạo với
các doanh nghiệp cơ khí, sản xuất săm lốp, ghếđệm...của Việt Nam, giải quyết những
khó khăn trước mắt cho các doanh nghiệp này và góp phần phát triển chúng về lâu dài.
d. Lĩnh vực viễn thông :Đến nay đã có 14 dựán đầu tư nước ngoài được cấp giấy

phép với tổng vốn đăng ký là 1545 triệu USD, trong đó sốđã thực hiện là 388 triệu
USD. Trong số các dựán đầu tưở lĩnh vực này cóđến 94% theo hình thức hợp đồng hợp
tác kinh doanh về dịch vụ viễn thông, 6% số dựán đầu tư theo hình thức liên doanh để
sản xuất thiết bị vật tư bưu điện. Đặc biệt, đây là lĩnh vực không có dựán đầu tư hình
thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
e.Lĩnh vực công nghiệp hóa chất :Đến nay lĩnh vực này đã thu hút 89 dựán với tổng
vốn đăng ký 1117 triệu USD (36 dựán 100% vốn nước ngoài, 48 dựán liên doanh, 5
dựán hợp đồng hợp tác kinh doanh), trong đó tổng số vốn đã thực hiện là 397,6 triệu
USD (35,6% vốn đăng ký). Đầu tư nước ngoài trong công nghiệp hóa chất đã tạo ra
nhiều sản phẩm có chất lượng cao, bao gồm một số hóa chất cơ bản, mỹ phẩm, chất tẩy
rửa, dầu nhờn... thay thế một phần hàng nhập khẩu, thỏa mãn yêu cầu ngày càng cao
hơn của người tiêu dùng.
g. Hoạt động kinh doanh khách sạn và du lịch :Đây là lĩnh vực mà ngay từđầu đã có
biểu hiện còn nhiều tiềm năng chưa được khai thác nên nhiều doanh nghiệp trong và
ngoài nước đãđầu tư vào. Đến nay có 237 dựán với 7585 triệu USD vốn đăng kýđầu tư
xây dựng khách sạn, văn phòng, căn hộ cho thuê, phát triển đô thị, trong sốđóđã có
33,66% vốn được thực hiện. Đồng thời, đây cũng là lĩnh vực đã xuất hiện tình trạng
cung vượt quá cầu ở một số thành phố như TP Hồ Chí Minh, Vũng Tàu, Đà Nẵng, Hải
Phòng.
h.Lĩnh vực dệt may, giầy dép : Đến nay chúng ta đã phê duyệt 250 dựán với tổng số
2396 triệu USD vốn đăng ký (dệt: 87 dựán với 1649 triệu USD vốn đăng ký; may: 118
dựán với 281 triệu USD vốn đăng ký; giầy dép: 45 dựán với 466 triệu USD vốn đăng
ký). Tổng vốn đã thực hiện là 1079 triệu USD, đạt 45% vốn đăng ký, là một tỷ lệ khá
cao. Đầu tư nước ngoài trong các ngành này đã tạo ra việc làm cho hàng vạn người lao
động, góp phần tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu, là một trong những ngành công
nghiệp có kim ngạch xuất khẩu hàng năm trên 1 tỷ USD.
2.3. Tình hình khai thác công suất các dựán.
Cho đến nay đã có rất nhiều dựán hoàn thành xây dựng cơ bản vàđi vào vận hành
sản xuất kinh doanh một cách ổn định. Nhiều dựán hoạt động có hiệu quả vàđãđóng
góp đáng kể vào sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế nước ta.

Tuy nhiên đa phần các dựán FDI năng lực hoạt động còn thấp so với công suất
cho phép. Số liệu trong bảng dưới đây sẽ cho ta thấy rõ hơn thực trạng này:
Bảng 8: Tình hình khai thác công suất một số
ngành hàng của các dựán FDI (tính đến hết năm 1997)
Mặt hàng Công suất cho phép Công suất huy động Tỷ lệ
1.Thép XD thông thường 1197 triệu tấn/ năm 600.000 tấn / năm 50%
2. Ô tô dưới 12 chỗ 65.600 xe / năm 6.600 xe / năm 10%
3. Xe vận tải 94.700 xe / năm 2.850 xe / năm 3%
4. Xe máy 1,28 triệu xe / năm 100.000 xe / năm 8%
5. Xi măng đen 10,5 triệu tấn / năm 1,9 triệu tấn / năm 18%
6. Tủ lạnh 300.000 chiếc / năm 60.000 chiếc / năm 20%
7. Sợi các loại 133.200 tấn / năm 20.000 tấn / năm 15%
8. Vải các loại 325 triệu mét / năm 65 triệu mét / năm 20%
9. Chất tẩy rửa, xà bông 138.000 tấn / năm 100.000 tấn / năm 72%
10. Phân bón NPK 660.000 tấn / năm 30.000 tấn / năm 5%
11. Phòng khách sạn 24.000 phòng 5.000 phòng 21%
Nguồn : Bộ Kế hoạch vàđầu tư
Như vậy ta thấy thực tế công suất đã huy động của các dựán còn quá bé so với
công suất cho phép, gây ra một sự lãng phí rất lớn cho nền kinh tế. Một trong những
nguyên nhân chính của tình trạng này là những dự báo sai lệch dung lượng thị trường
như 14 liên doanh lắp ráp ô tô với tổng công suất 140.000 ô tô/ năm, trong khi nhu cầu
thực tế của cả nước năm 1999 là 15.000 chiếc (trong đó lắp ráp trong nước chỉ 5000
chiếc), hoặc 4 dựán liên doanh sản xuất, lắp ráp xe máy với công suất 1,5 triệu xe/năm,
trong khi nhu cầu nhập khẩu linh kiện CKD, IKD khoảng 0,5 triệu xe/ năm. Do các
nhàđầu tư trong lĩnh vực ô tô, xe máy không tự khẳng định được khả năng xuất khẩu
của mình như các nhàđầu tư trong các ngành dệt may, giày dép, điện tử...nên không thể
hoàn thành mục tiêu của các dựán được cấp phép.
Một nguyên nhân nữa là do công tác quy hoạch đầu tư còn chậm và thiếu đồng bộ
nên dẫn đến tình trạng cấp phép đầu tư một cách ồạt và thiếu định hướng, chưa quan
tâm đến kế hoạch tiêu thụ sản phẩm của các dựán, thậm chí cấp phép cho cả các dựán

vào những ngành còn dư thừa năng lực sản xuất, gây tình trạng bế tắc trong khâu tiêu
thụ, đồng thời còn tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ với sản phẩm của các doanh nghiệp
trong nước.
Do đó, bên cạnh việc tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài, chúng ta cần xem xét
một cách kỹ càng trước khi cấp phép cho các dựán đầu tư vào các ngành còn đang dư
thừa công suất. Đồng thời các doanh nghiệp cần tích cực tìm kiếm thị trường mới, nâng
cao khả năng xuất khẩu của các mặt hàng để khai thác một cách triệt để và có hiệu quả
năng lực của các dựán.
II.
ĐÁNHGIÁTÁCĐỘNGCỦAĐẦUTƯTRỰCTIẾPNƯỚCNGOÀITỚI
TĂNGTRƯỞNGVÀPHÁTTRIỂNKINHTẾ
Đầu tư trực tiếp nước ngoài đãđóng góp một phần tích cực vào công cuộc đổi mới
kinh tế của Việt Nam hơn 10 năm qua. Có thể nói đầu tư trực tiếp nước ngoài như một
trong các nguồn năng lượng quan trọng khởi động cho cỗ máy kinh tế Việt Nam đi vào
quỹđạo của sự tăng trưởng. Nóđã góp phần đẩy mạnh cuộc cách mạng khoa học kỹ
thuật trong sản xuất, đóng góp quan trọng vào việc đổi mới, chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng CNH-HĐH. Mỗi chính sách kinh tế, mỗi biến động tài chính-tiền tệ, mỗi
chiến lược phát triển và mỗi thành tựu của đất nước đều có bóng dáng của đầu tư trực
tiếp nước ngoài (ĐTTTNN). Ngày nay, ĐTTTNN đã trở thành một bộ phận của nền
kinh tế quốc dân. Trong phần này, ta sẽđi vào xem xét tác động của hoạt động đầu tư
trực tiếp nước ngoài tới sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế nước ta.
1. hoạt động ĐTTTNN góp phần quan trọng bổ sung nguồn vốn đầu tư
phát triển và gia tăng tỷ lệ tích lũy của nền kinh tế
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là nguồn vốn quan trọng và là một điều kiện tiên
quyết để Việt Nam thực hiện vàđẩy nhanh sự nghiệp CNH-HĐH đất nước. Nó góp
phần quan trọng bổ sung nguồn vốn đầu tư phát triển, khắc phục tình trạng thiếu vốn
của nền kinh tế quốc dân trong thời kỳđổi mới.
Từ khi thực hiện chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài đến nay, vốn đầu tư nước
ngoài thực hiện tại Việt Nam bình quân 1.111,75 triệu USD / năm. Vốn đầu tư xây
dựng cơ bản của các dựán đầu tư nước ngoài bình quân thời kỳ năm 1991-1999 là

16.291 tỷđồng/ năm. Đối với một nền kinh tế có quy mô như của nước ta thìđây thực
sự là lượng vốn đầu tư không nhỏ, nó thực sự là nguồn vốn góp phần tạo ra sự chuyển
biến không chỉ về quy môđầu tư màđiều quan trọng hơn là nguồn vốn này có vai trò
như chất “xúc tác- điều kiện” để việc đầu tư của ta đạt hiệu quả nhất định. Nếu so với
tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản xã hội thời kỳ 1991-1999 thì vốn đầu tư xây dựng cơ
bản của các dựán đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm 26,51% và lượng vốn đầu tư này
có xu hướng tăng lên qua các năm.
Bảng 9 : Cơ cấu vốn đầu tư XDCB của Việt Nam thời kỳ 1991-1999
Đơn vị : tỷđồng
Năm Tổng vốn đầu tư Vốn trong nước
Vốn ĐTTT của nước ngoài
Số lượng So với tổng (%)
1991 13471 11545 1926 14,3
1992 34737 19552 5185 21
1993 42177 31556 10621 25,2
1994 54296 37796 16500 30,4
1995 68048 46048 22000 32,3
1996 79367 56667 22700 28,6
1997 96870 66570 30300 31,3
1998 97336 73036 24300 25
1999 105200 86300 18900 18
2000 120600 98200 22400 18,6
Tổng 712102 527870 174832 24,55
Nguồn : Kinh tế VN và Thế giới 2000-2001 - Thời báo kinh tế Việt Nam
Vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ các dựán đầu tư trực tiếp nước ngoài giai đoạn
1995-1999 là 118.200 tỷđồng, cao hơn hẳn so với vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước
cùng thời kỳ này (97389,6 tỷđồng). Tức là vốn ngân sách Nhà nước dành cho xây dựng
cơ bản chỉ bằng 82,4% vốn từ các dựán ĐTTTNN dành cho lĩnh vực này.
Kết quả phân tích cho thấy giữa vốn đầu tư trong nước và vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài có sự tương quan với nhau. Hệ số tương quan Pearson bằng 0,773 cho thấy

mức độ chặt chẽ của mối quan hệ vàđó là tương quan cùng chiều, nghĩa là khi vốn
ĐTTTNN tăng lên sẽ làm cho vốn đầu tư trong nước tăng lên.
Correlations
Vốn đầu tư
nước ngoài
Tỷ lệ tiết kiệm / GDP Vốn đầu tư trong nước
Pearson Correlation .810* Pearson Correlation .773*
Sig. (2-tailed) .003 Sig. (2-tailed) .009
N 11 N 10
* Correlation is significant at the 0.05 level (2-tailed)
Kết quả này phù hợp với phân tích của các chuyên gia kinh tế. Theo các chuyên
gia quốc tế thì FDI đã tác động đến việc tăng trưởng tổng nguồn vốn đầu tư của các
nước đang phát triển, bình quân giai đoạn 1970-1998 cho thấy cứ tăng 1% vốn FDI làm
tăng thêm ở mức từ 0,5% - 1,3% vốn đầu tư trong nước. Để xem xét cụ thể hơn mối
quan hệ giữa hai dòng vốn đầu tưở Việt Nam, ta đi ước lượng mô hình với các biến
VTN là vốn đầu tư trong nước, VNN là vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Các biến số
trong mô hình được lấy dưới dạng logarit.
Kết quả hồi quy thử nghiệm cho thấy đối với nước ta, vốn ĐTTTNN hầu như
không có tác động làm tăng trưởng vốn đầu tư trong nước của năm đó nhưng có tác
động rõ rệt đến vốn đầu tư trong nước của năm sau.
Ta có hàm hồi quy mẫu như sau:
LN(VTN)
(t)
= 5,1168 + 0,60242 * LN(VNN)
(t-1)
Các kiểm định cho thấy mô hình đảm bảo được tính phù hợp, các hệ số khác 0
một cách thực sự và có dấu phù hợp với phân tích định tính ở trên. Kết quảước lượng
mô hình chỉ ra rằng, khi các điều kiện khác không đổi, trung bình khi vốn FDI tăng lên
1% sẽ làm cho vốn đầu tư trong nước năm sau tăng lên 0,602%.
Số liệu thống kê cho thấy tỷ trọng vốn FDI trong tổng vốn đầu tư tư nhân ở hầu

hết các nước nhận được nhiều vốn đầu tư trực tiếp từ bên ngoài, đều nhỏ hơn 30%.
Điều này cũng lý giải lý do tăng tổng vốn đầu tư của nhiều nước ngoài vốn FDI còn có
phần tăng vốn trong nước do tác dụng lan truyền của FDI (spillover effects). Sự hoạt
động của đồng vốn có nguồn gốc từ FDI như là một trong những động lực gây phản
ứng dây chuyền làm thúc đẩy sự hoạt động của đồng vốn trong nước. Sự xuất hiện của
dựán FDI sẽ kéo theo sự xuất hiện của các doanh nghiệp trong nước làm nhiệm vụ cung
cấp nguyên nhiên vật liệu, linh kiện, phụ kiện, lao động, dịch vụ...cho dựán này đồng
thời đặt ra yêu cầu đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng vật chất kỹ thuật tạo điều kiện cho sự
hoạt động của các dựán này. Các nhàđầu tư nước ngoài vào nước ta phải sử dụng đường
xá, cầu cống, bến cảng, đất đai, nhàở, bệnh viện, trường học và các dịch vụ khác của ta
và họ phải trả chi phí, như vậy đã làm cho đồng vốn bỏ vào các lĩnh vực này hoạt động
náo nhiệt hơn và có hiệu quả hơn.
Ta sẽước lượng mô hình với biến độc lập là VNN
(t-1)
- vốn ĐTTTNN năm (t-1) và
biến phụ thuộc là VTN
(t)
– vốn đầu tư trong nước năm t, để thấy rõ hơn tác động lan
truyền của FDI. Kết quảước lượng mô hình chi tiết được trình bày trong phần phụ lục.
Các kiểm định chứng tỏ kết quảước lượng mô hình có thể chấp nhận được và ta có
phương trình hồi quy mẫu như sau :
VTN
(t
)
= 19413,3 + 2,4691  VNN
(t-1)
Kết quả trên cho thấy, nếu các điều kiện khác không đổi, trung bình, khi thêm một
đồng vốn FDI được đưa vào đầu tưở nước ta sẽ làm cho vốn đầu tư trong nước năm sau
tăng thêm 2,47 đồng. Kết quả này hoàn toàn phù hợp với kết quảước tính của các
chuyên gia kinh tế nước ta. Việc vốn FDI chỉ tác động nhiều đến vốn đầu tưtrong nước

ở năm sau có thể giải thích là do khoảng cách thời gian từ khi các nhàđầu tưđược cấp
giấy phép đầu tư tới khi triển khai thực hiện vốn đầu tư. Các dựán ĐTNN chỉ thực sự
tác động đến kinh tế trong nước khi triển khai xây dựng cơ bản vàđi vào hoạt động. Tuy
nhiên, phải thấy rằng, tác động dây chuyền của vốn ĐTTTNN ở nước ta như vậy còn
khá nhỏ. Sự gia tăng của dòng vốn FDI chưa thực sự tạo ra được động lực mạnh mẽ
kích thích nguồn vốn đầu tư trong nước tăng trưởng. Các nhàđầu tư trong nước chưa
mạnh dạn và nhanh nhạy nắm bắt, khai thác các cơ hội mà hoạt động ĐTTTNN tạo ra.
Việc đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng mặc dùđãđược nhà nước quan tâm nhưng vẫn
còn nhiều hạn chế. Công tác xây dựng các công trình ngoài hàng rào nhưđiện, nước,
giao thông vận tải, thông tin liên lạc chậm và thiếu đồng bộ, gây trở ngại rất lớn cho các
nhàđầu tư nước ngoài, mặc dù việc này ngoài tạo thuận lợi cho các nhàđầu tư còn góp
phần rất tích cực cho phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Nếu các nhàđầu tư trong
nước cũng như Chính phủ khai thác một cách tốt hơn mối quan hệ giữa hai dòng vốn
này thì có thể làm tăng khối lượng và hiệu quả sử dụng vốn đầu tư trong nước đồng
thời khuyến khích nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài phục vụ phát triển kinh tếđất nước.
Bên cạnh đó, với các hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả của mình, thông
qua việc nộp ngân sách, tạo thu nhập cho người lao động, kích thích các doanh nghiệp
Việt Nam cùng phát triển, khu vực FDI còn góp phần gia tăng khả năng tích lũy của
nền kinh tế, nâng cao năng lực tái đầu tư mở rộng sản xuất, tăng khả năng tự chủ về
kinh tế của đất nước. Cùng với sự gia tăng của dòng vốn đầu tư nước ngoài, tích lũy
của nền kinh tế liên tục tăng lên cả về giá trị lẫn tỷ lệ so với GDP. Năm 2000, tỷ lệ tích
lũy của nền kinh tếước đạt 25% GDP.
Bảng 10 : Tỷ lệ tích lũy của nền kinh tế (% GDP)
Năm 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999
Tỷ lệ
10.1 13.8 14.5 17.1 18.2 17.2 20.1 21.4 24.6
Nguồn : Kinh tế Việt Nam 1991-2000, Bộ KH - ĐT, tháng 5-2000.
Ta sẽ xem xét mối quan hệ giữa tỷ lệ tích lũy của nền kinh tế với dòng vốn
ĐTTTNN thông qua kết quảước lượng mô hình kinh tế lượng, trong đó TLUY là tỷ lệ
tích lũy, VNN là lượng vốn FDI, T là biến xu thế và C là hệ số chặn của mô hình. Các

biến TLUY và VNN được lấy dưới dạng logarit cơ số e
Ta có hàm hồi quy mẫu như sau:
Ln(TLUY) = 1,3275 + 0,06561  T + 0,1096  Ln(VNN)
hay TLUY = e
1,3275
 VNN
0,1096
 e
0,06561 .T
Như vậy ta thấy rằng, trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, khi vốn FDI tăng
lên 1% sẽ làm cho tỷ lệ tích lũy của nền kinh tế tăng 0,11%. Đồng thời, tỷ lệ tích lũy
của nước ta đang có xu hướng tăng dần qua các năm. Khi các yếu tố khác giữ nguyên
như năm trước, tỷ lệ tích lũy năm sau sẽ tăng gấp 1,052 lần (e
0,06561
lần).
Điều này thực sự cóý nghĩa quan trọng đối với sự nghiệp phát triển kinh tế của
nước ta vì chỉ thông qua việc nâng cao tỷ lệ tích lũy, chúng ta mới có thể tạo ra khả
năng tự lực về kinh tế cho mình trong các giai đoạn phát triển tiếp theo. Để có thể làm
được điều này thì việc thu hút mạnh mẽ hơn nữa nguồn vốn FDI là một trong những
yêu cầu cấp bách.
Những kết quả phân tích trên cho thấy trong những năm qua, vốn đầu tư nước
ngoài là nguồn vốn bổ sung quan trọng giúp Việt Nam phát triển một nền kinh tế cân
đối, bền vững theo yêu cầu của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
2. Đầu tư trực tiếp nước ngoài với tăng trưởng GDP
Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần tạo ra những năng lực sản xuất
mới, ngành nghề mới, sản phẩm mới, công nghệ mới và phương thức sản xuất kinh
doanh mới, từđó làm tăng năng suất lao động xã hội, tăng tổng sản phẩm quốc nội và
làm cho nền kinh tế nước ta từng bước chuyển biến theo hướng kinh tế thị trường hiện
đại.
Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài luôn có chỉ số phát triển cao hơn chỉ số

phát triển của các thành phần kinh tế khác và cao hơn hẳn chỉ số phát triển chung của
cả nước. Năm 1995, chỉ số phát triển của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là
114,98% thì chỉ số phát triển chung của cả nước là 109,54%. Số liệu tương ứng của
năm 1996 là 119,42% và 109,34%, của năm 1997 là 120,75% và 108,15%, của năm
1998 là 116,88% và 105,8%. Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần đưa nền kinh
tếđạt tốc độ tăng trưởng cao. Trong giai đoạn 1991-1997, nước ta đạt mức tăng trưởng
kinh tế bình quân hàng năm khoảng 8,4%. Trong giai đoạn này nguồn vốn FDI chiếm
khoảng 26% -30% tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội. Những tính toán sơ bộ cho
thấy nếu thời gian qua không có nguồn vốn này thì mức tăng trưởng có thể không vượt
quá 5% bình quân năm và nếu không có cả nguồn ODA thì mức tăng trưởng hàng năm
có thể chỉ khoảng 3% - 4% trong điều kiện phát huy tốt nội lực.
Tỷ trọng đóng góp của khu vực FDI trong GDP ngày càng gia tăng và có xu hướng
tương đối ổn định, từ 2% năm 1992 lên trên 9% năm 1997 vàđạt 12,7% năm 2000.
Điều đó cho thấy hoạt động FDI giữ vai trò ngày càng quan trọng đối với sự tăng
trưởng của nền kinh tế nước ta.
Bảng 11: Tốc độ tăng trưởng GDP qua các năm (%)
Năm 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000
Tốc độ
8.7 8.08 8.83 9.54 9.34 8.15 5.76 4.77 6.75
Đóng góp 2.0 3.6 6.1 6.3 7.39 9.07 10.03 11.75 12.7
của FDI
Nguồn : Kinh tế VN và Thế giới 2000-2001 - Thời báo kinh tế Việt Nam
Bên cạnh đó, ta thấy có mối quan hệ giữa sự gia tăng của GDP và xu hướng vận
động của dòng vốn FDI. Hệ số tương quan Pearson bằng 0,882 cho thấy mối quan hệ
này tương đối chặt chẽ và là tương quan thuận chiều, nghĩa là sự tăng lên của vốn đầu
tư nước ngoài sẽ làm tăng GDP.
Từ sự phân tích này, ta sẽ xem xét mối quan hệ giữa tổng sản phẩm quốc nội và
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thông qua ước lượng mô hình với các biến GDP và
VNN (vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài). Trong mô hình còn có mặt biến xu thế T vì ta
thấy tổng sản phẩm trong nước theo các năm là một chuỗi có tính xu thế, tăng dần theo

thời gian.
Dưới đây là kết quảước lượng mô hình bằng phương pháp OLS:
Ln(GDP) = 9,5712 + 0,14459  T + 0,20277  Ln(VNN)
hay GDP = e
9,5712
 VNN
0,20277
 e
0,14459 .T
Các kiểm định chẩn đoán cho thấy mô hình đảm bảo được các giả thiết của ước
lượng bình phương nhỏ nhất và không có khuyết tật. Các hệ số của mô hình đều phù
hợp với nội dung kinh tế vàđều khác 0 một cách thực sự. Hệ số của biến Ln(VNN)
bằng 0,20277 tức là trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, khi vốn ĐTTTNN tăng
lên 1% sẽ làm cho GDP của nước ta tăng lên 0,202%. Đồng thời từ năm này sang năm
tiếp theo, GDP sẽ tăng lên gấp 1,119 lần ( e
0,14459
), với điều kiện các yếu tố khác giữ
nguyên như năm trước. Đây thật sự là các kết quả cóý nghĩa, cho thấy vai trò to lớn của
vốn đầu tư nói chung và vốn đầu tư nước ngoài nói riêng trong sự tăng trưởng và phát
triển của nền kinh tế nước ta.
Một số lượng lớn các dựán FDI sau thời gian chuẩn bị triển khai và xây dựng cơ
bản đãđi vào hoạt động, tạo ra sản phẩm và nguồn thu đáng kể. Doanh thu của khu vực
FDI liên tục gia tăng với tốc độ nhanh chóng, từ 151 triệu USD năm 1991 lên 2063
triệu USD năm 1995, 3910 triệu USD năm 1998 vàđạt 5500 triệu USD trong năm
2000. Tổng doanh thu thời kỳ 1998-2000 đạt 21.641 triệu USD. Khu vực có vốn đầu tư
nước ngoài đãđóng góp một phần đáng kể vào ngân sách Nhà nước: 195 triệu USD
năm 1995, 263 triệu USD năm 1996, 317 triệu USD năm 1998. Trong giai đoạn 1988-
2000, các doanh nghiệp FDI đãđóng góp vào ngân sách tổng cộng khoảng 1749 triệu
USD, đây là một con số thực sự cóý nghĩa, góp phần làm giảm bớt tình trạng thâm hụt
và nâng cao khả năng chi cho đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước.

Số liệu về doanh thu và nộp ngân sách Nhà nước của khu vực FDI:
Bảng 12: Doanh thu và nộp NSNN của khu vực FDI
Đơn vị : triệu USD
Năm 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000
Doanh thu
228 505 1026 2063 2743 3851 3910 4600 5500
Nộp NSNN
- - 128 195 263 315 317 271 260
Nguồn : Kinh tế VN và Thế giới 2000-2001 - Thời báo kinh tế Việt Nam
Ta sẽđi xem xét cụ thể hơn vai trò của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
đối với sự tăng trưởng của các ngành kinh tế nước ta trong những năm vừa qua:
♦ Đối với ngành công nghiệp
Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không những chiếm tỷ trọng cao mà
còn có xu hướng tăng lên đáng kể trong tổng giá trị sản xuất của toàn ngành. Khu vực
FDI luôn tạo ra hơn 25% giá trị sản xuất của toàn ngành công nghiệp. Tỷ trọng giá trị
sản xuất của khu vực này đạt được từ 25,1% năm 1995; 26,73% năm 1996; 28,9% năm
1997 đã tăng lên 31,98% năm 1998; 34,73% năm 1999 và 35,5% năm 2000.
Tỷ trọng khu vực FDI trong GTSX công nghiệp (%)
Năm 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000
Tỷ trọng
26.2 26,4 26,2 25,1 26,7 28,9 32 34,7 35,5
Trong ngành công nghiệp khai thác, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
đang có vị trí hàng đầu, với tỷ trọng 79% giá trị sản xuất của toàn ngành. Tiêu biểu mức
tỷ trọng ở một số năm như sau: 77,8% (năm 1995); 78% (năm 1996); 77,7% ( năm
1997) và 81,4% (năm 1998). Đặc biệt, giá trị sản xuất của ngành khai thác dầu thô và
khí tự nhiên chủ yếu do các doanh nghiệp có vốn FDI tạo ra, với các mức cụ thể như
sau: 99,7% năm 1995; 99,7% năm 1996; 99,8% năm 1997 và 99,8% năm 1998.
Trong công nghiệp chế biến, tỷ trọng giá trị sản xuất của các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 22% và có xu hướng ngày càng tăng, từ 18,1% (năm
1995); 20,1% (năm 1996); 22,9% (năm 1997) lên 25,3% (năm 1998). Trong đó, ở một

số ngành quan trọng, tỷ trọng giá trị sản xuất của các doanh nghiệp FDI như sau: 71%
trong ngành sản xuất và sửa chữa xe cóđộng cơ (trong đó 100% trong sản xuất và lắp
ráp xe máy, ô tô); 44,3% trong ngành sản xuất sản phẩm bằng da và giả da; 100% trong
ngành sản xuất tụđiện, máy in, máy giặt, tủ lạnh, điều hòa không khí, đầu video, sản
xuất sợi PE, PES; 67,6% trong ngành sản xuất radio, tivi, thiết bị truyền thông; 31%
trong ngành sản xuất kim loại; 22,2% trong sản xuất thiết bịđiện, điện tử; 20,1% trong
ngành sản xuất hóa chất; 19,1% trong ngành may mặc và 18,6% trong ngành dệt. Các
số liệu trên chứng tỏ khu vực FDI có vai trò thực sự quan trọng trong ngành công
nghiệp của nước ta vàđang nắm giữ hầu hết các ngành ứng dụng khoa học công nghệ
tiên tiến.
♦ Đối với ngành nông nghiệp
Tính đến nay, còn 298 dựán ĐTTTNN đang hoạt động trong lĩnh vực nông lâm
nghiệp với tổng số vốn đăng ký gần 2 tỷ USD. Đầu tư nước ngoài đã góp phần nâng
cao năng lực sản xuất cho ngành nông nghiệp, chuyển giao cho lĩnh vực này nhiều
giống cây, giống con, tạo ra nhiều sản phẩm chất lượng cao, góp phần thúc đẩy quá
trình đa dạng hóa sản xuất nông nghiệp và khả năng cạnh tranh của nông lâm sản hàng
hóa. Vốn FDI còn góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông lâm nghiệp theo yêu
cầu của nền kinh tế CNH-HĐH. Nếu như trước đây đầu tư nước ngoài chỉ chủ yếu tập
trung vào lĩnh vực chế biến gỗ, lâm sản.. thì những năm gần đây nhiều dựán đãđầu tư
vào các lĩnh vực sản xuất giống, trồng trọt, sản xuất thức ăn chăn nuôi, mía đường,
trồng rừng, sản xuất nguyên liệu giấy, chăn nuôi...
Như vậy đầu tư trực tiếp nước ngoài đãđóng góp một phần rất lớn vào những
thành tựu về tăng trưởng kinh tế mà chúng ta đạt được trong thời gian qua vàđang
khẳng định vai trò quan trọng của mình trong sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước
các giai đoạn tiếp theo.
3. Đầu tư trực tiếp nước ngoài với chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế
Trong các mục tiêu kinh tế vĩ mô, quan trọng hàng đầu là tốc độ tăng trưởng và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu có quan hệ mật thiết
với nhau: tăng trưởng khác nhau giữa các ngành, lĩnh vực và vùng lãnh thổ sẽ làm thay
đổi cơ cấu kinh tế; ngược lại, chuyển dịch cơ cấu kinh tế sẽ làm thay đổi tốc độ tăng

trưởng, nếu chuyển dịch cơ cấu theo hướng tiến bộ phù hợp với những điều kiện kinh
tếđất nước và quan hệ quốc tế của mỗi thời kỳ sẽ thúc đẩy tăng trưởng nhanh, hiệu quả
cao và bền vững.
Trong điều kiện nền kinh tế mở, các quan hệ kinh tế quốc tế tạo ra động lực vàđiều
kiện cho sự dịch chuyển nhanh cơ cấu kinh tế của các quốc gia. Trong đóĐTTTNN là
một động lực mạnh mẽ, cóý nghĩa to lớn đến sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế. Đầu tư
nước ngoài đã góp phần tích cực thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng và chuyển
dịch cơ cấu theo hướng tiến bộ, phù hợp với định hướng chiến lược CNH-HĐH của
nước ta.
Bảng 13: Tốc độ tăng trưởng các ngành kinh tế
Năm
Tốc độ tăng trưởng so với năm trước (%)
Nông lâm nghiệp
và thủy sản
Công nghiệp và
xây
dựng
Dịch vụ
1991 2.18 7.71 7.38
1992 6.88 12.79 7.58
1993 3.28 12.62 8.64
1994 3.37 13.39 9.56
1995 4.80 13.60 9.83
1996 4.40 14.46 8.80
1997 4.33 12.62 7.14
1998 3.53 8.33 5.08
1999 5.23 7.68 2.25
2000 4.04 10.07 5.57
Nguồn : Kinh tế VN và Thế giới 2000-2001 - Thời báo kinh tế Việt Nam
Đầu tư trực tiếp nước ngoài thúc đẩy sự phát triển của công nghiệp và các hoạt

động dịch vụ trong nền kinh tế. Hai khu vực này luôn có tốc độ tăng trưởng nhanh hơn
khu vực nông nghiệp, chỉ trừ năm 1998, nhịp tăng của dịch vụ trong tổng sản phẩm xã
hội giảm xuống còn 5,08% và năm 1999 còn 2,25%, thấp hơn so với khu vực nông
nghiệp mà nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp là do sự giảm sút luồng FDI đãảnh hưởng
đến vốn đầu tư, gián tiếp đến công ăn việc làm, thu nhập và như vậy làm giảm sức mua
trong nước. FDI giảm kéo theo lượng khách du lịch (kết hợp với kinh doanh) giảm,
gián tiếp làm giảm doanh thu ngành vận tải, du lịch, khách sạn, nhà hàng... Điều này
một lần nữa cho thấy vai trò quan trọng của nguồn vốn FDI.
Cơ cấu vốn FDI ngày càng thay đổi phù hợp với yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh
tế của đất nước, phân bố FDI thực hiện đến nay cho thấy: công nghiệp, xây dựng
chiếm 48,5%; dịch vụ chiếm 47,5%. Tính đến ngày 15/03/2001, trong số các dựán FDI
còn hiệu lực thì khu vực công nghiệp có 1715 dựán, với tổng vốn đầu tư 19430,413
triệu USD, chiếm 53,5% tổng vốn FDI cả nước; tiếp theo là ngành dịch vụ với 638
dựán và lượng vốn đầu tư 14796,008 triệu USD, chiếm 40,73%; khu vực nông lâm

×