Tải bản đầy đủ (.docx) (106 trang)

Đánh giá tác dụng cải thiện giấc ngủ của nhĩ châm trong điều trị bệnh nhân rối loạn giấc ngủ theo thang điểm pittsburgh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.33 MB, 106 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Rối loạn giấc ngủ (RLGN) là một chứng bệnh thường gặp ảnh hưởng
đến 1/3 dân số thế giới và ngày càng trở thành một hiện tượng khá phổ biến
trong xã hội hiện đại, do áp lực của cuộc sống và chế độ ăn không phù hợp
[1]. Bệnh gặp ở mọi lứa tuổi, mọi giới, do nhiều nguyên nhân khác nhau,
bệnh biểu hiện dưới 4 hình thái chủ yếu: Mất ngủ, ngủ nhiều, cận giấc ngủ và
rối loạn nhịp thức ngủ, trong đó mất ngủ là hay gặp nhất trên lâm sàng, đó là
lý do chủ yếu khiến bệnh nhân phải đi khám bệnh [2].
Khi mất ngủ kéo dài có thể dẫn tới suy nhược nặng, và nguy cơ tử vong
có thể xảy ra. Mất ngủ mạn tính làm giảm chất lượng cuộc sống, người bệnh
mệt mỏi, giảm tập trung chú ý, giảm trí nhớ… ảnh hưởng đến chất lượng
công việc hàng ngày [3].
Mặc dù giấc ngủ có tầm quan trọng, nhưng sự hiểu biết về giấc ngủ về
các rối loạn giấc ngủ và điều trị các rối loạn này vẫn còn chưa hoàn chỉnh.
Rối loạn giấc ngủ trong Y học cổ truyền gọi là chứng “Thất miên”, “Bất
mị”, “Bất đắc miên”... Nguyên nhân từ các tạng Tâm, Tỳ, Can, Thận, chủ yếu
là do Tâm và Tỳ hư, âm hư hoả vượng, khí của Tâm và Đởm hạ, Vị không
điều hoà và bị suy nhược sau khi bị bệnh. Sách Cảnh Nhạc toàn thư ghi: “Ngủ
là gốc ở phần âm mà thần làm chủ, thần yên thì ngủ được”. Thần sở dĩ không
yên một là do tà khí nhiễu động, hai là do tinh khí không đủ [4], [5].
Y học cổ truyền có nhiều phương pháp để điều trị mất ngủ như dùng
thuốc, châm cứu, bấm huyệt, khí công, dưỡng sinh…mỗi phương pháp đều có
ưu điểm riêng và có những hạn chế nhất định, do vậy việc tìm kiếm, nghiên
cứu các phương pháp điều trị RLGN có hiệu quả cho bệnh nhân là một việc
làm cần thiết.
Song song với các phương pháp đó, từ xưa nhĩ châm cũng đã được áp
dụng và cho thấy đây là một trong những phương pháp điều trị mất ngủ có



2

hiệu quả. Năm 1962 đến nay ngoài phương pháp thể châm, thủy châm, điện
châm, GS Nguyễn Tài Thu đã tiến hành nghiên cứu nhĩ châm, sử dụng những
huyệt trên loa tai để phòng và chữa bệnh.
Với ưu điểm là tiện lợi, không tốn kém, dễ ứng dụng ở các tuyến cơ sở, rút
ngắn thời gian điều trị, nên nhĩ châm được ứng dụng rộng rãi, điều trị được nhiều
bệnh như liệt, các chứng đau, mất ngủ… đem lại hiệu quả tốt [6], [7], [8].
Nhóm điểm Thần môn, Giao cảm, Tâm, Thận, Tỳ từ lâu được biết là
nhóm huyệt trên loa tai có tác dụng an thần, điều hòa chức năng tạng phủ.
Vậy nhĩ châm phối hợp nhóm điểm trên có tác dụng điều trị rối loạn giấc ngủ
như thế nào?.
Nhằm phát huy vốn quý của Y học cổ truyền và trả lời câu hỏi trên
chúng tôi thực hiện đề tài “Đánh giá tác dụng cải thiện giấc ngủ của nhĩ
châm trong điều trị bệnh nhân rối loạn giấc ngủ theo thang điểm
Pittsburgh” với 2 mục tiêu:
1.

Đánh giá tác dụng cải thiện giấc ngủ theo YHHĐ của nhĩ châm các
điểm, Thần môn, Giao cảm, Tâm, Thận, Tỳ trong điều trị rối loạn
giấc ngủ theo thang điểm Pittsburgh.

2.

Đánh giá tác dụng cải thiện giấc ngủ theo YHCT của nhĩ châm các
điểm, Thần môn, Giao cảm, Tâm, Thận, Tỳ trong điều trị rối loạn
giấc ngủ theo thang điểm Pittsburgh trên 2 thể: Tâm Tỳ hư và Tâm
Thận bất giao.



3

Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Giấc ngủ bình thường
1.1.1. Sinh lý giấc ngủ
Ngủ là một trạng thái sinh lý bình thường của cơ thể có tính chất chu kỳ
ngày đêm; trong đó toàn bộ cơ thể được nghỉ ngơi, tạm ngừng các hoạt động
tri giác và ý thức, các cơ bắp giãn mềm, các hoạt động hô hấp tuần hoàn giảm
chậm lại [3]. Hoạt động của não trong giấc ngủ là một hoạt động hiệu quả
nhằm đảm bảo sự sống và phục hồi sức khoẻ của cơ thể sau một thời gian
hoạt động. Ngay từ khi lọt lòng mẹ, đứa trẻ ngủ 20 giờ một ngày. Càng lớn lên
trẻ ngủ giảm dần, đến 6 tuổi trẻ vẫn còn ngủ 10-12 giờ mỗi ngày. Người trưởng
thành ở lứa tuổi hoạt động mạnh nhất (18- 45 tuổi), nhu cầu mỗi ngày từ 7-8
giờ. Sau 60 tuổi có thể 6 giờ là đủ, thậm chí những người già ngủ ít hơn [9], [2].
Nói chung cả cuộc đời một người khoẻ mạnh dành 1/3 thời gian cho ngủ và 2/3
thời gian thức.
1.1.2. Các giai đoạn của giấc ngủ
Giấc ngủ được chia thành 2 trạng thái riêng biệt: Trạng thái ngủ có cử
động nhãn cầu nhanh (Rapid Eye Movement - REM) và trạng thái ngủ không
có cử động nhãn cầu nhanh (Non-Rapid Eye Movement - NREM); sự thay đổi
hoạt động điện của não thể hiện rõ nét trên điện não đồ [10], [11], [12], [13].
Giấc ngủ NREM được chia thành 4 giai đoạn: [10], [12], [13]
- Giai đoạn 1: Là khoảng thời gian ngủ lơ mơ, là giai đoạn chuyển từ
trạng thái thức sang trạng thái ngủ, sóng điện não và hoạt động của cơ chậm
xuống và có thể bắt gặp giật cơ đột ngột trong giai đoạn này.
- Giai đoạn 2: Là giai đoạn ngủ nhẹ nhàng, mắt ngừng chuyển động,
sóng điện não trở nên chậm hơn và thỉnh thoảng có những đợt sóng nhanh,
các cơ bắp giãn mềm, nhịp tim chậm và nhiệt độ cơ thể giảm xuống.



4

- Giai đoạn 3 và 4: Được gọi chung là giai đoạn sóng chậm. Đặc trưng
trên điện não đồ là các sóng chậm (sóng Delta) xuất hiện rải rác cùng với các
sóng nhỏ hơn và nhanh hơn, huyết áp giảm, nhịp thở chậm, thân nhiệt giảm
xuống thấp hơn, cơ thể bất động, giấc ngủ sâu hơn, không có chuyển động
mắt, giảm hoạt động cơ. Khi một người đang trong giấc ngủ sóng chậm họ rất
khó bị đánh thức, những người bị thức dậy trong giai đoạn này có cảm giác
lảo đảo, mất phương hướng trong một vài phút sau khi thức dậy. Ở một vài trẻ
em có thể có đái dầm, chứng hoảng sợ trong khi ngủ, chứng miên hành trong
giai đoạn này.
Giấc ngủ REM [10], [12], [13]
Giấc ngủ REM là giai đoạn được đánh dấu bởi hoạt động mạnh mẽ của
não, mức độ hoạt động có thể tương đương lúc thức. Sóng điện não nhanh và
mất đồng bộ. Nhịp thở trở nên nhanh hơn, không đều và nông, mắt chuyển
động nhanh theo các hướng khác nhau, cơ tay, chân biểu hiện liệt tạm thời.
Nhịp tim, huyết áp tăng. Giấc mơ xảy ra hầu hết trong giai đoạn này.

(a) Thức, nghỉ ngơi (nhắm mắt).(b) Giai đoạn 1 giấc ngủ NREM.
(c) Giai đoạn 2 giấc ngủ NREM.(d) Giấc ngủ sóng Delta.
(e) Giấc ngủ REM.
Hình 1.1: Hình ảnh điện não thay đổi theo các giai đoạn thức, ngủ [14]


5

1.1.3. Cấu tạo giấc ngủ
Ở giấc ngủ bình thường, giai đoạn REM và NREM thay đổi qua lại trong
suốt đêm. Một chu kỳ ngủ đầy đủ, bao gồm chu kỳ REM và NREM xen kẽ nhau

mỗi 90 - 110 phút, được lặp lại 4 - 6 lần mỗi đêm.
Thức
GĐ 1
GĐ 2
GĐ 3
GĐ 4
REM
Cử động cơ
thể

24 1

2

3

4 5 6

7

Hình 1.2: Các giai đoạn ngủ trong 1 đêm ở người trưởng thành [12]
Ở người trưởng thành, phân bố các giai đoạn giấc ngủ như sau [13]:
NREM (75%)
Giai đoạn 1:

5%

Giai đoạn 2:

45%


Giai đoạn 3:

12%

Giai đoạn 4:

13%

REM (25%)

Thời gian (Phút)

600

GHI CHÚ:

500

1

400

2

300

3

200


4

3: Giấc ngủ REM

100

5

4: Giấc ngủ sóng
chậm.

6

5: Giai đoạn 2

0

510152535 45 55 65 75 85

Tuổi

1: Độ dài giấc ngủ.
2: Thời gian thức
dậy sau khi giấc ngủ
bắt đầu.

6: Giai đoạn 1.

Hình 1.3: Sự thay đổi các thành phần giấc ngủ theo tuổi [12]



6

1.1.4. Chức năng của giấc ngủ
Hầu hết các nhà nghiên cứu đồng ý rằng giấc ngủ giúp phục hồi sức khỏe,
giúp làm cân bằng nội môi và có vai trò quyết định trong điều hòa thân nhiệt và
bảo tồn năng lượng. Giấc ngủ NREM tăng lên khi luyện tập thể dục và khi đói,
tình trạng này có thể liên quan đến nhu cầu thỏa mãn chuyển hóa [13].
Giấc ngủ REM đã được chú ý và tiến hành nghiên cứu từ lâu, và có
nhiều kết quả được đưa ra. Một số vai trò của giấc ngủ REM đáng chú ý là:
- Lọc sạnh các chất chuyển hóa tích tụ trong hệ thần kinh.
- Đảm bảo cho nguồn phát các xung động để kích thích vỏ não.
- Chuyển trí nhớ ngắn hạn thành trí nhớ dài hạn.
- Bảo đảm cảm xúc diễn ra trong giấc mơ thích ứng được với môi
trường xung quanh khi thức - tỉnh.
- Tổ chức lại luồng xung động thần kinh bị RL trong giấc ngủ NREM,
là giai đoạn chuyển tiếp sang thức - tỉnh, chuẩn bị tiếp nhận thông tin mới.
1.2. Rối loạn giấc ngủ (RLGN)
1.2.1. khái niệm và phân loại RLGN
Nhu cầu ngủ của mỗi người là khác nhau. Những người ngủ nhiều cần
9-10 tiếng mỗi đêm và một số người lại ngủ ít. Tuy nhiên, độ dài của giấc ngủ
có liên quan đến RLGN [11].
Một nghiên cứu năm 2002 trên 1 triệu người cả nam và nữ đã chỉ ra
rằng những người ngủ trên 8,5 giờ hoặc ngủ ít hơn 3,5 giờ mỗi đêm có nguy
cơ tử vong cao hơn 15% so với những người ngủ trung bình 7 giờ mỗi đêm.
Các tác giả chưa tìm thấy nguyên nhân rõ ràng giải thích cho việc này nhưng
có lẽ những người ngủ ít có thể có những bệnh kết hợp [15].
Về phân loại RLGN hiện nay vẫn chưa hoàn toàn thống nhất giữa hai
hệ thống phân loại bệnh quốc tế (ICD) và phân loại theo Hội Tâm Thần học

Mỹ (DSM).


7

Phân loại theo ICD – 10 RLGN bao gồm [16]:
- RLGN không thực tổn (F51.x).
- G47: RLGN bao gồm:
G47.0: RL khởi đầu và duy trì giấc ngủ (mất ngủ).
G47.1: Ngủ quá nhiều.
G47.2: RL chu kỳ thức ngủ.
Hội chứng giai đoạn ngủ muộn.
Kiểu ngủ thất thường.
G47.3: Ngừng thở khi ngủ (do trung ương và do tắc nghẽn).
G47.4: Chứng ngủ rũ và mất trương lực.
G47.8: RLGN khác (hội chứng Kleine- Levin).
G47.9: RLGN không xác định.
Phân loại theo DSM - IV về RLGN [1]:
- RLGN tiên phát.
- RLGN liên quan đến một bệnh tâm thần khác.
- Các RLGN khác.
Trên lâm sàng người ta chia làm 4 nhóm cơ bản: Mất ngủ, ngủ nhiều,
cận giấc ngủ, các rối loạn nhịp thức ngủ [17], [2]:
- Mất ngủ:
+ Phàn nàn chủ yếu là khó đi vào giấc ngủ, khó duy trì giấc ngủ hoặc
không hồi phục sức khỏe sau ngủ dậy, kéo dài ít nhất 1 tháng.
+ Mất ngủ là nguyên nhân gây ra các triệu chứng khó chịu rõ rệt; ảnh hưởng
xấu đến hoạt động xã hội, nghề nghiệp hoặc các lĩnh vực quan trọng khác.
- Ngủ nhiều:
+ Luôn than phiền ngủ quá nhiều trong vòng 1 tháng (ít hơn nếu tái

phát) với những giấc ngủ kéo dài hoặc có nhiều giấc ngủ ngày diễn ra hầu như
hàng ngày.


8

+ Ngủ quá nhiều là nguyên nhân ảnh hưởng đến chức năng xã hội, nghề
nghiệp và các chức năng quan trọng khác.
- Cận giấc ngủ:
+ Lặp đi lặp lại các lần thức giấc đột ngột khi ngủ buổi tối hoặc khi
chợp mắt, do bệnh nhân có những giấc mơ vô cùng hãi hùng mà họ vẫn nhớ
được các chi tiết của giấc mơ.
+ Ác mộng và những lần thức giấc là nguyên nhân gây ra các triệu
chứng trên lâm sàng, ảnh hưởng đến các chức năng xã hội, nghề nghiệp và
các chức năng quan trọng khác.
- Rối loạn nhịp thức ngủ:
+ Rối loạn bền vững và tái diễn đối với giấc ngủ dẫn đến ngủ quá nhiều
hoặc mất ngủ, nguyên nhân là do rối loạn nhịp thức ngủ của người bệnh đối
với môi trường bên ngoài.
+ Rối loạn nhịp thức ngủ là nguyên nhân gây ra các dấu hiệu lâm sàng
rõ rệt, làm tổn thương các chức năng xã hội, nghề nghiệp và các chức năng
quan trọng khác.
1.2.2. Dịch tễ học RLGN
RLGN tăng theo thời gian vì những căng thẳng trong cuộc sống ngày
càng tăng lên, có khuynh hướng tăng cao trong giới nữ, người cao tuổi, người
bị rối loạn tâm lý và những người thiệt thòi về kinh tế xã hội [16]. Theo các
nghiên cứu dịch tễ học, tỷ lệ mất ngủ trong cộng đồng dao động từ 20-30% và
tỷ lệ này cao hơn ở người cao tuổi [18]. Năm 2000, tại Pháp, Lerger và cộng
sự nghiên cứu trên 12778 cá nhân thấy 29% bị mất ngủ thường xuyên [19].
Năm 2001, Sutton và cộng sự báo cáo 24% dân số Canada độ tuổi từ 15 trở

lên bị mất ngủ [20]. Năm 1999, nghiên cứu cuả Ishigooka và cộng sự trên
6277 bệnh nhân ngoại trú của 11 bệnh viện ở Nhật Bản thấy có 20,3% bị mất
ngủ, trong đó có 11,7% bị mất ngủ từ 1 tháng trở lên.


9

- Ở Hoa kỳ: 10-20% người mất ngủ đáng kể, trong đó đa số các trường
hợp không được quan tâm đúng mức và điều trị thích hợp [21].
- Theo TCYTTG, nghiên cứu 15 khu vực khác nhau trên thế giới ước
tính 26,8% người trên thế giới bị mất ngủ được khám và điều trị tại các trung
tâm chăm sóc sức khoẻ ban đầu [3].
- Ở Việt Nam, trong 1 năm, có khoảng 30-45% người lớn có mất ngủ
[2]. Năm 1995 thông qua công trình nghiên cứu 1310 người tới khám tại
phòng khám ngoại trú Viện sức khỏe tâm thần Trung ương từ 30/6/1993 đến
10/8/1993 thì có tới 116 người mất ngủ, chiếm tỷ lệ 9% [22].
Về tuổi, nhiều nghiên cứu cho rằng, tuổi cao là một yếu tố nguy cơ của
mất ngủ. Năm 2001, Ohayon và cộng sự nghiên cứu 13057 đối tượng có độ
tuổi từ 15 trở lên thuộc nhiều quốc gia khác nhau gồm Anh, Đức, Ý nhận thấy
có hơn 1/3 số người từ độ tuổi 65 trở lên có triệu chứng mất ngủ [23].
Về giới, nhiều nghiên cứu cho thấy tỷ lệ mất ngủ ở nữ cao hơn nam.
Theo Rit Grewal và Karl Doghramji, hầu hết các nghiên cứu dịch tễ đều cho
thấy mất ngủ ở nữ cao hơn nam, và tỷ lệ này thường là 1,5/1 [24]. Theo
Lương Hữu Thông tỷ lệ mất ngủ khác nhau ở 2 giới: Nam 34,5-40%, nữ 6065,5%. Theo tổ chức y tế thế giới (1996), số phụ nữ mất ngủ cao khoảng 1,5
lần so với nam giới dù không có sự gia tăng đáng kể theo tuổi tác [22], [25].
Một số yếu tố nguy cơ khác gây mất ngủ nhưng tỷ lệ thấp hơn, bao gồm
tình trạng độc thân, thu nhập thấp, làm việc theo ca, nhân cách, bệnh tật và
các vấn đề tinh thần [26].
1.2.3. Nguyên nhân gây rối loạn giấc ngủ
Có nhiều nguyên nhân có thể gây RLGN [27]:

- Do rối loạn lịch thức ngủ trong ngày như thay đổi lịch làm việc, thay
đổi múi giờ khi đi ra nước ngoài…
- Do sử dụng các chất kích thích: Trà, rượu, cà phê…
- Do các yếu tố môi trường, thói quen người ngủ cùng…


10

- Do stress.
- Các bệnh lý tâm thần: Trầm cảm, hưng cảm, rối loạn lo âu lan tỏa,
nghiện chất, tâm thần phân liệt…
- Các bệnh lý đa khoa: Viêm khớp, hen, bệnh tim…
- Các bệnh lý liên quan đến giấc ngủ như: Ác mộng, mộng du, chứng
ngừng thở khi ngủ…
1.2.4. Ảnh hưởng của rối loạn giấc ngủ
- Ảnh hưởng đầu tiên của RLGN là tình trạng buồn ngủ, ngủ nhiều ban
ngày, tình trạng này thường xảy ra khi người thiếu ngủ ngồi hoặc đứng im
(khi đang xem phim, đang trong phòng họp), hoặc khi thực hiện các động tác
đơn điệu (ví dụ như đang lái xe, đang ghi chép).
- Ảnh hưởng lên cảm xúc: Cảm giác khó chịu, thiếu động lực, bồn
chồn, triệu chứng trầm cảm.
- Ảnh hưởng lên khả năng thực hiện động tác: Thiếu tập trung, thiếu
chú ý, giảm sự cảnh giác với nguy hiểm, phản ứng chậm hơn, dễ bị xao
nhãng, thiếu năng lượng mệt mỏi, thiếu đồng bộ giữa các giác quan, giảm khả
năng ra quyết định, hay quên, gây ra nhiều thiếu sót vv.
- Ảnh hưởng lên sức khỏe: Thiếu ngủ đã được chứng minh làm tăng
nguy cơ gây ra các bệnh tăng huyết áp, nhồi máu cơ tim, béo phì, tiểu đường.
Để cơ thể trở lại trạng thái cân bằng và duy trì sự tỉnh táo trong các hoạt
động ban ngày, cách duy nhất là tăng thời gian ngủ vào ban đêm để bù đắp
nhu cầu ngủ cần thiết của cơ thể.

1.2.5. Các phương pháp đánh giá rối loạn giấc ngủ
Phương pháp đánh giá trên lâm sàng:
- Thời lượng giấc ngủ giảm.
- Khó đi vào giấc ngủ.
- Hay tỉnh giấc vào ban đêm.


11

- Hiệu quả của giấc ngủ.
- Chất lượng giấc ngủ.
Đánh giá rối loạn giấc ngủ bằng Test tâm lý:
* Test Beck: Bậc thang đánh giá trầm cảm (Beck Depression Inventory: BID)
Test này do A.T. Beck và cộng sự giới thiệu năm 1974 gợi ý từ những
quan sát lâm sàng bệnh nhân trầm cảm nhất là từ liệu pháp phân tâm. Test này
nhằm đánh giá lâm sàng mức độ trầm cảm.
Phân tích kết quả: < 14 điểm: Không có trầm cảm; 14- 19 điểm: Trầm
cảm nhẹ; 20- 29 điểm: Trầm cảm vừa, > 30 điểm: Trầm cảm nặng.
* Test (SAS) – Zung (1974): Thang đánh giá lo âu của Zung gồm 20
câu hỏi dành cho người bệnh tự đánh giá số thứ tự 20 mục với 4 mức độ,
cường độ và thời gian, được ghi điểm từ 1-4, tổng điểm là 80.
Phân tích kết quả: ≤ 44 điểm: Không lo âu; 45- 59 điểm: Lo âu nhẹ;
60- 74 điểm: Lo âu nặng; 75- 80 điểm: Lo âu rất nặng.
Cả 2 test này được Tổ chức y tế thế giới thừa nhận là các test hỗ trợ lâm
sàng chẩn đoán lo âu và trầm cảm.
* Đánh giá chất lượng giấc ngủ bằng thang Pittsburgh (PSQI) của
Daniel J.Buyse năm 1989, nhằm đánh giá các chỉ số về chất lượng giấc ngủ
[28].Bảng điểm PSQI được coi là công cụ hữu hiệu được sử dụng nhiều nơi trên
thế giới (được dịch ra 56 thứ tiếng tính đến thời điểm tháng 11/2013).
Năm 2001, ở Việt Nam PSQI đã được chuẩn hóa, Cao Văn Tuân sử

dụng nghiên cứu RLGN trên người Việt Nam [29]. Các tác giả đã nhận thấy
thang đo này có giá trị sử dụng đáng tin cậy trong lâm sàng để đánh giá mức
độ mất ngủ và có thể dùng nó để theo dõi tiến triển mất ngủ [30], thang có độ
nhạy và độ lập lại cao. Chỉ số PSQI là tổng điểm của một bảng câu hỏi mà
người được hỏi tham gia trả lời gồm: 4 câu hỏi có kết thúc mở, 14 câu hỏi khi
trả lời cần dựa trên tần suất sự kiện và các mức độ tốt xấu khác nhau trên 7
phương diện trong thời gian 1 tháng:


12

 Thời gian ngủ.
 Tỉnh giấc giữa đêm.
 Mức độ khó ngủ.
 Mức ảnh hưởng đến hoạt động ban ngày do thiếu ngủ.
 Hiệu quả giấc ngủ.
 Tự đánh giá chất lượng giấc ngủ.
 Sử dụng thuốc ngủ.
Cách cho điểm:
(I)

Điểm mục 9:

Rất tốt = 0 điểm

Tương đối tốt = 1điểm

Tương đối kém = 2 điểm
(II)


Rất kém = 3 điểm

Điểm mục 2: < 15phút (0 điểm), 16-30 phút (1 điểm), 31-60 phút (2
điểm), > 60 phút (3 điểm) + Điểm mục 5a.

Tổng 0 = 0 điểm, 1-2 = 1 điểm, 3-4 = 2 điểm, 5-6 = 3 điểm.
(III) Điểm mục 4: >7 (0 điểm), 6-7 (1 điểm), 5-6 (2 điểm), < 5 (3 điểm).
(IV) Tổng số giờ ngủ được/tổng số giờ đi ngủ x 100%
(>85%= 0 điểm, 75-84%= 1 điểm, 65-74%= 2điểm, <65%= 3điểm).
(V)

Điểm 5b-5j: (0 = 0 điểm, 1-9 = 1 điểm, 10-18 = 2 điểm, 19-27 =
3điểm).

(VI)

Điểm mục 6: Không có = 0 điểm
1 hoặc 2 lần/tuần = 2 điểm

Ít hơn 1 lần/tuần = 1 điểm

3 hoặc hơn 3 lần/tuần = 3 điểm

(VII) Điểm mục 7 + điểm mục 8: (0 = 0 điểm, 1-2 = 1 điểm, 3-4 = 2 điểm,
5-6 = 3 điểm).
Chất lượng giấc ngủ được tính bằng thang điểm có giá trị từ 0 – 21, sẽ
được báo cáo dưới 2 dạng là:
- Tổng điểm chung của các câu hỏi hoặc
- Hai nhóm “chất lượng giấc ngủ kém’’ hay “chất lượng giấc ngủ tốt’’:
+ Tổng điểm PSQI ≤ 5 liên quan đến chất lượng giấc ngủ tốt (không có

rối loạn giấc ngủ).
+ Tổng điểm PSQI > 5 liên quan đến chất lượng giấc ngủ kém (có rối


13

loạn giấc ngủ).
Đánh giá rối loạn giấc ngủ bằng điện não đồ:
Trong những năm gần đây, một số tác giả sử dụng điện não đồ như một
phương tiện để chẩn đoán, theo dõi diễn tiến và điều trị bệnh tâm căn suy
nhược [31]. Các sóng điện não là những dao động có tần số, biên độ, hình
dáng khác nhau [31], [32]. Để đánh giá một bản điện não đồ, người ta dựa vào
một số tiêu chuẩn hoặc đặc tính như sau:
- Tần số của mỗi sóng (tính bằng Hz)
- Biên độ của sóng (tính bằng μV)
- Hình dáng các sóng.
- Vị trí, điều kiện xuất hiện các sóng.
- Điều kiện làm thay đổi các sóng [32].
Dựa vào các tiêu chuẩn trên người ta xác định được các sóng trên điện
não đồ cơ sở ở người.
* Nhịp alpha (α):
Nhịp alpha được Berger mô tả lần đầu tiên năm 1920, nên còn gọi là
nhịp Berger [31]. Bình thường ở người trưởng thành, nhịp alpha xuất hiện đều
đặn. Biên độ nhịp alpha rất khác nhau giữa các cá thể, thay đổi theo trạng thái
và thời gian trên một cá thể. Biên độ nhịp alpha thường ở khoảng 35-70 μV,
cao nhất ở vùng chẩm. Berger cho rằng sóng alpha có biên độ 15-20 μV, còn
theo Cobb biên độ sóng alpha dao động từ 0 đến 40-60 μV. Đa số nhịp alpha
có biên độ từ 5-20 μV, rất hiếm trên 100μV ở người trưởng thành[32]. Tần số
nhịp alpha khoảng 8-13Hz, thường gặp 9-10Hz. Chỉ số nhịp alpha bình
thường khoảng 70% ở vùng chẩm.

Nhịp alpha ghi ở những điểm đối xứng của hai bán cầu não thường có
tính chất đồng bộ cả hai bên. Nếu tình trạng không đối xứng về biên độ không
vượt quá 25-30% thì vẫn coi là bình thường [31]. Nhịp alpha thường có dạng


14

hình sin, thành chuỗi sóng hình thoi, xuất hiện rõ và nhiều nhất ở vùng chẩm,
khi nhắm mắt, không suy nghĩ, không vận cơ, không bị kích thích khác của
môi trường tác động.
* Nhịp beta (β)
Berger cũng đã mô tả nhịp beta lần đầu tiên năm 1920. Nhịp beta còn
gọi là nhịp căng thẳng, là nhịp thay đổi nhiều nhất trên điện não đồ [31], [32].
Có nhiều tác nhân làm thay đổi nhịp beta: No, đói, vận động, căng thẳng tinh
thần…nhịp beta xuất hiện trên tất cả các vùng của não, nhưng ưu thế ở vùng
trước của não, tức là ở vùng trán, vùng thái dương và thường không đối xứng
ở hai bán cầu não. Tần số nhịp beta khoảng 14-35Hz, hay gặp ở 14-24Hz.
Nhịp beta ghi được ở nữ giới nhiều hơn ở nam giới. Biên độ nhịp beta bình
thường khoảng 5-15μV, hay gặp 8-10μV, đôi khi đạt đến 30μV. Chỉ số nhịp
beta trên từng người rất ổn định, chỉ số beta tăng lên biểu thị của tăng trương
lực của vỏ não [31], [32].
Hình ảnh điện não đồ trên bệnh nhân tâm căn suy nhược cho thấy giảm
biên độ và chỉ số nhịp alpha, sóng điện não dẹt, chỉ có 30-35% trường hợp có
xuất hiện từng đợt sóng alpha. Có sóng nhanh beta, sóng chậm theta, delta
trên tất cả vùng não [32].
1.2.6. Các phương pháp điều trị rối loạn giấc ngủ theo y học hiện đại
Các phương pháp điều trị bằng thuốc, can thiệp hành vi và thay đổi lối
sống có thể góp phần điều trị mất ngủ.
Can thiệp không dùng thuốc:
- Vệ sinh giấc ngủ: Là phương pháp giáo dục được thiết kế cho những

người mất ngủ cũng như cho cộng đồng, bao gồm các hướng dẫn để làm thế
nào có được nhịp thức ngủ lành mạnh.
- Liệu pháp kiểm soát kích thích: Để cải thiện giấc ngủ, người ta
thường thay đổi môi trường phòng ngủ. Tránh bất kỳ mọi hoạt động kích


15

thích và tăng độ tỉnh táo trước khi đi ngủ như xem ti vi, đọc các sách có tác
dụng hưng phấn, quan sát chuông đồng hồ. Nếu bệnh nhân không thể ngủ
được sau 20 phút họ nên rời khỏi giường, ra khỏi phòng ngủ và chỉ quay lại
phòng khi cảm thấy đủ mệt để buồn ngủ trở lại. Việc này có thể lặp đi lặp lại
cho đến khi bệnh nhân ngủ được.
- Liệu pháp hạn chế giấc ngủ, tăng xu hướng ngủ và dễ đi vào giấc ngủ:
Để hạn chế thời gian thức tỉnh trên giường và tăng hiệu quả giấc ngủ, bệnh
nhân không nên đi ngủ quá sớm.
- Liệu pháp hành vi - nhận thức: Nội dung giáo dục là khuyến khích
bệnh nhân xác định rõ yếu tố nào là yếu tố thuận lợi, khởi phát của mất ngủ.
Từ đó giải quyết các suy nghĩ thích nghi kém hoặc sự tin tưởng không đúng
về mất ngủ.
- Rèn luyện thư giãn: Bệnh nhân nên thực hiện thư giãn cơ bắp hàng
ngày, tập các bài thư giãn vào buổi tối, không nên làm việc căng thẳng trong
khoảng 60 phút trước khi đi ngủ.
Điều trị bằng thuốc: Hội nghị khoa học về mất ngủ năm 2005 đã kết
luận rằng:
1. Tất cả các thuốc chống trầm cảm đều tiềm tàng có tác dụng không
mong muốn, vì vậy mà cần chú ý cân nhắc giữa cái lợi và cái hại.
2. Nhóm thuốc tâm thần và Barbiturate có nguy cơ cao vì vậy mà hai
nhóm thuốc này không được khuyến cáo để điều trị mất ngủ.
3. Không có bằng chứng một cách hệ thống về hiệu quả của nhóm

thuốc kháng Histamin, tuy nhiên cũng không có nguy cơ nào đáng kể về
nhóm thuốc này.
Nếu sau khi cân nhắc kỹ lưỡng, phương pháp tốt nhất cho điều trị mất
ngủ vẫn là dùng thuốc thì thuốc được lựa chọn nên là nhóm thuốc ngủ NonBenzodiazepam, đây cũng là nhóm thuốc có tác dụng ngắn thế hệ mới được


16

Hiệp hội thuốc và thực phẩm công nhận.
1.3. Quan niệm của Y học cổ truyền về rối loạn giấc ngủ
Rối loạn giấc ngủ nói chung hay mất ngủ nói riêng theo Y học cổ
truyền thuộc chứng thất miên, bất mị, bất đắc miên…chứng này có nhiều tình
trạng khác nhau, có khi không ngủ được từ lúc bắt đầu nằm xuống, có khi ngủ
được nhưng dễ tỉnh, nặng thì trằn trọc, suốt đêm không nhắm được mắt [33], [5].
Nguyên nhân mất ngủ khá phức tạp, theo Y học cổ truyền, chứng mất
ngủ do huyết hư, hoặc do thận âm suy kém, hoặc do hoả của can đởm bốc
hoặc do vị khí không điều hoà hoặc do sau khi ốm bị suy nhược không ngủ
được. Theo sách cảnh nhạc toàn thư chứng không ngủ tóm tắt thành năm thể
bệnh chính là: Tâm Tỳ hư, Tâm Thận bất giao, Khí của Tâm và Đởm hư, Vị
không điều hoà [5], [4], [34]. Trong đó 2 thể Tâm Tỳ hư và Tâm Thận bất
giao là 2 thể hay gặp trên lâm sàng.
1.3.1. Thể Tâm Tỳ hư
Chứng Tâm Tỳ hư là tên gọi chung chỉ những chứng trạng do Tâm
huyết hao tổn, Tỳ khí bị tổn hại dẫn đến Tâm thần mất nuôi dưỡng, Tâm là
nơi chứa Thần, Can là nơi chứa phách, Tỳ là nơi chứa ý sinh ra huyết, phàm
chứng mất ngủ là do âm huyết hư kém, thần, hồn và ý đều bị hư tổn [33],
bệnh phần nhiều do tư lự quá độ, ăn uống không điều độ, hoặc sau khi ốm
chăm sóc không chu đáo và bệnh xuất huyết mạn tính gây nên, Tỳ bị tổn
thương mất khả năng sinh hoá chất tinh vi, huyết hư khó hồi phục, tâm thần
mất sự nuôi dưỡng mà thành mất ngủ.

Biểu hiện chủ yếu là hồi hộp hay quên, ngủ ít hay mê, sắc mặt úa vàng,
kém ăn mỏi mệt, bụng trướng đại tiện nhão, đoản hơi, tinh thần bạc nhược hoặc
xuất huyết dưới da; phụ nữ kinh nguyệt không đều, ra sắc nhợt lượng nhiều, băng
lậu hoặc kinh ít, kinh bế, chất lưỡi nhạt bệu, rêu lưỡi trắng, mạch tế nhược.
Bệnh bất mị - mất ngủ xuất hiện trong chứng Tâm Tỳ hư có đặc điểm là
mê nhiều dễ thức giấc, giấc ngủ không yên. Trương Cảnh Nhạc nói “nhọc mệt
nghĩ quá độ thì tất nhiên làm cho huyết dịch bị hao tổn, thần hồn không yên


17

tĩnh cho nên không ngủ”. Sách Loại chứng trị tài cũng viết: “Tư lự thương Tỳ,
Tỳ huyết bị tổn hại, quanh năm mất ngủ, điều trị theo phép bổ ích Tâm Tỳ,
dùng bài Quy Tỳ thang hoặc Dưỡng tâm thang [35].
1.3.2. Thể Tâm Thận bất giao
Tâm với thận trong tình huống bình thường, chủ yếu là có mối quan hệ
trên và dưới cùng giao nhau, thuỷ với hoả cùng giúp đỡ nhau. Nếu do bẩm tố
tiên thiên bất túc, hoặc hư lao ốm lâu, hoặc phòng thất quá đáng vv. khiến cho
Thận thuỷ hư suy ở dưới không thể giúp cho Tâm hoả ở trên. Tâm hoả vượng ở
trên không thể giao với Thận ở dưới, hoặc do mệt nhọc tinh thần quá độ, ngũ chí
quá cực đến nỗi Tâm âm bị hao tổn ngấm ngầm, Tâm dương quá thịnh, Tâm hoả
không thể giao với Thận ở dưới, Tâm hoả không giáng xuống, Thận thuỷ không
thăng lên tạo thành tình thế thuỷ hoả của Tâm Thận không giúp đỡ nhau sẽ hình
thành bệnh biến, lâm sàng gọi là chứng Tâm Thận bất giao.
Biểu hiện lâm sàng chủ yếu là Tâm phiền, mất ngủ, hay mê, di tinh,
lưng đùi ê mỏi, triều nhiệt đổ mồ hôi trộm, hoa mắt ù tai, hoặc hồi hộp, hoặc
khô họng, hoặc tiểu đêm nhiều lần, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi ít hoặc không có
rêu, mạch tế sác.
Bệnh bất mị - mất ngủ xuất hiện trong chứng Tâm Thận bất giao có đặc
điểm là hư phiền, không ngủ, hay mê, ngũ tâm phiền nhiệt, miệng khô tân

dịch ít, lại kiêm cả chứng váng đầu, ù tai, hồi hộp, lưỡi đỏ, mạch tế sác; Đây
là do mệt nhọc nội thương, Thận thuỷ bất túc, Tâm hoả mạnh một phía gây
nên; Điều trị theo phép tráng thuỷ chế hoả, tư âm thanh nhiệt, dùng bài Giao
thái hoàn.
1.3.3. Các phương pháp điều trị mất ngủ bằng thuốc y học cổ truyền
* Tâm sen, lá vông, lạc tiên, củ bình vôi, cây húng hôi
Nhiều trường hợp cho kết quả tốt, nhưng thực tế các chất này có tác dụng
không vững bền nên chỉ có công hiệu với các trường hợp mới bị và nhẹ mà thôi.
Đối với người bị chứng mất ngủ mạn tính bao gồm các loại mất ngủ kéo dài từ vài
tháng đến vài năm, có hai loại thảo mộc có ích cho họ, đó là cây Đào gai


18

(anbespine) làm dịu đi những lo âu căng thẳng và cây Lạc tiên (Passiflore) giúp
cho dễ dàng đi vào giấc ngủ. trong trường hợp người bệnh thường thức giấc lúc 45 giờ sáng và không ngủ lại được thì cây Húng hôi (baloote) là thứ dược phẩm
thiên nhiên hữu ích. Nó chứa một chất xoa dịu rất mạnh, có tác dụng làm mất đi
cảm giác lo sợ bất an và kéo dài thời gian ngủ [33].
* Một số bài thuốc kinh điển
Tâm và Tỳ hư dùng Quy Tỳ thang hoặc bài Dưỡng Tâm thang, hoặc Lý thị
bất mị nghiệm phương để bổ huyết, ích khí trấn tâm an thần, Triệu thị nhị nhục
thang để ích Tâm Tỳ, sinh khí huyết, bổ Can Thận, Lăng thị thất miên phương để
bổ Thận dưỡng Tâm [35]. Mất ngủ do chân âm kém, hoả vượng dùng các bài Hoàng
liên a giao thang, Chu sa thần hoàn, Thiên vương bổ tâm đan. Mất ngủ do khí của
Tâm và Đởm hư: Toan táo nhân thang hoặc bài An thần định trí hoàn. Mất ngủ do Vị
không điều hoà do đờm hoả ngăn chặn dùng bài: Ôn đởm thang, bán hạ truật mễ
thang. Thức ăn trệ lại không tiêu: Bảo hoà hoàn. Sau khi ốm dậy mà không ngủ
được: Quy Tỳ thang. Do huyết hư can nhiệt: Bách hổ phách đa mị hoàn. Tâm Thận
không giao nhau dùng bài Giao thái hoàn [4] hoặc Triệu thị tử linh thang để bồi bổ
trung tiêu, ích tinh, mạnh sự ăn uống, giao thông Tâm Thận [35].

1.4. Điều trị rối loạn giấc ngủ bằng nhĩ châm
1.4.1. Khái niệm nhĩ châm
Nhĩ châm tức là dùng kim châm vào những điểm mẫn cảm trên loa tai,
rồi vê kim bằng tay hoặc lưu kim ở loa tai trong thời gian nhất định theo yêu
cầu chữa bệnh đối với từng chứng bệnh, từng bệnh nhân [6].
Nhĩ châm là một trong những hình thức của châm cứu, có tác dụng
chẩn đoán và điều trị. Ở nhiều nước Châu á, Châu âu như: Trung Quốc, Nhật
Bản, Ai cập, Ý, Pháp, Bồ Đào Nha có sử sách ghi về những tác động vào loa
tai để chữa bệnh.
1.4.2. Cơ sở khoa học của nhĩ châm
1.4.2.1. Theo giải phẫu, thần kinh - sinh lý học [6], [36]


19

Có rất nhiều thần kinh được phân bố ở loa tai, đó là các nhánh của dây
thần kinh tai to, dây thần kinh chẩm nhỏ, nhánh thái dương của dây thần kinh
sinh ba, nhánh tai của thần kinh mặt, nhánh tai sau của dây phế vị (hình1.4).
- Nhánh trước của dây thần kinh tai - thái dương: Nhánh này đi từ
dây thần kinh tai - thái dương của dây thần kinh V cho ra 3 đến 4 nhánh nhỏ,
phân bố.
+ Trên da của gờ bình tai và phía trước của hố tam giác.
+ Tại chân dưới của đối bình, ở trên và trước.
+ Tại xoắn tai trên, bình tai và dái tai lỗ tai và màng nhĩ.

Hình 1.4: Thần kinh liên quan đến tai
- Dây thần kinh tai to: Xuất phát từ đám rối cổ, men theo bề mặt của cơ
ức đòn chũm, đi lên ngang dái tai, phân ra hai nhánh:



20

+ Nhánh trước tai xuyên qua dái tai ra mặt trước của loa tai, cho một
nhánh lên phân bố ở 2/3 dưới của thuyền tai, đối luân, đầu nhọn của hố tam
giác, xoắn tai trên và một phần của rễ luân.
+ Nhánh sau tai phân bố tại da của phần giữa của mặt sau loa tai.
- Nhánh tai của dây X: Nhánh này bắt đầu phát ra từ hạch thần kinh
cảnh của dây phế vị, ra phía trước hợp lại với sợi của thần kinh VII trong ống
của dây này, men theo rãnh của mặt sau loa tai tách ra hai nhánh phân bố tại
xoắn tai dưới và ống tai ngoài.
- Nhánh tai của dây thần kinh VII: Sau khi ra khỏi lỗ trâm chũm, dây
VII cho ra nhánh tai phân bố ở mặt sau tai và xoắn tai trên.
- Dây thần kinh chẩm nhỏ: Xuất phát từ đám rối cổ, đi lên theo cơ ức
đòn chũm, phát ra một số phân nhánh tới phần trên của loa tai; 1/3 da mặt sau
loa tai, nhánh trước tai và nhánh đâm xuyên phân bố ở luân tai, phần trên của
thuyền tai, chân trên của đối luân và một phần của hố tam giác.
Phân bố mạch máu và bạch mạch của loa tai
- Loa tai được cung ứng máu khá đầy đủ, chủ yếu dựa vào động mạch
thái dương nông của động mạch cổ ngoài và động mạch sau tai. Động mạch
thái dương nông nuôi dưỡng khu vực trước tai, còn động mạch sau tai có
nhánh sau tai và nhánh trước tai. Nhánh động mạch sau tai đi đến mặt trước
loa tai, nuôi dưỡng vùng 2/3 dưới của thuyền tai, đối luân, đỉnh của hố tam
giác, xoắn tai trên và một phần vành tai.
- Các tĩnh mạch nhỏ của mặt trước loa tai đổ vào tĩnh mạch thái dương
nông. Tĩnh mạch của mặt sau loa tai hợp lại thành 3 - 5 tĩnh mạch của mặt
sau loa tai đổ vào tĩnh mạch sau tai.
- Bạch mạch của loa tai khá phong phú, hình thành một mạng lưới tại
loa tai. Bạch mạch ở mặt trước loa tai chảy vào mang tai. Đại bộ phận bạch
mạch ở mặt sau loa tai đổ về hạch sau tai.



21

Với sự phân bố thần kinh như trên, loa tai là ngã rẽ của nhiều đường
thần kinh làm cho nó gắn liền mật thiết với toàn thân. Nhờ sự phân bố thần
kinh cảm giác của nó, loa tai được liên hệ với:
- Các đường tủy: Nhờ vào đám rối cổ nông là nơi đã phát ra dây thần
kinh tai to.
- Não bộ: Chủ yếu dựa vào dây thần kinh V.
- Hệ thần kinh thực vật:
+ Hệ giao cảm: Có rất nhiều sợi của thần kinh giao cảm cổ được liên hệ
vào các nhánh của đám rối tủy cổ nông, của dây X, của dây X và của dây XI.
Dây XI lại được liên hệ trực tiếp với đám rối giao cảm của xoang cảnh (rất
quan trọng trong sự điều hòa vận động tim mạch).
+ Hệ phó giao cảm: Gồm các nhánh mạch và bài tiết nước bọt của dây
phó giao cảm thuộc hành não, dây XI và chủ yếu là dây X.
1.4.2.2. Theo YHCT [6], [37]
Trong những tài liệu kinh điển của châm cứu đều có đề cập mối liên
quan giữa tai và các kinh mạch. Trong Linh khu có nêu “Tai là nơi tụ hội của
tổng mạch” hoặc “Khí huyết của 12 kinh mạch, 365 lạc đều lên mặt để tưới
cho 5 quan, 7 khiếu, não tủy ở đầu mặt... trong đó có khí huyết tách ra để tưới
nhuận cho tai. Tai là một điểm trọng yếu trực tiếp thông với kinh Đởm, kinh
Tâm, kinh Can, kinh Tam tiêu, kinh Tiểu trường, gián tiếp thông với kinh
Thận, kinh phế, kinh Tâm bào. Như vậy tất cả các kinh âm và kinh dương
chính đều thông với nhau qua kinh nhánh của chúng và hầu hết các kinh âm
và dương chính đều có liên quan đến tai.
Trong Linh Khu và Tố Vấn và các tài liệu kinh điển cho thấy rõ mối
quan hệ giữa tai với các tạng phủ trong cơ thể: “Thận khí thông ra tai. Thận
hóa thì tai nghe được....”, “Tâm..... khai khiếu ở tai ”, “Tỳ..... không đầy đủ thì
9 khiếu không thông”, “Tủy hải không đủ.... thì tai ù”, “Bệnh ở can hư.... thì

tai không nghe được, khí nghịch thì đau đầu, điếc tai”, “Phế khí hư thì khí
ít......., tai điếc”, “Phế chủ âm thanh, làm tai nghe được âm thanh”.


22

Như vậy tai có quan hệ mật thiết với 12 kinh mạch và tất cả các tạng
phủ và trong cơ thể. Đây cũng chính là cơ sở lý luận về YHCT của phương
pháp nhĩ châm có tác dụng điều hòa khí huyết và lập lại cân bằng âm dương.
1.4.3. Những thay đổi bệnh lý và phân vùng huyệt trên loa tai
Bình thường da ở loa tai thấy đồng màu, cũng có thể thấy những chấm
hay những mảng sắc tố. Khi cơ thể có bệnh, từng vùng da trên loa tai có thể
thay đổi trở nên đỏ hoặc tái đi, xù xì, thô ráp, bong vảy khác với xung quanh.
Tại các vùng hay điểm nói trên, điện trở sẽ thấp hơn những vùng gần đấy, khi
nắn hoặc dùng que tù đầu ấn vào, bệnh nhân thấy đau trội hơn ở vùng kế cận.
Trên lâm sàng ta có thể quan sát các hiện tượng sau [8], [37]:
- Ở loa tai có vùng phản ứng hoặc điểm phản ứng trong khi ở đường kinh
tương ứng với vùng bệnh không tìm thấy điểm phản ứng hoặc vùng phản ứng.
- Ở loa tai không có vùng phản ứng hoặc điểm phản ứng trong khi ở
đường kinh tương ứng với vùng bệnh có điểm phản ứng hoặc vùng phản ứng.
- Ở loa tai và trên đường kinh tương ứng với vùng bệnh đều có điểm
phản ứng hoặc vùng phản ứng.
- Riêng loa tai: Điểm phản ứng hoặc vùng phản ứng có khi xuất hiện ở
cả 2 loa tai; có khi chỉ có ở 1 loa tai; có khi một bệnh nhân có nhiều điểm
phản ứng hoặc vùng phản ứng, có khi cùng một bệnh trên các đối tượng khác
nhau lại có những vùng phản ứng hoặc điểm phản ứng ở các vị trí khác nhau,
không theo một quy luật rõ rệt.
Thực tiễn lâm sàng cho thấy: Khi cơ thể có bệnh trong đa số trường
hợp trên mặt của loa tai, tại những vị trí của loa tai có quan hệ với nơi đang bị
bệnh xuất hiện những vùng phản ứng bệnh lý. Khi bệnh giảm hoặc khỏi, cảm giác

ấn đau ở điểm này cũng giảm và mất đi và khi điện trở da trở lại bình thường.
Nguyễn Tài thu đã viết trên tạp chí châm cứu nhấn mạnh trên mỗi phần
của loa tai đều có những khu vực gọi là vùng huyệt khác nhau, đại diện vùng
chức năng của các cơ quan, các bộ phận trong cơ thể. Các biểu hiện sinh lý và
các biến đổi bệnh lý của các cơ quan tạng phủ đều thể hiện trên các vùng
huyệt tương ứng đó.


23

Có nhiều sơ đồ loa tai khác nhau trên thế giới và một số vùng huyệt tiêu
biểu cho các cơ quan, tạng phủ, của cơ thể trên loa tai không giống nhau hoàn
toàn. Tháng 6 năm 1987 tại Seoul (Nam Triều Tiên) Hội đồng châm cứu Tây Thái
Bình Dương đã lấy ba sơ đồ loa tai của ba nước: Việt Nam (Nguyễn Tài thu),
Trung Quốc (Vương Thế Tài), Pháp (P.Noigier) để so sánh nghiên cứu và sơ bộ
công nhận 44 vùng huyệt (Hình1.5) thống nhất trên loa tai như sau [38].

Hình 1.5: Các vùng huyệt chủ yếu trên loa tai
(Theo sơ đồ loa tai của Giáo sư Nguyễn Tài Thu)
A1 Mắt
A2 Miệng
A3 Trán
A4 Tai
A5 Gáy
A6 Răng Mũi
A7 Răng
A8 Thị Giác
A9 Thị Giác
B1 Cơ Hoành
B2 Trực Tràng

B3 Niệu Đạo
B4 Sinh Dục Ngoài
B5 Can Hỏa
B6 Thần Kinh Thực Vật

C4 Cột Sống
C5 Ngực, Vú
C6 Bụng
O1 Thần Môn, Tâm
D2 Bánh Chè, Cẳng Chân, Bàn Chân
E Đùi Chân, Thần Kinh Tọa
P4 Buồng Trứng, Tinh Hoàn
F2 Thực Quản, Thanh Quản, Da
P5 Bàng Quang, Niệu Đạo
H1 Vai, Cánh Tay
H2 Khuỷu Tay
C3 Vai
P1 Dạ Dày, Vị
P2 Tiểu Trường
P3 Đại Trường


24

Q3 Miệng, Thực Quản, Thanh Quản
H3 Cổ Tay, Bàn Tay
O3 Tâm Bào, Thần Kinh Thực Vật
C1 Buồng Trứng, Tinh Hoàn
C2 Cổ Giáp Trạng
O2 Tử Cung, Sinh Dục

Q2 Tam Tiêu

D1 Đầu Gối
F1 Mũi
G Não Tủy
P6 Thận
P7 Tỳ, Can, Đởm
Q1 Phổi, Tâm Bào
Q4 Tai, Thính Giác

1.4.4. Tác dụng của nhóm huyệt điều trị
 Thần môn - O1
+ Vị trí: Nằm ở hố tam giác của loa tai, ở đỉnh của hố tam giác chỗ chia
đôi của gờ đối vành tai.
+ Tác dụng: Nhức đầu, mất ngủ, chóng mặt, an thần...
 Thận - P6
+ Vị trí: Ở bờ dưới gờ đối luân tai dưới, trên huyệt Tiểu trường.
+ Tác dụng: Bổ ích đối với não, thận, hệ thống mạch máu, cải thiện
giảm trí nhớ, đau đầu, hoa mắt, ù tai, giảm thị lực...
 Giao cảm - O3
+ Vị trí: Tại hố Delta chỗ tiếp nối giữa gờ đối luân tai dưới và bờ trong
của luân tai.
+ Tác dụng: Điều hòa hệ thần kinh thực vật, điều hòa nội tiết, giảm
căng thẳng, lo âu...
 Tâm - Q1
+ Vị trí: Ở chính giữa chỗ lõm xoắn tai dưới.
+ Tác dụng: An thần, hạ áp, cải thiện các rối loạn tinh thần…
 Tỳ - P7
+ Vị trí: Ở phía sau huyệt Vị dưới huyệt Can.
+ Tác dụng: Điều trị cơ thể suy nhược, tiêu hóa không tốt…

1.4.5. Ứng dụng nhĩ châm ở Viêt Nam
Từ năm 1962 đến năm 1992 Giáo sư Nguyễn Tài Thu đã tiến hành


25

nghiên cứu nhĩ châm, khảo sát những điểm đau ở loa tai, để chẩn đoán phòng
bệnh và chữa bệnh.
Từ năm 1992 đến nay Viện châm cứu Việt Nam đã thành lập nhóm
nghiên cứu nhĩ châm của viện đặt ở phòng Kế hoạch tổng hợp để tiếp tục
đánh giá tác dụng của nhĩ châm trên lâm sàng.
Từ năm 1970 đến năm 1976 tạp chí đông y và tạp chí Y học Việt Nam
cũng đã công bố kết quả điều trị bằng phương pháp nhĩ châm đối với một số
chứng bệnh: Hen phế quản, đau đầu, cao huyết áp…của các tác giả Nguyễn
Tài thu, Trần Thúy, Phạm Duy Nhạc, Kiều Xuân Dũng, Nguyễn Thị Thanh
vân, Nguyễn Văn Tâm.
1.5. Một số nghiên cứu liên quan tới điều trị rối loạn giấc ngủ
- Kết quả điều tra của Viện nghiên cứu vệ sinh Tâm thần Mỹ có 1/3 dân
số có rối loạn giấc ngủ và 100% bệnh nhân cao tuổi có rối loạn trầm cảm có
biểu hiện RLGN nặng. Người bệnh khó đi vào giấc ngủ, cảm giác lo lắng sợ
hãi khi lên giường (khi lên giường được 35-40 phút mà vẫn trằn trọc không
ngủ được). Khi ngủ được thì giấc ngủ không sâu, dễ tỉnh giấc, khi tỉnh giấc thì
không thể ngủ tiếp [1].
- Năm 2004, Ahmed Bahamman nghiên cứu 67 bệnh nhân mất ngủ mạn
tính thấy thời gian vào giấc trung bình là 42,6 ± 7,74 phút, hiệu quả giấc ngủ
trung bình là 69,9 ± 2,5%. Đặc biệt dựa vào đa ký giấc ngủ, có 83,6% có chẩn
đoán đa ký, trong đó mất ngủ chủ quan chiếm 40,3% và mất ngủ liên quan
đến nhịp thở chiếm 25,4% [39].
- Năm 2011, một nhóm tác giả người Mỹ và Canada nghiên cứu trên
3282 đối tượng nam, nữ nhận thấy có 21,4% bị mất ngủ, những người mất

ngủ này thường mác ít nhất một bệnh lý kèm theo [40]
- Nghiên cứu so sánh chất lượng giấc ngủ trong các rối loạn tâm thần
với nhóm chứng bằng thang PSQI của Yuriko và cộng sự, khảo sát trên 24


×