Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Nguyên lý Kế toán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (231.7 KB, 12 trang )

Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Nguyên lý Kế toán Ôn tập
Năm học 2004-2005

Bui Van
1 30/08/2004

Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Thành phố Hồ Chí Minh
Kỳ học tháng Tám 2004
Nguyên lý Kế toán
ÔN TẬP
Môn học này chỉ ngắn gọn trong vòng 4 tuần, nên chúng ta phải theo sát vào những mục
tiêu đã đề ra. Trong từng nội dung, chúng ta phải nắm được bản chất của vấn đề từ góc độ
quản lý, thay vì thuộc lòng các quy trình kế toán như một kế toán viên chuyên nghiệp.
Các bài tập có thể dài hơn so với kỳ vọng của các anh chị, nhưng đây là cách tiếp cận
dành cho một lớp học trong đó có những người đã rất thông thạo kế toán trong khi một số
người khác mới làm quen lần đầu tiên. Sau đây là tóm tắt lại một số mục tiêu chúng ta đã
đi qua:
Mục tiêu thứ nhất:
Xem xét quy trình hoạt động của một công ty dưới góc độ tài chính
Chương 1 cuốn Kế toán Tài chính của Stickney & Weil trình bày tương đối tốt nội dung
này. Yêu cầu các anh chị phải nắm được các nội dung sau:
1. Các mục tiêu và chiến lược của một tổ chức kinh doanh: một tổ chức kinh doanh có
thể đề ra nhiều mục tiêu khác nhau, nhưng trong nội dung môn học này chúng ta coi
việc tối đa hóa lợi nhuận cho chủ sở hữu là mục tiêu quan trọng nhất và sẽ được xem
xét kỹ lưỡng nhất. Cũng vì vậy chúng ta không xem xét kế toán trong các tổ chức phi
lợi nhuận.
2. Các loại hình doanh nghiệp: Tuy có nhiều loại đơn vị hạch toán khác nhau trong xã
hội, môn học này tập trung vào nhóm công ty trách nhiệm hữu hạn trong đó gồm:
• Công ty trách nhiệm hữu hạn một chủ sở hữu
• Công ty TNHH với hai hay nhiều chủ sở hữu


• Công ty cổ phần
• Công ty cổ phần có phát hành cổ phiếu trên thị trường
Dù mang tên “TNHH” hay không, cả ba loại hình này đều là trách nhiệm hữu hạn với
hàm ý là những người chủ sở hữu không phải chịu trách nhiệm nhiều hơn số vốn
mình có trong công ty. Nói cách khác, công ty và chủ sở hữu được tách biệt thành
những pháp nhân riêng biệt. Nếu tình huống xấu nhất xảy ra, chủ sở hữu chỉ có thể
mất số vốn đã góp vào công ty, còn những tài sản của riêng chủ sở hữu sẽ không bị
ảnh hưởng.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Nguyên lý Kế toán Ôn tập
Năm học 2004-2005

Bui Van
2 30/08/2004

3. Mọi hoạt động của một công ty có thể phân vào ba nhóm. Sơ đồ 1.1 của chương 1 thể
hiện tóm tắt ba nhóm này:
• Hoạt động huy động vốn
• Hoạt động đầu tư
• Hoạt động sản xuất kinh doanh
4. Hoạt động huy động vốn: là những hoạt động đầu tiên để hình thành doanh nghiệp.
Luôn luôn người chủ doanh nghiệp phải đi đầu trong việc góp một lượng vốn của
mình vào, sau đó mới có thể vay thêm từ các nguồn khác. Tổng vốn chủ sở hữu và
vốn vay tạo thành nguồn vốn và được thể hiện trên bảng cân đối.
(Lưu ý: Định nghĩa của huy động vốn bao gồm cả huy động vốn ngắn hạn như nhận
ứng trước của khác hàng, mua nguyên liệu trả sau…Trong báo cáo cụ thể, những
thay đổi của nợ ngắn hạn thường được xét vào nhóm hoạt động sản xuất kinh doanh.
Chúng ta sẽ xét kỹ hơn trong báo cáo ngân lưu).
5. Hoạt động đầu tư: công ty sử dụng nguồn vốn để mua đất đai, nhà xưởng, thiết bị, bản
quyền. Mua cổ phần hay trái phiếu của các công ty khác cũng được coi là hoạt động
đầu tư. Về tổng quan, người ta coi hoạt động đầu tư bao gồm cả việc duy trì một

lượng tài sản lưu động: tiền mặt và tương đương tiền mặt, hàng trong kho, khoản phải
thu, ứng trước cho các nhà cung cấp... Kết quả của hoạt động đầu tư tạo thành tài sản
và được thể hiện ở phần tài sản trên bảng cân đối.
(Lưu ý: về tổng quan thì việc tạo ra tài sản được gọi là đầu tư. Tuy nhiên trong các
báo cáo tài chính cụ thể thì chỉ mua bán tài sản cố định mới được xếp vào nhóm hoạt
động đầu tư. Việc tạo ra tài sản lưu động được phân vào nhóm hoạt động sản xuất
kinh doanh.)
6. Thực hiện sản xuất kinh doanh: đây là hoạt động để tạo ra lợi nhuận của công ty, bao
gồm mua hàng hóa, nguyên liệu, sản xuất chế biến, bán hàng, trả lương nhân công,
quảng cáo tiếp thị, nghiên cứu phát triển, đào tạo, và quản lý công ty. Kết quả của
hoạt động sản xuất kinh doanh được thể hiện trên báo cáo thu nhập của công ty.
7. Báo cáo kết quả các hoạt động: Hình 1.2 của chương 1 thể hiện tóm tắt các hoạt động
được thể hiện trên những phần khác nhau của bảng cân đối và báo cáo kết quả hoạt
động kinh doanh. Nếu các anh chị có thể nắm vững sự khác biệt giữa hình 1.1 với
hình 1.2, các anh chị đã hiểu được mối liên quan giữa hoạt động kinh doanh và công
tác kế toán.
Mục tiêu thứ hai
Xem xét các nguyên tắc căn bản của kế toán

Việc học tập các nguyên tắc hay các quy ước thường đòi hỏi ứng dụng vào nhiều tình
huống cụ thể, vì vậy trong quá trình thực hành về sau các anh chị sẽ có dịp củng cố thêm
trên lĩnh vực này. Những kế toán viên chỉ đơn thuần áp dụng các quy ước. Những nhà
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Nguyên lý Kế toán Ôn tập
Năm học 2004-2005

Bui Van
3 30/08/2004

quản lý phải hiểu được ý nghĩa sâu xa của các quy ước, để có quyết định đúng đắn trong
việc áp dụng.

Kế toán tài chính sử dụng 9 quy ước căn bản
(1) Quy ước kế toán kép (dual-aspect): mọi giao dịch kinh tế phải được ghi làm hai
tác động (có khi hơn hai tác động), kế toán chia làm hai bên Nợ (bên trái) và Có
(bên phải) và hai bên này trong mọi tình huống phải cân nhau.
(2) Quy ước dùng tiền làm đơn vị đo lường (money-measurement): dù doanh nghiệp
có thể sử dụng nhiều loại tài sản và nhiều loại tiền tệ, kế toán thống nhất báo cáo
mọi giá trị bằng một loại tiền thống nhất.
(3) Quy ước đơn vị hạch toán (entity): kế toán tách doanh nghiệp thành một pháp
nhân tách biệt khỏi các chủ doanh nghiệp và chỉ xem xét hoạt động, tài sản và thu
nhập của doanh nghiệp
(4) Quy ước hoạt động liên tục (going-concern): kế toán giả định doanh nghiệp sẽ tồn
tại liên tục và mãi mãi (ít nhất là trong một thời gian đủ dài để có thể coi là mãi
mãi.)
(5) Quy ước giá thành hay giá gốc (historical cost): các giá trị của tài sản được ghi
nhận theo giá gốc (giá mua ban đầu), ngoại trừ một số trường hợp đặc biệt được
ghi chú riêng.
(6) Quy ước thận trọng (conservatism): kế toán phải ghi nhận sự việc theo quan điểm
thận trọng (không lạc quan). Ví dụ như phải ghi nhận tổn thất khi có khả năng xảy
ra, nhưng chỉ ghi nhận lãi khi đã chắc chắn có được. Qui ước này thường dùng để
tính các khoản dự phòng.
(7) Quy ước ghi nhận sự việc đáng kể (materiality): kế toán sẽ ghi nhận đơn giản hóa
những sự việc không đáng kể. Ví dụ như một tài sản có thể tồn tại và mang lại lợi
ích kinh tế trong nhiều năm, nhưng nếu giá trị không đáng kể thì hạch toán thành
chi phí ngay khi mua, không cần hạch toán vào tài sản.
(8) Quy ước về thời điểm ghi nhận (realization): kế toán có những qui định nhất quán
về thời điểm ghi nhận doanh thu, khi có những bằng chứng xác thực doanh thu
này.
(9) Quy ước ghi nhận chi phí tương xứng với doanh thu (matching): chi phí liên quan
đến sản phẩm chỉ ghi nhận vào thời điểm phát sinh doanh thu từ sản phẩm đó (ví
dụ: chi phí giá vốn hàng bán chỉ ghi nhận khi bán hàng, mặc dù hàng đã mua về

trước đó rất lâu), chi phí liên quan đến thời kỳ chỉ ghi nhận vào đúng thời kỳ báo
cáo (ví dụ như chi phí thuê nhà, bảo hiểm…)
Một số quy ước không phải là tuyệt đối mà phải xem xét vận dụng trong tình huống cụ
thể. Đôi khi chúng ta gặp tình thế hai quy ước mâu thuẫn nhau, việc xử lý tùy thuộc quan
điểm và năng lực của các nhà quản lý.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Nguyên lý Kế toán Ôn tập
Năm học 2004-2005

Bui Van
4 30/08/2004

Ví dụ 1: theo quy ước (5) thì tài sản phải được thể hiện theo giá mua vào, nhưng tài sản
“chứng khoán ngắn hạn” lại thường xuyên được điều chỉnh lại theo thời giá trên thị
trường”.
Ví dụ 2: theo quy ước (8) thì doanh thu chỉ được ghi nhận khi đã hoàn thành công việc
giao hàng hay thực hiện dịch vụ, nhưng trong một công trình xây dựng kéo dài nhiều năm
thì giữa chủ đầu tư và nhà thầu thường thỏa thuận một phương án nghiệm thu từng phần
để nhà thầu có thể ghi nhận doanh thu cho mỗi năm làm việc.
Hai phương thức kế toán trái ngược nhau
• Phương thức kế toán trên có sở tiền mặt (cash accounting)
• Phương thức kế toán trên cơ sở thực tế phát sinh (accrual accounting)
Phương thức kế toán tiền mặt có vẻ đơn giản và gần gũi hơn với những người quen với
việc quản lý tài chính cá nhân hay gia đình. Nhưng kế toán doanh nghiệp hầu hết sử dụng
phương thức “thực tế phát sinh”. Những tổ chức không áp dụng phương thức này gồm
các văn phòng chính phủ, các tổ chức phi lợi nhuận, và một số trường hợp đặc biệt của
doanh nghiệp. Trong phạm vi môn học chúng ta sẽ không xem xét kỹ nhóm này.
Doanh nghiệp không áp dụng kế toán trên cơ sở tiền mặt vì những nguyên nhân sau:
• Kế toán tiền mặt không thể hiện được mối liên hệ giữa chi và thu, do vậy vi phạm
quy ước (9).
• Kế toán tiền mặt không ghi nhận được thời điểm quan trọng nhất của quy trình

kinh doanh, đó là khi giao hàng hay hoàn thành dịch vụ cho khách hàng. Nhìn
chung kế toán tiền mặt làm cho doanh thu bị ghi chậm lại và chi phí được ghi
nhận sớm hơn.
• Điểm quan trọng nhất, kế toán tiền mặt không thể hiện được sự thay đổi của vốn
chủ sở hữu.
Mục tiêu thứ ba
Sự hình thành và cấu trúc của các báo cáo tài kế toán
1. Bảng cân đối kế toán
Là bản báo cáo đầu tiên trong ba báo cáo chính, nhưng cũng là bản trên thực tế ít được coi
trọng nhất. Nguyên nhân chủ yếu là trên thị trường giá cả luôn biến động, trong khi theo
qui ước (5) thì hầu hết các tài khoản trong bảng cân đối không được điều chỉnh theo giá
thị trường.
Kế toán viên ghi các tài sản theo mã số qui định, các nhà kinh tế ghi nhận theo định nghĩa
kinh tế. Chúng ta phải nắm được những định nghĩa kinh tế này.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Nguyên lý Kế toán Ôn tập
Năm học 2004-2005

Bui Van
5 30/08/2004

Tài sản lưu động
- Tiền mặt: tài khoản này bao gồm tiền mặt trong két, ngân phiếu, tiền gửi trong tài
khoản ngân hàng, chứng chỉ tiền gửi…(Luật kế toán Việt Nam quy định vàng bạc và
kim loại quý phải được xếp chung vào tài khoản tiền mặt)
- Chứng khoán đầu tư ngắn hạn: trái phiếu hay cổ phiếu công ty mua về và dự định
giữ trong thời gian tương đối ngắn, khi cần có thể dễ dàng chuyển thành tiền mặt
trong thời gian ngắn.
- Khoản phải thu: các khoản khách hàng nợ công ty khi mua hàng hay dịch vụ thông
thường của công ty. Khi nói hàng hóa hay dịch vụ thông thường chúng ta hiểu là việc
bán thanh lý tài sản cố định của công ty phải được ghi riêng.

- Nợ phải thu: các khoản công ty cho khách hàng nợ theo hợp đồng vay riêng biệt tách
rời khỏi hợp đồng mua hàng.
- Lãi vay phải thu: thể hiện lãi phát sinh từ tài sản của công ty như nợ và trái phiếu
nhưng đến ngày báo cáo công ty vẫn chưa nhần được tiền mặt.
- Hàng trong kho: hàng hóa công ty mua về để bán trong qui trình kinh doanh thông
thường của công ty. Hàng trong kho cũng có thể bao gồm các hàng công ty mua về để
tiêu dùng nhưng chưa sử dụng đến, ví dụ như giấy bút, phụ tùng máy, xăng dầu…
Những hàng hóa mua về không phải để bán phải được ghi chú riêng.
- Nguyên liệu trong kho: các nguyên liệu công ty mua và nhập kho để sử dụng trong
sản xuất.
- Hàng sản xuất dở dang (bán thành phẩm): hàng đang nằm trên các công đoạn khác
nhau của dây chuyền sản xuất, nhưng chưa trở nên thành phẩm hoàn chỉnh.
- Hàng thành phẩm: hàng đã sản xuất hoàn chỉnh, nhập kho chờ bán. Đối với công ty
thương mại đây chính là hàng tồn kho.
- Chi phí trả trước: thể hiện những khoản công ty trả trước cho tiền thuê nhà, tiền bảo
hiểm, hay những dịch vụ khác trong tương lai.
- Ứng trước cho nhà cung cấp: thể hiện phần tiền công ty đã trả cho nhà cung cấp để
mua hàng nhưng đến thời điểm báo cáo vẫn chưa nhận được hàng.
Tài sản cố định
- Đầu tư chứng khoán dài hạn: những cổ phiếu hay trái phiếu mà công ty mua về với
dự định giữ trong thời hạn trên một năm. Lưu ý khoản này áp dụng theo qui ước (5)
của kế toán, nghĩa là không điều chỉnh giá trị theo giá thị trường.
- Đất đai: thể hiện giá gốc của đất đai khi công ty mua về.

×