Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

BÀI HỌC CHO VIỆT NAM TỪ KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH MỸ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.43 KB, 9 trang )

1
BÀI HỌC CHO VIỆT NAM TỪ KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH
MỸ
Khi cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ xảy ra và lan rộng trên toàn cầu, cơn
bão nhanh chóng lan toàn sang các nước trên thế giới, ảnh hưởng tiêu cực đến nền
kinh tế và kéo theo hệ quả là sự tăng trưởng châm lại ở hầu hết các nước. Đặc biệt
là trong năm 2008, những tác động tiêu cực đối với kinh tế toàn cầu thể hiện rất rõ
nét. Đối với Việt Nam, với đà tăng trưởng kinh tế rất ấn tượng và lạc quan trong
năm 2007, tác động của cơn bão này đến Việt Nam có phần chậm hơn so với nhiều
nước trên thế giới. Tuy nhiên, kinh tế Việt Nam năm 2008 cũng không thể năm
ngoài dòng chảy của kinh tế thế giới. Toàn cầu hoá mang lại cho các quốc gia đang
phát triển như Việt Nam nhiều cơ hội nhưng một khi kinh tế của các nước phát
triển gặp vấn đề thì ảnh hưởng của nó cũng không nằm trong phạm vi lãnh thổ
quốc gia đó. Đầu tư nước ngoài giảm, xuất khẩu giảm kéo theo GDP tỷ lệ thất
nghiệp tăng cao…Do giới hạn về đề tài, chúng tôi xin phép không đề cập đến
những tác động của khủng hoảng tới kinh tế Việt Nam. Trong bài tiểu luận này,
chúng tôi xin phép rút ra những bài học cho thị trường tài chính Việt Nam nhìn từ
cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ.
Mặc dù thị trường tài chính Việt Nam chỉ đang trong giai đoạn phát triển, ta
không phải lo lắng về những công cụ chứng khoán phái sinh phức tạp – những sản
phẩm của một thị trường tài chính phát triển như ABS, MBS, CDOs… Thị trường
tài chính Việt Nam chưa thể cho ra đời những sản phẩm như thế. Tuy nhiên, bài
học cho Việt Nam không phải từ thị trường chứng khoán hoá hay việc phát minh ra
những công cụ tài chính mới. Ở đây, cần thiết phải đề cập tới vịêc duy trì tính minh
bạch của thị trường, khả năng quản lý của những cơ quan như Fed như Ngân hàng
nhà nước, khả năng dự báo của nền kinh tế. Bên cạnh đó, cũng xin đưa ra một số ý
kiến về gói kích thích kinh tế của chính phủ Hoa Kỳ và Việt Nam.
1. Sự cần thiết duy trì hệ thống tài chính ổn định và minh bạch
Căn nguyên của cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ và sau đó là một cuộc khủng
hoảng tài chính trên phạm vi toàn thế giới cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu) là
do cơ chế quản lý thông tin tài chính lỏng lẻo, thiếu minh bạch của giới chức trách


và Ngân hàng Mỹ. Một hệ thống tài chính mạnh và được quản lý tốt sẽ là bước
1
2
phòng thủ đầu tiên trước bất kỳ cơn bão tài chính nào.Do vậy, Việt Nam cũng như
các quốc gia khác cần xây dựng một khung chính sách tài chính vững bền nhằm
hạn chế và tránh làm trầm trọng hơn những rủi ro lớn dẫn đến khủng hoảng. Một
nền tài chính ổn định nên tập trung vào việc sử dụng các chính sách thận trọng vĩ
mô bao gồm chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa…đồng thời với việc công khai
thông tin tài chính rõ ràng.
1.1 Việc thực thi các chính sách
Thứ nhất, đối với Việt Nam, chính sách tiền tệ cần hướng tới mục tiêu chủ
đạo là ổn định mặt bằng giá chung. Đây cũng là mục tiêu cơ bản được Quỹ tiền tệ
thế giới IMF đưa ra trong báo cáo rút ra bài học từ sau khủng hoảng tài chính toàn
cầu :"Ngân hàng trung ương phải duy trì sự ổn định về lòng tin đối với ổn định về
giá mà họ có được trước khi xảy ra khủng hoảng và lòng tin này phải được bảo vệ.
Việc kiểm soát và phân tích diễn biến và rủi ro của hệ thống tài chính có thể hòa
nhập tốt hơn trong việc hình thành thực thi chính sách tiền tệ".Giá cả được duy trì
ở mức ổn định hợp lý sẽ góp phần giúp các hàng hóa được lưu thông dễ dàng, củng
cố niềm tin của người dân đồng thời hạn chế tỷ lệ lạm phát tăng cao, tránh gây bất
ổn cho nền kinh tế. Bên cạnh việc xây dựng chính sách giá, Ngân hàng nhà nước
cần linh hoạt áp dụng các mức lãi suất khác nhau nhằm phản ứng kịp thời trước
những biến động của nền kinh tế. (Ổn định kinh tế kiềm chế lạm phát không thể đi
cùng với mục tiêu tăng trưởng) Thứ hai, Việt Nam cần tập trung ổn định và thực
thi chính sách tài khóa trên hai phương diện cơ bản:ổn định chi tiêu công của
Chính phủ và xây dựng chính sách thuế minh bạch. Ngân sách Nhà nước phải đảm
bảo thực hiện đúng nguyên tắc cân đối thu chi, tránh tình trạng chi quá nhiều dẫn
đến thâm hụt ngân sách Nhà nước. Vấn đề này cần được nghiêm túc thực hiện
thông qua việc tăng cường kiểm tra, giám sát các khoản chi tiêu công của cơ quan
các cấp, triệt để xóa bỏ tình trạng tham nhũng, đầu cơ trục lợi bất chính. Chính
sách thuế cũng cần được thực hiện công khai, quy định thành luật cụ thể, rõ ràng,

xây dựng các mức thuế khác nhau phù hợp với từng đối tượng, xây dựng lộ trình
cắt giảm thuế hợp lý với từng mặt hang nhất định. Có như vậy, chính sách tài khóa,
hệ thống tài chính Việt Nam mới bảo đảm được tính minh bạch, ổn định
1.2 Củng cố niềm tin
Một nhân tố quan trọng nhưng ít khi được nhắc đến như là nguyên nhân của
các khủng hoảng đó chính là sự khủng hoảng niềm tin. Trên thực tế, các cuộc
khủng hoảng trước đây như khủng hoảng Ngân hàng Nhật Bản những năm 1980s
2
3
hay hiện nay là khủng hoảng tài chính Mỹ 2007-2009. Các chính sách phục hồi
kinh tế của Ngân hàng Trung ương, gói kích thích của chính phủ nhằm khuyến
khích tiêu dung, tăng đầu tư từ đó nhằm vực dậy nền kinh tế chỉ có thể phát huy tác
dụng khi dân chúng tin tưởng vào tương lai của nền kinh tế. Các nhà đầu tư sẽ thận
trọng hơn khi đầu tư vào nền kinh tế mà những biến động của nó không thể lường
trước. Một phần nguyên nhân làm cho cuộc khủng hoảng tại Nhật Bản kéo dài
cũng là do dân chúng mất lòng tin vào nền kinh tế. Đặc bịêt đối với thị trường
Việt Nam khi tính minh bạch của thông tin thị trường luôn ở mức thấp. Vì vậy,
công khai những thông tin trên thị trường tài chính, , tăng cường thông tin trên thị
trường chứng khoán tạo thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của các nhà đầu tư,
tăng tính thanh khoản trên thị trường tài chính, giúp họ tránh gặp phải thông tin bất
cân xứng hay lựa chọn đối nghịch.
1.3 Nâng cao vai trò quản lý của ngân hàng trung ương
Sau cuộc khủng hoảng, IMF đã rút ra bài học chung cho tất cả các nền tài
chính toàn cầu cần thiết có sự hoạt động trong phạm vi điều hành của sự thận trọng
vĩ mô. Trong đó, phải kể đến vai trò chủ đạo của các ngân hàng trung ương cho dù
họ có hay không vai trò điều tiết chính. Điều này nhằm tăng cường sự quản lý,
giám sát của các ngân hàng Nhà nước đối với hệ thống kinh tế-tài chính của một
quốc gia. Ngân hàng trung ương vừa thực hiện chức năng quản lý về mặt nhà nước
trên lĩnh vực tiền tệ, tín dụng, ngân hàng; vừa thực hiện chức năng là ngân hàng
của nhà nước, ngân hàng của các Ngân hàng. Do vậy, sự điều hành của ngân hàng

trung ương sẽ góp phần ổn định các chính sách kinh tế vĩ mô, đồng thời việc tăng
cường cơ cấu tổ chức trong hoạt động của các ngân hàng còn góp phần cải thiện
khả năng phục hồi của hệ thống.
1.4 Bài học cho các ngân hàng trong hoạt động quản lý tín dụng
Từ khi bắt đầu khủng hoảng, Fed và các cơ quan giám sát khác của Mỹ đã
hợp tác với các cơ quan giám sát nước ngoài để tìm ra nguyên nhân khủng hoảng
và những bài học của nó. Sự phối hợp quốc tế đã giúp các cơ quan giám sát Mỹ
học hỏi kinh nghiệm quốc tế và giúp so sánh hoạt động của các tổ chức tư nhân Mỹ
với các tổ chức tài chính toàn cầu.
Các phân tích đã tái khẳng định rằng an toàn vốn, xây dựng kế hoạch thanh
khoản hiệu quả và tăng cường quản lý rủi ro là những yếu tố cần thiết nhất để hệ
thống ngân hàng hoạt động an toàn và phát triển tốt. Khủng hoảng cho thấy một số
tổ chức tín dụng đã có những thiếu sót nghiêm trọng ở một hoặc các mặt nêu trên.
3
4
Cuộc khủng hoảng cũng đã nhấn mạnh sự cần thiết phải tăng cường tính thận trọng
và hiệu lực của các cơ quan giám sát nhằm đảm bảo rằng các tiêu chuẩn đặt ra phải
được thực hiện. Ngân hàng trung ương cần thực hiện giám sát chặt chẽ tỷ lệ vốn
của các tổ chức tài chính tương ứng với mức độ rủi ro của tài sản và trao đổi đánh
giá với các nhà quản lý cấp cao của các tổ chức này. Đồng thời có những quy định
chặt chẽ về tỷ lệ đòn bẩy tài chính tại các tổ chức tín dụng, đặc biệt là các NHTM
nhằm tránh hiểm hoạ chạy theo lợi nhuận của các đơn vị này dẫn đến những hiểm
hoạ khôn lường khi nền kinh tế có biến động.
Khủng hoảng cũng cho thấy tầm quan trọng của việc quản lý thanh khoản
hiệu quả. Các tổ chức tín dụng cần theo dõi trạng thái thanh khoản và đưa ra các
chiến lược thanh khoản, các diễn biến chính của thị trường và rủi ro thanh khoản.
Từ thực tiễn cho thấy để có được khả năng thanh khoản đầy đủ đòi hỏi một tổ chức
phải có nhiều hơn những tài sản có tính thanh khoản cao so với những tài sản mà
các ngân hàng nắm giữ trong điều kiện bình thường;- tất nhiên khi duy trì tỷ lệ
thanh khoản cao cũng đồng nghĩa với việc các đơn vị này phải hy sinh một phần

mục tiêu lợi nhuận- và trên thực tế việc thực hiện giải pháp này luôn gặp khó khăn
các tổ chức tài chính còn phải dự tính đến trạng thái thanh khoản khi thị trường rơi
vào hoàn cảnh khó khăn.
Sau vốn và thanh khoản thì nhân tố chính thứ ba đảm bảo hệ thống gân hàng
hoạt động an toàn và lành mạnh là quản lý rủi ro hiệu quả.Ccác ngân hàng cần
nâng cao hoạt động quản trị rủi ro của mình.
Để đảm bảo được tính thanh khoản và quản lý rủi ro tốt các tổ chức tín dụng
cần tuân thủ các nguyên tắc cho vay chặt chẽ. Xác định rõ việc mục đích các khoản
vay, thực hiện theo đúng nguyên tắc cho vay, thẩm định thật kỹ các dự án và làm
tốt công tác giảm sát các khoản vay. Thực tế, vì mục tiêu lợi nhuận và không lường
trước được những hiểm hoạ của sự tăng trưởng không lành mạnh các ngân hàng ở
Mỹ đã cho vay ô ạt và việc cho vay không còn dựa trên những tiêu chuẩn chặt chẽ
như trước, hệ quả là các ngân hàng này đang tự đánh cược mình vào khả năng trả
nợ của những khách hàng có rủi ro vỡ nợ cao.
2. Công khai hoạt động
Để giải bài toán khủng hoảng, cả Việt Nam và Hoa Kỳ đều đưa ra một phương
pháp giải giống nhau- đó là sử dụng gói kích thích kinh tế, tuy nhiên cách thức
4
5
thực hiện thì hoàn toàn khác nhau. Vậy, ta cần học những gì từ cách giải bài toán
trên của chính phủ Hoa Kỳ?
Vẫn là những điểm yếu của kinh tế Việt Nam cũng như của việc thực thi các chính
sách ở Việt Nam. Tại sao chính phủ Mỹ công khai gói kích cầu thông qua việc
thiết lập một trang web riêng www.recovery.gov về gói kích cầu? Hay như người
láng giềng Trung Quốc thành lập 24 tổ kiểm tra với sự tham gia của nhiều cơ quan,
bộ ngành? “Khi khủng hoảng tài chính ập đến, điều quan trọng thứ nhất là lòng
tin” (Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo) – vẫn là vấn đề về lòng tin như đã trình
bày ở trên. Thực tế đã chứng minh, : bài học về xây dựng và củng cố niềm tin của
công chúng càng có giá trị hơn trong thời kỳ khủng hoảng “Kích cầu” lòng tin của
nhân dân có thể tạo sức bật mới cho nền kinh tế.

Việc lập một website có lẽ không khó, nhưng vấn đề nằm ở chỗ, làm thế nào để
đảm bảo công khai chi tiết từng thông tin, từng đồng được chi tiêu, mới là việc khó
gấp bội. Một trong những tiêu chuẩn hàng đầu của quản trị Chính phủ là minh
bạch. Vì minh bạch là điều kiện tiên quyết để luật pháp phát huy tác dụng, được
thực thi nghiêm chỉnh.
Công khai thông tin làm gia tăng mạnh mẽ niềm tin vào Chính phủ. Niềm tin của
nhân dân là yếu tố then chốt tạo ra sự ổn định chính trị. Đặc biệt trong bối cảnh suy
thoái kinh tế, bóng mây khủng hoảng lan rộng, bao trùm toàn cầu; việc củng cố
niềm tin của nhân dân càng có ý nghĩa thiết thực hơn, không chỉ góp phần tăng
cường sự ủng hộc của nhân dân vào những nỗ lực và biện pháp đúng đắn của
Chính phủ, mà hơn nữa, cũng là biện pháp tâm lý, trấn an niềm tin và đồng thuận
của nhân dân vượt qua những thời điểm khó khăn của khủng hoảng.
3. Xây dựng các gói kích thích kinh tế phù hợp với điều kiện của quốc gia
Như đã nêu ở trên, để khắc phục cuộc khủng hoảng tài chính, Chính phủ Mỹ đã
đưa ra các gói kích thích kinh tế trị giá hàng trăm tỷ USD. Trong thời gian ngắn,
đây được coi là biện pháp phù hợp kịp thời giải quyết hậu quả khủng hoảng. Theo
Paul Krugman, nhà kinh tế đoạt giải Nobel 2008: “Gói kích thích kinh tế không
hoàn toàn quét sạch hậu quả khủng hoảng, nhưng nó đã kéo nền kinh tế thoát khỏi
vòng xoáy suy thoái. Trợ cấp thất nghiệp và cứu trợ cho chính quyền bang
và địa phương có lẽ là những yếu tố quan trọng nhất”. Tuy nhiên, trong dài
hạn, gói kích thích kinh tế của Mỹ tỏ ra ít hiệu quả một khi tỷ lệ thất nghiệp
giảm rất chậm, tăng trưởng GDP không mấy khả quan. Từ thực tế đó cho
thấy, việc thực hiện chính sách kích cầu kinh tế của Chính phủ các nước,
5

×