chiến lược tự do hoá và mở cửa thị trường dịch vụ Viễn thông Việt Nam
trước xu thế hội nhập quốc tế
Sau khi phân tích các xu hướng phát triển Viễn thông trên thế giới, hiện trạng
Viễn thông trong nước, kinh nghiệm của các nước trong khu vực và trên thế giới cũng
như yêu cầu mở cửa thị trường dịch vụ Viễn thông Việt Nam của các tổ chức thương
mại quốc tế và khu vực, trong chương này sẽ đi vào tìm hiểu chiến lược tự do hoá và
mở cửa thị trường dịch vụ Viễn thông Việt Nam trong thời gian tới. Đồng thời đưa ra
các biện pháp để thực hiện chiến lược này. Chương III gồm 4 vấn đề chính sau:
I. Mục tiêu phát triển của ngành Viễn thông Việt Nam đến năm 2010 và
định hướng đến năm 2020
II. Các quan điểm về việc mở cửa và hội nhập quốc tế về dịch vụ Viễn thông
Việt Nam
III. Chiến lược tự do hoá và mở cửa thị trường dịch vụ Viễn thông Việt Nam
IV Những kiến nghị và giải pháp chủ yếu thực hiện chiến lược
I - Mục tiêu phát triển của ngành Viễn thông Việt Nam đến năm 2010 và
định hướng đến năm 2020.
1. Mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020 và chủ trương hội
nhập khu vực, quốc tế của Đảng và Chính phủ.
Tại đại hội Đảng toàn quốc lấn thứ VIII vào tháng 6/1996, Đảng và Chính phủ
đã nêu lên mục tiêu tổng quát về phát triển kinh tế xã hội chi giai đoạn trước mắt 1996
- 2000 là: Tập trung mọi lực lượng, tranh thủ thời cơ, vượt qua thử thách, đẩy mạnh
công cuộc đổi mới một cách toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần vận hành theo cơ chế thị trương có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, phấn đấu đạt và vượt mục tiêu được đề ra trong chiến lược ổn
định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000: Tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả
cao và bền vững đi đôi với giải quyết những vấn đề bức xúc xã hội, bảo đảm an ninh,
quốc phòng, cải thiện đời sống của nhân dân, nâng cao tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế,
tạo tiền đề vững chắc cho bước phát triển cao hơn vào đầu thế kỷ sau.
Nội dung cơ bản của các mục tiêu kinh tế - xã hội Việt Nam đến năm 2000 là:
+ Đẩy nhanh chương trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thúc đẩy quá trình
hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý và phát triển các ngành mũi nhọn để lôi kéo và thúc
đẩy nền kinh tế - xã hội tăng trưởng với tốc độ cao và bền vững.
+ Khai thác mọi tiềm năng trong nước, tranh thủ tối đa nguồn đầu tư nước ngoài.
1
+ Tiếp tục đổi mới nền kinh tế, giải phóng mọi lực lượng sản xuất và phát triển
nền kinh tế nhiều thành phần.
+ Đảm bảo sự phát triển hài hoà với các mục tiêu khác của xã hội.
Khi phân tích đặc điểm tình hình thế giới Đảng và Nhà nước nhận định trong
quan hệ kinh tế quốc tế ngày nay, đã và đang nổi lên những xu thế chủ yếu sau:
+ Hoà bình, ổn định và hợp tác để phát triển ngày càng trở thành đòi hỏi bức
xúc của các dân tộc và quốc gia trên thế giới. Các nước dành ưu tiên cho phát triển kinh
tế, coi phát triển kinh tế có ý nghĩa quyết định đối với việc tăng trưởng sức mạnh tổng
hợp của quốc gia.
+ Các quốc gia lớn, nhỏ tham gia ngày càng nhiều vào quá trình hợp tác và liên
kết khu vực, liên kết quốc tế về kinh tế, thương mại và nhiều lĩnh vực hoạt động khác.
Hợp tác ngày càng tăng nhưng cạnh tranh cũng rất gay gắt.
Tiếp đến sau khi phân tích những thời cơ và thách thức đối với Việt Nam, Đại
hội Đảng VIII cũng đề ra mục tiêu chủ yếu nhằm phát triển kinh tế xã hội đến năm
2020 như sau: Tiếp tục nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội
và bảo vệ tổ quốc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Mục tiêu của công nghiệp
hoá, hiện đại hoá là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất -
kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an
ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Từ nay đến năm
2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp.
Về lực lượng sản xuất đến lúc đó sẽ đạt trình độ tương đối hiện đại, phần lớn
lao động thủ công được thay thế bằng lao động sử dụng máy móc, điện khí hoá cơ bản
được thực hiện trong cả nước, năng suất lao động xã hội và hiệu quả sản xuất kinh
doanh cao hơn nhiều so với hiện nay. GDP tăng từ 8 đến 10 lần so với năm 1990.
Trong cơ cấu kinh tế, tuy nông nghiệp tiếp tục phát triển mạnh, song công nghiệp và
dịch vụ sẽ chiếm tỷ trọng rất lớn trong GDP và trong lao động xã hội. Để thực hiện
được điều đó Đại hội đã đề ra 10 định hướng phát triển các lĩnh vực chủ yếu trong đó
mở rộng quan hệ đối ngoại. Đó là tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ,
rộng mở, đa phương hoá và đa dạng hoá các quan hệ đối ngoại với tinh thần Việt Nam
muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc
lập và phát triển. Hợp tác nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước, các tổ
chức quốc tế và khu vực trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh
thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi,
giải quyết các vấn đề tồn tại và các tranh chấp bằng thương lượng.
2
Cuối năm 1997, chủ trương hội nhập lại được thể hiện một lần nữa tại Hội nghị
lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương khoá VII: Chủ động chuẩn bị các điều kiện cần
thiết về cán bộ, luật pháp và nhất là về những sản phẩm mà chúng ta có khả năng cạnh
tranh để hội nhập thị trường khu vực và thị trường quốc tế. Tiến hành khẩn trương,
vững chắc việc đàm phán hiệp định thương mại Việt Mỹ, gia nhập APEC và WTO. Có
kế hoạch cụ thể để chủ động thực hiện các cam kết trong khuôn khổ AFTA.
2. Phương hướng, các mục tiêu chủ yếu phát triển Viễn thông Việt Nam
đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020.
Xây dựng và phát triển mạng Viễn thông Việt Nam hiện đại, đồng bộ, vững
chắc và đều khắp, đủ sức đáp ứng được nhu cầu thông tin ngày càng tăng của xã hội.
Các dịch vụ phong phú, đa dạng có chất lượng cao, tiêu chuẩn quốc tế, đáp ứng nhu
cầu của mọi đối tượng khách hàng của thị trường trong nước và quốc tế. Xây dựng xa
lộ thông tin quốc gia, hình thành mạng trí tuệ và cơ sở hạ tầng thông tin quốc gia.
Mạng Viễn thông Việt Nam năm 2020 đạt trình độ công nghệ, chất lượng dịch vụ của
các nước phát triển và có vị trí tiên tiến trong khu vực.
2.1. Giai đoạn 1998 - 2000.
- Mạng lưới:
+ Đến hết năm 2000 tổng số máy điện thoại trong cả nước là trên 3 triệu máy
(hiện tại hết năm 1998 là 2008440 máy), đưa mật độ điện thoại bình quân đạt 4
máy/100 dân. Còn đối với hai thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh đạt từ 15 -
20 máy/100 dân.
+ Thực hiện cáp quang hoá mạng lưới, xây dựng thêm các tuyến cáp quang liên
tỉnh có công nghệ SDH. Phấn đấu đến năm 2000 có 90%- 95% tỉnh thành trên toàn
quốc có truyền dẫn liên tỉnh bằng cáp quang. Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và một
số tỉnh, thành phố lớn khác có mạng truyền dẫn nội hạt được cáp quang hoá sử dụng
các mạch vòng cáp quang.
+ Thực hiện báo hiệu số 7 trên toàn mạng quốc tế và hầu hết các tuyến liên tỉnh
để chuẩn bị cho việc triển khai mạng số liên kết đa dịch vụ ISDN cung cấp các dịch vụ
băng rộng và đa phương tiên.
+ Xây dựng các trung tâm quản lý, điều hành quốc gia và từng bước tiến hành
nâng cấp cải tạo hệ thống mạng ngoại vi nâng cao chất lượng mạng nội hạt.
- Hoàn thành các dự án lớn trọng điểm.
3
+ Hoàn thành và đưa vào sử dụng tuyến cáp quang qua 6 nước Đông Nam á
(Trung Quốc - Việt Nam - Lào - Thái Lan - Malaixia - Singapo).
+ Tham gia xây dựng tuyến cáp quang biển Thái Bình Dương SEA - ME - WE3.
+ Triển khai đề án thông tin di động vệ tinh mặt đất toàn cầu GMPCS.
+ Xây dựng nghiên cứu khả thi và các công việc chuẩn bị cho việc phóng vệ
tinh thông tin riêng của Việt Nam VINASAT.
+ Xây dựng trung tâm điều hành Viễn thông quốc gia TMN thực hiện Roaming
quốc tê cho thông tin di động.
- Về dịch vụ Viễn thông:
+ Tiếp tục nâng cao chất lượng dịch vụ cũng như chất lượng phục vụ.
Mở rộng và phát triển các loại hình dịch vụ trong nước và quốc tế, các dịch vụ
cơ bản và dịch vụ giá trị gia tăng nhằm thoả mãn tối đa nhu cầu của người tiêu dùng.
Đặc biệt chú ý đến việc đảm bảo cung cấp thông tin hiện đại cho các khu chế xuất, khu
công nghiệp tập trung, khu đô thị mới phát triển...
+ Thông tin di động tiếp tục phủ sóng cho các huyện thị còn lại, tăng cường phủ
sóng cho các trục lộ giao thông quan trọng, năm 2000 có khoảng 400000 - 500000 thuê
bao. Chuẩn bị đưa vào phục vụ thông tin di động vệ tinh mặt đất toàn cầu GMPCS.
+ Phát triển mạnh dịch vụ Internet, phục vụ nhu cầu thông tin kinh tế xã hội,
khoa học giáo dục, đào tạo, y tế khám chữa bệnh từ xa..., các dịch vụ mới như điện
thoại thấy hình, hội nghị truyền hình... triển khai thử nghiệm các dịch vụ của mạng liên
kết đa dịch vụ - ISDN.
2.2. Giai đoạn 2001 - 2005.
- Mạng lưới: phát triển mới hơn 3 triệu máy điện thoại, đưa mật độ điện thoại
bình quân cả nước đạt 7 - 8 máy/100 dân.
+ Đưa tín hiệu số 7 vào hoạt động ở hầu hết các cấp của mạng lưới. Đưa công
nghệ ATM cùng với các dịch vụ băng rộng đa phương tiện của mạng B - ISDN vào
khai thác thương mại ở một số thành phố, tỉnh lỵ lớn.
+ Hoàn thành việc xây dựng, các tuyến cáp quang đường trục, liên tỉnh. 100%
tuyến truyền dẫn liên tỉnh được cáp quang hoá, triển khai chiến lược cáp quang hoá giai
đoạn 2 các tuyến truyền dẫn từ tỉnh xuống huyện thực hiện cáp quang hoá mạng trung
kế liên đài. Nâng cấp, mở rộng cấu tạo hiện đại hoá hệ thống mạng ngoại vi. Triển khai
cáp quang đến tại nhà thuê bao cho các thuê bao có nhu cầu lớn, băng rộng. Phát triển
thông tin di động sẽ hướng tới hệ thống thông tin di động thế hệ thứ 3.
4
+ Hoàn thành các dự án trọng điểm: Phóng vệ tinh thông tin riêng của Việt Nam
VINASAT phục vụ Viễn thông, phát thanh truyền hình phủ sóng vùng sâu, vùng xa,
truyền hình tận nhà... Chuẩn bị xây dựng tuyến cáp quang biển nội địa có trạm cặp bờ
ở các tỉnh ven biển nhằm nâng cao năng lực truyền dẫn tuyến trục. Xây dựng các trung
tâm quản lý và bảo dưỡng vùng OMC.
- Dịch vụ:
+ Phổ cập dịch vụ điện thoại đến 100% số xã toàn quốc, tăng cường phát triển
máy điện thoại cho các vùng nông thôn, thị tứ, cụm văn hoá xã phục vụ sự nghiệp phát
triển kinh tế xã hội vùng nông thôn, miền núi nâng cao dân trí.
+ Phát triển mạnh các dịch vụ giá trị gia tăng hiện có nhằm nâng cao năng lực
phục vụ xã hội. Các dịch vụ di động tiếp tục phát triển mạnh; đạt từ 1,2 - 1,5 máy/100
dân. Phổ cập dịch vụ Internet tới hầu hết các trường đại học, cao đẳng, viện nghiên
cứu, bệnh viện... trong cả nước.
+ Điều chỉnh cơ cấu dịch vụ cho phù hợp với nhu cầu tiêu dùng của các tầng lớp
xã hội khác nhau. Thực hiện công khai hoá các chỉ tiêu chất lượng dịch vụ để người
tiêu dùng có sự lựa chọn thoả đáng trong quá trình sử dụng dịch vụ.
+ Đưa các dịch vụ băng rộng đa phương tiện vào khai thác thương mại ở một số
tỉnh, thành phố lớn. Triển khai các dịch vụ thương mại điện tử.
2.3. Giai đoạn 2006 - 2010
- Mạng lưới: Năm 2010 có 11 - 14 triệu máy điện thoại, mật độ điện thoại bình
quân cả nước phấn đấu đạt 12 - 15 máy/100 dân, thành thị đạt bình quân mỗi hộ gia
đình có một máy điện thoại.
+ Cơ bản hoàn thành xa lộ thông tin quốc gia, thực hiện cáp quang hoá hầu hết
các tuyến truyền dẫn từ tỉnh xuống huyện. Tiếp tục thực hiện nâng cấp hiện đại hoá
mạng thuê bao, đạt mức phấn đấu khoảng trên 30% thuê bao có khả năng truy cập dịch
vụ băng rộng. Mạch vòng thuê bao vô tuyến băng rộng cũng được phát triển để cung
cấp dịch vụ cho các vùng nông thôn, vùng thưa dân và cả đô thị.
+ Xây dựng và phát triển mạng số băng rộng liên kết đa dịch vụ, mạng thông
minh đảm bảo cung cấp các dịch vụ băng rộng, đa phương tiện theo yêu cầu của khách
hàng. Xây dựng mạng với các nút sử dụng công nghệ ATM phương thức truyền tải
chung cho tất cả các loại hình dịch vụ (Viễn thông, tin học, truyền thông...).
+ Mạng lưới và dịch vụ Viễn thông được phát triển trên cơ sở xu hướng hội tụ
công nghệ: Viễn thông, tin học, truyền thông và phù hợp với xu hướng toàn cầu hoá,
khu vực hoá các hệ thống thông tin. Tham gia vào các đề án xây dựng cơ sở hạ tầng
5
thông tin của khu vực cũng như trên thế giới: ASEAN II, AII (APT), APII (APEC)...
tiến tới hoà nhập cơ sở hạ tầng thông tin toàn cầu.
+ Xây dựng mạng lưới có cấu trúc tối ưu để có thể triển khai các dịch vụ mạng
tiên tiến. Thực hiện phát triển, quản lý mạng không theo địa giới hành chính mà theo
vùng và cấu trúc mạng để nâng cao hiệu quả hoạt động.
- Dịch vụ: thực hiện hoàn toàn việc phổ cập dịch vụ, người dân trong cả nước
có quyền truy cập các dịch vụ Viễn thông ở bất kỳ mọi nơi, mọi lúc khi có yêu cầu.
+ Mở rộng việc cung cấp dịch vụ băng rộng đa phương tiện tới tất cả các tỉnh
thành trong cả nước. Đối với khách hàng khu vực dân cư các dịch vụ phổ biến sẽ là
thoại, video theo yêu cầu, mua bán từ xã, công nghiệp giải trí, giáo dục và chăm sóc
sức khoẻ từ xa. Đối với khách hàng khu vực hành chính, thương mại sẽ là các dịch vụ:
trao đổi dữ liệu điện tử KDI, thương mại điện tử, quản lý và điều hành... cho khu vực
công cộng sẽ là các Kiot thông tin, cung cấp thông tin theo yêu cầu, thư viện video...
phục vụ cả truyền hình số và truyền hình có độ phân giải cao.
+ Dịch vụ Internet cung cấp rộng rãi tới các trường phổ thông trung học, phổ
thông cơ sở trong cả nước.
+ Phấn đấu đến năm 2010 khách hàng Việt Nam được hưởng thụ thông tin
ngang mức người dân của các nước phát triển.
2.4. Giai đoạn 2010 - 2020:
Hoàn thành xây dựng cơ sở hạ tầng thông tin quốc gia. Phát triển khoảng 22
triệu máy điện thoại, bình quân mật đố đạt 20 - 25 máy/100 dân. Cơ bản đa dịch vụ hoá
mạng nội hạt: cáp quang và các phương thức truy nhập băng rộng khác được triển khai
tới tận nhà thuê bao các dịch vụ băng rộng, đa phương tiện được cung cấp tới các hộ
dân cư theo yêu cầu.
II - Các quan điểm về việc mở cửa và hội nhập quốc tế về dịch vụ Viễn
thông.
1. Mở cửa và hội nhập dịch vụ Viễn thông phải gắn liền với lợi ích của
dân tộc, chủ quyền và an ninh quốc gia.
Dịch vụ Viễn thông là một lĩnh vực rất "nhạy cảm" đối với tất cả các quốc gia
trên thế giới. Là một ngành thuộc kết cấu hạ tầng của nền kinh tế quốc dân; là phương
tiện thiết yếu phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của đất nước, góp phần đảm
bảo an ninh quốc phòng, giữ vững chủ quyền quốc gia. Do vậy trong quá trình mở cửa
và hội nhập dịch vụ Viễn thông phải được gắn liền với lợi ích của dân tộc, chủ quyền
6
và an ninh quốc gia. Phải cảnh giác các thế lực thù địch lợi dụng quá trình mở cửa và
tự do hoá dịch vụ Viễn thông để thao túng thông tin nhằm hòng lật đổ chế độ.
Việc mở cửa cho phép cạnh tranh cần tiến hành từng bước, có giới hạn, với sự
kiểm soát của Nhà nước. Mặc dù xu hướng tự do hoá và mở cửa thị trường dịch vụ
Viễn thông diễn ra hầu như tất cả các quốc gia trên thế giới nhưng lợi ích thu được lớn
nhất vẫn là các quốc gia phát triển và công nghệ mới, còn đối với các quốc gia đang
phát triển đều nhận thấy rằng tự do hoá và mở cửa thị trường dịch vụ Viễn thông mang
lại nhiều nguy cơ hơn là ích lợi. Hiện tại trình độ phát triển kinh tế của Việt Nam so
với các nước trong khu vực và trên thế giới còn thua kém xa, quá trình mở cửa nền
kinh tế hoà nhập với thế giới nói chung và dịch vụ Viễn thông nói riêng vấn đề đầu tiên
nghĩ tới đó là lợi ích kinh tế, xã hội mang lại từ quá trình này. Phải xem xét một cách
cẩn thận những lợi ích mang lại để tìm cách tận dụng, những bất lợi để tìm cách hạn
chế từ quá trình hội nhập và tự do hoá dịch vụ Viễn thông.
2.Về cạnh tranh
Việc cho phép cạnh tranh phải được tiến hành bắt đầu từ dịch vụ Viễn thông
giá trị gia tăng (VAS ) (là những dịch vụ không cần thiết xây dựng mạng lưới, đầu tư
thấp và dễ triển khai về mặt kỹ thuật) rồi mới đến các dịch vụ cơ bản - là những dịch
vụ liên quan mật thiết đến chủ quyền quốc gia và quyền lợi kinh tế. Đây là nguyên tắc
mà hầu hết các nước trên thế giới đều thực hiện khi mở cửa và tự do hoá dịch vụ Viễn
thông kể cả các nước công nghiệp phát triển như Anh, Pháp, Mỹ... Trong dịch vụ Viễn
thông cơ bản tuần tự mở cửa thị trường bắt đầu từ thị trường dịch vụ cố định nội hạt
đến thị trường đường dài trong nước và cuối cùng là thị trường dịch vụ Viễn thông
quốc tế. Thực tế cho thấy, kinh doanh dịch vụ Viễn thông quốc tế đem lại lợi nhuận
lớn nhất sau đó đến dịch vụ đường dài và cuối cùng là nội hạt. Nếu nguyên tắc này mà
thực hiện ngược lại thì hầu như tất cả các doanh nghiệp mới xâm nhập vào thị trường
sẽ kinh doanh dịch vụ Viễn thông quốc tế và đường dài. Tạo ra sự mất cân đối trong
phát triển mạng lưới Viễn thông, các mạng lưới Viễn thông ở các vùng sâu, vùng xa sẽ
không phát triển và ảnh hưởng đến việc thực hiện phổ cập các dịch vụ cơ bản tới mọi
người dân như điện thoại gọi số, điện thoại dùng thẻ..., ảnh hưởng tới phát triển kinh
tế, xã hội, ngày càng tạo ra sự bất bình đẳng về mức sống, trình độ phát triển giữa
thành thị và nông thôn, vùng sâu, vùng xa.
Đi đôi với việc cho phép cạnh tranh trong cung cấp dịch vụ cơ bản, thì phải đảm
bảo khả năng kiểm soát của Nhà nước cũng như tính khả thi về pháp lý và kỹ thuật như
việc xây dựng ban hành một số các quy định quan trọng về kết nối, giá cước, kế hoạch
đánh số, các nguyên tắc về bảo vệ cạnh tranh lành mạnh...
7
3. Về hình thức đầu tư,
Cần từng bước xem xét cho thêm các hình thức đầu tư khác ngoài hình thức
hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC) đi đôi với việc nâng dần tỷ lệ vốn góp của nước
ngoài nhằm tạo ra sức cạnh tranh và hấp dẫn về môi trường đầu tư đối với các công ty
nước ngoài.
Từ nay đến năm 2000, hình thức đầu tư nước ngoài cao nhất áp dụng cho lĩnh
vực khai thác dịch vụ Viễn thông là hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC). Bắt đầu sau
năm 2000 để thu hút được thêm nhiều vốn đầu tư cũng như tăng độ hấp dẫn, Chính phủ
cần xem xét cho thêm các hình thức đầu tư nước ngoài khác như BOT, BTO, liên
doanh... Tuy nhiên, các hình thức đầu tư nước ngoài này được tiến hành bắt đầu từ dịch
vụ giá trị gia tăng - VAS sau đó mới đến các dịch vụ cơ bản, đồng thời tỷ lệ góp vốn
của phía đối tác nước ngoài được nâng dần lên phù hợp với trình độ phát triển Viễn
thông của Việt Nam.
4. Về sở hữu
Cần tiến hành nhanh việc cổ phần hoá nhằm thu hút vốn đầu tư của các thành phần
kinh tế khác. Việc cổ phần hoá cần tiến hành theo nguyên tắc nhất quán, thận trọng, có
chuẩn bị kỹ và chia thành các bước tuỳ theo từng lĩnh vực dịch vụ và phù hợp với Nghị
định 44/1998/NĐ-CP ngày 29/6/1998 về chuyển hoá doanh nghiệp Nhà nước thành
công ty cổ phần. Trong quá trình cổ phần hoá ưu tiên các thành phần kinh tế trong nước
tham gia sở hữu doanh nghiệp Nhà nước trước khi cho phép nước ngoài tham gia. Tuy
nhiên, đối với các doanh nghiệp chủ đạo như tổng công ty Bưu chính - Viễn thông thì
Nhà nước vẫn nắm cổ phần chi phối và khống chế.
III - Chiến lược tự do hoá và mở cửa thị trường dịch vụ Viễn thông Việt
Nam.
1. Nội dung của chiến lược
Chiến lược tự do hoá và mở cửa thị trường dịch vụ Viễn thông có liên quan đến
nhiều nội dung khác nhau, nhưng trong đó có 3 nội dung lớn chủ yếu sau.
1.1. Cho phép cạnh tranh về kinh doanh, khai thác dịch vụ Viễn thông.
Là một ngành vừa thuộc cơ sở hạ tầng của nền kinh tế quốc dân, vừa là một
ngành kinh doanh độc lập có liên quan đến an ninh quốc phòng. Do vậy không giống
như các ngành sản xuất hàng hoá vật chất thuần tuý, việc tự do cạnh tranh trong dịch
vụ Viễn thông được xem xét một cách thận trọng, phù hợp với trình độ phát triển Viễn
8
thông Việt Nam và nó liên quan đến 3 vấn đề sau đó là: Điều kiện cấp phép, đối tượng
được cấp phép và lĩnh vực dịch vụ được cấp phép.
+ Về điều kiện cấp phép: Đầu tiên dựa vào phương hướng, các mục tiêu chủ yếu
phát triển Viễn thông Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020, kế hoạch
quốc gia về phân bố các nguồn tài nguyên thiên nhiên khan hiếm như phổ tần số vô tuyến
điện, kho số, điều kiện kinh tế xã hội của đất nước... để đặt ra các điều kiện cấp phép cho
dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ. Ngoài ra đối với các nhà cung cấp dịch vụ cũng có thể
đặt ra một số điều kiện về vốn, công nghệ, uy tín của Công ty, năng lực của đội ngũ cán bộ
công nhân viên, kinh nghiệm trong khai thác dịch vụ Viễn thông...
+ Đối tượng được cấp phép: Nguyên tắc cơ bản đặt ra khi xây dựng chiến lược
là đối tượng được cấp phép trong giai đoạn cạnh tranh ban đầu sẽ là các doanh nghiệp
trong nước, sau đó mới mở dần ra cho các thành phần nước ngoài.
+ Về dịch vụ được cấp phép: Việc cấp phép khai thác dịch vụ nếu xét về phạm
vi được thực hiện lần lượt là dịch vụ cố định nội hạt, đường dài và sau cùng là các dịch
vụ quốc tế. Nếu xét về lĩnh vực dịch vụ được thực hiện bắt đầu từ các dịch vụ giá trị
gia tăng (trong đó có Internet) và thông tin vô tuyến di động rồi đến các dịch vụ cơ bản.
Tuy nhiên chỉ duy trì 3 đến 4 công ty được phép kinh doanh đa dịch vụ, còn các doanh
nghiệp dịch vụ mới thành lập chỉ được phép kinh doanh một số dịch vụ để có điều kiện
tập trung vốn, công nghệ, nhân lực theo hướng chuyên môn hoá nghiệp vụ nhằm nâng
cao chất lượng, sức cạnh tranh và nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường.
1.2. Thực hiện cổ phần hoá các công ty cung cấp dịch vụ Viễn thông.
Đa dạng hoá sở hữu và cổ phần hoá là chủ trương chung của Đảng và Nhà nước
nhằm các mục tiêu sau:
+ Huy động vốn của toàn xã hội, bao gồm cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức
xã hội trong nước và ngoài nước để đầu tư đổi mới công nghệ, tạo thêm việc làm, phát
triển doanh nghiệp, nâng cao sức cạnh tranh, thay đổi cơ cấu doanh nghiệp Nhà nước.
+ Tạo điều kiện để người lao động trong doanh nghiệp có cổ phần và những
người đã góp vốn được làm chủ thực sự, thay đổi phương thức quản lý tạo động lực
thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, tăng tài sản Nhà nước, nâng cao thu
nhập của người lao động, góp phần tăng trưởng kinh tế đất nước.
Quán triệt chính sách đó, trong thời gian qua ngành Bưu điện đã tiến hành cổ
phần hoá một số doanh nghiệp sản xuất công nghiệp và có kế hoạch cổ phẩn hoá một
số doanh nghiệp cung cấp dịch vụ. Công ty cổ phần dịch vụ Bưu chính - Viễn thông
Sài Gòn - SPT là công ty cổ phần, khi thành lập mới giới hạn cổ phần trong các doanh
9
nghiệp Nhà nước song hiện nay đang có kế hoạch trình Chính phủ cho phép mở rộng
cổ phần cho các thành phần khác trong và ngoài nước nắm giữ. Trên thực tế việc tiến
hành cổ phần hoá đối với doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Viễn thông còn gặp nhiều
khó khăn như việc xác định tài sản của doanh nghiệp và lĩnh vực nào sẽ tiến hành cổ
phần hoá; trong khai thác còn chưa phân định rõ phần công ích và phần kinh doanh...
Trong thời gian tới, quá trình cổ phần hoá tiếp tục được đẩy mạnh được thể hiện trong
chiến lược thông qua việc cho phép các thành khác trong nước và quốc tế nâng dần
mức vốn trong các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ và tiến tới năm 2020 có thể sở hữu
không hạn chế trong các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ, ngoại trừ các doanh nghiệp
chủ đạo mà Nhà nước câng giữ cổ phần chi phối và cổ phần đặc biệt.
1.3. Mở cửa thị trường và cho phép các tổ chức, các công ty nước
ngoài tham gia vào thị trường cung cấp dịch vụ Viễn thông.
Trong thời gian vừa qua các tổ chức và Công ty nước ngoài tham gia cung cấp
dịch vụ Viễn thông ở thị trường Việt Nam chỉ được dưới hình thức hợp đồng hợp tác
kinh doanh (BCC). Đây là một hình thức đầu tư nước ngoài trực tiếp. Cho đến nay đã
có 7 BCC về khai thác dịch vụ Viễn thông đã được Chính phủ cấp phép. Hình thức này
đã huy động vốn rất có hiệu quả trong thời gian qua, tổng số vốn đầu tư của các BCC
khoảng hơn 1 tỷ USD. Tuy nhiên chính sách đầu tư theo hình thức BCC chỉ phù hợp
với giai đoạn đầu của quá trình phát triển cơ sở hạ tầng Viễn thông, khi mà Nhà nước
còn giữ vai trò độc quyền trong lĩnh vực dịch vụ Viễn thông. Nhưng khi Chính phủ cho
phép cạnh tranh với nhiều nhà khai thác và tiến trình hội nhập quốc tế, việc cạnh tranh
ở mức độ cao làm cho mức độ rủi ro đầu từ vào lĩnh vực Viễn thông tăng lên. Mà hình
thức BCC không thành lập một pháp nhân mới, phía đối tác nước ngoài không trực tiếp
điều hành sẽ dẫn đến nhiều yếu tố rủi ro và trở nên kém hấp dẫn đối với các nhà đầu tư
nước ngoài. Ngoài ra, việc chậm đổi mới các chính sách cho phép các hình thức khác
của đầu tư nước ngoài sẽ làm cho Viễn thông Việt Nam thua thiệt trong cuộc cạnh
tranh với thị trường các nước khác về thu hút vốn đầu tư. Do vậy để có thể huy động
được khối lượng vốn khổng lồ cho kế hoạch phát triển Viễn thông từ nay đến năm
2020 đòi hỏi phải có hình thức hợp tác đầu tư khác phù hợp và hấp dẫn hơn như liên
doanh (JV), Xây dựng - khai thác - chuyển giao (BOT), Xây dựng - chuyển giao - khai
thác (BTO)... Việc xem xét bổ sung thêm các hình thức đầu tư cao hơn BCC một mặt
tạo ra sự hấp dẫn hơn về môi trường đầu tư cho đối tác nước ngoài, tăng cường huy
động vốn và kinh nghiệm cho phát triển Viễn thông Việt Nam, đồng thời về lâu dài thể
hiện thiện chí hội nhập của Việt Nam, phù hợp với tiến trình và những yêu cầu của
WTO/GATS.
10
2 - Chiến lược tự do hoá và mở cửa thị trường dịch vụ Viễn thông Việt
Nam trong thời gian tới.
Tự do hoá và mở cửa thị trường dịch vụ Viễn thông được trải qua nhiều giai
đoạn khác nhau phù hợp với quy hoạch phát triển Viễn thông được Chính phủ phê
duyệt và phù hợp với chương trình tự do hoá của các tổ chức thương mại quốc tế như
APEC năm 2020, thực hiện chương trình AFTA của Việt Nam năm 2003, chương trình
tự do hoá chung của WTO.
Các giai đoạn đó bao gồm:
2.1. Giai đoạn từ 1998 - 2000
Hiện tại có 5 doanh nghiệp tham gia vào thị trường các dịch vụ Viễn thông Việt
Nam, bao gồm:
+ Tổng công ty Bưu chính -Viễn thông Việt Nam (VNPT) là doanh nghiệp chủ
đạo của Nhà nước.
+ Công ty điện tử Viễn thông Quân đội (VIETEL) là một công ty trực thuộc Bộ
quốc phòng.
+ Công ty cổ phần Bưu chính - Viễn thông Sài Gòn (SPT) trực thuộc UBND
thành phố Hồ Chí Minh.
+ FPT là công ty trực thuộc bộ Khoa học công nghệ - môi trường.
+ NETNAM là công ty trực thuộc viện công nghệ thông tin - trung tâm khoa
học công nghệ quốc gia.
Đến năm 2000 Tổng cục Bưu điện sẽ cấp phép thêm 4 giấy phép thiết lập mạng
và khai thác dịch vụ. Trong đó có 2 giấy phép được cung cấp dịch vụ điện thoại cố
định nội hát và 2 giấy phép cung cấp dịch vụ điện thoại đường dài trong nước. Đối
tượng được cấp phép có thể là các doanh nghiệp đã hoạt động trên thị trường Viễn
thông (có thể là cấp thêm giấy phép cung cấp dịch vụ cho hai công ty - VIETEL và
SPT) hoặc các doanh nghiệp mới, tuỳ thuộc vào hoàn cảnh và khả năng của doanh
nghiệp xin cấp phép. Việc tăng số doanh nghiệp được cấp phép nhằm tăng cường sự
tham gia của các thành phần kinh tế trong nước vào quá trình cạnh tranh, tạo động lực
thúc đẩy quá trình phát triển, đồng thời vẫn phải hạn chế số lượng nhất định nhằm đảm
bảo sự quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước.
Trong giai đoạn này bắt đầu tiến hành cổ phần hoá trong nước đối với các
doanh nghiệp Nhà nước cung cấp dịch vụ Viễn thông trừ các doanh nghiệp cung cấp
dịch vụ đường dài trong nước và quốc tế. Trong các doanh nghiệp này các thành phần
11
kinh tế trong nước có thể chiếm tối đa 49% cổ phần (mỗi pháp nhân được mua không
quá 10% tổng số cổ phần của doanh nghiệp, mỗi cá nhân được mua không quá 5% tổng
số cổ phần của doanh nghiệp) theo Nghị định 44/1998/NĐ-CP ngày 29/6/1998 ở điều 8
phần 1 nhỏ về chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần. Việc tiến hành
cổ phần hoá được tiến hành trên nguyên tắc thận trọng, vừa làm vừa rút kinh nghiệm và
điều chỉnh các chính sách cũng như hệ thống pháp luật liên quan cho phù hợp. Đây
cũng là giai đoạn ban đầu mở rộng sự tham gia của các thành phần kinh tế trong nước
nắm cổ phần trong các doanh nghiệp khai thác dịch vụ Viễn thông, đặc biệt là đối với
các dịch vụ giá trị gia tăng. Các doanh nghiệp cung cấp các dịch vụ giá trị gia tăng sẽ
cho phép tăng mức cổ phần của các thành phần trong nước lên tối đa 100% vào năm
2000. Song song với quá trình cổ phần hoá là quá trình sắp xếp và đổi mới doanh
nghiệp cho phù hợp với cơ cấu sản xuất kinh doanh mới theo chỉ thị số 20/1998/CT-
TTg ngày 21/4/1998 về đẩy mạnh sắp xếp và đổi mới doanh nghiệp Nhà nước; góp
phần nhất định cho quá trình thực hiện chiến lược, đặc biệt là trong việc cổ phần hoá
các doanh nghiệp trực thuộc Tổng công ty Bưu chính - Viễn thông (VNPT) là công ty
hiện có 102 đơn vị trực thuộc, trong đó có 68 đơn vị hạch toán phụ thuộc.
Việc tham gia của các thành phần nước ngoài trong giai đoạn này chỉ áp dụng
hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC). Đối tác nước ngoài bỏ vốn, kỹ thuật
chuyển giao kinh nghiệm quản lý, khai thác mạng lưới, đào tạo cán bộ; ăn chia theo
doanh thu hoặc lợi nhuận thu được. Việt Nam là người quản lý và điều hành mạng lưới
duy nhất.
2.2 .Giai đoạn từ 2001 - 2003.
Đây là giai đoạn hoàn thiện môi trường pháp lý với việc ban hành luật Viễn thông
và các văn bản dưới luật khác. Việc này nhằm hỗ trợ và đẩy mạnh việc tham gia của các
thành phần kinh tế ngoài quốc doanh vào thị trường cung cấp dịch vụ Viễn thông, và
nhằm hỗ trợ cho việc quản lý và phát triển môi trường viễn thong cạnh tranh.
Nhằm tăng cường cạnh tranh, cũng như tăng cường sự tham gia của các thành
phần kinh tế ngoài quốc doanh, trong giai đoạn này sẽ cấp thêm 2 giấy phép thiết lập và
khai thác dịch vụ Viễn thông quốc tế. Lĩnh vực dịch vụ Viễn thông quốc tê là lĩnh vực
mang lại lợi nhuận cao nhất, do vậy trong quá trình cấp phép phải xem xét một cách cụ
thể, các đối tượng được cấp phép nhất thiết phải thoả mãn đầy đủ các điều kiện mà
Chính phủ đề ra. Nếu các doanh nghiệp mới mà không thoả mãn được thì cấp phép sẽ
chuyển giao cho các công ty đã hoạt động trên thị trường dịch vụ Viễn thông.
Việc cổ phần hoá các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trong giai đoạn này tiếp
tục được tăng cường. Doanh nghiệp được cổ phần hoá sẽ được mở rộng sang các
12
doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Viễn thông đường dài và quốc tế, đến năm 2003 cho
phép các thành phần kinh tế trong nước nắm tới 40% cổ phần của các doanh nghiệp
này (mỗi pháp nhân không quá 20%, và mỗi cá nhân không quá 5%).
Việc tham gia của các tổ chức và công ty nước ngoài cũng được mở rộng với
việc cho phép đầu tư vào dưới hình thức liên doanh (JV) đối với các dịch vụ cơ bản
(trừ dịch vụ điện thoại cố định nội hạt, đường dài và quốc tế) và dịch vụ giá trị gia tăng
vào năm 2003. Đối với vốn góp, các đối tác nước ngoài bị hạn chế 30% trong các liên
doanh. Nhà nước khuyến khích phần vốn đóng góp của phía đối tác nước ngoài bằng
tiền và công nghệ xây dựng mạng lưới khai thác dịch vụ. Việc cho phép liên doanh với
phần góp vốn hạn chế 30% của phía nước ngoài mục tiêu thu hút vốn, công nghệ phát
triển Viễn thông còn có mục tiêu khác là nhằm giảm sức ép đối với yêu cầu mở cửa thị
trường Viễn thông Việt Nam cho phía nước ngoài khi tiến hành đàm phán hội nhập
quốc tế.
2.3. Giai đoạn từ 2004 - 2006:
Đây là giai đoạn có những biến chuyển căn bản về cơ cấu và thành phần kinh tế
(giữa quốc doanh và ngoài quốc doanh, giữa trong nước và nước ngoài) tham gia trên
thị trường cung cấp dịch vụ Viễn thông Việt Nam, trong đó tuỳ vào hoàn cảnh cụ thể sẽ
cấp thêm giấy phép cung cấp các dịch vụ cơ bản và giá trị gia tăng.
Về vấn đề cổ phần hoá, dự kiến đến năm 2006 các thành phần kinh tế trong
nước được phép sở hữu 49% cổ phần trong các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Viễn
thông đường dài và quốc tế, trong đó mỗi pháp nhân không quá 15%, mỗi cá nhân
không quá 7%. Đồng thời trong giai đoạn này cần thiết phải thúc đẩy nhanh hơn nữa
quá trình cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nước. Khuyến khích sự tham gia của
phía nước ngoài trong việc cung cấp các dịch vụ giá trị gia tăng với việc không hạn chế
phần vốn góp của nước ngoài trong các liên doanh cung cấp dịch vụ giá trị gia tăng.
Đến năm 2006, phía nước ngoài bắt đầu được phép mua cổ phần trong các doanh
nghiệp cung cấp dịch vụ giá trị gia tăng với hạn chế tối đa là 49%.
2.4. Giai đoạn 2007 - 2010:
Giai đoạn này có thể coi là giai đoạn chuyển tiếp sang cạnh tranh quốc tế về
cung cấp dịch vụ Viễn thông. Sự tham gia của các thành phần ngoài quốc doanh vào thị
13
trường dịch vụ Viễn thông sẽ được mở rộng rất nhiều. Về vấn đề cổ phần hoá, đến năm
2010 trừ các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ đường dài và quốc tế do Nhà nước nắm cổ
phần không hạn chế hoặc đặc biệt, tư nhân trong nước có thể nắm một số lượng cổ
phần không hạn chế trong các doanh nghiệp còn lại. Còn phía đối tác nước ngoài được
phép sở hữu một số lượng cổ phần không hạn chế trong các doanh nghiệp cung cấp
dịch vụ giá trị gia tăng - VAS và tối đa là 60% cổ phần trong các doanh nghiệp cung
cấp dịch vụ Viễn thông cơ bản và 10% trong các doanh nghiệp chủ đạo (mỗi pháp nhân
hoặc cá nhân sở hữu không quá 5% cổ phần). Việc hạn chế cổ phần của nước ngoài ở
một mức % nhất định trong các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Viễn thông cơ bản
nhằm mục đích đảm bảo vai trò tham gia chủ đạo của các thành phần kinh tế trong
nước.
Về đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trong giai đoạn này không hạn chế phần vốn
góp của phía đối tác nước ngoài trong các liên doanh cung cấp dịch vụ. Ngoài ra tuỳ
thuộc vào sự phát triển và yêu cầu cụ thể của thị trường có thể xem xét cho phép một
số hình thức đầu tư nước ngoài khác ngoài BCC, JV. Ví dụ như: BTO, BOT,...
2.5. Giai đoạn 2011 - 2012.
Đây là giai đoạn ngắn và có thể coi là giai đoạn bước đệm chuẩn bị về pháp lý,
tổ chức thị trường... cho việc mở rộng sự tham gia sâu của các thành phần kinh tế ngoài
nước.
Đến năm 2012 sẽ cho phép nước ngoài nâng mức vốn cổ phần trong các doanh
nghiệp cung cấp dịch vụ cơ bản là 49% và trong các doanh nghiệp chủ đạo là 20%.
Trong đó mỗi pháp nhân và cá nhân không qúa 10%.
2.6. Giai đoạn 2013 - 2016.
Trong giai đoạn này có thể sẽ cho phép nâng cổ phần của nước ngoài trong các
doanh nghiệp chủ đạo lên tối đa 30%. Trong đó mỗi pháp nhân hoặc cá nhân sở hữu
không quá 10%.
2.7. Giai đoạn 2017 - 2020:
Đây là giai đoạn cuối của chiến lược tự do hoá và mở cửa thị trường dịch vụ
Viễn thông. Kết thúc giai đoạn này bằng việc xoá bỏ hầu hết các hạn chế đối với cấp
phép cung cấp dịch vụ và hình thức đầu tư trong khi vẫn đảm bảo sự quản lý của Nhà
nước đối với doanh nghiệp chủ đạo với việc Nhà nước nắm cổ phần khống chế hoặc
14
đặc biệt, các thành phần kinh tế khác nắm tối đa số % cổ phần còn lại, trong đó mỗi
pháp nhân hoặc cá nhân nước ngoài nắm không quá 10% cổ phần.
Đến năm 2020, Tổng công ty Bưu chính - Viễn thông Việt Nam sẽ vẫn giữ vai
trò là doanh nghiệp chủ đạo.
15
Tóm tắt chiến lược tự do hoá và mở cửa thị trường dịch vụ Viễn thông của Việt Nam từ nay đến năm 2000.
Quyền khai thác dịch vụ Cổ phần hoá (Quyền sở hữu) Hình thức đầu tư trực tiếp
nước ngoài.
1998 1 doanh nghiệp chủ đạo - VNPT - cung cấp
dịch vụ Viễn thông.
- 2 doanh nghiệp khác VIETEL và SPT được
cấp phép cung cấp các dịch vụ.
a. Các dịch vụ cơ bản:
+ Điện thoại nội hạt sử dụng công nghệ vô
tuyến cố định WLL.
+ Điện thoại di động.
+ Nhắn tin.
+ Điện thoại trung kế vô tuyến
b. Các dịch vụ giá trị gia tăng - 1 IAP và 4
ISP
- Bắt đầu cổ phần hoá trong nước đối với các doanh
nghiệp khai thác dịch vụ Viễn thông (trừ dịch vụ đường
dài trong nước và quốc tế, tư nhân trong nước có thể
chiếm tối đa 49% cổ phần trong đó mỗi pháp nhân
chiếm không quá 10%, cá nhân không quá 5%;
Chỉ cho phép hình thức
BCC trong khai thác dịch vụ
2000 Xem xét việc cấp thêm 2 giấy phép khai
thác dịch vụ cố định nội hạt.
- Xem xét cấp thêm 2 giấy phép khai thác
dịch vụ điện thoại đường dài trong nước
(mảng riêng, truy nhập bình đẳng, có hiệu
lực sau 3 năm kể từ ngày cấp phép)
- Không hạn chế cấp phép đối với các nhà
cung cấp dịch vụ giá trị gia tăng - VAS
- Không hạn chế % cổ phần của tư nhân trong nước
trong các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ giá trị gia
tăng VAS
2003 - Không hạn chế cấp phép J.V với nước - Xem xét việc cổ phần hóa các doanh nghiệp cung cấp - Cho phép liên doanh với
16
ngoài khai thác dịch vụ giá trị gia tăng -
VAS.
- Xem xét cấp thêm 2 giấy phép khai thác
dịch vụ Viễn thông quốc tế (Mạng riêng,
truy nhập bình đẳng, có hiệu lực sau 2 năm
kể từ ngày cấp phép)
dịch vụ đường dài trong nước và quốc tế, trong đó tư
nhân trong nước nắm tối đa 40% mỗi pháp nhân không
quá 10%, cá nhân không quá 5%
nước ngoài trong khai thác
VAS và dịch vụ cơ bản (trừ
cố định nội hạt, đường dài
và quốc tế). Các liên doanh
phải thuê kênh đường dài,
quốc tế của nhà khai thác
Việt Nam
- Hạn chế vốn góp nước
ngoài trong các JV về VAS
và dịch vụ cơ bản là 30%
2006 - Xem xét cấp thêm giấy phép thiết lập mạng
và cung cấp các dịch vụ Viễn thông nội hạt
đường dài trong nước và quốc tế
- Tư nhân trong nước có thể chiếm tới 49% cổ phần
trong các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ đường dài và
quốc tế,trong đó mỗi pháp nhân không quá 15% và mỗi
cá nhân không quá 7%.
- Bắt đầu cho nước ngoài mua cổ phần trong các doanh
nghiệp cung cấp dịch vụ giá trị gia tăng VAS với hạn
chế tối đa 49%
- Các liên doanh phải thuê
kênh đường dài, quốc tế của
nhà khai thác Việt Nam.
- Không hạn chế vốn góp
của nước ngoài trong các
liên doanh cung cấp dịch vụ
VAS
2010 - Trừ các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ đường dài
trong nước và quốc tế do nhà nước nắm cổ phần khống
chế, tư nhân trong nước có thể nắm cổ phần khống chế
trong các doanh nghiệp còn lại.
- Không hạn chế cổ phẩn của nước ngoài trong các
doanh nghiệp cung cấp dịch vụ giá trị gia tăng VAS.
- Nước ngoài nắm tối đa 30% cổ phần trong các doanh
nghiệp cung cấp dịch vụ Viễn thông cơ bản và 10%
trong doanh nghiệp chủ đạo do nhà nước nắm cổ phần
không chế hoặc đặc biệt. Mỗi pháp nhân và cá nhân
không quá 5%
- Cho phép liên doanh đối
với tất cả các dịch vụ.
- Xem xét cho phép các hình
thức đầu tư khác.
- Không hạn chế số vốn góp
của nước ngoài trong các
liên doanh.
2012 - Nước ngoài có thể sở hữu tối đa 49% cổ phần trong
17
các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ cơ bản và 20%
trong doanh nghiệp chỉ đạo (trong doanh nghiệp chỉ
đạo mỗi pháp nhân hoặc cá nhân không quá 10%S).
2016 - Nước ngoài có thể sở hữu tối đa 30% trong các doanh
nghiệp chủ đạo (mỗi pháp nhân hoặc cá nhân không
quá 10%)
2020 Không hạn chế số lượng doanh nghiệp cung
cấp dịch vụ Viễn thông
- Nhà nước chiếm cổ phần khống chế hoặc đặc biệt
trong doanh nghiệp chủ đạo, mỗi pháp nhân hoặc cá
nhân nước ngoài nắm không quá 10% cổ phần.
- Không hạn chế sở hữu tư nhân và nước ngoài trong
các doanh nghiệp còn lại
- Không hạn chế hình thức
đầu tư
18
IV. Những kiến nghị và giải pháp chủ yếu thực hiện chiến lược.
Qua nghiên cứu và tìm hiểu chiến lược tự do hoá và mở cửa thị trường dịch vụ
Viễn thông từ nay đến năm 2020, chúng ta thấy chiến lược này liên quan đến nhiều vấn
đề khác nhau và có nhiều công việc phải làm. Do vậy để thực hiện được chiến lược này
thì giữa Nhà nước và các doanh nghiệp phải có sự phối hợp, triển khai thực hiện các
hành động sau:
1. Về Phía Chính phủ.
1.1. Đổi mới và tăng cường bộ máy quản lý Nhà nước về Bưu điện:
Sự phát triển nhanh chóng cơ sở hạ tầng thông tin có sự phối hợp Viễn thông -
điện tử - tin học cùng với việc mở cửa thị trường dịch vụ Viễn thông, mở rộng cạnh
tranh trong nước, hội nhập quốc tế là điều kiện thuận lợi nhưng cũng đầy thử thách đòi
hỏi xây dựng bộ máy quản lý Nhà nước về Bưu điện mạnh, tập trung thống nhất, có đủ
năng lực và thẩm quyền cùng với các cơ quan Nhà nước hữu quan giúp Chính phủ:
+ Tạo môi trường pháp lý và các điều kiện cần thiết cho sự phát triển Bưu điện,
đảm bảo lợi ích quốc gia, lợi ích của người sử dụng Bưu điện và của các doanh nghiệp.
+ Đảm bảo cho cơ sở hạ tầng thông tin quốc gia phát triển vững chắc và có hiệu
quả.
+ Đảm bảo phổ cập các dịch vụ cơ bản, phục vụ công ích và cung cấp rộng rãi
các dịch vụ khác.
+ Quản lý và sử dụng một cách có hiệu quả nguồn tài nguyên quốc gia, đặc biệt
là tần số vô tuyến điện, kho số và thương quyền khai thác các dịch vụ, phát triển công
nghiệp Bưu chính - Viễn thông tương ứng với phát triển mạng lưới và dịch vụ.
Kinh nghiệm của các nước cho thấy một mô hình quản lý Nhà nước phù hợp về
thông tin bao gồm Bưu điện, tin học, phát thành truyền hình có vai trò rất quan trọng
trong việc phát triển kinh tế, xã hội, chuẩn bị bước vào kỷ nguyên của xã hội thông tin.
Mô hình như trên áp dụng tại các nước như Hàn Quốc, Nhật Bản, ... đã thực hiển rất tốt
chức năng quản lý vĩ mô, góp phần đưa ngành Bưu điện những nước này phát triển
không ngừng, đạt được những thành tựu to lớn. Mô hình này cũng đã được Trung Quốc
áp dụng trong dịp sắp xếp lại cơ cấu Chính phủ mới đây, điều này cũng nói lên tính
hợp lý của nó.
Theo ý kiến đánh giá tổng quan của Ban chỉ đạo chương trình quốc gia về công
nghệ thông tin thì: ở nước ta tin học là một ngành kinh tế kỹ thuật mới, đang bước đầu
hình thành và phát triển; Việc Chính phủ thành lập Ban chỉ đạo chương trình Công
20