Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

SỰ CẦN THIẾT NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ CHUYÊN MÔN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.79 KB, 26 trang )

SỰ CẦN THIẾT NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ CHUN MƠN
I-Nguồn nhân lực và vai trò của nguồn nhân lực
1

1.Khái niệm và phân loại nguồn nhân lực
1.1khái niệm
Nguồn nhân lực được hiểu là nguồn lực con người,là một

trong những nguồn lực quan trọng nhất của sự phát triển kinh tế xã
hội.Nguồn nhân lực khác với những nguồn lực khác (nguồn lực tài
chính,nguồn lực vật chất, nguồn lực công nghệ v.v...) là ở chỗ trong
quá trình vận động nguồn nhân lực chịu sự tác động của yếu tố tự
nhiên (sinh ,chết...) và yếu tố xã hội (việc làm, thất nghiệp...).
Chính vì vậy nguồn nhân lực là một khái niệm khá phức tạp, được
nghiên cứu dưới nhiều giác độ khác nhau . Nguồn nhân lực hiểu như
là nơi sinh sản, nuôi dưỡng và cung cấp nguồn lựu con người cho sự
phát triển. Cách hiểu này muốn chỉ rõ nguồn gốc tạo ra nguồn lực
con người nghiêng về sự biến động tự nhiên của dân số và ảnh
hưởng của nó tới sự biến động nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực còn
được hiểu như là một yếu tố tham gia trực tiếp cào quá trình phát
triển kinh tế-xã hội, là tổng thể những con người cụ thể tham gia
vào quá trình lao động. Cách hiểu này cụ thể hơn và có thể lượng
hố được, đó là khả năng lao động của xã hội bao gồm những người
có khả năng lao động tức là bộ phận chủ yếu và quan trọng nhất
trong nguồn nhân lực và đây chính là bộ phận nguồn nhân lực mà
chúng ta thường đề cập tới hơn.
Khái niệm nguồn nhân lực là khái niệm mới được vận dụng
vào Việt Nam. Trong thực tế chúng ta thường dùng một số thuật ngữ
có liên quan như:
-Nguồn lao động: bao gồm những người trong độ tuổi lao
động và có khả năng lao động.




-Lực lượng lao động: Là bộ phận của nguồn lao động bao gồm
những người trong tuổi lao động, đang làm việc trong nền kinh tế
quốc dân và những người thất nghiệp, song có nhu cầu tìm việc làm.
Nguồn nhân lực được nghiên cứu về số lượng và chất lượng.
Số lượng nguồn nhân lực được đo lường thông qua chỉ tiêu quy mơ
và tốc độ tăng. Các chỉ tiêu này có liên quan mật thiết với chỉ tiêu
quy mô và tốc độ tăng dân số. Quy mô và tốc độ tăng dân số càng
lớn thì quy mơ và tốc độ tăng nguồn nhân lực càng lớn và ngược lại.
Tuy nhiên sự tác động đó phải sau một khoảng thời gian nhất định
mới có biểu hiện rõ (vì con người phải phát triển đến một mức độ
nhất định mới trở thành người có sức lao động,có khả năng lao
động).
Chất lượng nguồn nhân lực là trạng thái nhất định của nguồn
nhân lực, thể hiện mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành nên bản
chất bên trong của nguồn nhân lực. Chất lượng nguồn nhân lực là
chỉ tiêu phản ánh trình độ phát triển kinh tế và đời sống người dân
trong một xã hội nhất định. Chất lượng nguồn nhân lực thể hiện
thông qua một hệ thống các chỉ tiêu, trong đó có các chỉ tiêu chủ
yếu sau:
1.2Phân loại nguồn nhân lực
1.2.1

Căn cứ vào nguồn gốc hình thành người ta chia ra làm
3 loại:

-Một là: nguồn nhân lực có sẵn trong dân số, bao gồm những
người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động. Theo thống kê
của liên hợp quốc nhóm này là dân số hoạt động (Active

population).
Độ tuổi lao động là giới hạn về tâm sinh lý mà theo đó con
người có đủ điều kiện tham gia vào q trình lao động. Việc quy
định giới hạn độ tuổi lao động phụ thuộc vào điều kiện kinh tế xã


hội của từng nước và trong từng thời kỳ. ở nước ta quy định giới
hạn độ tuổi lao động là từ tròn 15 tuổi đến tròn 55 tuổi (đối với nữ)
và trịn 60 tuổi (đối với nam).
Nguồn nhân lực có sẵn trong dân số chiếm tỷ lệ cao trong dân
số (thường là trên 50%)
Trên thế giới căn cứ vào quan hệ tỷ lệ trên, trong và tuổi lao
động người ta chia dân số và nguồn nhân lực ra 3 dạng sau:
-Tỷ lệ dưới tuổi lao động cao (gần 50% dân số),tỷ lệ trên tuổi
lao động thấp (khoảng 10%). Đây là dân số trẻ thường ở các nước
đang phát triển. Dạng này hầu hết khả năng tăng dân số và nguồn
nhân lực còn cao (hoặc quá cao).
-Tỷ lệ dân số trên tuổi và dưới tuổi lao động vừa phải. Đây là
dân số tương đối ổn định.
-Tỷ lệ dưới tuổi thấp hơn tỷ lệ trên tuổi lao động. Đây là dạng
dân số già (thoái triển) báo hơn trong tỷ lệ dân số thấp hoặc rất
thấp.
- Hai là :nguồn nhân lực tham gia hoạt động kinh tế còn gọi là
dân số hoạt động kinh tế. Đây là số người có cơng ăn việc làm, hoạt
động trong các ngành kinh tế quốc dân.
Như vậy nguồn nhân lực này không bao gồm những người
trong độ tuổi lao động có khả năng hoạt động kinh tế nhưng thực tế
không tham gia hoạt động kinh tế (thất nghiệp, có khả năng làm việc
song khơng muốn làm việc, đang học tập v.v...).
-Ba là :nguồn nhân lực dự trữ. Nguồn nhân lực này bao gồm

những người trong độ tuổi lao động nhưng vì những lý do khác nhau
chưa tham gia hoạt động kinh tế song khi cần có thể huy động được.
Cụ thể là:
-Những người làm công việc nội trợ trong gia đình. Đây là
nguồn nhân lực đáng kể bao gồm đại bộ phận lao động nữ. Họ làm


những việc phục vụ gia đình, những cơng việc này thường đa dạng
và khá vất vả đặc biệt ở những nước đang phát triển. Công việc nội
trợ là những hoạt động có ích và cần thiết, khi có thuận lợi, loại
hoạt động này có thể gia nhập hoạt động kinh tế xã hội.
-Những người tốt nghiệp ở các trường phổ thơng trung học và
chun nghiệp song chưa có việc làm, được coi là nguồn nhân lực
dự trữ quan trọng và có chất lượng. Đây là nguồn nhân lực ở độ tuổi
thanh niên có học vấn có trình độ cao. Tuy nhiên đối với nguồn
nhân lực này cần được phân chia tỷ mỉ hơn để có thể sử dụng hợp lý
hơn (số tốt nghiệp PTTH, số tốt nghiệp THCN, đại học, CN kỹ
thuật, Cao đẳng...)
-Những người hoàn thành nghĩa vụ quân sự .
-Những người trong độ tuổi lao động đang bị thất nghiệp...
1.2.2

Căn cứ vào vai trò của từng bộ phận nguồn nhân lực
người ta chia ra thành 3 loại
-Nguồn lao động chính: Đây là bộ phận nguồn nhân lực nằm
trong độ tuổi lao động và là bộ phận quan trọng nhất.
-Nguồn lao động phụ: Đây là bộ phận dân cư nằm ngồi độ
tuổi lao động có thể và cần phải tham gia vào nền sản xuất xã hội
đặc biệt ở các nước kém phát triển. ở nước ta quy định số người
dưới tuổi lao động thiếu từ 1-3 tuổi và trên tuổi lao động vượt từ 15 tuổi thực tế có tham gia lao động được quy đổi ra lao động chính

với hệ số quy đổi là 1/3 và 1/2 ứng với người dưới tuổi và tên tuổi.
Hiện nay có ý kiến cho rằng khơng nên tính số trẻ em dưới tuổi lao
động vào nguồn nhân lực.
- Nguồn lao động bổ xung : Là bộ phận nguồn nhân lực được
bổ xung từ các nguồn khác (số người hết hạn nghĩa vụ quân sự, số
người trong độ tuổi lao động thôi học ra trường, số người lao động
ở nước ngoài trở về...)


2.Các chỉ tiêu thể hiện chất lượng nguồn nhân lực
2.1Chỉ tiêu biểu hiện trạng thái sức khoẻ của nguồn nhân
lực
Sức khoẻ là trạng thái thoải mái về thể chất cũng như tinh thần
của con người và được thể hiện thông qua nhiều chuẩn mức đo
lường về chiều cao, cân nặng, các giác quan nội khoa, ngoại khoa
v.v...Bên cạnh việc đánh giá trạng thái sức khoẻ của người lao động,
người ta còn nêu ra các chỉ tiêu đánh giá của một quốc gia như tỷ lệ
sinh, chết, tăng tự nhiên, tỷ lệ tử vong trẻ em dưới một tưổi và dưới
5 tuổi, tỷ lệ thấp cân của trẻ sơ sinh, tuổi thọ trung bình, cơ cấu giới
tính, tuổi tác, mức GDP/đầu người v.v...
2.2Chỉ tiêu biểu hiện trình độ văn hố của nguồn nhân lực
Trình độ văn hố của nguồn nhân lực là trạng thái hiểu biết
của người lao động đối với những kiến thức phổ thông về tự nhiên
và xã hội. Trong chừng mực nhất định, trình độ văn hố dân cư biểu
mặt bằng dân trí của một quốc gia. Trình độ văn hoá của nguồn nhân
lực được lượng hoá qua các quan hệ tỷ lệ.
-Số lượng và tỷ lệ biết chữ.
-Số lượng và tỷ lệ người qua các cấp học như tiểu học (cấp I),
phổ thông cơ sở (cấp II), trung học phổ thông (cấp III),cao đẳng, đại
học, trên đại học v.v...

Trình độ văn hố của nguồn nhân lực là chỉ tiêu hết sức quan
trọng phản ánh chất lượng nguồn nhân lực và có tác động mạnh mẽ
tới q trình phát triển kinh tế xã hội. Trình độ văn hố cao tạo khả
năng tiếp thu và vận dụng một cách nhanh chóng những tiến bộ
khoa học kỹ thuật vào thực hiện.
2.3Chỉ tiêu biểu hiện trình độ chun mơn kỹ thuật nguồn
nhân lực


Trình độ chun mơn kỹ thuật là trạng thái hiểu biết khả năng
thực hành về một chuyên môn nghề nghiệp nào đó được biểu hiện
thơng qua các chỉ tiêu.
-Số lượng lao động được đào tạo và chưa qua đào tạo;
-Cơ cấu lao động được đào tạo;
+ Cấp đào tạo (sơ cấp, trung cấp, cao cấp);
+ CN kỹ thuật và cán bộ chun mơn;
+ Trình độ đào tạo (Cơ cấu bậc thợ, cơ cấu ngành nghề
v.v...)
Chỉ tiêu trình độ chun mơn kỹ thuật của nguồn nhân lực là
chỉ tiêu quan trọng nhất phản ánh chất lượng nguồn nhân lực, thông
qua chỉ tiêu quan trọng này cho thấy năng lực sản xuất của con
người trong ngành, trong một quốc gia, một vùng lãnh thổ, khả năng
sử dụng khoa học hiện đại vào sản xuất.
2.4 Chỉ số phát triển con người
Chỉ số phát triển con người (HDI-Human development index)
chỉ số này được tính theo ba chỉ tiêu chủ yếu
-Tuổi thọ bình quân.
-Thu nhập bình quân GDP/người;
-Trình độ học vấn (tỷ lệ biết chữ và số năm đi học trung bình
của dân cư).

Chỉ số HDI là chi tiêu đánh giá sự phát triển con người về mặt
kinh tế có tính đến chất lượng cuộc sống và cơng bằng ,tiến bộ xã
hội.
Ngồi những chỉ tiêu trên, người ta còn xem xét năng lực
phẩm chất nguồn nhân lực thông qua các chỉ tiêu: truyền thống lịch
sử, nền văn hoá, văn minh, phong tục tập quán của dân tộc... Chỉ
tiêu này nhấn mạnh đến ý trí, năng lực tinh thần của người lao động.


II-Nhân tố ảnh hưởng đến trình độ chun mơn.
1.Trình độ lành nghề của nguồn nhân lực thể hiện mặt chất
lượng của sức lao động.
Trình độ lành nghề của nguồn nhân lực biểu hiện ở sự hiểu
biết lý thuyết về kỹ thuật của sản xuất và kỹ năng lao động để hồn
thành những cơng việc có trình độ phức tạp nhất định, thuộc một
nghề nghiệp, một chun mơn nào đó. Trình độ lành nghề có liên
quan chặt chẽ với lao động phức tạp. Lao động có trình độ lành
nghề là lao động có trình độ cao hơn, là lao động phức tạp. Trong
cùng một đơn vị thời gian, lao động lành nghề thường tạo ra một
giá trị lớn hơn so với lao động giản đơn. Trình độ lành nghề biểu
hiện tiêu chuẩn cấp bậc kỹ thuật (đối với công nhân) và ở tiêu
chuẩn nghiệp vụ viên chức, tức là các tiêu chuẩn về trình độ học
vấn, chính trị, tổ chức quản lý... để đảm nhận các chức vụ được
giao (đối với cán bộ chun mơn).Để đạt tới trình độ lành nghề nào
đó, trước hết phải đào tạo nghề cho nguồn nhân lực, tức là giáo dục
kỹ thuật sản xuất cho người lao động để họ nắm vững một nghề,
một chuyên môn, bao gồm cả người đã có nghề, có chun mơn rồi
hay học để làm nghề, chuyên môn khác. Cùng với đào tạo, để nâng
cao năng suất lao động cần phải quan tâm nâng cao trình độ lành
nghề cho nguồn nhân lực tức là giáo dục, bồi dưỡng cho họ hiểu

biết thêm những kiến thức, kinh nghiệm sản xuất và nâng cao thêm
khả năng làm được trong giới hạn nghề, chuyên mơn họ đang đảm
nhận.
Đào tạo và nâng cao trình độ lành nghề phụ thuộc vào nhiều
yếu tố: sự đầu tư của nhà nước, trình độ văn hố của nhân dân,
trang bị cơ sở vật chất của nhà trường.
Việc đào tạo nâng cao trình độ lành nghề cho nguồn nhân lực
là sự cần thiết, vì hàng năm nhiều thanh niên bước vào tuổi lao


động nhưng chưa được đào tạo một nghề, một chuyên mơn nào,
ngồi trình độ văn hố phổ thơng. Khơng những vậy, nền kinh tế
mở cửa, nhiều thành phần kinh tế hoạt động, cơ cấu công nghệ thay
đổi, sản xuất ngày càng phát triển, trong điều kiện khoa học kỹ
thuật đang phát triển mạnh mẽ, phân công lao động xã hội ngày
càng sâu sắc, nhiều nghề, chuyên môn cũ thay đổi, nhiều nghề mới
ra đời. Từ đó địi hỏi trình độ lành nghề của nguồn nhân lực cần
phảI được đào tạo, nâng cao thêm cho phù hợp với yêu cầu của sản
xuất. Chúng ta đang bước vào thời kỳ CNH, HDH sau những thắng
lợi của sự nghiệp đổi mới. Song do nhiều nguyên nhân, chất lượng
nguồn nhân lực còn ở mức độ thấp. Bởi vậy đào tạo và phát triển
nguồn nhân lực phải đáp ứng mục tiêu: “Nâng cao dân trí, đào tạo
nhân lực và bồi dưỡng nhân tài” như Đảng ta đã xác định.
2.Cơ cấu lao động được đào tạo:
-Cấp đào tạo(sơ cấp,trung cấp,cao cấp)
-Công nhân kỹ thuật và cán bộ chun mơn
-Trình độ đào tạo(cơ cấu bậc thợ,cơ cấu ngành nghề v.v...)
III-Đặc điểm kinh tế kỹ thuật chủ yếu của tổng công ty Dệt May
và sự cần thiết phải nâng cao trình độ chun mơn của lao động
1.Đặc điểm kinh tế kỹ thuật chủ yếu của tổng công ty Dệt-May

1.1Vị trí ngành cơng nghiệp Dệt-May
1.1.1Vị trí ngành cơng nghiệp Dệt-May trên thế giới
Ngành công nghiệp dệt may gắn liền với nhu cầu không thể
thiếu được của mỗi con người vì vậy từ rất lâu trên thế giới ngành
cơng nghiệp này từng bước trưởng thành và đi lên cùng với sự phát
triển ban đầu của chủ nghĩa tư bản. Bối cảnh ngành cơng nghiệp dệt
may lúc đó là ngành thu hút nhiều lao động với kỹ năng khơng cao,
có tỷ trọng lợi nhuận tương đối cao và có điều kiện mở rộng thương
mại quốc tế-vốn đầu tư ban đầu cho một cơ sở sản xuất không lớn


như ngành cơng nghiệp nặng, hố chất...Do vậy trong q trình
cơng nghiệp hố tư bản từ rất sớm ở các nước phát triển Anh, ý cho
đến các nước công nghiệp mới như Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng
Kông, Singapore...ngành dệt may đều có vị trí quan trọng trong tiến
trình cơng nghiệp hố của họ.
Ngành cơng nghiệp dệt may vốn dĩ đã sử dụng nhiều lao
động, tuy đã được cơ khí hố, điện tử hố rất cao vẫn khơng bù đắp
lại hiệu quả kinh tế tương xứng, nên từ những năm 1750-1950 xu
hướng chuyển dịch ngành công nghiệp dệt-may xang các nước có
nhiều lao động rẻ. Tuy nhiên ngành dệt-may cũng đã gắn bó với họ
hàng mấy trăm năm.
Nừu nhìn vào thực chất hiện nay ở các nước, thuộc G7+1 như
Đức, ý, Pháp...ngành dệt-may đang phá sản, đóng cửa và bán thiết
bị second-hand với giá rất rẻ mà trình độ cơng nghệ còn rất phát
triển mới sử dụng khoảng 5- 8 năm thậm trí thiết bị mới xuất hiện ở
hội chợ lần trước (ITMA lần X ở Paris) một số ít ở hội chợ lần cuối
(ITMA lần XI-1991 ở Hanover) song cũng khơng phải tồn bộ
những cơng nghệ đỉnh cao của dệt-may như nguyên liệu sợi nicro,
fiber, sợi lycra, sử lý cao cấp tơ tằm, tổng hợp biến tính giả len, giả

tơ sáng tạo mốt cần lao động kỹ thuật cao vẫn không chuyển giao,
vẫn tồn tại và phát triển với hiệu quả kinh tế cao.
Cịn xét q trình chuyển dịch dệt-may từ Tây Âu xang Châu
Á, từ Nhật xang các nước NIC Châu Á thì q trình chuyển dịch có
ngắn hơn (1950-1970). Sau gần 50 năm ngành dệt-may gắn với quá
trình cơng nghiệp hố phát triển ở các nước này đến giờ đã có sự
phân hố; Ngành dệt-may đang có xu hướng chuyển dịch từ Hàn
Quốc-Hồng Kơng-Đài Loan...xang các nước có lao động dồi dào và
rẻ hơn như Inđônêxia, Bănglađét, Việt Nam...chúng ta đang tiếp
nhận các cơng trình liên doanh, hoặc 100% vốn từ các nước đó.


Song sự phát triển rực rỡ ở các nước NIC Châu á, giá trị gia tăng
công nghiệp (MVA) từ 7,8% năm 1970 lên 14,2% năm 1989 đã vượt
qua tỷ lệ tăng trưởng ở các nước phát triển G7. Sự tăng trưởng
MVA tương đối nhanh hơn ở các nước này lúc đầu chủ yếu là hàng
dệt-may, thực phẩm chế biến và ít lâu sau là hàng điện tử (mạnh tổ
hợp) sự phát triển cơng nghiệp ở các nước này có khác nhau, trong
đó Nam Triều Tiên sớm giảm vai trị của hàng dệt-may và nâng tầm
quan trọng của việc xuất khẩu sản phẩm kim loại, máy móc. Song
nhìn chung các nước thuộc khối NIC Châu Á vẫn có cơng xuất dệt
may khá lớn so với Việt Nam và tiêu dùng hàng vải đầu người cũng
cao hơn Việt Nam nhiều.
Biểu I: Công suất kéo sợi và dệt vải của Việt Nam và một số
nước trong vùng
Các nước

Đài Loan
N.Triều Tiên
Hồng Công

Thái Lan
Malayxia
Indonexia
Philipin
Việt Nam

Kéo sợi
Cọc sợi
3.755.000
3.659.000
264.000
2.800.000
412.000
4.200.000
1.418.000
630.000

Ro-to
121.500
39.700
71.000
35.000
4.400
50.000
41.500
1.600

p.c.c

Dệt vải

Máy

p.c.

203,8
87,3
58,2
51,1
23,9
23,7
24,3
13,2

dệt
74.000
52.560
12.990
63.500
7.260
135.000
12.160
11.120

c
3,7
1,2
2,3
1,1
0,4
0,8

0,2
0,2

Ghi chú:p.c.c, per capita capacity : đơn vị ngàn người.
Biểu II : Tiêu dùng hàng dệt của một số nước trong vùng
Các nước
Thái Lan

Bông
2,5

Nhân tạo
0,3

Khác

Tổng

-

cộng
2,8


Indonexia
Malayxia
N.Triều Tiên
Hồng Kơng
T.Quốc
Việt Nam


0,7
1,5
5,6
5,3
3,5
0,32

1,3
4,8
8,3
5,2
1,6
0,5

0,1
0,4
1,4
0,4
0,02

2,0
6,4
14,3
11,9
5,5
0,84

Ngành cơng nghiệp dệt-may của họ có trình độ cơng nghệ
tiên tiến, trình độ quản lý khá cao, năng xuất lao động cao, nên tiền

lương của lao động dệt-may cao mà giá thành sản phẩm vẫn hạ, tạo
sức cạnh tranh về hàng dệt-may ngay tại các nước phát triển và đã
tạo được giá trị kim ngạch xuất khẩu khổng lồ so với ta trong nhiều
năm phát triển cơng nghiệp hố ở đất nước họ


Giá trị xuất khẩu hàng dệt-may của một số nước qua các năm
Các nước
Đài Loan
Nam Triều Tiên
Hồng Kông
Thái Lan
Bănglađét
Ấn Độ
Trung Quốc
Malayxia
Singapor
Việt Nam

Đơn vị
Tỉ USD
Tỉ USD
Tỉ USD
Tỉ USD
Tỉ USD
Tỉ USD
Tỉ USD
Tỉ USD
Tỉ USD
Tỉ USD


Năm 2000
3,927
2,871
72,082
5,37
1,7
2,06
30,7
8,08
5,23
1,1

Trong thập kỷ qua :Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông,
Singapor là những nước sản xuất và xuất khẩu dệt-may cho các
nước tư bản phát triển. Ngày nay họ đã chiếm 1/4 khối lượng buôn
bán hàng dệt và 1/3 hàng may mặc trên thế giới. Các nhà dự báo
ngành dệt trên thế giới nhận định: Ngành dệt-may các nước NIC đã
bước vào giai đoạn chuyển giao sản xuất sang các nước có mức
lương thấp. Họ là những nước đầu tư quan trọng tại khu vực vịng
cung Thái Bình Dương Châu Á trong đó có Việt Nam
1.1.2Vị trí ngành công nghiệp Dệt-May Việt Nam
Sản phẩm của ngành dệt-may là một nhu cầu thiết yếu của
con người nên nó đã được hình thành từ rất sớm ở Việt Nam, phát
triển từ tiểu thủ công đến công nghiệp, từ phân tán đến tập trung.
Là một nước nghèo với thu nhập bình quân đầu người thuộc nhóm
thấp nhất thế giới và đang xây dựng mục tiêu phấn đấu tăng thu
nhập bình quân đầu người để cải thiện đời sống nhân dân. Công
nghiệp Việt Nam chậm phát triển nên ngành công nghiệp dệt-may
cũng ở trong tình trạng chung là nhỏ bé và phụ thuộc bên ngoài.

Song ngành dệt-may đã thu hút được nhiều lao động xã hội
gần 6 vạn người chiếm 22,7% lao động cơng nghiệp tồn quốc. GiảI


quyết được công ăn việc làm, tạo sự ổn định chính trị-kinh tế-xã
hội do đó được Đảng và nhà nước đã quan tâm cho phát triển từ
nhiều thập kỷ qua, nên xét về mối tương quan trong tồn ngành
cơng nghiệp Việt Nam ngành dệt-may vẫn đang chiếm một vị trí
quan trọng. Về giá trị tổng sản lượng . Chiếm gần 10% năm 92 (khi
đã có dầu lửa) trong tồn ngành công nghiệp đất nước. Nộp ngân
sách cho Nhà nước khoảng 400 tỷ và tham gia xuất khẩu trên 300
triệu đôla chiếm tỷ trọng hơn 10% kim ngạch xuất khẩu toàn quốc.
Các chỉ tiêu ngành công nghiệp dệt-may qua các năm
Chỉ tiêu

Ngành dệt
2000 2001
Giá trị TSLượng(tỷ 1258, 1271,

2002
1406,

đồng giá cố định )

8

6

4


Ngành may mặc
2000 2001 2002
202,5 219, 241,
1

8

Trong đó tỉ lệ %
Công nghiệp QDTW

24,6

Công nghiệp QDDP

51,5

50

49,4

36,7

22,2

22,3

Phi quốc doanh

16,0


16,3

16,7

3

35,1

41,4

Sản phẩm chủ yếu

32,5

33,7

33,9

42,7

36,3

Sợi toàn bộ
(ngàn tấn)

8,7
58,3

40,3


42,5

318,0

280,4

275,7

Vải màn (triệu mét)

3303

1370

1452

Quần áo dệt kim

33,4

43,3

41,5

(triệu cái)

28,6

26,1


17,7

651

728

810

Vải lụa các loại
(triệu mét)
Vải bạt (ngàn mét)

Len đan (tấn)
Len thảm


Thảm len (ngàn m)

414

558

260

Thảm cóc (ngàn mét)

213

Khăn bơng (triệu cái)


1.556

Bít tất (ngàn đôi)

108,5

109,2

110,2

Quần áo may sẵn

2.574

2726

2768

125,3

(triệu cái)

106,

Các cơ sở dệt-may

1

-Cơ sở QDTW


63,9

17

-Cơ sở QDĐP

31

31

31

68

-HTX và tư nhân

100

87

81

-

18

81

-


46.08

174,0

78

40.2

306,5

2

22,8

-

1

-Lao động CN QDTW 64,4

64,3

248,6

26,4

136,

152,


-Lao động CN QDĐP

39,4

39,9

62,1

124,8

4

1

-Lao động ngoàI QD

266,3

202,1

36,3

23,2

22,4

150,2

31,7


41,5

Lao

động

(ngàn -

người)

371,1

18

81,5 88,2
Ghi chú : - Vè sợi chỉ số bình quân đã tăng (trước Nm < 40, Hiện
nay Nm >40 )
-về vảI cao cấp tăng, chiếm tỷ trọng gần 20% sản lượng vải toàn
quốc
Với sự lỗ lực để khắc phục những yếu kém của ngành dệtmay Việt Nam để vươn lên trong nền kinh tế thị trường. Những
hoạt động tiêu biểu cho sản xuất ngành dệt-may đã thực hiện được:
-Bước đầu đổi mới cơ chế ngành để thích nghi với cơ chế
kinh tế thị trường.


-Đã tập trung đầu tư vào giải quyết được một phần những tồn
tại trong sản xuất, tuy vốn đầu tư chỉ đảm bảo được 10-15% yêu
cầu.
-Loại bỏ đi và nâng cấp được một phần những thiết bị quá cũ,
hư hỏng nhiều và đã lạc hậu về công nghệ ( những thiết bị thuộc

thập kỷ 50-60) như ở nhà máy dệt Nam Định, 8-3,Thắng Lợi, Việt
Thắng... các nhà máy may Thăng Long, X-10, Chiến Thắng, Việt
Tiến...
-Đổi mới được trên 15 vạn cọc sợi mới của Pháp-Nhật-Ấn Độ
ở 3 nhà máy Thắng Lợi, Đông Nam, Dệt Nam Định.
-Đầu tư mới được 30 vạn cọc sợi mới của Nhật-Ý-Đức cho 4
nhà máy mới ở Hà Nội, Vinh, Huế và Nha Trang
-Trang bị thêm 1000 nhà máy dệt không thoi khổ rộng (trên
1,6 m) loại thổi khí, kiến cứng, kiếm mềm, thoi kẹp của Nhật, Hàn
Quốc, Bỉ, Pháp, Tiệp, Liên Xô(Cũ) ở các nhà máy trung ương và
địa phương như Thành Công, Việt Thắng, Đông Á, Phong Phú, 83,Nam Định, Lụa Nam Định, dệt Long An...
-Gần 2000 máy dệt thoi khổ rộng (1,6m) và cải tạo từ khổ vải
0,80m lên 1,2m của nhiều cơ sở sản xuất TW và địa phương
-Công suất kéo sợi đay và dệt vải đay được mở rộng ở cả cơ
sở TW và địa phương của các thiết bị Anh-ấn Độ (hiện nay nhà
nước có 8 nhà máy kéo sợi đay)
-Năng lực len thảm, len mịn được bổ xung các thiết bị Pháp,
Ba Lan, Đức...
-Thiết bị dệt kim được bổ xung mới, hiện đại của Nhật, Hàn
Quốc, Đài Loan ở nhà máy Thành Cơng, Đơng Phương, Hà Nội,
Nha Trang, Hồng Thị Loan, 19/5 ...
-Bổ xung thêm nhiều máy nhuộm cao áp văng định hình, làm
mền xốp vải, chống nhầu, chống co, in hoa trục , in hoa lưới nhằm


đồng bộ và đa dạng hố dây chuyền nhuộm hồn tất, gia công được
nhiều loại mặt hàng jacket ,shirting, suiting, khăn bông, dệt kim từ
nguyên liệu cotton B/C và tổng hợp đã nâng cao được đáng kể chất
lượng vải xuất khẩu
-Từ 3 năm trở lại đây nhiều nhà máy dệt và nhà máy may đã

trang bị được thêm nhiều máy may thêu hiện đại của Barudan,
Tajima Juki, Brother, Pfaff, Pegasus, Adler... để may thêu các mặt
hàng sơ mi, jacket, BHLD T-Shirt, poloshirt cải thiện một bước
chất lượng mặt hàng may xuất khẩu và nội địa ở các nhà máy dệt và
các nhà máy may TW và địa phương.
Nguyên liệu dệt trong nước đã bắt đầu khởi sắc. Bông xơ đạt
3000 tấn. Đay: hơn 20.000 tấn đay tơ và tơ nõn: 850 tấn.
Nhờ chính sách mở cửa của Nhà nước ngành dệt-may đã giao
lưu buôn bán với trên 200 công ty của 30 nước trên Thế giới. Bước
đầu đã hoà nhập được với thị trường dệt-may thế giới như Nhật
Bản, EC, úc, Canada, Bắc Âu, Đài Loan, Hàn Quốc, Hồng Kông,
Singapore với các sản phẩm may sẵn, quần áo dệt kim, khăn bông,
jacket, thảm len, sợi bông, sợi đay...
Tạo được nhiều cơng trình liên doanh và 100% vốn nước
ngồI như Dona Bochang, Pankrim, Total, Hanjoo, Trung Nam,
Saigon-joudo, Donatex,...
Nhìn chung nhiều cơng nghệ mới ra đời, mặt hàng dệt-may đa
dạng hơn, phong phú hơn, chất lượng cao hơn, năng suất cao hơn,
giảm hao phí, hạ giá thành...
Tuy nhiên do vốn đầu tư cịn q ít (xấp xỉ 10-15%) so với
u cầu nên sự hoà nhập được với thị trương dệt thế giới còn hạn
chế chỉ khoảng trên 10% sản phẩm dệt may là tương đương được
với các nước phát triển. Riêng may mặc sự hồ đồng vào thị trường
thế giới có khá hơn (60-70%)


1.2Các đặc điểm chủ yếu:
1.2.1Năng lực
Ngành công nghiệp dệt-may Việt-Nam hiện nay vừa phải đảm
nhận một nhu cầu ăn mặc thiết yếu của nhân dân vừa phải nâng cao

trình độ công nghệ để xuất khẩu được sản phẩm dệt-may ra thế giới
thì mới tồn tại để có kim ngạch tự cân đối phần nhập. Sau khi thị
trường comecon tan rã thì ngành dệt-may Việt Nam chưa hồ nhập
được với Hiệp hội dệt thế giới và các nước trong vùng trong phân
công lao động và mậu dịch quốc tế. Sự tồn tại tại độc lập với thị
trường dệt thế giới , lại lấy nhiệm vụ xuất khẩu làm chính là khó
khăn phải sớm được khắc phục.
Ngành dệt-may tồn tại và phát triển qua 4 thập kỷ qua bao
gồm cả 3 khu vực.
-Khu vực dệt-may QDTW thuộc Bộ công nghiệp chủ quản.
-Khu vực dệt-may QDĐP thuộc UBND các tỉnh chủ quản.
-Khu vực dệt-may thuộc HTX và tư nhân
Ngành dệt-may phân tán trên 28 tỉnh và thành phố, hầu như
chưa có một khu công nghiệp dệt-may tập trung.Năng lực cụ thể
các sản phẩm ngành dệt may hiện có:
+Về kéo sợi : Thiết bị có 868.000 cọc và 2000 rotors với sản
lượng thiết kế 87.000 tấn/năm. Trong đó 83% sợi 100% co và 17%
sợi pha
+Về dệt thoi có 43.200 máy các loại trong đó có 60% máy dệt
của tư nhân và HTX là cơng cụ bằng gỗ thơ sơ, có khả năng dệt 450
triệu mét/năm.Trong đó 73% vải bơng 15% vải pha và 12% vải tổng
hợp.
+Về dệt kim có năng lực khoảng : 15.000 tấn/năm. Trong đó:
*Dệt kim mặc nót và ngồi : 13.500 tấn/năm
*Dệt kim dọc và màn : 1500 tấn/năm


+Về nhuộm hoàn tất : Năng lực nhuộm hoàn tất được 450
triệu mét vải dệt thoi và 15.000 tấn sản phẩm dệt kim với 10.000
tấn sản phẩm khăn bông nguyên liệu 100% Co, P/C và tổng hợp.

+Khăn bông : 10.000 tấn
+Mền

: 1 triệu chiếc

+Len Min Acrylic : 1500 tấn và 1,6 triệu áo.
+Len thảm và dệt thảm : 1500 tấn và 0,5 triệu m 2 thảm len
+Chỉ khâu : 500 tấn.
+Đay : 3 vạn tấn và 25 triệu bao và 5 triệu m 2 thảm đay.
+May mặc sẵn khoảng 300 triệu sản phẩm, trong đó : may
cơng nghiệp 150 triệu của 125 cơ sở với 39.744 máy may các loại
và hơn 9 vạn lao động, ngồi ra cịn 40.000 hộ cá thể và tổ hợp.
+Ngồi ra cịn có các đơn vị hợp tác liên doanh với nước
ngồi với cơng suất:
+Kéo sợi : 5 vạn cọc
+Dệt : 500 máy
+May mặc : 20 triệu sản phẩm.
Từ giai đoạn bước vào cơ chế thị trường tốc độ tăng kim
ngạch xuất khẩu hàng dệt-may đã tăng từ 582 triệu đôla năm 2001
lên 1261 triệu đôla năm 2002
1.2.2Thiết bị và công nghệ
2

-Đối với ngành dệt trên 50% thiết bị đã sử dụng trên 25 năm,
hư hỏng nhiều, mất tự động, năng suất thấp, chất lượng sản phẩm
kém, giá thành sản suất còn cao. Tuyệt đại bộ phận ngành kéo sợi
chỉ đạt mức tương đương 95% đến 75% uster, ngay sợi Hà Nội và
Nha Trang hiện đại nhất của ta cũng chỉ đạt xấp xỉ 50%
Công xuất sợi chải kỹ q ít (xấp xỉ 16%) .Cơng nghệ kéo sợi
OE quá nhỏ bé (2000 roto đạt xấp xỉ 2,3% sản lượng kéo sợi). Máy



dệt thoi trên 80% là khổ hẹp dưới 54”. Hiện tại máy dệt khơng thoi
mới có 30% (khu vực QDTW). Cịn cơng cụ dệt ở khu vực HTX, tư
nhân tuyệt đại đa số là máy gỗ cũ kỹ. Thiết bị dệt kim còn nhỏ bé,
chỉ chiếm tỉ trọng dưới 20% năng lực và lại trang bị từ lâu nên lạc
hậu, hư hỏng nhiều nhưng đến nay đã một phần được đổi mới. Thiết
bị in nhuộm hồn tất chỉ có 10% là khá, 35% phải nâng cấp số còn
lại 55% phải thay thế dần. Công nghệ rất lạc hậu, chỉ 25% đạt trình
độ tương đương với các nước trong khu vưc Đông Nam Á. Thiếu
công nghệ xử lý làm đẹp và hồn tất vải có chất lượng cao, hiện nay
hàng dệt vẫn chưa đủ sức cạnh tranh với hàng nhập vàI thị trường
trong nước, đặc biệt là giá cả, chất lượng mới đáp ứng được một
phần nhỏ cho xuất khẩu
-Đối với ngành may mặc tuy đã được trang bị lại nhiều để có
điều kiện xuất khẩu sản phẩm xang thị trường tư bản song cũng
chưa đồng đều, hiện trạng vẫn còn nhiều cơ sở vẫn phải sử dụng các
máy đã trang bị ở thập niên 60, công nghệ lạc hậu tiêu phí lao động
nhiều, giá thành sản sẩm cao. Khu vực tư nhân và các cơ sở mới xây
dựngthì đã có đổi mới hiện đại hoá.
1.2.3 Cơ cấu và sở hữu
Cơ cấu sở hữu ngành dệt với các doanh nghiệp QDTW, và
các doanh nghiệp QDĐP, HTX và hộ sản xuất tư nhân. Song năng
lực sản xuất và xuất khẩu dệt vẫn tập trung trong tay nhà nước.
Ngành may mặc thì cơ cấu sở hữu tư nhân có phát triển hơn. Mấy
năm gần đây một số công ty QDTW, QDĐP, công ty trách nhiệm
hữu hạn đã được trang bị hiện đại hơn, sảnphẩm có chất lượng cao,
quy mơ khá lớn từ 3-4 triệu sản phẩm/năm như Huy Hồng,
Leagamex, may XK Sài Gịn, X40 Hà Nội...một số công ty XNK ở
các bộ, các địa phương tạo cơ cấu mới cho ngành may XK



Tuy nhiên các cơng ty, xí nghiệp may TW vẫn là chủ lực may
hàng XK, có kỹ thuật và có tay nghề cao. Liên hiệp may vẫn là
nòng cốt của Hiệp hội may Việt Nam. Tóm lại hiện tại cơ cấu sở
hữu ngành dệt-may Việt Nam thì cơ cấu sở hữu tư nhân chưa có sức
mạnh đáng kể.
1.2.4 Phân bổ và quy mô sản xuất
Trong điều kiện lịch sử đã qua, nhằm tận dụng lao động ở
khắp miền đất nước và sử dụng lao động nữ ở các ngành công
nghiệp khác nên xu hướng từ miền xuôi đến miền núi, từ vùng mỏ
đến thành phố đều có thể đặt nhà máy dệt nên ngành dệt-may phân
bổ khá phân tán với quy mô lớn lại xây dựng kinh tế trong chiến
tranh nên đầu tư tốn kém và hiệu quả thấp.
Xét về kinh tế thì phân bổ tập trung vào cụm cơng nghiệp là
hợp lý, có điều kiện tận dụng hạ tầng, dịch vụ thuận lợi trong quản
lý và hoạt động thị trường, thơng tin, văn hố, xã hội và vệ sinh
mơi trường. Thực tế đã chứng minh các tư nhân nước ngoài chỉ
muốn vào liên doanh và xây dựng cơ sở sản xuất 100% ở các thành
phố lớn có điều kiện hạ tầng tốt.
1.2.5 Cơ cấu sản phẩm
Tuy hiện nay sản phẩm dệt-may đã đa dạng và phong phú,
nhưng hướng vào thị trường mới của tư bản ta còn nhiều khoảng
trống rất lớn. Sợi bơng cao cấp có chải kỹ cho mặt hàng sơ mi và
cho sản phẩm dệt kim mặt ngồi có sử lý hồn tất cao cấp chưa
nhiều sợi OE nhằm giảm giá nguyên liệu đầu vào phục vụ hàng dệt
kim mặc lót, mặt hàng khăn bơng xuất khẩu có thị trường rất lớn thì
tỷ trọng cịn q bé



Các mặt hàng quần áo dệt kim thể thao hoặc vải Jean thun từ
inguyên liệu sợi dãn tính cao (sợi lycra, spandex) cịn rất ít, các
mặt hàng jacket mật độ cao sử dụng sợi kéo từ microfiber chưa có.
Các nguyên liệu tổng hợp biến tính, acrylic pha len để sản xuất mặt
hàng complet chưa có.
Đặc biệt về kiểu mốt may mặc của ta còn rất yếu do chưa
được coi trọng về đầu tư cơ sở mode thông tin và tiếp cận thị
trường.
Tình trạng chủ yếu là ngành dệt chưa đáp ứng được vải cho
ngành may cả về số lượng và chủng loại chất lượng, thí dụ : 50%
mặt hàng cho EC chưa đáp ứng được cho cả dệt và may.
1.2.6Cung cấp nguyên liệu
Nguyên vật liệu cho dệt-may hiện nay của ta gồm các loại xơ
bông thiên nhiên, xơ Visco, xơ PE , lông cừu, tơ tằm và các loại xơ
liber khác; các loại hoá chất cơ bản và thuốc nhuộm.
Hỗu hết nguyên vật liệu này hiện nay đều lệ thuộc vào nhập
khẩu, kể cả cho may XK và tiêu dùng nội địa vẫn phải nhập ngoài
hàng 40 triệu mét để làm hàng gia công chưa kể hàng dệt thẩm lậu
vào qua nhiều nguồn.
Mặc dù đã có thời gian để khẳng định VN có điều kiện thuận
lợi hơn các nước Đơng Nam Á về trồng bơng. Hiện tại đã có thể
khai thác được khoảng 30.000 héc ta diện tích trồng bơng và cung
cấp cho ngành dệt mới dược 3000 tấn bằng 2,5% cơng suất kéo sợi
hiện có nhưng khâu sơ chế ,quản lý đống gói cịn nhiều tồn tại cần
phải được khắc phục ngay trong vụ bơng tới.
Năm 2001 diện tích trồng dâu đạt 35.000 ha cho 850 tấn tơ
nõn song chủ yếu là xuất khẩu nguyên liệu. Sản phẩm dệt từ tơ tằm
ở trong nước không đáng kể, chất lượng thấp. Sản phẩm từ phế liệu
tơ tằm để kéo sợi spunsilk có giá trị kinh tế cao cịn bỏ trống.



-Nguồn tơ sợi tổng hợp sử dụng hiện tại vẫn còn phải nhập
hàng năm khoảng 25.000 tấn xơ PE và khoảng 6000 tấn tơ petex
với ngoại tệ nhập khoảng 40 triệu đơla. Nhiều hãng nước ngồi đã
có tiếp xúc với ngành dệt để xin đầu tư sản xuất xơ tổng hợp.
-Nguồn đay đã có trên 20.000 tấn đay tơ nhưng chưa có chính
sách bảo hộ của nhà nước, bao đay tràn từ bên ngoài vào Việt Nam
và bao pp tự phát triển tràn lan đang làm ảnh hưởng lớn đến cơ sở
kéo sợi, dệt bao đay và nông dân trồng đay.
1.2.7Đầu tư và phát triển
Gần 20 năm qua 1987 đến 2003 nhà nước đã dành cho ngành
dệt các nguồn tín dụng của Pháp, Nhật Bản, CHLBĐức,CHDCĐức
(cũ) và Hungri đầu tư bổ sung 42 vạn cọc sợi và nguồn tín dụng ấn
Độ cho Nam Định và 8-3 bổ sung đổi mới dây sợi và nhuộm.
Ngồi ra bằng nguồn vốn tự có (khấu hao cơ bản để lại-thậm
chí cả vốn lưu động) vay ngân hàng, vay trả chậm nước ngoài...để
cố gắng cải thiện công nghệ sản xuất song ngành dệt cũng như may
chưa đủ sức cạnh tranh. Các thiết bị cũ còn tồn tại, kể cả thiết bị
may CHDC Đức, Tiệp, Liên Xơ (cũ)...vẫn cịn hoạt động sản xuất ở
một số cơ sở. Về hợp tác đầu tư với nước ngồi cịn q ít : Có
Dona-Bochang với Đài Loan , có Trung Nam với Hàn Quốc-có
pankrim Hàn Quốc và Sài Gịn joubo dệt jean của địa phương, total,
Donatex...
Nhìn chung quá trình đầu tư đã qua nếu khơng có thì ngành
dệt-may khơng thể tồn tại trong cơ chế thị trường. Song quy mô
từng cơ sở còn lớn chưa phù hợp với đặc thù ngành cơng nghiệp
SMI.
Các nguồn vốn nói trên tuy cịn rất ít ỏi so với nhu cầu nhưng
cũng đã tạo cho ngành dệt ít nhiều bộ mặt mới, trụ được bước đầu
trong cơ chế thị trường . Nếu được đầu tư tốt hơn chắc chắn ngành



dệt có thể có những bước phát triển mới làm cơ sở để hoà nhập vào
ngành dệt khu vực và thế giới.
2.Sự cần thiết phải nâng cao trình độ chuyên môn
Phát triển nguồn nhân lực theo nghĩa rộng là tổng thể các
hoạt động học tập có tổ chức được tiến hành trong những khoảng
thời gian nhất định để tạo ra sự thay đổi về hành vi nghề nghiệp
cho người lao động được tổ chức bởi doanh nghiệp.
Phát triển nguồn nhân lực như vậy là bao gồm tất cả các hoạt
động học tập, thậm chí chỉ vài ngày, vài giờ. Người chịu trách
nhiệm về phát triển nguồn nhân lực bao gồm:
-Cấp quản trị trực tuyến là: Huấn luyện viên
-Trưởng bộ phận nhân sự là: Nhà tư vấn
-Lãnh đạo doanh nghiệp là: Người ủng hộ
-Cấp quản trị gián tiếp là: Người đỡ đầu
-Nhân viên với tư cách là những nhà đồng hành kinh
doanh=tự phát triển.
Xét về nội dung phát triển nguồn nhân lực có ba loại hoạt
động:
Giáo dục: là các hoạt động học tập để chuẩn bị cho con người
bước vào một nghề mới hoặc chuyển xang một nghề phù hợp hơn
trong tương lai.
Giáo dục được thực hiện chủ yếu ở trong nhà trường, kể cả
trường đại học.
Đào tạo: là các hoạt động học tập nhằm giúp người lao động
đi đào tạo tại các trường lớp chính quy nhằm mục đích giúp cho
người lao động có thể thực hiện cơng việc hiện tại của họ tốt hơn
thì đây là hoạt động đào tạo.
Phát triển: là hoạt động học tập vượt ra khỏi phạm vi trước

mắt người lao động nhằm mở ra cho họ những công việc mới dựa


trên cơ sở định hướng tương lai của tổ chức hoặc phát triển khả
năng của họ.
Tóm lại, cả ba hoạt động học tập trên đều là hoạt động học
tập. Tuy nhiên, tuỳ theo mục đích mà chúng có tên gọi khác nhau.
Trong doanh nghiệp chủ yếu chỉ có đào tạo và phát triển còn
giáo dục chủ yếu ở nhà trường.
Mục đích của đào tạo và phát triển nguồn nhân lực nhằm
nâng cao trinh độ chun mơn:
Mục đích chung của đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là
nhằm sử dụng tối đa nguồn nhân lực hiện có và nâng cao tính hiệu
quả của tổ chức thơng qua việc giúp cho người lao động hiểu rõ
hơn về công việc, nắm vững hơn về nghề nghiệp và thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của mình một cách tự giác hơn với tháI độ tốt hơn
cũng như nâng cao khả năng thích ứng của họ với công việc trong
tương lai.
Những mục tiêu cơ bản của đào tạo nguồn nhân lực trong một
doanh nghiệp là:
-Xây dựng và thực hiện một kế hoạch phát triển nguồn nhân
lực và toàn doanh nghiệp bằng những hoạt động đào tạo có tổ chức
có những nhóm khác nhau, thực hiện phân tích, đánh giá nhu cầu
đào tạo của người lao động ở mọi trình độ.
-Chuẩn bị chuyên gia để quản lý, điều khiển và đánh giá
những chương trình đào tạo.
-Xây dựng một phương án nghề nghiệp và một kế hoạch phát
triển từng thời kỳ nhất định phù hợp với tiềm năng của công ty, xắp
xếp theo thứ tự của nghề chủ yếu.
-Nghiêu cứu về nhân lực, chuẩn bị những số liệu về cơ cấu

lao động và các lĩnh vực có liên quan.


-Tạo thuận tiện cho thông tin nội bộ giữa các bộ phận quản lý
và người lao động, thông tin ngược chiều liên quan đến bộ phận,
đến động cơ của người lao động.
Vai trò của đào tạo nguồn nhân lực:
Đào tạo nguồn nhân lực nhằm:
-Về mặt xã hội đào tạo nguồn nhân lực là vấn đề sống còn
của một đất nước, nó quyết định sự phát triển của xã hội, là một
trong những giải pháp để chống lại thất nghiệp.
-Về phía doanh nghiệp đào tạo nguồn nhân lực là để đáp ứng
được yêu cầu công việc của tổ chức, nghĩa là đáp ứng được nhu cầu
tồn tại và phát triển của doang nghiệp. Đó là một hoạt động sinh lợi
đáng kể.
-Về phía người lao động nó đáp ứng nhu cầu học tập của
người lao động, là một trong những yếu tố tao nên động cơ lao
động tốt.
Thực tế cho thấy:
-Đào tạo phát triển là điều kiện quyết định để một tổ chức có
thể đi lên trong cạnh tranh.
-Nếu làm tốt cơng tác đào tạo và phát triển sẽ đem lại nhiều
tác dụng cho tổ chức:
+Trình độ tay nghề người thợ nâng lên, từ đó mà nâng năng
suất lao động và hiệu quả công việc.
+Nâng cao chất lượng thực hiện công việc.
+Giảm bớt tai nạn lao động do người lao động có tay nghề tốt
hơn và có thái độ tốt hơn.
+Giảm bớt sự giám sát vì người lao động được đào tạo là
người có khả năng tự giám sát cơng việc nhiều hơn do hiểu rõ quy

trình, hiểu rõ cơng việc.
+Nâng cao tính ổn định và năng động của tổ chức.


×