Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Tiểu luận cao học, văn hóa từ CHỨC ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.88 KB, 24 trang )

I. MỞ ĐẦU
Ngày nay, vấn đề văn hoá từ chức ở thế giới nói chung và Việt Nam nói
riêng đang được nhiều nhà nghiên cứu đề cập đến. Mỗi một người đều có những
quan niệm riêng về vấn đề từ chức. Tuy nhiên “từ chức” ở đây được hiểu một cách
chung nhât là xin thôi không làm chức vụ hiện tại đang giữ.
Từ chức chỉ được xem là một hành vi có văn hoá khi người ta tự nguyện và
mang lại ý nghĩa tốt đẹp cho xã hội. Từ chức một cách tự nguyện, tự giác là thái độ
trung thực với chính mình, biết xấu hổ khi làm điều trái với đạo lý hay đi ngược lại
nguyện vọng của cơ quan, tổ chức và cộng đồng, là biểu hiện của sự cao thượng,
dũng cảm, tự trọng.
Hiện nay ở Việt Nam, vấn đề từ chức đang đặt ra và được xem xét dưới
nhiều khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên chúng ta mới chỉ đang hướng tới thói quen
ứng xử đó chứ chưa thật sự coi đó là một văn hoá. Bản thân mỗi chúng ta cũng phải
nhận thức cho đúng, việc từ chức không phải vết hằn, gắn lên người ta như một án
tích. Nó chỉ là sự đánh giá trách nhiệm của người đó, trong một thời gian cụ thể.
Thiết nghĩ, ngoài những quy định của Nhà nước về vấn đề miễn nhiệm hay
bãi miễn chức vụ nào đó thì điều quan trọng nhất là bản thân mỗi con người nhận
ra được những sai lầm hay thiếu sót của mình, dám dũng cảm đứng ra nhận khuyết
điểm và dám từ bỏ cương vị mình đang giữ khi nhận thấy mình không thể đảm
đương được cương vị đó, thì khi đó “từ chức” mới thật sự trở thành một văn hoá.

1


II. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: TỪ CHỨC VÀ VĂN HOÁ TỪ CHỨC

1. Về việc “từ chức” trong lịch sử dân tộc Việt Nam
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, từ chức không phải là một vấn đề mới. Từ
thời kỳ phong kiến, việc các quan treo không giữ chức vụ ở trong triều đình nữa là
một minh chứng cụ thể cho vấn đề này. Nước Việt ta có khá nhiều người tài giỏi


nhưng đã treo ấn từ quan như Chu Văn An, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Bỉnh
Khiêm… các ông treo ấn từ quan không phải vì không làm tròn chức trách, hay gây
hại cho đất nước, cho nhân dân mà là do không đồng ý với quan điểm của nhà vua.
Việc treo ấn từ quan cũng xuất phát từ tinh thần khảng khái, không đồng ý với
những việc làm mà các ông coi là sai trái, không hợp với lòng dân.
Việc từ chức trong lịch sử dân tộc phải kể đến cố tổng bí thư Trường Chinh.
Khi nhận thấy sai lầm trong việc cải cách ruộng đất, ông đã xin lỗi quốc hội và đã
xin từ chức. Tuy nhiên, ông vẫn tiếp tục cống hiến cho nhân dân và cho đất nước.
Sự phấn đấu của ông đã được Đảng và Nhà nước ghi nhận và đánh giá cao. Sau đó
ông tiếp tục đảm nhận chức vụ Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam.
Như vậy, trong lịch sử dân tộc Việt Nam, việc từ chức đã xuất hiện từ rất
sớm. Tuy nhiên, có những nhà nghiên cứu cho rằng, ở Việt Nam từ xưa đã có văn
hoá từ chức thì chưa hẳn đúng. Vì việc từ chức hẳn đã rõ ràng, tuy nhiên việc đó
được coi là một văn hoá từ chức thì cần phải xét ở phương diện khác. Nhưng dù đó
đã đựoc coi là văn hoá từ chức hay chưa thì việc xin treo ấn từ quan của Chu Văn
An, Nguyễn Bỉnh Khiêm…hay việc xin từ chức vì những sai lầm đáng tiếc của cố
Tổng Bí thư Trường Chinh cũng là những việc làm tốt, là ứng xử đẹp mà chúng ta
cần phải trân trọng và học hỏi trong thời đại hiện nay.

2


2. Văn hoá từ chức ở Việt Nam trong thời đại ngày nay
Về văn hoá từ chức, vừa qua, chính phủ chỉ đạo Bộ Nội vụ nghiên cứu xây
dựng Đề án tiếp tục cải cách chế độ công vụ, công chức, trong đó có việc nghiên
cứu xây dựng các quy định về từ chức của cán bộ, công chức và coi từ chức - thuộc
khí cạnh văn hoá của chế độ công vụ - là một nội dung nằm trong chương trình
tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020.
Văn hoá từ chức là một dạng văn hoá cá nhân của những người có chức, có
quyền. Họ là những cá nhân được cơ quan, hay các tổ chức xã hội tôn trọng khi họ

là những người có nhân cách, có đạo đức và là tấm gương sáng cho mọi cá nhân
khác có thể noi theo. Nếu không gương mẫu, không có nhân cách, đạo đức tốt thì
không thể thuyết phục được mọi người. Vì vậy để có văn hoá từ chức cần đẩy mạnh
tuyên truyền trong xã hội về văn hoá từ chức, cần khuyến khích sự tự nguyện từ
chức và đánh giá cao những người có đủ dũng khí, lòng tự trọng tự nguyện từ chức.
Đồng thời, bản thân mỗi một cá nhân lãnh đạo cần phải tự nhận thức rằng chức vụ
không chỉ đi liền với quyền lợi, mà trên hết là chức vụ đi kèm với trách nhiệm, với
sự cống hiến và hi sinh.
Có thể nói đến việc từ chức của ông Trần Đăng Tuấn, nguyên phó tổng
giám đốc Đài truyền hình Việt Nam. Ông là một trong những người có công sáng
lập VTV3 và Trung tâm sản xuất phim truyền hình. Ông đã làm đơn xin từ chức khi
đang giữ chức phó tổng giám đốc Đài truyền hình Việt Nam. Việc ông làm đơn xin
từ chức khi còn đang đương nhiệm một chức vụ lớn đã gây xôn xao trong dư luận.
Việc một nhà báo có uy tín, có tiếng tăm như ông làm đơn xin từ chức khiến cho
nhiều người bàn ra tán vào với đủ những lý do. Tuy nhiên sự thực như thế nào thì
chỉ có ông là người rõ nhất.
Từ trước đến nay ở nước ta, cũng đã có một số người ở những cương vị khác
nhau từ chức, khi thấy bản thân không còn tín nhiệm, không còn xứng đáng giữ

3


cương vị đó nữa.Ngay cả ở vị trí cao, cũng đã có trường hợp xin từ chức. Còn việc
được chấp nhận hay không thì đó là chuyện khác.
Tuy nhiên, từ chức chưa trở thành thói quen, như ở các nước gọi là văn hoá từ
chức. Một vị bộ trưởng giao thông ở Ấn Độ từ chức trước sự cố sập cầu, hay ở
Nhật Bản các vị đứng đầu Chính phủ là thủ tướng cũng thường từ chức khi có sự
việc xảy ra mà thấy mình không gánh vác, đảm đương được nữa. Đấy là cách người
ta lựa chọn khi thấy không còn năng lực, tín nhiệm, hoặc có thể bị cơ quan có thẩm
quyền phế truất. Việc đó đã trở thành một thói quen ứng xử bình thường.

Chúng ta mới chỉ đang hướng tới thói quen ứng xử ấy. Phải có quy định và lần
này Quốc hội đang thảo luận vấn đề này tại Dự thảo nghị quyết lấy phiếu, bỏ phiếu
tín nhiệm. Theo quy định, người tín nhiệm thấp có thể bị bãi miễn. Nhưng đấy là ở
phương diện nhà nước. Còn với người chịu sự điều chỉnh của quy định, cũng nên
chủ động soi xét mình.
Thiết nghĩ, người nào mà tự nhận thấy tín nhiệm của mình không còn, xin từ
chức thì đó là việc làm dũng cảm, mang tính đột phá. Đó là một ứng xử rất văn hoá,
phải được trân trọng. Những người xin từ chức dù được chấp nhận hay không cũng
nên và phải được xã hội tôn trọng, ghi nhận.
Nhưng để trở thành thói quen ứng xử văn hoá, phải có quá trình lâu dài. Bởi
lẽ, thường con người ta khen ai cũng thích, nhưng chê không mấy ai thích, thậm chí
còn khó chịu. Từ chức là tự phê bình, tự kiểm điểm mình, cho nên không đơn giản.
Đảng ta khuyến khích, đề cao việc phê và tự phê, nhưng thực tế tự phê còn hạn chế.
Như Tổng Bí thư Trường Chinh, khi có sai lầm trong cải cách ruộng đất,
chính ông đã xin từ chức. Nhưng ông tiếp tục cống hiến cho dân cho nước, ông
phấn đấu tốt được Đảng, Nhà nước đánh giá cao và ông đã trở lại vị trí Tổng Bí thư
của Đảng.

4


Chúng ta phải nhận thức cho đúng, việc từ chức không phải vết hằn, gắn lên
người ta như một án tích. Nó chỉ là sự đánh giá trách nhiệm của người đó, trong
một thời gian cụ thể.
Ở các nước, khoá này không làm bộ trưởng nhưng khoá sau vẫn có thể làm,
rất bình thường. Phải nhìn nhận công bằng từ hai phía. Có văn hoá từ chức thì cũng
phải có văn hoá ứng xử đúng với người từ chức. Nếu họ phấn đấu tốt, khắc phục
được những thiếu sót, khuyết điểm thì có thể bố trí vị trí phù hợp, thậm chí cao hơn
cho họ.Việc không xét nét tại sao một người bị kỷ luật, cách chức hay từ chức mà
lại sử dụng vào vị trí cao hơn cũng chính là ứng xử văn hoá và xã hội phải cấp

nhận, mới là công bằng.
Có thể nói thời trước đây, có lẽ chức gắn với trách nhiệm với giá trị nhân bản
nhiều hơn. Tức là gắn với danh dự, uy tín, chứ lợi ích vật chất thì gần như không có
hoặc rất ít. Còn bây giờ, từ thời bao cấp sang kinh tế thị trường, vị trí thường gắn
với những giá trị khác. Chức thường đi liền với quyền và tiền. Lợi ích vật chất gắn
chặt với chức. Nếu thôi chức, người ta sẽ bị mất đi những cái cũng rất lớn lao, cho
nên họ phải cân nhắc. Có lẽ chỉ trường hợp bần cùng, bất đắc dĩ, bị buộc không cho
làm nữa thì họ mới chịu thôi. Không ai dại gì mà tự nguyện rời bỏ vị trí đang có
của mình.
Bây giờ chúng ta phải điều chỉnh chuyện này. Cho từ chức nhưng có thể sử
dụng người ta vào vị trí khác phù hợp, có phần bảo đảm lợi ích cho họ. Đang từ chỗ
lợi ích mười mà từ chức chỉ còn hai bàn tay trắng thì cũng rất khó cho người ta, cho
nên phải chú ý cả lợi ích cho họ. Từ chức cũng là dịp bố trí, sắp xếp lại cán bộ cho
phù hợp hơn.

5


3. Cản trở đối với văn hoá từ chức
Từng có ý kiến giải thích việc ở ta khó xây dựng văn hoá từ chức vì, khác
với ở các nước, chính khách làm chính trị như một sự thôi thúc chứ không phải để
kiếm sống, do đó chuyện từ chức với họ dễ dàng hơn rất nhiều, còn ở Việt Nam,
không khéo người ta trở thành quan chức vì mục đích kinh tế, do đó dễ dẫn tới tệ
tham nhũng. Một nguyên nhân nữa là dư luận xã hội: thấy mình chưa tròn trách
nhiệm, lương tâm cắn rứt nên từ chức, nhưng đi đâu bà con, anh em cũng dị nghị là
“ông đó thế nọ thế kia nên phải từ chức”. Dư luận xã hội nhiều khi không đánh giá
người từ chức là có liêm sỉ mà coi là có vấn đề.
Quan trọng hơn, lâu nay chúng ta vẫn quan niệm rằng chức vụ của một ai
đó là do nhân dân uỷ thác và do Đảng chịu trách nhiệm trước nhân dân bố trí hoặc
giới thiệu ra ứng cử… Với quan niệm như vậy, cán bộ, công chức, quan chức các

cấp xem việc bố trí, bổ nhiệm, lên xuống, ra vào là chuyện của tổ chức, còn bản
thân chỉ biết tuân thủ.
Quyền lực công phải được sử dụng một cách hiệu quả và tương thích với xu
hướng xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam: quyền lực và trách nhiệm phải
minh bạch, rõ ràng. Những vị trí lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan nhà nước
không phải là một đặc quyền, đó là một vị trí đầy thách thức dành cho những cá
nhân có hoài bão phục vụ lợi ích công cộng, có khát vọng và có nhân cách mạnh
mẽ: dám hành động, dám chịu trách nhiệm và luôn ý thức rõ ràng rằng, họ có đối
tượng phục vụ là nhân dân. Lợi ích của công chức gắn với chất lượng dịch vụ công
mà họ cung ứng cho xã hội. Đó là điểm cốt lõi của một xã hội dân chủ.
Hiện nay, người đứng đầu cơ quan công quyền vẫn chưa được toàn quyền
quyết định tuyển dụng, sử dụng cán bộ, công chức dưới quyền trong cơ quan.
Ngoài ra, trong bộ máy hành chính hiện nay vẫn có tình trạng một số cán bộ, công
chức do cơ quan này sử dụng như giao trách nhiệm, quyền hạn, nội dung công tác
chuyên môn… nhưng do một cơ quan khác quản lý như đánh giá, đề nghị đề bạt,

6


cách chức, xử lý. Tại diễn văn từ nhiệm đọc trước kỳ họp thứ 9 Quốc hội khoá XI,
nguyên Thủ tướng Phan Văn Khải nói lên điều trăn trở của mình sau nhiều năm giữ
cương vị người đứng đầu bộ máy hành chính là “công tác cán bộ nhiều khi vượt
khỏi tầm tay”. Ông cho rằng, cần phải gắn quyền hạn của người sử dụng công chức
với việc quản lý cán bộ công chức. Quả thật, khi có liên quan đến việc xử lý cán bộ
cao cấp, nhiều bộ trưởng khi giải trình trước Quốc hội đều viện dẫn văn bản của
Đảng, ý kiến kết luận của uỷ ban Kiểm tra Trung ương. Thậm chí có trường hợp bị
chất vấn về những bê bối có liên quan đến cá nhân thì viện lý do “đã trả lời với uỷ
ban Kiểm tra Trung ương nên không trả lời trước Quốc hội”!
Chúng ta cần nhận thức rõ rằng không phải cách chức nhiều thì không còn
ai làm việc! Mỗi giai đoạn lịch sử sẽ sản sinh ra một thế hệ đủ sức gánh vác trọng

trách lịch sử giao phó. Vấn đề là phải có một hệ thống tiến cử, tuyển chọn hiền tài
công tâm, dân chủ và khoa học.

7


CHƯƠNG 2:
VAI TRÒ, PHẨM CHẤT CẦN CÓ CỦA NGƯỜI LÃNH ĐẠO QUẢN
LÝ VÀ VẤN ĐỀ TỪ CHỨC TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Bàn về "văn hóa từ chức", từ thực tiễn và nhận thức của mình, tôi thiết nghĩ
cần đề cập đến những vấn đề như: ( 1). Bác Hồ nói về phẩm chất cán bộ lãnh

đạo, quản lý; (2). Vai trò của người lãnh đạo, nhất là người đứng đầu tổ chức;
(3). Những yêu cầu đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý trong thời kỳ mới; (4).
Văn hóa từ chức - động cơ, ý thức cần có của người lãnh đạo, quản lý.
1. Bác Hồ nói về phẩm chất cán bộ lãnh đạo, quản lý
Nghiên cứu, thấm nhuần các bài viết của Bác Hồ về cán bộ, chúng ta
thấy Người đặc biệt quan tâm đến Đức và Tài của người cán bộ, trong đó Đức
là gốc. Người nhấn mạnh nhiều điều:
"Cán bộ là gốc của mọi công việc", "Muôn việc thành công hay thất bại
đều do cán bộ tốt hay kém".
"Một người cán bộ tốt phải có đạo đức cách mạng... Muốn có đạo đức cách
mạng phải có 5 diều sau đây: Trí- Tín- Nhân- Dũng- Liêm".
"Phải giữ vững đạo đức cách mạng mới là cán bộ cách mạng chân chính.
ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG có thể nói tóm tắt là: Nhận rõ phải trái. Giữ vững lập
trường. Tận trung với nước. Tận hiếu với dân".
"Cán bộ phải gương mẫu, chí công vô tư, cần, kiệm, liêm, chính, hết lòng
vì dân, thực hành dân chủ, làm trọn công việc, tham gia lao động, luôn luôn rèn
luyện lập trường, tư tưởng và đạo đức cách mạng, đi sâu vào nghiệp vụ, kỹ thuật".
"Cán bộ, đảng viên phải đặt lợi ích của cách mạng, của Đảng, của nhân dân

lên trên hết, trước hết. Phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo
đức cách mạng, bồi dưỡng tư tưởng tập thể, tinh thần đoàn kết, tính tổ chức và tính

8


kỷ luật. Phải đi sâu, đi sát thực tế, gần gũi quần chúng, thật sự tôn trọng và phát
huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân. Phải cố gắng học tập, rèn luyện, nâng cao
trình độ hiểu biết để làm tốt mọi nhiệm vụ".
"Cán bộ của Đảng phải hiểu biết lý luận cách mạng, và lý luận cùng thực
hành phải luôn luôn đi đôi với nhau".

2. Vai trò của người lãnh đạo, nhất là người đứng đầu tổ chức
Qua thực tiễn cho thấy: sự sa sút, lụn bại của một quốc gia thường bắt đầu
từ sự sa sút, tha hóa về đạo đức của người lãnh đạo, người đứng đầu. Lịch sử đã
tổng kết "quốc bại do quan tà", "nhà dột từ nóc" là vậy.
Vai trò của người lãnh đạo, nhất là người đứng đầu cơ quan, đơn vị rất quan
trọng, có ảnh hưởng lớn nhất đến sự tồn tại, vận hành và phát triển của tổ chức;
điều đó thể hiện:
-Người đứng đầu là người giữ vị trí lãnh đạo, quản lý cao nhất trong một
tổ chức.
- Người đứng đầu phải có khả năng tập hợp, thúc đẩy, động viên các thành
viên cố gắng, nỗ lực đóng góp sức lực, trí tuệ, khả năng để hoàn thành mục tiêu
chung của tổ chức. Đồng thời cũng phải có khả năng làm việc với mọi người; là
người bạn chân thành, trung thực, là chỗ dựa vững chắc, nơi gửi gắm niềm tin của
các thành viên trong tổ chức. Một người đứng đầu giỏi không chỉ biết làm việc cho
bản thân, hơn thế, phải bảo đảm cho mọi thành viên đều có cơ hội đi tới thành
công.
Người đứng đầu tổ chức còn là người tạo ảnh hưởng, tạo động lực, sự lan
tỏa, truyền cảm hứng cho các thành viên, khiến họ thấy hứng khởi và nhiệt tâm với

công việc.
- Trong mọi hoạt động, người đứng đầu phải gương mẫu và là hình mẫu để
các thành viên học tập, noi theo. Vai trò quan trọng của người đứng đầu là ở chỗ:
mình là tấm gương sáng thì luôn ảnh hưởng tốt đến nhân viên.

9


Người đứng đầu, rất cần thiết, phải đóng vai trò là một nhà chuyên môn
giỏi; là chiếc gạch nối, nối tổ chức mình với các tổ chức khác và với xã hội.
Đó là những chuẩn mực luôn tác động đến người lãnh đạo, quản lý làm cho
họ phải suy nghĩ rồi có ý thức giữ gìn, để sống sao cho được khen, được trọng,
tránh bị khinh, bị chê. Đạo đức của cán bộ cũng vì thế sẽ chuyển từ tự phát thành ý
thức tự giác và mang tính bền vững.
Đối với những cán bộ mắc sai lầm, khuyết điểm, Bác Hồ đã khẳng định:
sửa chữa khuyết điểm, một phần là trách nhiệm của cán bộ, một phần là trách
nhiệm của người lãnh đạo.

3. Những yêu cầu đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý trong thời kỳ
mới
Đề cập đến vai trò của người lãnh đạo, thì yếu tố "Văn hóa lãnh đạo" của
họ là rất quan trọng. Muốn phát triển bền vững thì phải thông qua văn hóa. Đây là
triết lý phát triển bền vững trong tư duy văn hóa của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Kết luận bài diễn văn khai mạc Hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ nhất tại
Hà Nội, ngày 24-11-1946, Bác Hồ khẳng định: "Văn hóa phải soi đường cho quốc
dân đi", "Tôi mong chúng ta đem văn hóa lãnh đạo quốc dân, để thực hiện độc lập,
tự cường và tự chủ". Hồ Chí Minh nêu rõ khái niệm văn hóa chỉ đường, văn hóa
lãnh đạo. Hiển nhiên, đối với người lãnh đạo, thì điều cần thiết phải có, đó là "văn
hóa lãnh đạo".
Người lãnh đạo mà không có "văn hóa lãnh đạo" thì sẽ làm giảm lòng tin

của nhân dân đối với Đảng, thách thức vai trò lãnh đạo của Đảng, liên quan đến sự
mất còn của Đảng, của chế độ. Bác Hồ kính yêu đã từng cảnh báo: "Không sợ thiếu
chỉ sợ không công bằng. Không sợ nghèo chỉ sợ lòng dân không yên"; điều cần hết
sức quan tâm đó là sợ không công bằng, sợ lòng dân không yên phụ thuộc nhiều
vào "văn hóa lãnh đạo" của người lãnh đạo.

10


Người lãnh đạo, quản lý phải xây dựng cho mình có phong cách lãnh đạo
tốt; vì đây là mẫu hành vi mà người lãnh đạo, quản lý thể hiện khi cố gắng gây ảnh
hưởng tới hoạt động của những người khác theo nhận thức của người đó. Phải loại
bỏ kiểu lãnh đạo quan liêu (là nguyên nhân của các thứ bệnh như: độc đoán, gia
trưởng, thiếu dân chủ, thiếu sâu sát dân, tư tưởng cục bộ, ...) dẫn đến hiệu quả công
việc kém, cấp dưới chán nản, tác phong trì trệ, thiếu năng động, thiếu đổi mới, ...
Chúng ta phải thừa nhận rằng đã có một thời ở nước ta, hễ nói đến cán bộ
lãnh đạo, quản lý là người ta hình dung một người lý lịch trong sạch, lập trường
quan điểm vững vàng, tính tình chất phác, thật thà, nhưng kiến thức lỗ mỗ, lại giáo
điều cứng nhắc, hiểu biết chung chung, ... Có cảm tưởng, họ chưa được đào tạo đầy
đủ. `Ai cũng như phải làm một công việc quá sức mình; phải gồng mình, kiễng
chân...Tài sức không ngang bằng với chức vụ đảm đương, nghĩa là thấp hơn so với
chức vụ, với trách nhiệm được giao. Bác Hồ chỉ ra hai loại cán bộ: Cán bộ tốt và
cán bộ xoàng. Theo Bác, nơi nào cán bộ tốt thì "công việc rất phát triển", nơi nào
cán bộ xoàng thì "công việc cứ luộm thuộm"; ngoài ra, mỗi cán bộ, đảng viên phải
đi sát cơ sở, nằm ở cơ sở để hỏi dân, học dân và hiểu dân, qua đó mới có thể nắm
được dân tâm, dân tình, dân ý; "không thể lãnh đạo chung chung", "phải tránh cách
lãnh đạo đại khái, phiến diện chung chung", "cần phải lãnh đạo toàn diện và cụ
thể".
Trình độ cán bộ thấp hơn so với chức trách là một sự thật. Sự thật của một
thời đã qua không nên cho trở lại trong thời đại đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện

đại hóa, toàn cầu hóa và kinh tế tri thức.
Sự bất cập giữa trình độ của cán bộ lãnh đạo, quản lý và chức trách họ đảm
nhiệm; cụ thể là năng lực thấp hơn trách nhiệm, thấp hơn yêu cầu của chức vụ được
giao, thấp hơn yêu cầu cuộc sống là điều khó tránh, là một hiện thực...
Sự thiếu hụt hiểu biết là bạn đường của mỗi chúng ta. Điều đó hiển nhiên.
Càng rõ ràng hơn khi đặt mình vào vị trí người lãnh đạo, quản lý, chỉ đạo một bộ
phận của cuộc cách mạng. Là bởi, nói chung, mọi nhận thức của con người đều bắt

11


đầu bằng kinh nghiệm. Về mặt thời gian, không có nhận thức nào trong ta lại đi
trước kinh nghiệm. Suy cho cùng, tiên nghiệm có nguồn gốc từ kinh nghiệm thực
tiễn. Làm rồi mới biết. Chúng ta luôn là kẻ đi sau cuộc sống; cuộc sống luôn ở phía
trước.

Để đáp ứng nhiệm vụ trong mỗi giai đoạn của cách mạng, người cán
bộ cần đạt được những tiêu chuẩn nhất định. Đặc biệt, trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập Quốc tế; đòi hỏi người cán bộ
lãnh đạo, quản lý phải được đào tạo, bồi dưỡng, tự đào tạo, tự bồi dưỡng để
hội tụ các yếu tố: Tâm- Tầm- Tài nhằm đảm đương tốt nhiệm vụ lãnh đạo,
quản lý được giao.
Chân dung người lãnh đạo, quản lý ở nước ta trong thời kỳ mới
được khắc họa đậm nét về phẩm chất, năng lực như:
Phải nêu cao ý thức trách nhiệm lịch sử trước những vấn đề của đất
nước, nhân dân giao phó. Một cán bộ được chọn giữ cương vị lãnh đạo, quản lý
bất cứ ở cấp nào, tức là được trao một quyền lực nhất định. Điều này không chỉ có
ý nghĩa là cá nhân được tín nhiệm, có cơ hội phát huy và cống hiến tài năng cho sự
nghiệp chung, mà còn có ý nghĩa lớn hơn, sâu sắc hơn là được nhân dân trao một
trách nhiệm lịch sử. Mọi quyết sách, chủ trương, thành tích của bất kỳ cán bộ lãnh

đạo, quản lý nào cũng phải chịu sự thử thách, kiểm nghiệm, thừa nhận của lịch sử,
của nhân dân. Đây là một điều không dễ, đòi hỏi cán bộ lãnh đạo, quản lý phải có
tài năng, đaọ đức chính trị thực sự mới dám quyết, dám làm, dám dấn thân, dám
chịu trách nhiệm trước lịch sử, trước nhân dân về những quyết sách, những việc
làm của mình. Nếu không có ý thức trách nhiệm sâu sắc, chỉ với ý thức nhiệm kỳ,
lợi ích cục bộ, sau đó "hạ cánh an toàn" thì không thể có ý chí và sức mạnh vượt
qua khó khăn, đột phá, tìm cái mới, mà chỉ dám đi theo đường mòn lớp trước đã
vạch sẵn.

12


Người lãnh đạo, quản lý phải có nhận thức, hành vi ứng xử đúng trước cái
đúng, cái sai. Vấn đề đúng, sai luôn diễn ra trong thực tiễn đời sống xã hội cũng
như trong hoạt động của cán bộ lãnh đạo, quản lý. Qua sự nhìn nhận, thái độ ứng
xử, cách giải quyết của cán bộ trước cái đúng, cái sai, sự thành, bại là thấy được
đạo đức chính trị của người lãnh đạo. Từ đó, người dân thấy rõ người lãnh đạo có
phải là của dân, vì dân không; là người công minh, chính trực hay là cơ hội, nịnh
bợ, lươn lẹo, độc đoán chuyên quyền; là người dũng cảm hay hèn nhát; có dám
nhìn thẳng vào sự thật, sai lầm, thất bại và dám chịu trách nhiệm, kịp thời sửa sai
hay là vòng vo tranh công, đổ lỗi; là người có thực tài, thực đức hay là nói leo, ăn
theo, mập mờ ba phải theo đám đông...
Có ý thức thận trọng trong sử dụng quyền lực, không lẫn lộn công, tư.
Chức vụ càng cao, quyền càng trọng, trách nhiệm càng lớn. Xử lý đúng quan hệ
công, tư là một trong các yêu cầu cơ bản đối với đạo đức chính trị người lãnh đạo,
là một thử thách lớn, không dễ vượt qua. Mỗi lần vượt qua được cám dỗ là một lần
thắng lợi, một lần trưởng thành.
Trung thực, nói đi đôi với làm; khiêm tốn, khiêm nhường, biết mình, biết
việc, biết người, biết quy luật, sát thực tế, luôn đổi mới, tổng kết kinh
nghiệm, ...Tránh tự đánh mất uy tín, danh dự và lòng tin của nhân dân đối với

mình; không tự đánh mất trọng lượng lời nói, quyền uy của mình; trên nói dưới
không nghe, "thượng bất chính, hạ tắc loạn".
Không thể lẫn lộn cá nhân với tập thể, bộ phận với toàn thể. Tránh coi cá
nhân cao hơn tập thể, coi bộ phận cao hơn toàn thể; coi Bí thư cao hơn Ban thường
vụ, cao hơn Ban chấp hành.
Người lãnh đạo, quản lý phải có lập trường tư tưởng vững vàng; tránh suy
thoái về đạo đức, lối sống, bởi đây là nguồn gốc của sự suy thoái về tư tưởng chính
trị. Đạo đức được xem là luân thường đạo lý của con người. Hành xử đúng là có
đạo đức, hành xử không đúng là vô đạo đức. Đạo đức là phẩm giá của con người, là
tư cách, nhân cách, lương tâm của con người trong xã hội, là một trong các yếu tố

13


căn bản cấu thành bản chất con người. Đạo đức không ngừng được chọn lọc, đào
thải, kế thừa, bổ sung, phát triển để ngày càng hoàn thiện, tốt đẹp hơn.
Quy luật cuộc sống, quy luật của xã hội rất sòng phẳng mà cha ông đã từng
nhắc nhở: "Dân vạn đại, quan nhất thời; ghế quan ai ngồi xin chớ thờ ơ", "thương
dân, dân lập bàn thờ; hại dân dân đái ngập mồ thối xương!"
Yêu cầu cao về đạo đức, lối sống của cán bộ lãnh đạo, quản lý là giữ mối
liên hệ mật thiết với nhân dân; nêu gương về cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư,
có lối sống lành mạnh, ra sức vận động nhân dân, giáo dục cho nhân dân biết
những việc mình phải làm vì lợi nhà, ích nước; hướng dẫn nhân dân bàn và lắng
nghe ý kiến của nhân dân, tạo điều kiện cho nhân dân tham gia phản biện và giám
sát việc thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước và các quy định
khác của địa phương, của cộng đồng nơi cư trú. "Gương mẫu là cha đẻ của giáo
dục"; chính vì vậy, cán bộ, đảng viên , trước hêt là người lãnh đạo các cơ quan, đơn
vị phải gương mẫu đi đầu trong việc chấp hành nghiêm các Nghị quyết, quy định,
quy chế,... của hệ thống chính trị nước ta.
Trong quá trình tu dưỡng, rèn luyện về phẩm chất đạo đức của mình, mỗi

người lãnh đạo, quản lý cần quan tâm đến ba cấp độ: Đạo đức làm người; Đạo đức
cách mạng của giai cấp công nhân; Đạo đức cộng sản chủ nghĩa với nội dung là
chủ nghĩa nhân đạo vì lý tưởng giải phóng triệt để con người. Đồng thời, phải học
tập, rèn luyện phong cách lãnh đạo, quản lý từ thực tiễn, theo tư tưởng, tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh; kiên quyết chống kẻ thù bên trong là chủ nghĩa cá nhân, "tự
diễn biến", tự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống.

Quyền lực và trách nhiệm phải minh bạch, rõ ràng. Những vị trí lãnh
đạo, quản lý trong các cơ quan nhà nước không phải là một đặc quyền, đó là
một vị trí đầy thách thức dành cho những cá nhân có hoài bão phục vụ lợi ích
công cộng, có khát vọng và có nhân cách mạnh mẽ: dám hành động, dám chịu

14


trách nhiệm và luôn ý thức rõ ràng rằng, đối tượng phục vụ của mình là nhân
dân,...
Làm người lãnh đạo đòi hỏi nhiều trách nhiệm, trí tuệ, sức lực, thời
gian; phải có tầm nhìn xa, trông rộng, có tư duy chiến lược; phải có phong
cách lãnh đạo, quản lý dân chủ, khoa học, đúng luật, sâu sát, cụ thể. Nếu
không có tâm huyết cao thì khó mà hoàn thành được nhiệm vụ.
Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, Đảng, Nhà nước và nhân dân mong
muốn mỗi cán bộ, đảng viên phải thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 4(khóa XI)
"Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay" gắn với Chỉ thị 03-CT/Tw
ngày 14/55/2011 của Bộ Chính trị "về tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh"; phấn đấu có trí tuệ, năng lực, phẩm chất, uy tín, tiêu
chuẩn con người mới theo tinh thần Nghị quyết TW5 (khóa VIII) "Về xây dựng nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc"; chống phai nhạt lý tưởng cách
mạng, bảo thủ, giáo điều, cơ hội, chống chủ nghĩa cá nhân, tham quyền, cố vị, trì
trệ, lạc hậu, chậm tiến, ... cản trở, hạn chế sự phát triển của ngành, địa phương, cơ

quan, đơn vị.
Phải nhận thức đầy đủ vai trò của đạo đức cán bộ lãnh đạo, quản lý. Đạo
đức của cán bộ lãnh đạo, quản lý không chỉ là đạo đức công dân bình thường, mà
điều quan trọng nhất, có tính quyết định là phải có "quan đức"- đạo làm quan. Nói
"quan đức" thực chất là nói đến đạo đức chính trị- đạo đức cách mạng của cán bộ
lãnh đạo, quản lý; đúng đắn, vì dân, vì nước, thực sự chí công vô tư, có uy tín, có
niềm tin trong nhân dân, ... có như vậy mới quy tụ được ý chí, trí tuệ, sức mạnh của
đông đảo công chúng và biến thành sức mạnh hành động trong thực thi nhiệm vụ.
Đồng thời, từ hành vi đạo đức chính trị trong sáng của người lãnh đạo lại có tác
dụng cảm hóa, giáo dục, dẫn dắt mọi người cùng vun đắp nền đạo đức xã hội ngày
càng tươi đẹp hơn.

15


Bản thân người cán bộ lãnh đạo, quản lý cần phải tự nhận thức rằng chức
vụ không chỉ đi liền với quyền lợi, mà cao hơn phải thấy chức vụ đi liền với tinh
thần trách nhiệm rất cao, với thái độ cống hiến, hi sinh nhiều vì việc chung.
Tình trạng thiếu hiểu biết và năng lực còn là do chúng ta đang sống trong
thời kỳ phát triển tăng tốc của tri thức về mọi mặt tự nhiên và đời sống xã hội.
Không theo kịp là bị đào thải, tự đào thải. Như vậy, mỗi cán bộ được đảm nhiệm
bất cứ một chức vụ nào đều phái tự giác trau dồi, học hỏi để hoàn thiện mình về
năng lực lãnh đạo, quản lý và các tri thức cho cán bộ hiện tại là một đòi hỏi thường
xuyên, gắt gao và nghiêm túc. Tự học, tự đổi mới là yêu cầu cần thiết và luôn theo
suốt cuộc đời người nếu muốn hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Để thể đảm đương tốt vai trò lãnh đạo của mình, mỗi cán bộ phải thực hiện
nguyên tắc tập trung dân chủ; chống bệnh quan liêu. Hồ Chí Minh cho rằng quan
liêu là con của chủ nghĩa cá nhân và là mẹ sản sinh ra các tội lỗi khác như tham ô,
lãng phí, báo cáo láo, đưa thông tin sai dẫn đến nhận định không đúng, đến nỗi dẫn
đến đưa ra những quyết sách chính trị sai lầm. Quan liêu, mệnh lệnh là căn nguyên

dẫn tới xa dân, mất dần quần chúng "Làm việc theo cách quan liêu. Cái gì cũng
dùng mệnh lệnh ép dân chúng làm. Đóng cửa lại mà đặt kế hoạch, viết chương
trình rồi đưa ra cột vào cổ dân chúng, bắt dân chúng theo". Người yêu cầu:
"Những người mắc bệnh quan liêu, bệnh bàn giấy, không làm được việc, phải thải
đi".

Ở cấp nào, đơn vị, cơ quan nào người lãnh đạo, quản lý có tâm, có
tầm, có tài thì chất lượng ở đó cao.
Tất cả những chuẩn mực trên về tư cách người cán bộ lãnh đạo, quản
lý trong mọi giai đoạn của cách mạng ở nước ta luôn là tiêu chí, là mục tiêu
phấn đấu của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý. Và, nếu ai đó không đạt được
yêu cầu như vậy thì cần tự giác, tự nguyện thay đổi vị trí công tác của mình
một cách phù hợp, trong đó hình thức văn hóa là xin từ chức.
16


4. Văn hóa từ chức - động cơ, ý thức cần có của người lãnh đạo,
quản lý
* Nhận thức về văn hóa và "văn hóa từ chức"
Ở đâu có con người, ở đó có văn hóa. Văn hóa là những nét đặc trưng tiêu
biểu nhất của con người về tư tưởng, tình cảm, tâm lý, đạo đức, lối sống và hành
động. Văn hóa là toàn bộ sáng tạo và phát minh của con người. Tư tưởng, đạo đức,
lối sống là cốt lõi của văn hóa. Nếu dân tộc, quốc gia và người nào không quan tâm
đến văn hóa là tự đánh mất mình, đánh mất động lực và mất phương hướng, mục
tiêu của sự phát triển.
Văn hóa có mặt trong tất cả những hoạt động sống của con người và là tất
yếu trong cuộc sống; thế nên, văn hóa từ chức cũng biểu hiện sự tất yếu của cuộc
sống. Thiết nghĩ, từ chức sớm trở thành cách ứng xử bình thường trong đời sống
lãnh đạo, quản lý ở nước ta.
Nhận thức sâu sắc những vấn đề nêu trên, đối với người lãnh đạo, quản lý,

điều quan trọng là chủ động tự soi xét mình. Từ đó, tự ra quyết định phù hợp với
công tác của mình, trong đó kể cả quyết định từ chức.

Từ chức được hiểu là xin thôi không làm chức vụ hiện đang giữ. Như
vậy, từ chức chỉ có thể xảy ra ở những người có chức, có quyền. Từ chức một
cách tự nguyện, tự giác là thái độ trung thực với chính mình, biết xấu hổ khi
làm điều trái với đạo lý, đi ngược lại nguyện vọng của cơ quan, tổ chức và
cộng đồng, hoặc biết mình không thể hoàn thành được nhiệm vụ được giao,
lương tâm cắn rứt, do yếu kém về năng lực quản lý, chưa quy tụ được quần

chúng, để xảy ra nội bộ mất đoàn kết kéo dài, dẫn đến chất lượng, hiệu quả
công việc thấp; không làm được những điều mình đã hứa, ...
Từ chức, có thể là xin làm cấp thấp hơn hoặc xin luân chuyển đi đơn
vị khác.
17


Những người lãnh đạo luôn tự biết, tự thấy trách nhiệm của mình trên hết là
vì cái chung. Khi nhận thấy việc nắm giữ vị trí đó không có lợi cho cái chung nữa,
thì tốt nhất nên từ chức. Thói quen ứng xử ấy, đối với người lãnh đạo, quản lý ở
nhiều nước đã được nâng lên thành tầm văn hóa.
Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu của chúng ta, khi trả lời nhà báo nước
ngoài vào tháng 1 năm 1946, đã có câu nói rất thấm thía và đầy trách nhiệm: "Tôi
tuyệt nhiên không ham muốn công danh phú quý chút nào. Bây giờ phải gánh chức
Chủ tịch là vì đồng bào ủy thác thì tôi phải gắng sức làm, cũng như một người lính
vâng mệnh lệnh của quốc dân ra trước mặt trận. Bao giờ đồng bào cho tôi lui, thì
tôi rất vui lòng lui. Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho
nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có
cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành". Đây là một hành vi văn hóa mẫu mực của
người lãnh tụ vĩ đại của Đảng và nhân dân ta.

Ở nước ta đã có một số người lãnh đạo, quản lý với những cương vị khác
nhau đã tự nguyện xin từ chức, như Tổng Bí thư Trường Chinh khi có sai lầm trong
cải cách ruộng đất; Phó Tổng giám đốc thường trực Đài Truyền hình Việt Nam Trần
Đăng Tuấn, ... Trong địa phương tôi (huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang), kể từ khi
(năm 1986) thực hiện đường lối đổi mới của Đảng ta, đã có một số cán bộ lãnh đạo,
quản lý từ huyện đến cơ sở xin từ chức vì tự thấy không đảm đương nổi nhiệm vụ
nặng nề được giao.

Qua tìm hiểu một số người lãnh đạo, quản lý đã từ chức thì có bốn
nguyên nhân xin từ chức: (1)Cảm thấy mình không làm được việc, không
cống hiến được nhiều thì từ chức, đấy là trường hợp của những người thực sự
tâm huyết với công việc; (2) Khi chủ trương của mình trong cơ quan không
được đồng thuận; (3) Mâu thuẫn với lãnh đạo; (4) Do một lý do bất khả kháng
nào đấy ( Chẳng hạn như, Bộ trưởng Bộ giao thông của một nước nào đó từ
chức vì một vụ sập cầu, hoặc một vụ tai nạn đường sắt; hiệu trưởng từ chức
18


do học sinh chém nhau; thủ trưởng cơ quan từ chức vì để nhân viên vi phạm
pháp luật trầm trọng ...)
Người nào mà tự nhận thấy tín nhiệm của mình không còn, xin từ chức thì
đó là việc làm dũng cảm, mang tính đột phá. Đó là một ứng xử rất văn hóa, phải
được trân trọng. Những người xin từ chức dù được chấp nhận hay không cũng nên
và phải được xã hội tôn trọng, ghi nhận.

Từ chức là văn hóa hành xử của những người có chức, có quyền và đã
trở thành trách nhiệm của người có chức, có quyền, được dư luận xã hội chấp
nhận; vì đó là biểu hiện của sự cao thượng, dũng cảm, tự trọng và tôn trọng
đồng chí, đồng nghiệp và nhân dân. "Văn hóa từ chức" là việc làm tốt đẹp,
đáng hoan nghênh.

Chủ động báo cáo với tổ chức và xin từ chức, đấy là cách người lãnh đạo,
quản lý lựa chọn hợp lý nhất khi thấy mình không còn năng lực, tín nhiệm. Việc đó
cần trở thành một thói quen ứng xử bình thường, thỏa đáng, một nét đẹp văn hóa.
Mỗi cán bộ lãnh đạo, quản lý cần suy nghĩ nghiêm túc điều mà Bác Hồ trăn
trở, căn dặn: "Điều rất tốt là ta đã thấy được khuyết điểm... Nhưng thấy được bệnh
rồi, mấy người thày thuốc phải ngồi lại tìm đơn thuốc mà chữa chứ cứ nói mãi mà
chắp chắp, vá vá thì không được. Cần có một số đồng chí cương quyết tìm ra bài
thuốc cho bệnh, tìm ra được rồi thì phải cắt thuốc, không thì năm nào cũng nói đi
nói lại mãi". Và, nếu tổ chức đã cắt thuốc mà bệnh của cá nhân không thuyên giảm,
thì bản thân người lãnh đạo, quản lý cần quyết định từ chức. Đó là hành xử văn hóa
trước khi tổ chức quyết định cách chức.
Việc tự nguyện từ chức của người có chức, có quyền sẽ tạo cơ hội cơ cấu
lại, kiện toàn đội ngũ cán bộ của cơ quan, tổ chức, tạo ra sự hợp lý tốt hơn trong xã
hội. Điều đó giúp những người thật sự có nhân cách, tài giỏi, có trình độ, năng lực
thực tiễn có thể phát huy cao nhất năng lực của mình nếu ở đúng vị trí; đồng thời

19


cũng giúp cho cơ quan, tổ chức và xã hội tránh được những thiệt hại không đáng
có.
Văn hóa từ chức là một dạng văn hóa cá nhân của những người có chức, có
quyền. Họ được cơ quan, tổ chức và xã hội tôn trọng khi ở họ có nhân cách đạo
đức, biết lãnh đạo bằng tấm gương. Nếu không có nhân cách và gương mẫu thì
không thể thuyết phục được mọi người.
Hành vi đạo đức, nhất là đạo đức chính trị của cán bộ lãnh đạo, quản lý
không đúng đắn, lệch lạc, có sai lầm nghiêm trọng làm giảm uy tín, ảnh hưởng tiêu
cực tới tổ chức, từ đó mất dần lòng tin thì cán bộ lãnh đạo, quản lý khó hoàn thành
nhiệm vụ. Bản thân người lãnh đạo cũng khó bảo toàn vị trí, lòng tin ly tán. Xuất
phát từ thực trạng đó, người lãnh đạo, quản lý cần nghiêm túc nhận thấy: mình cần

từ chức; đó mới là quyết định hợp lý, có văn hóa.
Đã lâu rồi, đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý, không phải hễ sai thì xin lỗi là
xong, làm thế ban đầu dân bỏ qua, nhiều lần sẽ giảm uy tín, thiếu sức thuyết phục,
là "tấm gương mờ", ... nên tốt nhất là xin từ chức.
Ở nước ta hiện nay chưa hình thành văn hóa từ chức. Điều đó, có nghĩa là
một bộ phận không nhỏ cán bộ lãnh đạo, quản lý chưa có lòng tự trọng, thiếu trung
thực, ứng xử chưa liêm khiết.
* Thái độ của chúng ta đối với những người lãnh đạo, quản lý từ chức
Sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập
quốc tế của nước ta luôn đặt ra nhiều đòi hỏi và thách thức đối với chất lượng của
đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Thực tế cho thấy, một bộ phận cán bộ
lãnh đạo, quản lý còn những yếu kém về phẩm chất tư tưởng chính trị, đạo đức,
năng lực và lối sống, đặc biệt là phong cách lãnh đạo, quản lý bộc lộ nhiều khiếm
khuyết. Vẫn còn những cán bộ, quản lý chưa qua thử thách và rèn luyện, tác phong
chậm chạp, lối làm việc quan liêu, xa dân, chưa thích ứng với điều kiện của cơ chế
thị trường nên họ còn thiếu chủ động, lúng túng trước những tình huống lãnh đạo

20


mới cần phải giải quyết. Người lãnh đạo, quản lý không chỉ tiên phong về lý luận,
chính trị mà còn phải tiên phong gương mẫu về đạo đức, lối sống và hành động,
trong công tác và sinh hoạt, trong môi trường xã hội nước ta của thời kỳ quá độ, mở
cửa, hội nhập, kinh tế thị trường, trong dó vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực
thì việc thực hiện triệt để : cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư thật không dễ, đòi
hỏi các tổ chức Đảng và đảng viên phải tăng cường đấu tranh, nêu cao tự phê bình
và phê bình, kiên trì, quyết liệt chống mọi cám dỗ, cạm bẫy của những tư tưởng, tác
phong, lối sống tư sản đang hàng ngày, hàng giờ gây sức ép, tấn công vào tổ chức
Đảng và mọi cán bộ, đảng viên.Vì thế, không ít cán bộ lãnh đạo, quản lý luôn trăn
trở, tự lo... mình sẽ phải từ chức.

Thông thường, từ chức là ứng xử rất tự nguyện, rất văn hóa, nên tôn trọng
quyết định của người có chức, có quyền.
Từ chức là tự phê bình, tự kiểm điểm mình, cho nên không đơn giản. Trong
thực tế, việc từ chức của người lãnh đạo, quản lý ở nước ta khó, rất ít; bởi nước ta
chưa có văn hóa từ chức. Lý do chủ yếu là vì: Quyền lực thể chế nào cũng liên
quan tới lợi ích cá nhân. Chức tước thường đi đôi với quyền lực, thường gắn với lợi
ích, bổng lộc, đặc quyền, đặc lợi; nếu từ chức có nghĩa sẽ không còn gì cả. Tư
tưởng học để "làm quan" đã ăn sâu, bén rễ trong tâm thức người Việt Nam và vì thế
truyền thống coi "làm quan" là một sự thành đạt cao nhất của mỗi người. Dư luận
xã hội chưa được định hướng để đồng tình hay ủng hộ việc tự nguyện từ chức. Nếu
ai đó là đảng viên thì viện dẫn đây là nhiệm vụ Đảng giao, nên từ chức bị coi là
không có tinh thần đảng viên, phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí chiến đấu, ..., từ
chức là để trốn tránh trách nhiệm, để thoát tội, để hạ cánh cho an toàn.
Đã đến lúc, chúng ta cần phải nhận thức cho đúng, việc từ chức không phải
vết hằn, không phải gắn lên người ta như một án tích, mà nó chỉ là sự đánh giá
trách nhiệm của người đó, trong một thời gian cụ thể. Sau khi từ chức, nếu làm tốt,
thì người ấy vẫn có thể tiếp tục trở lại chức vụ đó, hoặc vị trí cao hơn. Thế mới
công bằng, rất bình thường. Chúng ta cần nhìn nhận công bằng từ hai phía. Có văn

21


hóa từ chức thì cũng phải có văn hóa ứng xử đúng với người từ chức. Nếu họ có
động cơ phấn đấu tốt, đã khắc phục được những sai lầm, khuyết điểm, thì tổ chức
có thể bố trí vị trí phù hợp, thậm chí cao hơn cho họ.
Tuy nhiên, lâu nay nhiều người lãnh đạo, quản lý vẫn quan niệm chức vụ
của mình là do dân ủy thác, do Đảng phân công, ... nên việc bố trí, bổ nhiệm, lên
xuống, ra vào là chuyện của tổ chức, còn bản thân chỉ biết tuân thủ. Vì vậy, từ chức
là việc họ không bao giờ nghĩ đến.
Từ chức không phải là điều hô hào suông nữa mà cần trở thành một hoạt

động phải có trong sinh hoạt chính trị hiện nay ở nước ta. Thiếu văn hóa chính trị
thì khó có văn hóa từ chức; do đó cần thường xuyên giáo dục lòng tự trọng và biết
xấu hổ cho cán bộ; tiếp tục cải cách chế độ công vụ, công chức, trong đó có việc
nghiên cứu xây dựng các quy định về từ chức của cán bộ, công chức và coi từ chức
là thuộc khía cạnh văn hóa của chế độ công vụ.
Đã tới lúc mọi người nên xem chuyện một người lãnh đạo, quản lý nào đó
từ chức khi thấy mình không phù hợp với vị trí hiện tại, không đảm đương được
yêu cầu công việc là bình thường. Trong xã hội, khi không có ai từ chức, không có
ai bị cách chức, đấy mới là chuyện nguy hiểm.
Cần đẩy mạnh tuyên truyền trong xã hội về văn hóa từ chức; nên khuyến
khích sự tự nguyện từ chức và đánh giá cao những người có đủ dũng khí, lòng tự
trọng, biết tự nguyện từ chức; đồng thời định hướng dư luận xã hội không nên có
"cảm xúc nặng nề" đối với những người tự nguyện từ chức.
Ở nước ngoài, khi ngành mình quản lý gặp phải những sự cố thì người
đứng đầu thường chọn cách từ chức, để nhận trách nhiệm về mình. Ví như bộ
trưởng Bộ giao thông xin từ chức khi cầu bị sập, một máy bay bị rơi. Tuy nhiên,
đây là trường hợp người ta từ chức để nhận trách nhiệm đạo lý, nhiều hơn là trách
nhiệm pháp lý. Bởi vì, bộ trưởng đó có thể chẳng hề có lỗi gì trong việc chiếc cầu
bị sập hay máy bay bị rơi cả. Từ chức như thế chỉ làm tăng uy tín cá nhân của
người từ chức mà thôi. Sau đó, có thể được bầu giữ chức vụ cao hơn.

22


III. KẾT LUẬN

Từ chức là văn hóa hành xử của những người có chức, có quyền khi
nhận thấy việc nắm giữ vị trí đó không có lợi cho cái chung nữa, dẫn đến chất

lượng, hiệu quả công việc thấp; không làm được những điều mình đã hứa. Từ

chức là tự phê bình, tự kiểm điểm mình , đã và sẽ trở thành trách nhiệm của

người có chức, có quyền, được dư luận xã hội tôn trọng, ghi nhận; vì đó là
biểu hiện của sự cao thượng, dũng cảm, tự trọng và tôn trọng đồng chí, đồng
nghiệp vànhân dân. "Văn hóa từ chức" vì thế là việc làm tốt đẹp, dũng cảm,
mang tính đột phá, đáng hoan nghênh.
Trong xã hội ta có người lãnh đạo, quản lý bị cách chức vì chưa biết hoặc
không biết từ chức; trái lại, có người chủ động, tự nguyện từ chức nên không bị
cách chức; người cán bộ lãnh đạo, quản lý nào "bị dân cách chức" bằng quyết định
lương tâm, mất tín nhiệm, không còn lòng tin, thì người cán bộ đó mất tất cả.
Điều tốt đẹp hơn cả là mỗi cán bộ lãnh đạo, quản lý hãy phấn đấu hết mình
vì công việc chung, vì lợi ích của nhân dân, để không bao giờ vấn vương đến từ
chức - tuy đó là hành vi có văn hóa; cũng như không bao giờ bị cách chức./.

23


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, NXB Chính trị Quốc gia, HN 2009
2. GS Song Thành, Hồ Chí Minh nhà tư tưởng lỗi lạc, NXB Lý luận Chính
trị , HN 2005
3. Tham khảo các tạp chí chuyên ngành như: Tạp chí cộng sản, Tạp chí
Tuyên giáo, Tạp chí xây dựng đảng
4. Tài liệu lấy từ các nguồn trên internet

24




×