Tải bản đầy đủ (.docx) (161 trang)

Đặc điểm ngữ nghĩa và kết trị của nhóm tính từ chỉ đặc điểm về lượng của sự vật trong tiếng việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (673.94 KB, 161 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ THANH HƯƠNG

ĐẶC ĐIỂM NGỮ NGHĨA VÀ KẾT TRỊ
CỦA NHÓM TÍNH TỪ CHỈ ĐẶC ĐIỂM VỀ LƯỢNG
CỦA SỰ VẬT TRONG TIẾNG VIỆT

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ

HÀ NỘI - 2020


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ THANH HƯƠNG

ĐẶC ĐIỂM NGỮ NGHĨA VÀ KẾT TRỊ
CỦA NHÓM TÍNH TỪ CHỈ ĐẶC ĐIỂM VỀ LƯỢNG
CỦA SỰ VẬT TRONG TIẾNG VIỆT

Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 9.22.90.20

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ
Người hướng dẫn khoa học
1. PGS.TS LÊ THỊ LAN ANH
2. GS.TS NGUYỄN VĂN HIỆP


HÀ NỘI - 2020
LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các ngữ
liệu nêu trong luận án là xác thực. Những kết luận khoa học của luận án chưa
từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận án

Nguyễn Thị Thanh Hương


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc PGS.TS Lê Thị Lan Anh và
GS.TS Nguyễn Văn Hiệp, những thầy cô đã tận tình hướng dẫn tôi hoàn
thành luận án này.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến các thầy giáo, cô giáo trong Tổ
bộ môn Ngôn ngữ, Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã tạo
mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến bạn bè, đồng nghiệp và gia
đình đã giúp đỡ, động viên và tạo mọi điều kiện cho tôi trong suốt quá trình
học tập và nghiên cứu.
Hà Nội, ngày

tháng

năm2020

Tác giả luận án


Nguyễn Thị Thanh Hương


MỤC LỤC


DANH MỤC BẢNG BIỂU
TT
Bảng 2.1
Bảng 2.2
Bảng 3.1

Tên gọi
Danh sách tính từ chỉ đặc điểm về lượng của sự vật
trong tiếng Việt
Thống kê tham tố chỉ sự vật mang đặc điểm về lượng
khi nhóm tính từ chỉ đặc điểm về lượng của sự vật
dùng với nghĩa gốc
Thống kê tham tố chỉ sự vật mang đặc điểm khi
nhóm tính từ chỉ đặc điểm về lượng phát triển nghĩa

Trang
59
76
120


DANH MỤC SƠ ĐỒ, MÔ HÌNH
TT
Hình 2.1

Hình 2.2
Hình 3.1
Hình 3.2

Tên gọi
Trang
Sơ đồ ngữ nghĩa của nhóm tính từ chỉ đặc điểm về lượng
68
của sự vật trong tiếng Việt khi dùng với nghĩa gốc
Mô hình kết trị của nhóm tính từ chỉ đặc điểm về lượng
71
của sự vật trong tiếng Việt khi dùng với nghĩa gốc
Sơ đồ các hướng phát triển ngữ nghĩa của nhóm tính từ 114
chỉ đặc điểm về lượng của sự vật trong tiếng Việt
Mô hình kết trị của nhóm tính từ chỉ đặc điểm về lượng 115
của sự vật trong tiếng Việt khi phát triển nghĩa

MỘT SỐ QUY ƯỚC VIẾT TẮT
TT
1

Chữ viết tắt
TTCĐĐVL

Nội dung
Tính từ chỉ đặc điểm về lượng


2
3

4
5

GD
Nxb
VBNT
VBKH

Giáo dục
Nhà xuất bản
Văn bản nghệ thuật
Văn bản khoa học


9

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Cũng như ở các ngôn ngữ khác, tính từ là từ loại có số lượng lớn và
chiếm vị trí quan trọng trong tiếng Việt. Trong đó, nhóm tính từ chỉ đặc điểm
về lượng của sự vật đóng một vai trò không nhỏ làm nên sự phong phú và đa
dạng của tính từ nói riêng và từ loại tiếng Việt nói chung. Đây cũng là nhóm
từ có nhiều đặc điểm phức tạp trong đời sống ngôn ngữ. Đặc biệt, khi tham
gia vào hoạt động hành chức, nhóm tính từ này không chỉ hiện thực hóa đặc
điểm ngữ nghĩa, ngữ pháp vốn có của nó mà còn có những sự biến đổi và
chuyển hóa trên nhiều bình diện ngữ pháp - ngữ nghĩa tương đối phức tạp
nhưng cũng đầy lý thú. Vì vậy, chúng luôn thu hút sự chú ý của các nhà
nghiên cứu.
1.2. Lí thuyết kết trị là một trong những lí thuyết quan trọng về ngữ pháp
của ngôn ngữ học hiện đại. Lí thuyết này đem đến một hướng tiếp cận mới, tiếp

cận cú pháp theo đường hướng ngữ nghĩa, chức năng. Nó góp phần giải quyết
những vấn đề cần yếu đối với ngữ pháp tiếng Việt, đặc biệt là mối quan hệ giữa
ngữ nghĩa và ngữ pháp trong sự hiện thực hóa ngôn ngữ. Lí thuyết kết trị đã cho
thấy giữa ý nghĩa và thuộc tính kết trị của từ luôn luôn có mối quan hệ và tương
tác lẫn nhau. Trong đó, ý nghĩa giữ vai trò chi phối kết trị, quy định sự hiện thực
hóa kết trị của từ trong hoạt động hành chức. Và ngược lại, thông qua mô hình
kết trị thuộc tính ngữ nghĩa bản chất của từ được bộc lộ.
1.3. Sau khi ra đời, lí thuyết kết trị đã được phát triển và ứng dụng rộng
rãi trong nghiên cứu ngữ pháp, nghiên cứu đặc điểm từ loại của nhiều ngôn
ngữ khác nhau. Trên thế giới đã có khá nhiều công trình vận dụng lí thuyết kết
trị nghiên cứu một cách có kết quả hệ thống từ loại mà đầu tiên và trước hết là
động từ. Nằm trong trào lưu chung của ngôn ngữ học thế giới, ở Việt Nam,
những năm gần đây lí thuyết kết trị đã nhanh chóng được vận dụng trong một


10

số công trình nghiên cứu. Nhưng nhóm TTCĐĐVL của sự vật trong tiếng Việt
dưới ánh sáng của lí thuyết kết trị thì chưa có một công trình khoa học chuyên
sâu nào nghiên cứu đầy đủ và toàn diện.
Với những lý do trên, chúng tôi lựa chọn vấn đề: Đặc điểm ngữ nghĩa
và kết trị của nhóm tính từ chỉ đặc điểm về lượng của sự vật trong tiếng
Việt làm đề tài cho luận án.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Với đề tài này, mục đích của luận án là làm rõ đặc điểm ngữ nghĩa và kết
trị của nhóm TTCĐĐVL của sự vật trong tiếng Việt, từ đó khẳng định mối
quan hệ chặt chẽ giữa ngữ nghĩa và kết trị của nhóm tính từ này trong sự hiện
thực hóa ngôn ngữ.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, luận án phải thực hiện những
nhiệm vụ sau:
- Xây dựng khung lí thuyết làm cơ sở cho việc triển khai đề tài: Lí thuyết
kết trị (khái niệm kết trị, tham tố, phân loại tham tố, nguyên tắc và thủ pháp
xác định kết trị …), lí thuyết ngữ nghĩa ( nghĩa của từ, hiện tượng nhiều nghĩa
và sự chuyển biến ý nghĩa của từ, ý niệm, phạm trù, miền, miền nguồn, miền
đích…), lí thuyết về TTCĐĐVL của sự vật trong tiếng Việt (khái niệm, tiêu
chí nhận diện, phân loại…).
- Phân tích, miêu tả đặc điểm ngữ nghĩa và kết trị của nhóm TTCĐĐVL
của sự vật trong tiếng Việt khi dùng với nghĩa gốc.
- Phân tích, miêu tả sự phát triển ngữ nghĩa và thay đổi kết trị của nhóm
TTCĐĐVL trong tiếng Việt.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu và phạm vi nguồn ngữ liệu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là đặc điểm ngữ nghĩa và kết trị của
TTCĐĐVL của sự vật trong tiếng Việt.


11

3.2. Phạm vi nghiên cứu
Ngôn ngữ học hiện đại có thể xem xét tính từ cũng như nhóm
TTCĐĐVL của sự vật dưới nhiều góc độ, nhiều phương diện khác nhau. Tuy
nhiên, trong luận án này, chúng tôi tập trung xem xét các tính từ chỉ đặc
điểm về lượng của sự vật trong tiếng Việt ở hai phương diện: đặc điểm ngữ
nghĩa và kết trị, cũng như mối quan hệ giữa chúng cả mặt tiềm năng lẫn mặt
hiện thực hóa.
3.3. Phạm vi nguồn ngữ liệu
Nhóm TTCĐĐVL của sự vật xuất hiện đa dạng trong các thể loại văn
bản thuộc nhiều phong cách ngôn ngữ. Tuy nhiên, nguồn ngữ liệu mà chúng

tôi khảo sát chủ yếu trong 55 nguồn ngữ liệu ở hai loại hình văn bản thuộc
hai phong cách khác nhau là: VBKH và VBNT. Đây là hai loại văn bản mà
tần số sử dụng nhóm TTCĐĐVL tương đối cao và có đặc thù phong cách
khác nhau phù hợp với mục đích nghiên cứu của luận án. Bên cạnh đó,
nguồn ngữ liệu còn được thu thập từ thực tế sử dụng tiếng Việt trong giao
tiếp hàng ngày.
4. Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, chúng tôi chủ yếu sử dụng phương pháp miêu tả
kết hợp với phương pháp phân tích cú pháp; các thủ pháp so sánh, thống kê phân loại và mô hình hóa.
4.1. Phương pháp miêu tả theo lí thuyết kết trị
Luận án sử dụng phương pháp miêu tả để miêu tả đặc điểm ngữ nghĩa
và kết trị của các tính từ chỉ đặc điểm về lượng của sự vật trong tiếng Việt.
Phương pháp miêu tả được dùng để phân tích nghĩa của TTCĐĐVL nhằm
chỉ ra nghĩa gốc và sự phát triển ngữ nghĩa của nhóm tính từ này, đồng thời,
phân tích các tham tố tham gia mô hình kết trị nhằm chỉ ra đặc điểm hình
thức cũng như nội dung của các tham tố.


12

4.2. Phương pháp phân tích cú pháp
Phương pháp này chúng tôi sử dụng nhằm giải mã những vấn đề của câu
về mặt hình thức, từ đó làm cơ sở để tiếp tục nghiên cứu và giải mã các vấn
đề về mặt ngữ nghĩa. Nhờ đó, mối quan hệ và sự tác động qua lại giữa kết trị
và ngữ nghĩa được sáng tỏ.
4.3. Thủ pháp thống kê, phân loại
Thủ pháp này được dùng để thống kê lượng từ ngữ, phân loại nhóm
TTCĐĐVL của sự vật trong tiếng Việt ở các nguồn ngữ liệu và những biểu thức
ngôn ngữ có chứa những tính từ này dựa trên những đặc điểm giống nhau về
ngữ nghĩa, kết trị. Đây là cơ sở giúp đề tài mang tính khách quan và thuyết phục.

4.4. Thủ pháp mô hình hóa
Thủ pháp này được sử dụng để xác lập mô hình kết trị của nhóm tính từ
trong hệ thống cũng như trong hoạt động hành chức.
4.5. Thủ pháp so sánh
Chúng tôi sử dụng thủ pháp so sánh để làm rõ những điểm tương đồng,
khác biệt về ngữ nghĩa cũng như về kết trị của nhóm TTCĐĐVL khi được dùng
với nghĩa gốc và sự phát triển ngữ nghĩa ở hai loại văn bản: VBKH và VBNT.
Ngoài phương pháp miêu tả và các thủ pháp trên, chúng tôi còn sử dụng
một số phương pháp nghiên cứu ngôn ngữ học khác để giải quyết các nhiệm vụ
của luận án.
5. Đóng góp của luận án
5.1. Về mặt lí luận
Luận án là công trình nghiên cứu chuyên sâu về ngữ nghĩa và kết trị của
nhóm TTCĐĐVL của sự vật trong tiếng Việt. Thông qua việc nghiên cứu,
luận án thêm một bước làm rõ hơn lí thuyết về kết trị và ngữ nghĩa trong sự
tương tác lẫn nhau. Đồng thời, kết quả nghiên cứu của luận án cũng góp thêm
tiếng nói minh chứng cho sự tiến bộ của đường hướng nghiên cứu ngữ pháp
hiện đại: ngữ pháp gắn liền với ngữ nghĩa.


13

5.2. Về mặt thực tiễn
Tính từ nói chung và nhóm TTCĐĐVL của sự vật trong tiếng Việt rất
phong phú nhưng hết sức phức tạp. Nó được sử dụng thường xuyên trong
các loại hình văn bản, từ trong các tác phẩm nghệ thuật đến đời sống hàng
ngày. Thực hiện đề tài này, chúng tôi hi vọng tư liệu và kết quả nghiên cứu
của luận án sẽ là những đóng góp thiết thực trong việc nghiên cứu và học
tiếng Việt, cụ thể như: giúp người nghiên cứu về cú pháp và ngữ nghĩa có
được cái nhìn sâu sắc hơn về tính từ; góp phần vào việc phân tích, giải

thích ngữ nghĩa của tính từ trong việc biên soạn từ điển, sách dạy tiếng Việt
cho người Việt Nam và người nước ngoài.
6. Bố cục của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và nguồn ngữ liệu
khảo sát luận án gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lí thuyết
Trong chương này, chúng tôi tổng hợp những nghiên cứu cơ bản về
nghĩa, kết trị của từ và tính từ ở trong nước và ngoài nước. Đồng thời, chương
này cũng xác lập một số khái niệm lí thuyết cơ bản về nghĩa và kết trị của từ.
Chương 2: Đặc điểm ngữ nghĩa và kết trị của nhóm tính từ chỉ đặc điểm
về lượng của sự vật trong tiếng Việt khi dùng với nghĩa gốc
Chương này sẽ trình bày khái quát về nhóm TTCĐĐVL của sự vật trong
tiếng Việt và kết quả khảo sát của luận án, cũng như kết quả nghiên cứu về
ngữ nghĩa và kết trị của nhóm tính từ này khi dùng với nghĩa gốc.
Chương 3: Sự phát triển ngữ nghĩa và thay đổi kết trị của nhóm tính từ
chỉ đặc điểm về lượng của sự vật trong tiếng Việt
Ở chương 3, chúng tôi sẽ miêu tả và phân tích sự phát triển ngữ nghĩa
cũng như sự thay đổi mô hình kết trị và các tham tố của nhóm TTCĐĐVL
trong sự hiện thực hóa.


14

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
VÀ CƠ SỞ LÍ THUYẾT
Ngữ nghĩa và kết trị của từ là một trong những vấn đề cần được quan
tâm khi nghiên cứu ngôn ngữ. Cho đến nay, đã có rất nhiều công trình đề cập
đến nội dung này theo các góc độ khác nhau. Vì vậy, trong chương này, luận

án điểm lại một số công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài, từ đó xác
định cơ sở lí luận có tính đường hướng cho đề tài.
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Tình hình nghiên cứu về nghĩa và kết trị của từ
Vấn đề ngữ nghĩa từ xưa cho đến nay luôn được các nhà nghiên cứu
ngôn ngữ học đặc biệt quan tâm. Hầu như, các công trình nghiên cứu ngôn
ngữ nào cũng đề cập đến nghĩa ở một mức độ nhất định. Trong phần này,
chúng tôi chỉ điểm lại một cách sơ lược nhất về vấn đề nghiên cứu ngữ nghĩa
trên thế giới và ở Việt Nam.
1.1.1.1. Tình hình nghiên cứu về nghĩa của từ
a. Những nghiên cứu trên thế giới
Ngữ nghĩa học với tư cách là một bộ môn độc lập hình thành vào khoảng
cuối thế kỉ XIX và được đánh dấu bằng công trình “Essai de Sémantique”
(1877) của Michel Bréal. Ông được xem là người đi tiên phong trong nghiên
cứu khoa học ngữ nghĩa. Dù công trình của M. Bréal ra đời sau, nhưng được
đánh giá là công trình “đầu tiên xác lập ngữ nghĩa học như một bộ môn khoa
học nhân văn.” [82, tr.7] Trong công trình nghiên cứu [82], Lê Quang Thiêm
đã khái lược rất rõ ba thời kì phát triển trong tiến trình ngữ nghĩa học. Đó là
thời kì tiền cấu trúc luận, thời kì cấu trúc luận và thời kì hậu cấu trúc luận.
Mỗi thời kì đều được đánh dấu bằng các công trình nghiên cứu gắn liền với
tên tuổi của các nhà khoa học.


15

Vấn đề quan tâm đầu tiên của các nhà ngôn ngữ học là khái niệm nghĩa
của từ. Bởi đây là một trong những khái niệm quan trọng nhất của ngôn ngữ
học nên các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều cách giải thích khác nhau. Nguyễn
Thiện Giáp [35] đã chỉ ra tám quan niệm về nghĩa trên thế giới. Nhìn chung,
các ý kiến bàn về nghĩa của từ nổi lên hai khuynh hướng: “1) Cho nghĩa của từ

là một bản thể nào đó (đối tượng, khái niệm, sự phản ánh…). 2) Cho nghĩa của
từ là một quan hệ nào đó (quan hệ của từ với đối tượng, hoặc quan hệ của từ
với khái niệm)”. [dẫn theo 35, tr. 31] Nghĩa của từ là nhân tố chi phối khả năng
kết hợp của từ (khả năng phóng chiếu của từ), trong trường hợp vị từ đóng vai
trò vị ngữ của câu thì nghĩa của từ chi phối đến các tham tố cùng vị ngữ tạo
thành câu trọn vẹn, tức thể hiện kết trị của vị từ.
Về các thành phần nghĩa của từ, các nhà ngôn ngữ đã đưa ra những kiến
giải khác nhau bằng sơ đồ tam giác nghĩa và các nhân tố hình thành ý nghĩa của
từ. Người đầu tiên phải kể đến là F.de Saussure (1916). Ông quan niệm về bản
chất của tín hiệu ngôn ngữ như sau: “Tín hiệu ngôn ngữ kết liền thành một
không phải một sự vật với một tên gọi mà là một khái niệm với một hình ảnh
âm thanh. Hình ảnh này không phải là cái âm vật chất, một vật thuần túy vật lí,
mà là dấu vết tâm lý của cái âm đó, là cái biểu tượng mà các giác quan của ta
cung cấp cho ta về cái âm đó”. [75, tr.120] Vậy theo F.de Saussure tín hiệu
ngôn ngữ là một thực thể tâm lý có hai mặt: khái niệm và hình ảnh âm thanh,
giữa chúng luôn có mối quan hệ gắn bó khăng khít với nhau. Đây là bước tiến
lớn trong nhận thức về nghĩa của tín hiệu – từ.
Làm rõ hơn một bước, C.K. Ogden và I.A. Richards (1923) đã đề xuất một
sơ đồ gọi là “tam giác nghĩa”. Trong đó, một đỉnh là biểu hiệu, một đỉnh là tư
duy và một đỉnh là sở chỉ, giữa chúng luôn có mối quan hệ lẫn nhau. “Quan hệ
giữa biểu hiệu và tư duy là quan hệ biểu trưng; quan hệ giữa tư duy hay sự quy
chiếu với sở chỉ là quan hệ quy chiếu; quan hệ giữa biểu hiệu với sở chỉ là quan


16

hệ thay thế tên gọi”. [dẫn theo 35, tr.37] Cũng bàn tới vấn đề này, G. Stern
(1931) và S. Ullmann (1962) cũng đưa ra sơ đồ cải tiến tam giác nghĩa và giải
thích mối quan hệ giữa các thành tố của nghĩa. Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra ba
nhân tố nghĩa và thay đổi một số thuật ngữ. Đáng chú ý là các tác giả đưa thêm

khái niệm nội dung liên hội như một loại nghĩa của tín hiệu từ.
Theo quan niệm truyền thống, John Lyons (1977) coi “khái niệm là
nghĩa của từ”. Ông đã cải tiến sơ đồ tam giác nghĩa và giải thích: “Hình thức
của từ có thể nói là “biểu nghĩa” cho cả “khái niệm’ mà các “sự vật” được
gộp vào đó (bằng sự “trừu tượng” khỏi các đặc tính “ngẫu nhiên” của
chúng) và cả bản thân các “sự vật” đó nữa”. [dẫn theo 35, tr.38] Lúc này, cái
quy chiếu không còn được xem là nghĩa nữa mà nghĩa là nội dung khái niệm,
là nội dung liên hội và nghĩa biểu thị.
Bên cạnh các tác giả với những công trình nghiên cứu trên, trong ngữ nghĩa
học thế giới, chúng ta còn gặp nhiều quan niệm với các khuynh hướng khác
nhau như: Kurt baldinger, V.A. Zveginxev, Ju.D. Appressian, Ju.X. Stepanov…
Về hiện tượng chuyển nghĩa của từ cũng được các nhà nghiên cứu bàn tới
với những khuynh hướng nghiên cứu khác nhau. Có thể kể đến ba khuynh
hướng chính trên thế giới như sau: (1) Khuynh hướng nghiên cứu theo nghiên
cứu theo lôgic học mà Paul là người khởi xướng. Những quan niệm của ông
được thể hiện qua bảng phân loại logic học các hiện tượng chuyển nghĩa, trong
đó chú ý đến so sánh nội dung khái niệm trước và sau khi biến đổi, đồng thời
nêu lên mối quan hệ logic giữa chúng. (2) Khuynh hướng nghiên cứu theo tâm
lý học mà đại diện là Wundt, Henry, Murray…. Khuynh hướng này giải thích
hiện tượng chuyển nghĩa căn cứ vào đặc trưng tâm lý với phương châm việc
nghiên cứu chuyển nghĩa cuối cùng phải vĩnh viễn quy thành nghiên cứu tâm lý.
(3) Khuynh hướng nghiên cứu theo lịch sử đứng đầu là Wellander, Smart…. Họ
nghiên cứu đã quan niệm sự chuyển hóa ý nghĩa là một quá trình lịch sử và chỉ


17

trưởng thành một cách vừa ý khi được chứng thực trong quá trình thực tế. Bên
cạnh đó, các nhà nghiên cứu cũng đã cố gắng tập hợp và hệ thống hóa những
nguyên nhân có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến sự chuyển nghĩa trong

ngôn ngữ. Aitchison và một số nhà ngôn ngữ cùng quan điểm cho rằng: Sự
chuyển nghĩa trong tiếng Anh do đặc điểm thuộc về bản chất của ngôn ngữ và
tâm lí của người sử dụng, yếu tố xã hội. Ngược lại, Fromkin và một số tác giả
khác cho rằng: Nguyên nhân của sự chuyển nghĩa là do sự tái cấu trúc ngôn
ngữ trong quá trình học tiếng của trẻ và sự thay đổi tâm lý của người học qua
nhiều thế hệ khác nhau. Không đồng quan điểm với các tác giả trên, Lyons cho
rằng: Sự thay đổi xã hội là nguyên nhân chủ yếu của thay đổi ngôn ngữ.
Khi ngôn ngữ học tri nhận ra đời và phát triển mạnh mẽ đặc biệt là ngữ
nghĩa học tri nhận với những tên tuổi như: G. Lakoff, M. Johnson, M. Turner,
C. Fillmore, V. Evans, M. Green ... thì vấn đề nghĩa cũng như sự chuyển nghĩa
của ngôn ngữ sẽ là mảnh đất còn nhiều điều cần khám phá. Dưới góc nhìn của
tri nhận, nghĩa của từ và sự chuyển nghĩa của từ chủ yếu được đề cập thông qua
việc nghiên cứu các ẩn dụ và hoán dụ ý niệm dựa trên những miền nguồn hết
sức cơ bản như: miền cảm xúc, miền bộ phận cơ thể người, miền không gian,
miền ăn uống…. Qua quá trình chuyển nghĩa, các nhà nghiên cứu ngôn ngữ
học tri nhận cũng nhận thấy ẩn dụ ý niệm là cách thức tư duy, hé lộ cho biết
cách nghĩ và văn hóa dân tộc.
b. Những nghiên cứu ở Việt Nam
Ở Việt Nam, so với nghiên cứu ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp thì ngữ nghĩa
học, đặc biệt nghĩa học ngữ pháp (grammatical semantics) là một chuyên
ngành chưa có chiều dày. Sự xuất hiện ban đầu của ngữ nghĩa học gắn liền
với từ vựng học. Vì vậy, những tri thức ban đầu của ngữ nghĩa học chủ yếu
được đề cập trong những giáo trình cơ sở từ vựng học. Nhìn chung, các nhà
nghiên cứu đã quan tâm đến bản chất ý nghĩa từ vựng, các kiểu ý nghĩa từ
vựng, các quan hệ nghĩa, hiện tượng chuyển nghĩa …


18

Năm 1998, cuốn Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng của Đỗ Hữu Châu ra đời.

Lần đầu tiên ở Việt Nam, các vấn đề lí thuyết ngữ nghĩa học được giới thiệu.
Có thể nói, Đỗ Hữu Châu là người nghiên cứu sớm nhất và có nhiều công
trình về lí thuyết nghĩa của từ. Chính ông đã góp phần xây dựng cơ sở nền
tảng cho ngữ nghĩa học từ vựng tiếng Việt. Theo ông, “Nghĩa của từ là hợp
điểm, là kết quả của những nhân tố và tác động giữa những nhân tố tạo
nên nghĩa. Trong số những nhân tố đó, có những nhân tố ngoài ngôn ngữ
và có những nhân tố nằm trong ngôn ngữ”. [17, tr.98] Quan niệm này của
Đỗ Hữu Châu không chỉ dừng lại ở việc đưa ra khái niệm nghĩa của từ mà còn
bàn tới các thành phần ý nghĩa của từ. Tác giả đã xác định các nhân tố ngoài
ngôn ngữ là (1) sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan, có thể thuộc thế
giới nội tâm, có thể thuộc thế giới ảo tưởng; (2) sự hiểu biết của con người
về nhân tố thứ (1), và (3) nhân tố lịch sử xã hội (mỗi thời đại và các tập thể
xã hội khác nhau cũng ảnh hưởng đến nghĩa của từ, khiến cho mỗi từ có thể
có những vẻ nghĩa riêng). Còn các nhân tố thuộc ngôn ngữ là: (1) toàn bộ
hệ thống ngôn ngữ với những quan hệ giữa chúng; (2) chức năng tín hiệu
học của từ. Tác giả thay tam giác nghĩa hình học phẳng bằng hình tháp
nghĩa hình học không gian như sau:
Từ-trừu tượng

Người dùng
Tư duy

Chức năng tín hiệu

Sự vật
Hệ thống ngôn ngữ

Sơ đồ hình tháp nghĩa [17, tr.101]



19

Theo sơ đồ này thì đỉnh cao nhất của tháp là từ (trừu tượng) với hai thành
phần là hình thức và ý nghĩa. Ở mỗi đỉnh của đáy là từng nhân tố góp phần làm
thành ý nghĩa, gồm: sự vật, hiện tượng, sự hiểu biết của tư duy; nhân tố người sử
dụng; các chức năng tín hiệu học; cấu trúc của ngôn ngữ. Đồng thời, tác giả cũng
bàn tới các quan hệ ngữ nghĩa và trường từ vựng – ngữ nghĩa…
Tiếp theo đó, ngữ nghĩa học đã từng bước được quan tâm như một bộ
môn độc lập với sự xuất hiện của một số công trình khoa học. Nguyễn Thiện
Giáp [34] đã tổng hợp đầy đủ các quan niệm về nghĩa. Tác giả cho rằng:
“Nghĩa của từ là quan hệ gần gũi với chân lí hơn. Nhưng vì từ có quan hệ rất
đa dạng với các hiện tượng khác cho nên nghĩa của từ cũng là một đối tượng
phức tạp, bao gồm một số thành tố đơn giản hơn như: nghĩa sở chỉ, nghĩa sở
biểu, nghĩa sở dụng, nghĩa kết cấu”. [34, tr.125] Quan niệm này của tác giả
cũng chỉ ra các thành tố nghĩa của từ. Mặc dù, quan niệm của ông và Đỗ Hữu
Châu không khác nhau nhiều. Nhưng hệ thuật ngữ thì có khác nhau. Nếu như
Đỗ Hữu Châu gọi các thành phần nghĩa của từ là “nghĩa biểu vật, nghĩa biểu
niệm và nghĩa biểu thái” [18] thì Nguyễn Thiện Giáp dùng: “nghĩa sở chỉ,
nghĩa sở biểu và nghĩa sở dụng” [34]. Ở một số công trình khác, Nguyễn
Thiện Giáp cũng đã đề cập đến ngữ nghĩa học từ vựng như: “sự biển đổi ý
nghĩa của từ ngữ, những quan hệ về nghĩa của từ, trường nghĩa…” [35].
Tiếp theo là Tập bài giảng về Ngữ nghĩa học của Lê Quang Thiêm [82]
Đây có thể coi như một công trình xác lập ngữ nghĩa học với tư cách là một
bộ môn ngôn ngữ học riêng. Ngoài việc giới thiệu những thành tựu về ngữ
nghĩa học, tác giả cũng thể hiện cách lí giải về “tầng nghĩa và kiểu nghĩa
chức năng từ vựng”,“tầng nghĩa và kiểu nghĩa trong các phạm trù ngữ
pháp”, “tầng nghĩa và kiểu nghĩa hiển ngôn của lời”… Trong công trình này,
không chỉ nghĩa học từ vựng mà nghĩa học ngữ pháp và nghĩa học ngữ dụng
cũng được Lê Quang Thiêm bàn tới. Đây là cái mới của công trình này.



20

Tiếp nối và triển khai sâu rộng quan điểm của Đỗ Hữu Châu, Đỗ Việt
Hùng [49] đã trình bày những quan niệm cơ bản về các bình diện nội dung
của tín hiệu ngôn ngữ và vai trò của nghĩa trong hoạt động cũng như sự chi
phối của các nhân tố giao tiếp đến việc sử dụng và lĩnh hội nghĩa.
Có thể nói, ngữ nghĩa học đã từng bước được các nhà nghiên cứu ngôn
ngữ học Việt Nam tiếp cận và vận dụng trong nghiên cứu về tiếng Việt. Với
mong muốn “là một trong những cách làm thiết thực để thúc đẩy sự phát
triển của ngữ nghĩa học ở Việt Nam nói chung, đặc biệt là ngữ nghĩa học ngữ
pháp nói riêng” [60, tr.8], Nguyễn Văn Hiệp đã dịch cuốn Ngữ nghĩa học dẫn
luận của John Lyons ra tiếng Việt. Đây là cuốn dẫn luận ngữ nghĩa học đầu
tiên của nước ngoài được chính thức giới thiệu ở Việt Nam, cung cấp một cái
nhìn bao quát về ngữ nghĩa trên một phổ rộng, từ ngữ nghĩa từ vựng, ngữ
nghĩa của câu đến ngữ nghĩa của phát ngôn.
Về sự biến đổi nghĩa trong tiếng Việt và một số khía cạnh liên quan cũng
đã được đề cập trong những công trình của các tác giả: Hoàng Phê, Hoàng Văn
Hành, Nguyễn Thiện Giáp, Nguyễn Đức Dân…Nhìn chung, các tác giả quan
tâm nhiều đến hiện tượng đa nghĩa, sự biến đổi nghĩa từ được đề cập theo quan
điểm truyền thống với sự chuyển đổi tên gọi: ẩn dụ, hoán dụ, mở rộng và thu
hẹp nghĩa… Gần đây, dưới góc nhìn của ngôn ngữ học tri nhận, nghiên cứu
nghĩa và sự chuyển nghĩa trong tiếng Việt, Nguyễn Đức Tồn và học trò của
mình [97] đã thống kê số lượng nghĩa chuyển, các phương thức chuyển nghĩa
của trường từ vựng chỉ động vật, thực vât, bộ phận cơ thể người. Đây là công
trình khoa học được tiến hành nghiên cứu theo hướng lí thuyết tâm lý ngôn ngữ
học tộc người. Lý Toàn Thắng cũng có nhiều nghiên cứu về hiện tượng này.
Ông đã so sánh hiện tượng chuyển nghĩa của một số từ chỉ bộ phận cơ thể
người trong tiếng Việt sang các từ chỉ bộ phận đồ vật và định vị không gian với
các từ tương ứng trong tiếng Anh; thông qua đó để thấy được cách nhận thức

về hiện thực của từng dân tộc. Bên cạnh đó, trong công trình [78], Lý Toàn


21

Thắng đã áp dụng một số khái niệm cơ bản như: tri nhận, ý niệm, hình, nền…
để tìm hiểu thực tiễn tiếng Việt, từ đó đưa ra nhiều kết luận có giá trị. Tiếp đó,
Trần Văn Cơ [23] cũng coi từ đa nghĩa của từ như một phạm trù ý niệm và mỗi
nghĩa là một tiểu phạm trù. Nguyễn Văn Hiệp [47] đã dùng lí thuyết nghiệm
thân để lý giải con đường chuyển nghĩa của từ “ra”, “vào” trong tiếng Việt.
Ngoài những công trình mang tính chất giới thiệu lí thuyết trên, cần phải
kể tới một lượng lớn những công trình mà các nhà nghiên cứu đã áp dụng lí
thuyết về nghĩa để nghiên cứu một đối tượng cụ thể theo các hướng nghiên cứu
khác nhau. Đó là các đề tài khoa học, công trình luận án tiến sĩ, luận văn thạc
sĩ, khoá luận tốt nghiệp và một số bài viết đăng trên tạp chí chuyên ngành. Gần
đây, trong Việt Ngữ học, hướng nghiên cứu ngữ nghĩa trong mối quan hệ với
kết trị của một từ loại được quan tâm với các công trình tiêu biểu:
Nguyễn Mạnh Tiến [88] đã làm rõ sự chi phối của ý nghĩa đối với kết
trị của động từ tiếng Việt. Theo tác giả, ý nghĩa và thuộc tính kết trị của từ
luôn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong mối quan hệ đó, ý nghĩa giữ
vai trò chi phối kết trị. Sự chi phối của ý nghĩa đối với thuộc tính kết trị của
động từ thể hiện ở chỗ: “ý nghĩa của động từ quy định số lượng kết trị bắt
buộc (số lượng diễn tố) có thể có bên nó”, “quy định ý nghĩa và hình thức
ngữ pháp của các diễn tố”và “quy định sự hiện thực hóa kết trị của động từ
trong lời nói”. [88, tr.35]
Bùi Thị Nga [62] ngoài việc thống kê các vị từ kết nối trong tiếng Việt
đã vận dụng lí thuyết ngữ nghĩa chỉ ra đặc điểm ngữ nghĩa chung của vị từ
kết nối: hợp nhất, nối kết và tác tạo các đối tượng. Tác giả đã phân tích năm
hướng chuyển nghĩa của các vị từ nối kết, bước đầu lý giải cội nguồn hiện
tượng chuyển nghĩa của vị từ nối kết trong tiếng Việt.

Cùng hướng nghiên cứu với Bùi Thị Nga, Phạm Thị Mỹ Việt [100] đã
xác lập được hệ thống các vị từ quá trình tiêu biểu trong tiếng Việt. Tác giả


22

đã làm rõ đặc điểm ngữ nghĩa của nhóm từ này khi dùng với nghĩa gốc và
nghĩa chuyển. Với bốn hướng chuyển nghĩa biểu thị thời gian, hoạt động trí
tuệ của con người, trạng thái tâm lý- tình cảm và cuộc đời, mối quan hệ giữa
ngữ nghĩa và kết trị của từ nói chung và vị từ quá trình trong sự hiện thực
hóa ngôn ngữ được sáng tỏ.
Gần đây, Bùi Minh Toán, Lê Thị Lan Anh [95] đã làm sáng tỏ và cụ thể
hóa mối quan hệ giữa những đặc điểm ngữ nghĩa của từ (nghĩa từ vựng,
nghĩa ngữ pháp, trường nghĩa, sự chuyển nghĩa, sự chuyển trường) với đặc
điểm kết trị (số lượng, kiểu loại) của nó trên ngữ liệu tiếng Việt. Nghĩa của
từ “chi phối một cách khá chặt chẽ số lượng và đặc tính của các kết tố cần
yếu, đồng thời cũng cho phép sự có mặt của các kết tố khả dĩ”. [95, tr.591]
Có thể nói, những vấn đề ngữ nghĩa học và ngữ nghĩa học tiếng Việt
trong những công trình nghiên cứu trên là tri thức quan trọng giúp chúng tôi
có cái nhìn toàn cảnh về ngữ nghĩa học để triển khai nghiên cứu nghĩa và sự
phát triển ngữ nghĩa của nhóm TTCĐĐVL của sự vật trong tiếng Việt.
1.1.1.2. Tình hình nghiên cứu về kết trị của từ
Trong ngôn ngữ học, thuật ngữ kết trị - valency - mới được sử dụng rộng
rãi từ cuối những năm 40 của thế kỷ XX để chỉ khả năng kết hợp của các lớp
từ hoặc các lớp hạng đơn vị ngôn ngữ nói chung.
Nhìn một cách tổng thể cho đến nay, đã có nhiều công trình trong và ngoài
nước nghiên cứu về kết trị.
a. Tình hình nghiên cứu về kết trị của từ trên thế giới
Lí thuyết kết trị đã được nghiên cứu trên nhiều cấp độ với nhiều quan
điểm khác nhau. Theo tổng kết của Nguyễn Văn Lộc, trong công trình

nghiên cứu “Kết trị của động từ tiếng Việt”, kết trị của từ được hiểu là
thuộc tính kết hợp của động từ hoặc một số từ loại nhất định. Quan niệm
này gắn liền với tên tuổi của nhà ngôn ngữ học Pháp L.Tesnière và một số


23

nhà ngôn ngữ học khác như: S.D. Kasnelson, A.A Kholodovich, S.M.
Kibardina, N.I. Tjapkina và A.M. Mukhin ….
L. Tesnière, một trong những người sáng lập lí thuyết kết trị, trong công
trình “Các yếu tố của cú pháp cấu trúc” đã cho rằng: Động từ “là thành tố
hạt nhân, là cái nút chính của câu. Với vai trò hạt nhân động từ qui định số
lượng và đặc tính của các thành tố có quan hệ với nó”. [dẫn theo 57, tr.26]
Ông đã phân biệt hai loại thành tố phụ thuộc vào động từ là diễn tố và chu tố.
Theo đó, cấu trúc câu sẽ bao gồm một động từ hạt nhân cùng các yếu tố bổ
sung, làm rõ nghĩa cho động từ đó. Mỗi loại động từ, tùy vào bản chất của
mình, sẽ đòi hỏi một số lượng nhất định các diễn tố với những đặc tính riêng
biệt. Bên cạnh đó, L. Tesnière cũng đưa ra quan điểm về khái niệm kết trị của
động từ. Đó là “thuộc tính hay khả năng của động từ hút vào mình một khối
lượng nhất định các diễn tố”. [dẫn theo 58, tr.199] Quan điểm này của L.
Tesnière gắn với lí thuyết ngữ pháp phụ thuộc có tầm ảnh hưởng không chỉ ở
Pháp mà còn ở một số nước khác.
Khác với L. Tesnière, S.D. Kasnelson đưa ra cách hiểu về kết trị và phân
biệt kết trị với khả năng tham gia vào các mối quan hệ cú pháp nói chung. Theo
ông, “kết trị là thuộc tính của lớp từ nhất định kết hợp vào mình những từ khác…
nhưng không có nghĩa là tất cả các từ đều có kết trị mà chỉ những từ có khả
năng tạo ra các “ô trống” đòi hỏi làm đầy trong các phát ngôn mới có kết trị”.
[dẫn theo 57, tr.27] So với L. Tesnière, S.D.Kasnelson đã đưa ra khái niệm kết
trị một cách chặt chẽ hơn, cụ thể hơn. Nó là khả năng tạo ra các vị trí xung
quanh mình của các lớp từ chứ không phải là khả năng kết hợp chung chung.

Bên cạnh đó, S.D.Kasnelson cũng đã có sự phân biệt kết trị nội dung và kết trị
hình thức. Những điều này là những đóng góp mới của S.D. Kasnelso góp
phần làm cho lí thuyết kết trị trở nên sâu sắc hơn.


24

N.I. Tjapkina và A.M. Mukhin đã mở rộng khái niệm kết trị của động từ
hơn. N.I. Tjapkina cho rằng: “Kết trị của động từ được xác định dựa vào toàn
bộ các mối quan hệ cú pháp có thể có đối với nó”. [dẫn theo 58, tr.200] Với
cách hiểu này, N.I. Tjapkina đã đồng nhất khả năng của từ tham gia vào các
mối quan hệ cú pháp nói chung với kết trị. Ông phân biệt kết trị chung với kết
trị hạt nhân. Trong khi đó, A.M. Mukhin quan tâm đến kết trị bắt buộc và kết
trị tự do của động từ như: kết trị nguyên nhân, mục đích, phương tiện....
Nếu như L.Tesnière và một số nhà ngôn ngữ học chỉ quan tâm đến kết trị
của từ (động từ) thì M.D. Stepanova, G. Helbig, T.M Beljaeva … lại mở rộng
khái niệm kết trị từ cấp độ từ sang các cấp độ và các bình diện khác của ngôn
ngữ. M.D. Stepanova trong cuốn “Lý thuyết kết trị và việc phân tích kết trị”,
đã dùng thuật ngữ kết trị theo cách hiểu rộng, kết trị được hiểu là “khả năng
kết hợp của các đơn vị ngôn ngữ cùng cấp độ…Kết trị vừa là tiềm năng vừa là
sự hiện thực hóa tiềm năng này, nghĩa là, kết trị đồng thời vừa là sự kiện của
ngôn ngữ, vừa là sự kiện của lời nói”. [dẫn theo 57, tr.29] Như vậy, theo quan
niệm của M.D. Stepanova, kết trị không phải chỉ là thuộc tính kết hợp của từ
(cấp độ từ) mà còn là thuộc tính của các đơn vị ngôn ngữ thuộc các cấp độ
khác. Kết trị cũng không phải chỉ thuộc bình diện cú pháp mà còn thuộc một số
bình diện khác của ngôn ngữ. Đồng thời, ngoài kết trị chủ động còn có kết trị bị
động, bên cạnh kết trị cú pháp còn có kết trị ngữ nghĩa và kết trị lôgic …
Có thể thấy, các nhà nghiên cứu không chỉ quan tâm đến vấn đề kết trị
của từ (động từ) như: khái niệm kết trị, phân biệt kết trị với khả năng kết hợp
và các kiểu kết trị của động từ... mà còn mở rộng khái niệm kết trị sang các

cấp độ và bình diện khác của ngôn ngữ. Và ở cấp độ từ, ngoài động từ, các từ
loại khác như: danh từ, tính từ, số từ … có kết trị hay không? Nếu các từ loại
này có kết trị thì chúng phải có những thuộc tính kết trị như thế nào? Để giải
quyết được thấu đáo vấn đề phức tạp trên không phải là việc đơn giản. Nó
đòi hỏi phải có một công trình riêng, chuyên sâu về lí thuyết kết trị.


25

b. Sự vận dụng lí thuyết kết trị vào nghiên cứu từ ở Việt Nam
Lí thuyết kết trị của L.Tesnière đã được các nhà Việt ngữ học nhanh chóng
vận dụng vào nghiên cứu tiếng Việt ở nhiều hướng tiếp cận mới. Các nhà ngữ
pháp học hiện đại đã tiếp cận ngữ pháp theo đường hướng ngữ nghĩa chức năng
bên cạnh việc nghiên cứu ngữ pháp theo cấu trúc lôgic của ngữ pháp truyền
thống. Vì vậy, hàng loạt những công trình có giá trị xuất hiện.
Đầu tiên phải kể đến công trình “Tiếng Việt sơ thảo ngữ pháp chức
năng” (2006) của Cao Xuân Hạo. Ở công trình này, tác giả chỉ mới đề cập đến
lí thuyết kết trị và khẳng định vai trò quan trọng của L. Tesnière trong việc
sáng lập ra lí thuyết kết trị mở đường cho ngữ pháp chức năng. Tác giả viết:
L. Tesnière “là người đã đưa khái niệm valence và các khái niệm liên quan
(actants, circonstants) vào nghĩa học của cú pháp và do đó có thể coi ông là
một trong những người sáng lập ra ngành này”. [43, tr.83]
Một trong những người tiên phong vận dụng linh hoạt lí thuyết kết trị
của L. Tesnière vào nghiên cứu ngôn ngữ ở Việt Nam là Nguyễn Văn Lộc.
Trong công trình nghiên cứu “Kết trị của động từ tiếng Việt” (1995), tác giả
đã đưa ra định nghĩa kết trị của động từ:“Kết trị của động từ là khả năng của
động từ tạo ra xung quanh mình các vị trí mở cần hoặc có thể làm đầy bởi
những thành tố cú pháp (những thực từ) mang ý nghĩa bổ sung nhất định. Nói
cách khác, kết trị của động từ là thuộc tính của động từ kết hợp với mình
những thành tố cú pháp bắt buộc hoặc tự do”. [57, tr.34] Từ đó, tác giả đã

xác định kết trị của động từ, phân loại kết trị của động từ và đặc biệt đi sâu
phân tích, miêu tả hai kiểu kết trị bắt buộc của động từ tiếng Việt là kết tố chủ
thể và kết tố đối thể cùng với sự hiện thực hóa kết trị bắt buộc của động từ.
Tác giả chú ý miêu tả kết trị của các động từ đặt trong các ngữ cảnh cụ thể để
lý giải các hiện tượng kết tố có mặt hay vắng mặt trong quá trình hiện thực
hóa kết trị của từ trong câu. Tuy nhiên, đặc điểm kết trị của từng nhóm động


×