Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

Thực trạng hoạt động thị trường tài chính Mỹ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (221.36 KB, 31 trang )

Thực trạng hoạt động thị trờng tài chính Mỹ
I. Những vấn đề pháp lý liên quan tới hoạt động
thị trờng tài chính Mỹ
1. Đối với thị tr ờng tiền tệ
Thành viên chính tham gia vào thị trờng tiền tệ đó là các ngân hàng thơng
mại. Vì vậy nghiên cứu những vấn đề pháp lý liên quan tới hoạt động của các
ngân hàng cũng chính là nghiên cứu về những vấn đề pháp lý liên quan tới hoạt
động thị trờng tiền tệ Mỹ. Đầu những năm 1980 hệ thống ngân hàng của Mỹ đã có
những chuyển biến lớn về cơ cấu hoạt động cũng nh tổ chức. Hai đạo luật trong
lĩnh vực hoạt động ngân hàng đó là: luật quản lý tiền tệ 1980, luật Garn-St
Germain 1982 đã tạo đà cho những sự thay đổi này của hệ thống ngân hàng Mỹ.
Đồng thời Quốc hội Mỹ cũng phải chỉnh sửa lại đạo luật đã có từ lâu đạo luật
Glass-Steagall 1933. Dới đây tác giả sẽ đi sâu nghiên cứu khái quát từng đạo luật
để biết đợc nó có những sự thay đổi gì.
- Luật quản lý tiền tệ 1980
Với việc thông qua Luật quản lý tiền tệ và điều chỉnh hoạt động của các tổ
chức tín dụng (gọi tắt là Luật quản lý tiền tệ 1980). Quốc hội Mỹ đã thay đổi đáng
kể các quy tắc hoạt động ngân hàng Mỹ, quy định chức năng quyền hạn của
NHTW Mỹ, và sửa đổi quyền hạn của NHTW trong việc hoạch định chính sách
tiền tệ. Luật quản lý tiền tệ 1980 đã làm thay đổi vị thế cạnh tranh giữa các công
ty tài chính với các ngân hàng, tạo điều kiện cho ngời gửi tiền có thể gửi đợc tiền
với lãi suất cao hơn, và cho phép các tổ chức tín dụng trong nớc đa ra các tài
khoản có thể thanh toán nhng vẫn đợc hởng lãi suất (nh tài khoản NOW).
Từ năm 1981 đến 1986 đạo luật này đã đa ra quy tắc điều chỉnh lãi suất trần,
tiền gửi tiết kiệm tại ngân hàng và tại các công ty tài chính (quy tắc Q). Đạo luật
này cũng tăng mức trách nhiệm bảo hiểm tiền gửi lên 100.000 đô la Mỹ cho mỗi
tài khoản. Ngân hàng nhận tiền gửi cũng đợc những đặc quyền của Liên bang
trong việc cung cấp nhiều dịch vụ hơn để có thể cạnh tranh đợc với các ngân hàng
thơng mại. Hiệp hội tích luỹ và cho vay, liên đoàn tín dụng cũng đợc trao nhiều
quyền hơn. Trớc đây những công ty tài chính dạng này chỉ đợc hoạt động trong
lĩnh vực cầm cố hoặc cho vay nhà đất.


Thay đổi lớn nhất trong hoạt động ngân hàng đó là việc NHTW Mỹ đợc
quyền yêu cầu các tổ chức tín dụng phải có dự trữ bắt buộc - cả ngân hàng thơng
mại thành viên và ngân hàng thơng mại không thành viên, ngân hàng nhận tiền
gửi, hiệp hội tích luỹ và cho vay, liên đoàn tín dụng, nói chung là tất cả các ngân
hàng cũng nh chi nhánh ngân hàng của Mỹ.
- Luật Garn-St Germain 1982
Luật các tổ chức tín dụng năm 1982, đợc biết với cái tên Garn-St German
Act, điều chỉnh hoạt động của các ngân hàng, các tổ chức nhận tiền gửi và hoạt
động của các cơ quan quản lý hoạt động ngân hàng ngoài các ngân hàng chịu sự
điều chỉnh của luật quản lý tiền tệ 1980. Đạo luật này cho phép các ngân hàng bán
tài khoản ký thác để cạnh tranh với công trái nhà nớc. Đạo luật đa ra những điều
khoản thông thoáng hơn cho ngành tài chính. Đặc biệt là đạo luật này cho phép
FDIC (the Federal Deposit Insurance Corporation) có thể can thiệp để giúp đỡ các
ngân hàng nhận tiền gửi, hiệp hội tích luỹ và cho vay khỏi tình trạng phá sản, cấp
một khoản trợ giúp khẩn cấp cho các ngân hàng mua lại mua lại các công ty tài
chính phá sản, cho phép các công ty tài chính phát hành chứng chỉ tài sản ròng
(net work certificates). Quyền đầu t và cho vay của các công ty tài chính cũng đợc
nới rộng.
Đạo luật này cũng tăng mức giới hạn tối đa mà các ngân hàng thơng mại có
thể cho vay lên 15% vốn tự có của ngân hàng so với 10% nh trớc kia và nếu ngân
hàng nào thực sự ổn định thì có thể cho vay thêm 10% vốn tự có.
Đạo luật này cho phép các tổ chức tín dụng trong nớc có hai triệu đô la Mỹ
trong tài khoản giao dịch và tài sản hiện có sẽ không phải dự trữ bắt buộc. Đạo
luật cũng cho phép khoảng gần 20.000 liên đoàn tín dụng Mỹ không phải dự trữ
bắt buộc. Một sửa đổi nhỏ của đạo luật này vào năm 1983 là cho phép tài khoản
ký thác mới mở trên thị trờng tiền tệ không phải có một khoản tiền dự trữ bắt buộc
nữa.
2. Đối với thị tr ờng vốn
Nh đã nói ở phần trên, theo quan điểm của tác giả thì thị trờng vốn và thị tr-
ờng chứng khoán chỉ là một, vì vậy nghiên cứu những vấn đề pháp lý liên quan tới

thị trờng chứng khoán cũng là nghiên cứu những vấn đề pháp lý liên quan tới thị
trờng vốn. Cơ quan đứng đầu quản lý thị trờng chứng khoán ở Mỹ đó là Uỷ Ban
chứng khoán Mỹ - UBCK (SEC - US Securities and Exchange Commission), đợc
thành lập ngày 6/6/1934 sau sự sụp đổ của thị trờng năm 1929. UBCK Mỹ là cơ
quan có tính độc lập cao đứng đầu là Chủ tịch và 4 Uỷ viên hội đồng do Tổng
thống bổ nhiệm với nhiệm kỳ 5 năm. SEC có quyền lực rộng rãi từ việc ban hành
các quy định, cấp phép kinh doanh, cấp phép thành lập sở giao dịch đến việc kiểm
tra, giám sát và xử lý kỷ luật các chủ thể tham gia thị trờng. Toàn bộ hoạt động
của thị trờng chứng khoán Mỹ chịu sự điều tiết của các luật sau:
- Luật chứng khoán 1933
Đây là đạo luật cơ bản điều chỉnh mọi hoạt động trên thị trờng chứng khoán
Mỹ. Đạo luật đợc coi là đạo luật "trung thực với chứng khoán". Mục tiêu của đạo
luật này là: thứ nhất, tất cả các nhà đầu t đều có quyền nhận đợc mọi tin tức tài
chính và tin tức quan trọng khác liên quan tới chứng khoán đợc chào bán; thứ hai,
nghiêm cấm mọi hành vi gian lận, lừa dối, nội gián trong việc mua bán chứng
khoán.
- Luật giao dịch chứng khoán 1934
Với đạo luật này, Quốc hội Mỹ chính thức cho ra đời UBCK. Đạo luật này
trao cho UBCK quyền quản lý mọi hoạt động trong ngành chứng khoán bao gồm:
quyền cho phép đăng ký kinh doanh, quyền điều tiết, quyền giám sát các công ty
môi giới chứng khoán, các đại lý giao dịch, và đại lý thanh toán bù trừ cũng nh
các tổ chức tự điều tiết (self regulatory organizations - SROs). Các sở giao dịch
chứng khoán nh sở giao dịch chứng khoán New York, sở giao dịch chứng khoán
Mỹ đều là SROs. Hiệp hội các nhà bán buôn chứng khoán quốc gia (NASD - the
National Association of Securities Dealers ) quản lý hệ thống NASDAQ cũng là
SRO. Đạo luật này đồng thời trao cho UBCK quyền xử phạt đối với các cơ quan
điều tiết và những ngời liên quan tới họ. Đạo luật cũng cho phép UBCK có quyền
yêu cầu các công ty có chứng khoán mua bán công khai cung cấp các bản báo cáo
định kỳ.
- Luật công ty cổ phần 1935

Các công ty cổ phần có đại lý hoặc thông qua đại lý hoạt động trong lĩnh vực
dịch vụ công cộng hoặc phân phối bán lẻ khí ga sản xuất hoặc tự nhiên đều chịu
sự điều tiết của luật này. Các công ty này phải đa ra các báo cáo trong đó đề cập
đến tất cả các thông tin chi tiết liên quan tới cơ cấu tài chính, cơ cấu tổ chức và
hoạt động của công ty cũng nh của các chi nhánh. Các công ty cổ phần phải tuân
theo các quy định của UBCK về các vấn đề nh: cấu trúc hệ thống dịch vụ công
cộng, các giao dịch giữa các công ty cổ phần dịch vụ công cộng với nhau, các giao
dịch tài chính và các vấn đề về mua bán chứng khoán...
- Luật tín thác 1939
Đạo luật này đợc áp dụng với các chứng khoán nợ nh trái phiếu, giấy nợ, và
các giấy tờ đợc mua bán rộng rãi. Thậm chí những chứng khoán đó có đợc đăng
ký theo luật chứng khoán rồi thì nó vẫn cha đợc mua bán rộng rãi nếu cha có thoả
thuận giữa ngời phát hành chứng khoán và ngời cầm giữ chứng khoán, hay còn gọi
là tín thác. Thoả thuận đó phải tuân thủ các quy định của luật này.
- Luật công ty đầu t 1940
Luật này điều chỉnh hoạt động của các công ty nh quỹ tơng hỗ đầu t. Các quỹ
tơng hỗ đầu t thờng tiến hành hoạt động đầu t, tái đầu t và buôn bán chứng khoán
hoặc có chứng khoán đợc buôn bán rộng rãi ra công chúng. Quy định này đợc đa
ra nhằm tối thiểu hoá xung đột về lợi ích phát sinh trong các giao dịch phức tạp.
Luật này yêu cầu các công ty phải công bố tình hình tài chính, chính sách đầu t
cho các nhà đầu t biết khi cổ phiếu đợc chào bán lần đầu tiên. Mục đích của Luật
công ty đầu t là công khai hoá các thông tin về quỹ, về mục tiêu đầu t cũng nh cấu
trúc và hoạt động của công ty đầu t. Tuy nhiên, đạo luật này không cho phép
UBCK trực tiếp kiểm soát các quyết định hoặc hoạt động đầu t của các công ty
này hoặc quyết định giá trị đầu t của họ.
- Luật t vấn đầu t 1940
Luật này điều tiết hoạt động của các nhà t vấn đầu t. Đạo luật này quy định
các công ty và các luật s muốn hoạt động trong lĩnh vực t vấn đầu t thì phải đăng
ký với UBCK và tuân thủ các quy định bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu t.
- Luật Sarbanes - Oxley 2002

Ngày 30 tháng 7 năm 2002 Tổng thống Mỹ Bush đã chính thức ban hành luật
Sarbanes - Oxley 2002. Đạo luật này đợc coi là cải tổ lớn nhất trong hoạt động
kinh doanh Mỹ kể từ thời Tổng thống Franklin Delano Roosevelt. Đạo luật này
đòi hỏi các doanh nghiệp có trách nhiệm nhiều hơn nữa trong việc báo cáo tình
hình tài chính, về gian lận kế toán và yêu cầu các doanh nghiệp phải lập "Ban
kiểm soát kế toán công ty cổ phần - Public Company Accounting Oversight Board
- PCAOB" để kiểm soát các hoạt động kế toán trong công ty.
II. Thực trạng hoạt động thị trờng tài chính Mỹ
1. Thực trạng hoạt động thị tr ờng ngoại hối Mỹ
Để mua hàng hoá dịch vụ từ nớc ngoài hoặc đầu t vào nớc khác, điều đầu
tiên các công ty hoặc cá nhân thờng làm đó là mua đồng tiền của nớc mà họ tiến
hành giao dịch. Nói chung nhà xuất khẩu thờng muốn đợc trả bằng tiền nớc
mình hoặc bằng đồng đô la Mỹ, đồng tiền đợc chấp nhận trên toàn thế giới.
1.1. Đặc điểm thị trờng ngoại hối Mỹ
1.1.1 Là thị tr ờng ngoại hối lớn nhất thế giới
Thị trờng ngoại hối Mỹ là thị trờng lớn nhất và có tính thanh khoản cao nhất
trên thế giới. Theo ớc tính thì doanh số toàn cầu của thị trờng ngoại hối Mỹ đạt
mức khoảng 1.500 tỷ đô la Mỹ một ngày, gấp vài lần so với doanh số thị trờng trái
phiếu Chính phủ Mỹ, thị trờng lớn thứ hai thế giới. Các thơng vụ của cá nhân từ
200 triệu đô la Mỹ tới 500 triệu đô la Mỹ là chuyện thờng xuyên. Giá cả niêm yết
thay đổi thờng xuyên, cứ 20 lần một phút. Theo ớc tính thì tỷ giá hối đoái thay đổi
18.000 lần trong một ngày bình thờng. (Nguồn:
www.ny.frb.org/education/addpub/usfxm/)
Với doanh số 1.500 tỷ đô la Mỹ một ngày thì quả thật không cần phải liệt kê
ra con số lực lợng tham gia thị trờng. Gần hai phần ba tổng số giao dịch diễn ra
giữa những nhà bán buôn và với một phần ba tổng số giao dịch diễn ra giữa những
nhà bán buôn với các khách hàng. Một giao dịch ban đầu của nhà bán buôn thờng
kéo theo rất nhiều lần các giao dịch tiếp theo, đôi khi các giao dịch diễn ra trong
khoảng thời gian rất dài do các nhà bán buôn thờng phải cân nhắc vị trí của mình
để tự bảo hiểm cho mình, quản lý và tránh những rủi ro có thể có. Do đó, số lợng

giao dịch với khách hàng của các nhà bán buôn thờng chiếm một tỷ lệ nhỏ so với
tổng lợng giao dịch của họ.
Trong rất nhiều thị trờng tài chính trên thế giới thì giao dịch ngoại hối diễn ra
nhiều nhất là ở Anh quốc mặc dù đồng tiền của quốc gia này - đồng bảng Anh - lại
ít đợc mua bán hơn nhiều so với đồng tiền khác.
Hình 2: Doanh số giao dịch ngoại hối trên thế giới
Nguồn: www.ny.frb.org/education/addpub/usfxm/
Theo nh bảng trên thì Anh quốc là nớc chiếm tới gần 33% tổng doanh số giao
dịch ngoại hối toàn cầu, xếp thứ nhất, tiếp theo là Mỹ chiếm 17% và đứng thứ ba
là Nhật Bản với 10%. Nh vậy, ba trung tâm tài chính lớn nhất thế giới ở châu Âu,
châu á và Tây bán cầu chiếm tới 60% tổng doanh số giao dịch ngoại hối toàn cầu.
Đứng sau ba trung tâm tài chính khổng lồ này là Singapore với 7% tổng số giao
dịch toàn cầu.
Khối lợng giao dịch ngoại hối ở Anh phản ánh vị trí đáng nể của thành phố
London trên thị trờng tài chính quốc tế và đây cũng là nơi có nhiều tổ chức tài
chính lớn nhất. Theo thống kê thì có 213 tổ chức tài chính ở Anh tiến hành các
hoạt động kinh doanh ngoại hối thông qua Ngân hàng Trung ơng Anh, nhng chỉ có
93 tổ chức tài chính ở Mỹ tiến hành các hoạt động kinh doanh thông qua Quỹ dự
trữ Liên bang.
Trong hoạt động kinh doanh ngoại hối, London không những đợc lợi về vị trí
địa lý gần với thị trờng đồng Euro và gần các tổ chức tài chính lớn thế giới mà
London còn đợc lợi về vùng thời gian chuẩn (time zone). ở London, các trung tâm
tài chính mở cửa vào buổi sáng trong khi hàng loại các trung tâm tài chính ở Đông
Âu và châu á vẫn đang là buổi chiều muộn; tức là buổi chiều hôm nay của
London tơng ứng với sáng sớm cùng ngày của thị trờng Bắc Mỹ. Do đó, London
sẽ có nhiều giao dịch ngoại hối bằng đồng đô la Mỹ hơn là ở Mỹ và nhiều giao
dịch ngoại hối bằng đồng Euro hơn là ở Đức. Tuy nhiên, đa số các giao dịch tiến
hành ở London, khoảng 85% là do các tổ chức tài chính nớc ngoài thực hiện,
khoảng 49% là do các nhà bán buôn Mỹ tiến hành nói cách khác gấp ba lần khối
lợng giao dịch của các tổ chức tài chính Anh.

1.1.2 Là thị tr ờng hoạt động 24/24 giờ
Trong vòng một phần t thế kỷ qua, khái niệm thị trờng hai t giờ đã trở thành
hiện thực. Đâu đó trên hành tinh, các thị trờng tài chính mở cửa kinh doanh, các
ngân hàng, các tổ chức tài chính mua đi bán lại đồng đô la và các đồng tiền khác
hàng giờ, hàng ngày và thậm chí hàng đêm. Tại các trung tâm tài chính trên thế
giới, khi thời gian làm việc trôi qua, nơi thì sắp đóng cửa, nơi sắp mở cửa và bắt
đầu hoạt động kinh doanh. Thị trờng ngoại hối cứ tiếp diễn theo dòng thời gian và
theo vòng quay của mặt trời quanh trái đất.
Múi giờ quốc tế nằm ở phía tây Thái Bình Dơng và các giao dịch sẽ bắt đầu ở
các trung tâm tài chính châu á Thái Bình Dơng - đầu tiên ở Wellington, New
Zealand, sau đó là Syney, Australia, Tokyo, Hong Kong, và Singapore. Một giờ sau
đó, trong khi các thị trờng này vẫn còn đang hoạt động ở khu vực châu á thì công
việc kinh doanh mới bắt đầu ở Bahrain và Đông Âu. Sau cùng, khi công việc kinh
doanh ở Tokyo sắp sửa kết thúc thì các thị trờng ở châu Âu mới bắt đầu hoạt động.
Nh vậy, vào đầu giờ chiều ở châu Âu thì công việc kinh doanh ở New York và các
trung tâm khác mới bắt đầu. Kết thúc vòng thời gian này là vào giữa hoặc cuối giờ
chiều của Mỹ, ngày tiếp theo bắt đầu ở khu vực châu á Thái Bình Dơng, thị trờng
đầu tiên bắt đầu hoạt động và quá trình nh vậy lại bắt đầu.
Thị trờng hai t giờ tức là tỷ giá hối đoái và tình hình thị trờng có thể thay đổi
vào bất kỳ thời gian nào để theo kịp với những diễn biến có thể xảy ra ở bất kỳ nơi
đâu. Điều đó cũng có nghĩa là các nhà kinh doanh và các thành viên thị trờng phải
cảnh giác với khả năng tỷ giá biến động mạnh trong thời gian nghỉ ở bất kỳ nơi
nào trên thế giới. Các tổ chức tài chính lớn thờng phải thích nghi với tình hình thị
trờng nh vậy và đa ra hàng loạt các giải pháp nhằm kiểm soát thị trờng và tiến
hành hoạt động kinh doanh trên cơ sở thị trờng hai t giờ. Có tổ chức tài chính tiến
hành hoạt động ở New York, tổ chức tài chính khác mở cửa hai t giờ một ngày, tổ
chức thì tiến hành hoạt động từ trụ sở này sang trụ sở khác và có thể có nhiều giải
pháp nữa.
Tuy nhiên, hoạt động giao dịch ngoại hối không tiến hành trôi chảy nh vậy.
Trong một ngày, có thể có thời gian giao dịch ngoại hối rất nhiều và có thể có thời

gian có rất ít giao dịch xảy ra. Ngời bán thì muốn bán khi họ tiếp cận đợc với khối
lợng ngời mua lớn nhất và ngời mua muốn mua khi họ tiếp cận đợc với khối lợng
ngời bán lớn nhất.
Các giao dịch đợc tiến hành nhiều nhất khi cả thị trờng Mỹ và thị trờng chính
châu Âu đều mở cửa tức là vào buổi sáng New York và buổi chiều London. ở
New York gần hai phần ba các giao dịch ngoại hối trong ngày diễn ra vào buổi
sáng. Các hoạt động giao dịch tiến hành rất ít ở New York vào giữa hoặc cuối giờ
chiều sau khi thị trờng châu Âu đóng cửa và trớc khi thị trờng Tokyo, Hồng Kông
và Singapore mở cửa trở lại.
1.1.3 Là thị tr ờng hoạt động của mạng l ới các th ơng gia
Thị trờng ngoại hối Mỹ có rất ít các thơng gia lớn kinh doanh ngoại hối với
khách hàng và với nhau. Mà chủ yếu là các ngân hàng thơng mại và ngân hàng
đầu t tiến hành hoạt động kinh doanh ngoại hối. Các thơng gia ngoại hối lớn thờng
phân tán ở nhiều nơi trên khắp thế giới và tiến hành các giao dịch ngoại hối với
ngân hàng. Bất kể trụ sở có ở đâu đi chăng nữa thì các tổ chức này cũng liên kết
chặt chẽ với nhau, hoặc thông qua điện thoại, hoặc thông qua máy tính hoặc thông
qua các phơng tiện thông tin đại chúng khác.
Theo thống kê của Ngân hàng thanh toán quốc tế (Bank of International
Settlements) thì mạng lới các thơng gia quốc tế có khoảng 2000 tổ chức, và có
chừng 200 ngân hàng tạo lập thị trờng.
1.1.4 Đồng tiền đ ợc giao dịch nhiều nhất trên thị tr ờng này là đô la Mỹ
Cho đến nay thì đồng đô la Mỹ là đồng tiền đợc mua bán nhiều nhất trên thế
giới. Đồng đô la Mỹ là một trong hai đồng tiền đợc sử dụng trong hơn 87% các
giao dịch ngoại hối, tơng đơng với khoảng 1.300 tỷ đô la Mỹ một ngày. Việc đồng
tiền đô la Mỹ đợc sử dụng rộng rãi nh vậy một phần là do: đó là đồng tiền "đầu t"
trên thị trờng vốn, là đồng tiền "dự trữ" mà các ngân hàng Trung Ương thờng nắm
giữ, là đồng tiền "giao dịch" ở thị trờng hàng hoá, là đồng tiền ghi trong "hoá đơn"
trong các hợp đồng mua bán quốc tế, là đồng tiền "can thiệp" mà các tổ chức tiền
tệ quốc tế hay sử dụng.
Hơn thế nữa, đô la Mỹ còn là đồng tiền yết giá trong các giao dịch ngoại hối,

là đồng tiền phải sử dụng do sức ép thơng mại và tài chính. Thực tế thơng mại cho
thấy các giao dịch ngoại hối giữa hai đồng tiền với nhau thờng phải thông qua
đồng tiền thứ ba nh là một đồng tiền yết giá chứ ít khi hai đồng tiền trực tiếp trao
đổi với nhau (trừ những ngoại tệ mạnh với nhau). Đồng tiền đợc sử dụng làm đồng
tiền yết giá nhiều nhất là đồng đô la Mỹ, mặc dù giữa những năm 90 đồng Mác
Đức (nay là đồng Euro) cũng đã trở thành đồng tiền yết giá đặc biệt là ở châu Âu.
Do đó, các nhà kinh doanh muốn đổi đồng tiền này sang đồng tiền khác, giả
sử muốn đổi từ đồng rupiah của Indonesia sang đồng peso của Philipin sẽ phải bán
đồng rupiah để mua đô la Mỹ và sau đó bán đô la Mỹ để mua peso. Mặc dù nh
vậy sẽ phải tiến hành hai thơng vụ chứ không phải một song cách trao đổi này vẫn
đợc a chuộng hơn bởi vì thị trờng đồng đô la Mỹ so với đồng rupiah Indonesia và
thị trờng đồng đô la Mỹ so với đồng peso Philipin có tính lỏng cao hơn và có hoạt
động sôi nổi hơn là thị trờng chỉ có đồng rupiah Indonesia và đồng peso Philipin.
Bằng việc sử dụng đồng đô la Mỹ hoặc đồng tiền khác nh là đồng tiền yết giá các
ngân hàng và các thành viên thị trờng ngoại hối có thể chỉ cần giữ đồng tiền đó
thôi mà không cần một lúc giữ quá nhiều đồng tiền của nhiều nớc khác nhau.
Đồng đô la Mỹ trở thành đồng tiền yết giá quan trọng kể từ khi có hệ thống
ngang giá tiền tệ Bretton Woods. Hệ thống này đòi hỏi các nớc phải tuân thủ quy
định tỷ giá của IMF bằng việc mua đi và bán lại đồng đô la Mỹ để duy trì trạng
thái ngang giá tiền tệ giữa đồng tiền nớc đó với đồng đô la Mỹ. Đồng đô la Mỹ trở
thành đồng tiền yết giá rất tiện lợi không chỉ vì vai trò nòng cốt của nó trong hệ
thống tỷ giá hối đoái và đợc sử dụng rộng rãi trong dự trữ ngoại hối mà còn bởi vì
đô la Mỹ có tính lỏng rất cao trên các thị trờng tài chính.
Khi đồng Euro ra đời thì các nhà kinh doanh trở nên quan tâm nhiều hơn tới
tỷ giá với đồng tiền nớc họ với đồng tiền Euro hơn là tới đồng đô la Mỹ. Là đồng
tiền yết giá và đợc sử dụng trong các giao dịch chéo, đồng Euro chiếm tới 30%
doanh số giao dịch ngoại hối toàn cầu. Tuy cao hơn đồng Yên Nhật (đứng thứ ba
với 21% doanh số giao dịch ngoại hối toàn cầu) và đồng Bảng Anh (đứng thứ t với
11% doanh số giao dịch ngoại hối toàn cầu) song con số này vẫn còn thua xa con
số 87% doanh số giao dịch ngoại hối toàn cầu của đồng đô la Mỹ (tính cả các giao

dịch giữa đồng đô la Mỹ với đồng Euro và đồng Yên Nhật).
1.1.5 Là thị tr ờng OTC
Từ những năm 1970, các ngân hàng ở Mỹ đã tiến hành "qua quầy" (over - the
-counter) các giao dịch ngoại hối ở nhiều nơi khác nhau thông qua điện thoại và
telex. Từ đó trở đi, ở Mỹ thị trờng OTC đã trở thành một loại thị trờng để tiến
hành các giao dịch ngoại hối. Khi tiến hành thơng lợng và mua bán ngoại hối, các
ngân hàng thơng mại ở Mỹ không cần phải có bất kỳ một giấy phép nào hay sự
cho phép nào của cơ quan Nhà nớc. Tơng tự nh vậy các công ty chứng khoán và
công ty môi giới cũng không cần sự cho phép của Uỷ ban chứng khoán (SEC)
hoặc bất kỳ một tổ chức nào để tiến hành hoạt động giao dịch ngoại hối. Hai bên
có thể thơng lợng với nhau mọi điều khoản mà pháp luật cho phép, và phải tuân
thủ luật thơng mại điều chỉnh hoạt động kinh doanh ở Mỹ.
Đến nay ở Mỹ cha có một văn bản pháp luật chính thức nào quy định giờ giấc
hay các điều kiện mua bán trên thị trờng OTC. Các điều khoản mua bán chủ yếu
do các thành viên thị trờng tự quyết định. Hiện tại cũng cha có một tập quán thị tr-
ờng chính thức đợc mọi ngời công nhận. Tuy nhiên, Uỷ ban ngoại hối Mỹ
(Foreign Exchange Committee) - một tổ chức độc lập trực thuộc ngân hàng dự trữ
Liên bang New York trong đó bao gồm các đại diện của các thành viên của thị tr-
ờng ngoại hối - đã đa ra và cập nhật báo cáo "Hớng dẫn giao dịch ngoại hối"
(Guidelines for foreign exchange trading). Báo cáo này nhằm làm rõ các tập quán
chung của thị trờng và đa ra "những khuyến nghị" liên quan tới hoạt động kinh
doanh, và các vấn đề khác. Bản báo cáo này là tài liệu tham khảo cho các thành
viên thị trờng nhằm thúc đẩy sự phát triển của thị trờng ngoại hối Mỹ.
Thị trờng OTC chiếm trên 90% tổng giao dịch ngoại hối ở Mỹ, bao gồm cả
giao dịch truyền thống nh giao ngay, kỳ hạn, hoán đổi ngoại hối và cả các giao
dịch mới có nh quyền chọn tiền tệ, hoán đổi tiền tệ.
1.2. Các nghiệp vụ trên thị trờng ngoại hối Mỹ
Trên thị trờng ngoại hối Mỹ nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ là nghiệp vụ đợc tiến
hành nhiều nhất với trên 50% tổng doanh số giao dịch. Sở dĩ nghiệp vụ này đợc
thực hiện nhiều nh vậy là do tính năng động, tiện lợi của nó. Các nhà kinh doanh

Mỹ thờng xuyên trao đổi mua bán hàng hoá với nhau bằng USD song để tiến hành
sản xuất, đầu t nớc ngoài thì lại cần đồng ngoại tệ khác. Điều này dẫn đến nhu cầu
cần ngoại tệ trong một khoảng thời gian này song lại cần nội tệ trong khoảng thời
gian khác mà không ảnh hởng tới lợi nhuận kinh doanh. Và nghiệp vụ hoán đổi
ngoại tệ đã đáp ứng đợc nhu cầu này, nó cho phép các thành viên trao tiền cho
nhau trong một khoảng thời gian nhất định và đồng ý đổi ngợc lại vào một thời
điểm nào đó sau này.
Hình 3: Bảng thị phần các nghiệp vụ trên
thị trờng ngoại hối Mỹ năm 2001

×