Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

NGUỒN NHÂN LỰC VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.78 KB, 35 trang )

NGUỒN NHÂN LỰC VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC
1.1. KHÁI NIỆM, CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ VÀ NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHẤT
LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC.
1.1.1. Khái niệm nguồn nhân lực
Theo nghĩa rộng, nguồn nhân lực được hiểu là nguồn lực con người của
một quốc gia, vùng lãnh thổ có khả năng huy động, quản lý để tham gia vào
quá trình phát triển kinh tế xã hội. Theo nghĩa hẹp có thể lượng hóa được là
một bộ phận của dân số bao gồm những người trong độ tuổi qui định, có khả
năng lao động, không kể đến trạng thái có hay không làm việc.
Độ tuổi người lao động là giới hạn về những điều kiện cơ thể, tâm sinh
lý xã hội mà con người tham gia vào quá trình lao động. Giới hạn độ tuổi lao
động được qui định tùy thuộc vào điều kiện kinh tế – xã hội của từng nước và
trong từng thời kỳ. Tại Điều 6 và Điều 145 của Bộ Luật lao động nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam qui định độ tuổi lao động của nam từ 15 – 60
và nữ là 15 –55 tuổi.
Theo từng giác độ, nguồn nhân lực có thể phân thành các loại sau:
- Nguồn nhân lực có sẵn trong dân cư bao gồm toàn bộ những người
nằm trong độ tuổi lao động, có khả năng và nhu cầu lao động không kể đến
trạng thái có làm việc hay không làm việc. Bộ phận nguồn nhân lực này được
gọi là nguồn lao động hay dân số hoạt động. Như vậy có một số người được
tính vào nguồn nhân lực nhưng lại không phải là nguồn lao động. Đó là
những
người trong độ tuổi lao động không có việc làm nhưng không có nhu cầu
làm việc.
1
- Nguồn nhân lực tham gia làm việc trong thị trường lao động có giao
kết hợp đồng lao động. Bộ phận này của nguồn lao động được gọi là lực
lượng lao động, hay còn gọi là dân số hoạt động kinh tế.
- Nguồn nhân lực dự trữ bao gồm những người trong độ tuổi lao động
có nhu cầu nhưng chưa tham gia làm việc, không có giao kết hợp đồng lao


động. Đó là những người làm nội trợ, thất nghiệp...
Các cách định nghĩa trên khác nhau về việc xác định qui mô nguồn
nhân lực, nhưng đều có chung một ý nghĩa nói lên khả năng lao động của xã
hội. Theo khái niệm trên, số lượng nguồn nhân lực được xác định dựa trên qui
mô dân số, cơ cấu tuổi, giới tính và sự phân bố theo khu vực và vùng lãnh thổ
của dân số. Riêng đối với nguồn lao động thì số lượng còn phụ thuộc nhiều
yếu tố có tính chất xã hội khác như :
- Trình độ phát triển của giáo dục - đào tạo. Nếu các cá nhân có nhiều
điều kiện để học tập họ sẽ ở lại học tập lâu hơn và trì hoãn thời gian tham gia
vào thị trường lao động. Đây là sự đánh đổi giữa số lượng và chất lượng của
nguồn lao động.
- Mức sinh đẻ quyết định số người tham gia vào nguồn lao động của
phụ nữ. Khi mức sinh đẻ thấp thì tỷ lệ phụ nữ tham gia vào nguồn lao động
cao hơn.
- Trình độ xã hội hóa các hoạt động dịch vụ phục vụ đời sống và sự
phát triển kinh tế – xã hội. Dịch vụ nuôi dạy trẻ, nội trợ gia đình được xã hội
hóa cao và cơ hội việc làm dễ dàng hơn thì phụ nữ sẽ tham gia vào thị trường
lao động và làm các hoạt động xã hội nhiều hơn.
- Mức và nguồn thu nhập. Khi có nguồn thu nhập khác bảo đảm thỏa
mãn mọi nhu cầu, các cá nhân này sẽ không có nhu cầu làm việc và do đó
không tham gia vào nguồn lao động.
2
- Di dân và nhập cư. Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, sự di dân
và nhập cư cũng là nhân tố ảnh hưởng đến nguồn lao động. Tuy chiếm tỷ
trọng không lớn nhưng đây là một nguồn lao động đặc biệt trên thị trường, có
ảnh hưởng không nhỏ đến kinh tế – xã hội.
Sự gia tăng dân số là cơ sở để hình thành và gia tăng số lượng nguồn
nhân lực cũng như nguồn lao động. Nhưng nhịp độ tăng dân số chậm lại cũng
không làm giảm ngay lập tức nhịp độ tăng nguồn nhân lực. Quan điểm dân số
tối ưu cho rằng: “ Một quốc gia muốn nền kinh tế phát triển cân đối và tốc độ

cao phải có qui mô, cơ cấu dân số thích hợp, phân bố hợp lý giữa các vùng”.
Điều đó có nghĩa là:
- Số lượng dân phù hợp với điều kiện thiên nhiên và trình độ phát
triển kinh tế – xã hội của đất nước.
- Đảm bảo một tỷ lệ cân đối giữa số người trong độ tuổi với số người
quá tuổi và chưa đến tuổi lao động. Theo các nhà dân số học thế giới, một cơ
cấu thích hợp đảm bảo cho dân số ổn định tương ứng là 60-64%, 10-12% và
26-28%.
- Phân bố dân cư trên các vùng đảm bảo đủ nhân lực khai thác tài
nguyên và phát triển kinh tế – xã hội có hiệu quả. Có thể điều tiết phân bố dân
cư thông qua chính sách dân số và các chính sách kinh tế – xã hội.
Trong điều kiện các nước chậm phát triển, nhìn chung số lượng nguồn
nhân lực lớn không phải là một động lực cho sự phát triển vì rất hiếm những
người lao động và quản lý lành nghề. Hơn thế nữa, tốc độ tăng dân số cao
trong các nền kinh tế chậm phát triển thường làm nảy sinh nhiều mâu thuẫn
kinh tế xã hội sâu sắc, đó là:
- Mâu thuẫn giữa tích lũy và tiêu dùng. Khái niệm tổng quát nhất
phản ánh mối quan hệ giữa dân số và kinh tế là “ đầu tư theo dân số”: Phần
3
thu nhập quốc dân cần thiết theo qui ước dùng đảm bảo cho số người mới
sinh ra có được mức sống trung bình của toàn xã hội ở thời điểm tính toán và
để tạo ra các điều kiện cho thế hệ trẻ – những người bước vào tuổi lao động
tham gia các hoạt động sản xuất xã hội. Mức đầu tư theo dân số mới chỉ là
lượng tối thiểu cần thiết để duy trì các hoạt động của xã hội loài người trong
một quốc gia ở mức bình thường vì nó chưa bao gồm phần thu nhập quốc dân
dành để cải thiện đời sống và nâng cao trang bị cơ sở vật chất cho toàn xã hội.
- Hạn chế khả năng nâng cao chất lượng dân số và nguồn nhân lực
phù hợp với yêu cầu tiến bộ kỹ thuật - công nghệ và nhu cầu phát triển kinh tế
– xã hội nhằm phát triển toàn diện con người. Tỷ lệ sinh cao làm cho số trẻ
em trong độ tuổi đến trường tăng nhanh trong khi chi phí cho giáo dục đào tạo

không tăng tương xứng. Tính cơ động xã hội và lãnh thổ của dân số cũng thấp
do trình độ học vấn hạn chế, tập quán, lối sống lạc hậu...
- Vấn đề tạo việc làm, giải quyết tình trạng thất nghiệp nhất là cho
thanh niên gặp nhiều khó khăn.
- Mạng lưới an sinh xã hội không đảm bảo. Những năm gần đây, quốc
tế đưa ra khái niệm lưới an sinh xã hội ( Social Safety Net ) là hệ thống chính
sách liên quan đến bảo đảm xã hội cho mọi người được hiểu rộng ra bao gồm
cả chính sách việc làm và xóa đói giảm nghèo. Xuất phát từ điều kiện đặc thù,
ở Việt Nam các chính sách an sinh xã hội bao gồm: việc làm, bảo hiểm xã hội,
xóa đói giảm nghèo, người có công, trợ giúp xã hội, phòng chống tệ nạn xã
hội. Với mức tăng dân số và nguồn nhân lực cao, ngân sách dành cho các
chính sách xã hội và tạo việc làm trong các nước đang phát triển đã thấp về
giá trị tuyệt đối lại càng trở nên thấp hơn không đáp ứng được yêu cầu.
Nguồn nhân lực không chỉ được xem xét dưới góc độ số lượng mà còn
ở khía cạnh chất lượng. Chất lượng nguồn nhân lực là một khái niệm tổng
4
hợp, bao gồm những nét đặc trưng về trạng thái thể lực, trí lực, đạo đức và
phẩm chất. Nó thể hiện trạng thái nhất định của nguồn nhân lực với tư cách
vừa là một khách thể vật chất đặc biệt, vừa là chủ thể của mọi hoạt động kinh
tế và các quan hệ xã hội. Trong đó:
- Thể lực của con người chịu ảnh hưởng của mức sống vật chất, sự
chăm sóc sức khỏe và rèn luyện của từng cá nhân cụ thể. Một cơ thể khỏe
mạnh, thích nghi với môi trường sống thì năng lượng do nó sinh ra sẽ đáp ứng
yêu cầu của một hoạt động cụ thể nào đó. Thể lực có ý nghĩa quan trọng quyết
định năng lực hoạt động của con người. Phải có thể lực con người mới có thể
phát triển trí tuệ và quan hệ của mình trong xã hội.
- Trí lực được xác định bởi tri thức chung về khoa học, trình độ kiến
thức chuyên môn, kỹ năng kinh nghiệm làm việc và khả năng tư duy xét đoán
của mỗi con người. Trí lực thực tế là một hệ thống thông tin đã được xử lý và
lưu giữ lại trong bộ nhớ của mỗi cá nhân con người, được thực hiện qua nhiều

kênh khác nhau. Nó được hình thành và phát triển thông qua giáo dục đào tạo
cũng như quá trình lao động sản xuất.
- Đạo đức, phẩm chất là những đặc điểm quan trọng trong yếu tố xã
hội của nguồn nhân lực bao gồm toàn bộ những tình cảm, tập quán phong
cách, thói quen, quan niệm, truyền thống, các hình thái tư tưởng, đạo đức và
nghệ thuật..., gắn liền với truyền thống văn hóa. Một nền văn hóa với bản sắc
riêng luôn là sức mạnh nội tại của một dân tộc. Kinh nghiệm thành công trong
phát triển kinh tế của Nhật Bản và các nước NICs châu Á là tiếp thu kỹ thuật
phương Tây trên cơ sở khai thác và phát huy giá trị tốt đẹp của nền văn hóa
dân tộc để đổi mới và phát triển.
Các yếu tố này có quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại, là tiền đề phát
triển của nhau. Muốn nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phải nâng cao cả
5
ba mặt: thể lực, trí lực và đạo đức, phẩm chất. Tuy nhiên mỗi yếu tố trên lại
liên quan đến một lĩnh vực rất rộng lớn. Thể lực và tình trạng sức khỏe gắn
với dinh dưỡng, y tế và chăm sóc sức khỏe. Trí lực gắn với lĩnh vực giáo dục
đào tạo, còn đạo đức phẩm chất chịu ảnh hưởng của truyền thống văn hóa dân
tộc, nền tảng văn hóa và thể chế chính trị... Do vậy, để đánh giá chất lượng
nguồn nhân lực thường xem xét trên ba mặt: sức khỏe, trình độ văn hóa và
chuyên môn kỹ thuật, năng lực phẩm chất của người lao động.
1.1.2. Chỉ tiêu đánh giá chất lượng nguồn nhân lực
Hiện nay Thế giới dùng chỉ tiêu HDI ( Human Development Index) để
đánh giá trình độ phát triển nguồn nhân lực của mỗi quốc gia trên ba phương
diện là mức độ phát triển kinh tế, giáo dục và y tế. Các mặt này tương ứng
được xác định bởi các chỉ tiêu:
- GDP thực bình quân đầu người hàng năm tính theo sức mua ngang
giá ( PPP );
- Kiến thức ( tỷ lệ người lớn biết chữ và tỷ lệ nhập học của các cấp
giáo dục );
- Tuổi thọ bình quân.

Phương pháp tính chỉ tiêu HDI cụ thể như sau:
Trong đó:
6
HDI =
IA + IE + IW
( 0 < HDI < 1 )
3
IA =
Ai – Amin
Amax – Amin
IA là chỉ số tuổi thọ
Với Amax là tuổi thọ trung bình cao nhất Thế giói; Amin là tuổi thọ
trung bình thấp nhất Thế giới; Ai là tuổi thọ trung bình của nước i.
IE là chỉ số kiến thức
Với a1 =
Tỷ lệ biết chữ của dân cư nước i – Tỷ lệ biết chữ thấp nhất của TG
Tỷ lệ biết chữ cao nhất của TG – Tỷ lệ biết chữ thấp nhất của TG
IW là chỉ số thu nhập
Với Wmax là mức thu nhập theo đầu người cao nhất Thế giới, Wmin là
mức thu nhập theo đầu người thấp nhất Thế giới. Wi là mức thu nhập theo đầu
người của nước i.
Trong báo cáo phát triển con người (Hunman Development Report)
2001 quy định các chỉ số thấp nhất và cao nhất Thế giới như sau:
7
IE =
2a1 + a2
3
Với a2 =
Tỷ lệ huy động đi học của nước i – Tỷ lệ huy động đi học thấp nhất TG
Tỷ lệ huy động đi học cao nhất TG- Tỷ lệ huy động đi học thấp nhất TG

IW =
log(Wi) – log(Wmin)
log(Wmax) – log(Wmin)
Tuổi thọ : 25 năm và 85 năm.
Tỷ lệ biết chữ của người lớn : 0% và 100%.
Tỷ lệ huy động đi học : 0% và 100%
GDP/ người thực (PPP$) : 100 và 40.000
Ví dụ: Với cách tính trên, theo Báo cáo về phát triển con người năm
2001 chỉ số HDI của Việt Nam là 0,682 với các số liệu tuổi thọ là 67,8 năm,
tỷ lệ biết chữ của người lớn là 93,1 và nhập học của các cấp giáo dục là 67%,
GDP bình quân đầu người theo PPP $ là 1860. [9, 171-302]
Ngoài chỉ số tổng hợp HDI, người ta còn dùng các hệ thống chỉ tiêu
dưới đây để đánh giá trực tiếp các khía cạnh khác nhau sức khỏe, trình độ học
vấn và chuyên môn kỹ thuật của nguồn nhân lực cũng như để thấy rõ nhân tố
ảnh hưởng đến nó ở hiện tại và trong tương lai.
Chỉ tiêu đánh giá sức khoẻ
Sức khỏe là sự phát triển hài hòa của con người cả về thể chất và tinh
thần. Sức khỏe cơ thể là sự cường tráng, năng lực lao động chân tay. Sức khỏe
tinh thần là sự dẻo dai của hoạt động thần kinh, khả năng vận động của trí tuệ,
biến tư duy thành hoạt động thực tiễn. Hiến chương của Tổ chức y tế thế giới
đã nêu: “ Sức khỏe là một trạng thái hoàn toàn thoải mái về thể chất, tâm thần
và xã hội, chứ không chỉ là không có bệnh tật hay thương tật”. Sức khỏe vừa
là mục đích, đồng thời nó cũng là điều kiện của sự phát triển nên yêu cầu bảo
vệ và nâng cao sức khỏe con người là một đòi hỏi hết sức chính đáng mà xã
hội phải đảm bảo. Tình trạng sức khỏe được phản ánh bằng một hệ thống chỉ
tiêu sau:
Thứ nhất, các chỉ tiêu tổng hợp:
- Tuổi thọ bình quân ( tuổi ).
8
- Chiều cao trung bình của thanh niên ( m )

- Cân nặng ( kg )
Các chỉ tiêu này đo lường thể lực chung và được xem như là một chỉ số
của tình trạng kinh tế xã hội, vệ sinh xã hội và tình trạng sức khỏe của nhân
dân.
Thứ hai, các chỉ tiêu y tế cơ bản
- Tỷ suất chết trẻ em dưới 1 tuổi
- Tỷ suất chết trẻ em dưới 5 tuổi
- Tỷ lệ trẻ em đẻ dưới 2500g
- Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng
- Tỷ suất chết mẹ
Thứ ba, các chỉ tiêu về tình hình bệnh tật
- Tỷ lệ mắc bệnh truyền nhiễm
- Tỷ lệ mắc các bệnh có tiêm chủng,
- Tỷ lệ chết so với người mắc các bệnh.
Chỉ tiêu đánh giá trình độ văn hoá
Trình độ văn hoá là khả năng về tri thức và kỹ năng để có thể tiếp thu
những kiến thức cơ bản, thực hiện những việc đơn giản để duy trì cuộc sống.
Trình độ văn hoá được cung cấp qua hệ thống giáo dục chính quy, không
chính quy, qua quá trình học tậo suốt đời của mỗi cá nhân và được đánh giá
qua hệ thống chỉ tiêu:
Thứ nhất, tỷ lệ dân số biết chữ là số % những người 10 tuổi trở lên có
thể dọc viết và hiểu được những câu đơn giản của tiếng Việt, tiếng dân tộc
hoặc tiếng nước ngoài so với tổng dân số 10 tuổi trở lên. Phương pháp tính:
9
Tỷ lệ biết chữ của dân
số từ 10 tuổi trở lên
=
Số người 10 tuổi trở lên biết chữ trong năm xác định
x 100
Tổng dân số 10 tuổi trở lên trong cùng năm

Chỉ tiêu này được sử dụng để đánh giá trình độ văn hoá ở mức tối thiểu
của một quốc gia. Các thống kê giáo dục trong nước và Thế giới hiện nay đều
sử dụng chỉ tiêu này.
Thứ hai, số năm đi học trung bình của dân số từ 15 tuổi trở lên đo
lường số năm trung bình một người dành cho học tập. Đây là một trong
những chỉ tiêu được Liên hợp quốc sử dụng để đánh giá chất lượng nguồn
nhân lực của các quốc gia:
Phương pháp tính:
A =

i
ii
xa
Trong đó: A số năm đi học trung bình
a
i
các hệ số được chọn theo hệ thống giáo dục của mỗi vùng hoặc mỗi
nước.
x
i
% trình độ văn hoá theo hệ thống giáo dục tương đương.
Thứ ba, tỷ lệ đi học chung các cấp tiểu học, trung học cơ sở (THCS),
trung học phổ thông (THPT) được dùng để đánh giá trình độ phát triển giáo
dục của các quốc gia.
Tỷ lệ đi học chung cấp tiểu học biểu thị số % trẻ em học cấp tiểu học
(cấp I), dù tuổi của em này có thuộc độ tuổi cấp tiểu học hay không, trong
tổng số dân số ở độ tuổi học tiểu học (6-10 tuổi). Tương tự như vậy đối với tỷ
lệ đi học chung cấp THCS (cấp II), trong đó độ tuổi học sinh đi học cấp này là
11 -14 tuổi và cấp THPT (cấp III), độ tuổi học sinh đi học cấp học này là 15-
17 tuổi.

Phương pháp tính:
10
Tỷ lệ đi học chung cấp
tiểu học (cấp I)
=
Số học sinh cấp tiểu học trong năm xác định
x 100
Dân số trong độ tuổi cấp tiểu học (6-10 tuổi)
trong cùng năm
Các cấp THCS và THPT tính tương tự.
Những chỉ tiêu này dùng để đánh giá trình độ phát triển giáo dục của
các quốc gia. Các chỉ tiêu này cũng dùng để xây dựng mục tiêu phát triển giáo
dục trong công tác kế hoạch. Ví dụ, định hướng phát triển giáo dục đến năm
2010 của Việt Nam, mục tiêu là tỷ lệ đi học chung cấp tiểu học là 100%, cấp
THCS là 80%, cấp THPT là 45%.
Thứ tư, tỷ lệ đi học đúng độ tuổi cấp tiểu học và trung học.
Tỷ lệ đi học đúng độ tuổi cấp tiểu học biểu thị số % trẻ em trong độ
tuổi cấp tiểu học, tức là những em từ 6 - 10 tuổi học cấp tiểu học trong tổng
số trẻ em trong độ tuổi cấp tiểu học của dân số. Tương tự như vậy đối với
các nhóm tuổi THCS và THPT .
Phương pháp tính:
Tỷ lệ đi học đúng tuổi
cấp tiểu học
=
Số học sinh cấp tiểu học từ 6-10 tuổi
x 100
Dân số trong độ tuổi cấp tiểu học (6-10 tuổi)
trong cùng năm
Các tỷ lệ cấp THCS và THPT tính tương tự.
Các chỉ tiêu này dùng để đánh giá hiệu quả của hệ thống giáo dục. Hệ

thống giáo dục hiệu quả cao có tỷ lệ đi học đúng độ tuổi cao vì tỷ lệ học sinh
lưu ban, bỏ học thấp, và ngược lại. Ví dụ, ở nước ta, trong khi tỷ lệ đi học
chung ở bậc tiểu học năm 1996 là 114%, nhưng tỷ lệ đi học đúng độ tuổi (6-
10 tuổi) chỉ có 89%. Vì trong số học sinh tiểu học còn có (114% - 89% =
25%) học sinh không đúng tuổi; đó là những học sinh dưới tuổi do đi học
11
sớm, quá tuổi do đi học muộn, do bị lưu ban, do bỏ học. Tỷ lệ này càng cao
thì hiệu quả trong giáo dục càng lớn, chi phí cho một học sinh hoàn thành cấp
học thấp.
Chỉ tiêu đánh giá trình độ chuyên môn kỹ thuật ( CMKT )
Trình độ CMKT là kiến thức và kỹ năng cần thiết để đảm đương chức
vụ trong quản lý, kinh doanh và các hoạt động nghề nghiệp. Lao động CMKT
bao gồm những công nhân kỹ thuật (CNKT) từ bậc 3 trở lên (có hoặc không
có bằng) cho tới những người có trình độ trên đại hoc. Họ được đào tạo trong
các trường, lớp dưới các hình thức khác nhau và có bằng hoặc không có bằng
(đối với CNKT không bằng) song nhờ kinh nghiệm thực tế trong sản xuất mà
có trình độ tương đương từ bậc 3 trở lên. Các tiêu chí đánh giá trình độ
chuyên môn kỹ thuật:
Thứ nhất, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo so với lực lượng lao động đang
làm việc. Chỉ tiêu này dùng để đánh giá khái quát về trình độ CMKT của
Quốc gia, của các vùng lãnh thổ. Ví dụ, năm 1999, tỷ lệ lao động có CMKT
của Việt Nam là 13,87%.
Là % số lao động đã qua đào tạo so với tổng số lao động đang làm việc.
T
LV
ĐT
=
∑L
LV
ĐT

x 100
∑L
LV
T
LV
ĐT
: Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo so với tổng lao động đang làm việc.
L
LV
ĐT
: Số lao động đang làm việc đã qua đào tạo.
L
LV
: Số lao động đang làm việc.
Thứ hai, tỷ lệ lao động theo cấp bậc đào tạo được tính toán cho Quốc
gia, vùng, ngành kinh tế dùng để xem cơ cấu này có cân đối với nhu cầu nhân
lực của nền kinh tế ở từng giai đoạn phát triển.
12
Là % số lao động có trình độ CMKT theo bậc đào tạo so với tổng số
lao động đang làm việc:
T
LV
ĐT
ij =
∑L
LV
ĐT
ij
x 100
∑L

LV
j
T
LV
ĐT
ij: Tỷ lệ LĐ đã qua đào tạo bậc i so với tổng LĐ đang làm việc ở
vùng j.
L
LV
ĐT
: Số lao động đang làm việc đã qua đào tạo.
L
LV
: Số lao động đang làm việc.
i : Chỉ số các cấp được đào tạo.
j: Chỉ số vùng.
L
LV
ĐT
ij: Số lao động đang làm việc đã đào tạo bậc i ở vùng j.
Ví dụ: Năm 1999, tỷ lệ lao động có CMKT của Việt Nam là 13,9%,
trong đó lao động trình độ sơ cấp là 1,5%; CN là 4,7%, THCN 4,3%, Đh, CĐ
3,4%. Tỷ lệ các loại trình độ lao động đã qua đào tạo thể hiện cơ cấu
ĐHCĐ/THCN/DN của đội ngũ lao động, từ đó thấy được cơ cấu này có cân
đối với nhu cầu nhân lực của nền kinh tế không, trên cơ sở đó có kế hoạch
điều chỉnh nhu cầu đào tạo tổng thể của cả nước, từng vùng lãnh thổ, ngành
kinh tế.
Trong thực tế, không phải tất cả các chỉ tiêu này đều có đủ cơ sở số liệu
thống kê để tính toán. Có những chỉ tiêu chỉ qua tổng điều tra mới có. Đây là
một hạn chế của công tác thống kê nguồn nhân lực. Để công tác thống kê,

quản lý nguồn nhân lực có chất lượng cần sớm ban hành chính thức hệ thống
chỉ tiêu đánh giá chất lượng nguồn nhân lực.
1.1.3. Các yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực
13
Như đã chỉ ra ở trên, chất lượng nguồn nhân lực liên quan đến nhiều
lĩnh vực , do đó nó chịu chi phối của rất nhiều yếu tố và dưới đây là các nhân
tố chủ yếu có ảnh hưởng lớn nhất:
Biến đổi kinh tế – xã hội
Tăng trưởng là nhân tố kinh tế quan trọng tác động đến chất lượng
nguồn nhân lực trên nhiều phương diện. Tăng trưởng kinh tế không chỉ trực
tiếp góp phần cải thiện đời sống nhân dân mà còn tăng tiết kiệm và đầu tư
trong nước, tạo được nhiều việc làm mới với mức thu nhập cao. Ngoài ra nhờ
thành tựu tăng trưởng, thu ngân sách tăng nên đảm bảo nhu cầu chi thường
xuyên cho các chương trình mục tiêu quốc gia, chi cho phát triển giáo dục đào
tạo, y tế, văn hóa... tác động tích cực hơn đến chất lượng nguồn nhân lực.
Sự phát triển kinh tế với cơ cấu biến đổi theo hướng tăng tỷ trọng công
nghiệp và dịch vụ, giảm nông nghiệp dẫn đến sự phân bổ lao động trong các
lĩnh vực hoạt động đòi hỏi người lao động phải được đào tạo, có khả năng tự
học hỏi, thích ứng với nền sản xuất mới.
Bên cạnh mặt tích cực quá trình tăng trưởng kinh tế cũng có một số ảnh
hưởng tiêu cực đến chất lượng nguồn nhân lực. Tăng trưởng kinh tế thường
gắn liền với quá trình đô thị hóa, thay đổi trong lối sống. Các nghiên cứu cho
thấy quá trình đô thị hóa gắn liền với mức độ ô nhiễm môi trường tăng cao, tỷ
lệ tai nạn gia tăng đáng kể gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của
người dân. Do thu nhập tăng lên và sự thay đổi trong lối sống nên ở các đô thị
tồn tại phổ biến đồng thời mô hình bệnh tật của nước nghèo và của “mức sống
cao”. Hiện tượng này được gọi bằng thuật ngữ “ gánh nặng gấp đôi”, ám chỉ
những khó khăn mà người dân và hệ thống y tế xã hội ở các nước đang phát
triển đang vấp phải.
14

×