Tải bản đầy đủ (.doc) (46 trang)

Tiểu luận cao học, vai trò nhà nước đối với giảm nghèo nhanh và bền vững ở các huyện miền núi vùng cao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (319.69 KB, 46 trang )

DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
ĐCS:
XHCN:
CNXH:
XĐGN:
BCHTW:
HĐND, UBND:
QĐ:
NQ:
WB:
WTO:
GDP:
DNNN:
HTX:
ĐCĐC:
NN và PTNT:
LĐ, TB và XH:
BHXH:
CNH:
HĐH:

Đảng Cộng sản
Xã hội chủ nghĩa
Chủ nghĩa xã hội
Xoá đói giảm nghèo
Ban chấp hành Trung ương
Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân
Quyết định
Nghị quyết
Ngân hàng thế giới
Tổ chức thương mại thế giới


Tổng sản phẩm quốc nội
Doanh nghiệp Nhà nước
Hợp tác xã
Định canh định cư
Nông nghiệp và phát triển nông thôn
Lao động, Thương binh và xã hội
Bảo hiểm xã hội
Công nghiệp hoá
Hiện đại hoá

1


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Đất nước Việt Nam đã thực hiện công cuộc đổi mới phát triển kinh tế xã
hội toàn diện được hơn 20 năm. Sự nghiệp đổi mới đã đem lại nhiều thay đổi
mọi mặt đời sống kinh tế xã hội của đất nước. Trong sự thay đổi toàn diện đó
đáng chú ý nhất là tỷ lệ đói nghèo ngày càng giảm nhanh, giảm nghèo bền vững
đang được Nhà nước đầu tư lớn, chỉ đạo quyết liệt và các địa phương thực hiện
có hiệu quả, công tác xoá đói giảm nghèo nhanh và bền vững thời gian qua đã
thu được nhiều kết quả tốt đẹp.
Đảng và Nhà nước ta luôn coi công tác xoá đói giảm nghèo là cực kỳ
quan trọng phải thực hiện triệt để. Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã coi đói
nghèo là một thứ giặc trong ba giặc nguy hiểm nhất của buổi đầu giành được
độc lập (giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm) và cần phải ưu tiên tiêu diệt.
Thấm nhuần tư tưởng của Người, Đảng ta đã tập trung mọi nguồn lực để thực
hiện công cuộc xoá đói giảm nghèo nhằm nhanh chóng đưa nước ta ra khỏi tình
trạng nghèo nàn lạc hậu, kém phát triển. Việt Nam đã giành nhiều chương trình
ưu tiên cho thúc đẩy phát triển kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh đi đôi

với xoá đói giảm nghèo tích cực và bền vững. Do vậy trong 10 năm trở lại đây
Việt Nam đã được những kết quả quan trong trong tăng trưởng kinh tế và xoá
đói giảm nghèo. Đời sống nhân dân từng bước được cải thiện. Nhờ thực hiện các
chính sách có hiệu quả cùng cơ chế phù hợp, công tác xoá đói giảm nghèo của
nước ta đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Trong nhiều năm qua, xoá đói
giảm nghèo luôn là vấn đề được Đảng và Nhà nước quan tâm nhằm thực hiện
mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh". Đảng
và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách xoá đói giảm nghèo như xây
dựng chính sách phát triển toàn diện kinh tế xã hội nông thôn; thực hiện chiến
lược phát triển cho từng vùng, miền; đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn;
ưu tiên tín dụng các nguồn vốn cho xoá đói giảm nghèo, thiết lập nguồn vốn vay
cho người nghèo...
Nhờ có sự quan tâm đầu tư trên, tỷ lệ đói nghèo của Việt Nam đã giảm
qua các năm, bình quân mỗi năm giảm từ 2 đến 3%. Để giảm nhanh tỷ lệ đói
nghèo, tháng 7/1998, Chính phủ chính thức phê duyệt Chương trình mục tiêu
1


quốc gia về xoá đói giảm nghèo (Chương trình 133) cho giai đoạn 1998-2000,
phê duyệt chương trình 135 hỗ trợ phát triển 1715 xã nghèo đặc biệt khó khăn ở
miền núi, vùng sâu, vùng xa. Đây là hai chương trình lớn tác động mạnh mẽ tới
công cuộc xoá đói giảm nghèo. Kết quả thực hiện, chương trình 133 và 135 đã
tạo ra những kết quả tích cực: Cả nước đã thực hiện định canh định cư, khai
hoang mở rộng diện tích trồng lúa nước, trồng rừng mới, cây công nghiệp và ăn
quả. Về tín dụng, đã có hàng ngàn lượt hộ được vay vốn để phát triển sản xuất.
Bên cạnh đó, hàng loạt công trình cơ sở hạ tầng nông thôn đặc biệt ở các xã
vùng sâu vùng xa phục vụ sản xuất và đời sống được xây dựng, nhiều chương
trình khuyến nông-lâm-ngư, giúp đỡ người nghèo làm ăn kinh tế được thực hiện.
Tuy nhiên, tỷ lệ đói nghèo của khu vực nông thôn Việt Nam, đặc biệt là ở
miền núi vùng cao, vùng sâu vùng xa còn khá cao. Đời sống đại bộ phận nhân

dân nông nghiệp và nông thôn còn thấp. Sự bất cập và phân hoá giàu nghèo
đang có xu hướng diễn ra và tăng nhanh trong cộng đồng dân cư. Cơ chế thị
trường có những tác động không nhỏ tới sự công bằng và bình đẳng trong xã
hội. Đời sống nhân dân miền núi, đặc biệt là miền núi vùng cao đang còn gặp
rất nhiều khó khăn, tỷ lệ đói nghèo còn chiếm tỷ lệ rất cao. Cả nước đền nay còn
có 61 huyện miền núi vùng cao vùng sâu và vùng xa có tỷ lệ hộ nghèo chiếm từ
50% trở lên. Ở các huyện nghèo này mọi cơ sở vật chất và điều kiện phát triển
đều thiếu thốn, người dân chưa được tiếp cận nhiều với sự đổi mới của đất nước,
cơ chế chính sách áp dụng và tạo điều kiện cho sự phát triển xoá đói giảm nghèo
ở đây còn hạn chế. Đặc biệt vai trò Nhà nước trong hỗ trợ đầu tư, tổ chức chỉ
đạo, điều hành phát triển kinh tế xã hội xoá đói giảm nghèo nhanh và bền vững
cần được nâng cao một bước để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Hơn nữa trong tình
hình hiện nay do xác định được nhu cầu bức xúc cần đẩy nhanh công cuộc giảm
nghèo nhanh và bền vững, Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam vừa ban hành
Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP ngày 27/12/2008 về chương trình hỗ trợ giảm
nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo. Từ đó, càng cần được tăng
cường vai trò Nhà nước để thực hiện công cuộc giảm nghèo nhanh và bền vững.
Nhằm góp phần làm sáng tỏ những vấn đề nêu trên, bản thân lựa chọn đề tài đề
tài là “Vai trò Nhà nước đối với giảm nghèo nhanh và bền vững ở các huyện
miền núi vùng cao”. Đề tài xin được lấy ví dụ thực tế ở huyện miền núi vùng
cao biên giới Quế Phong, tỉnh Nghệ An là một trong 61 huyện nghèo nhất trong
cả nước được Chính phủ quyết định hỗ trợ đầu tư để giảm nghèo nhanh và bền
2


vững tại Nghị Quyết 30a/2008/NQ-CP.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu của đề tài:
Hiện nay chương trình xóa đói giảm nghèo nhanh và bền vững đang được
đặt ra cấp thiết, các cấp các ngành và toàn xã hội đang vào cuộc để thực hiện
thành công nhiệm vụ trọng đại này. Tuy nhiên quá trình thực hiện vừa qua bộc lộ

một số vấn đề cần quan tâm về vai trò Nhà nước trong việc xây dựng kế hoạch,
chương trình, xác định bước đi, huy động nguồn lực đến tổ chức chỉ đạo thực
hiện nhiệm vụ giảm nghèo nhanh và bền vững. Những bất cập này cần được
phân tích đánh giá, tìm ra nguyên nhân và có những giải pháp khắc phục kịp
thời. Thời gian qua cũng đã có nhiều văn kiện, tác phẩm, công trình nghiên cứu
liên quan đến công tác XĐGN như: Văn kiện “Chiến lược trưởng toàn diện về
tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo” của Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam;
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
a. Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở khái quát một số vấn đề về lý luận và
thực tiễn, đề tài phân tích, đánh giá thực trạng quản lý của Nhà nước đối với
công tác xoá đói giảm nghèo cho các huyện miền núi vùng cao trong thời gian
qua, những thuận lợi khó khăn, những kết quả đạt được và những tồn tại còn
hiện hữu trong quá trình thực thi nhiệm vụ để từ đó đề xuất những giải pháp
nâng cao vai trò nhà nước trong công tác giảm nghèo nhanh và bền vững ở các
huyện miền núi vùng cao.
b. Nhiệm vụ của đề tài:
- Nghiên cứu các vấn đề lý luận về đói nghèo và chiến lược xoá đói, giảm
nghèo nhanh và bền vững của nước ta, từ đó áp dụng vào cho các huyện miền
núi vùng cao, bài học từ thực tiễn ở một số quốc gia và một số tỉnh thành trong
nước, rút ra cho vấn đề nghiên cứu.
- Đề xuất phương hướng và một số giải pháp cơ bản nhằm tăng cường vai
trò quản lý của Nhà nước đối với công tác giảm nghèo nhanh và bền vững cho
thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu vai trò của Nhà
nước đối với giảm nghèo nhanh và bền vững trong điều kiện nền kinh tế thị
trường và hội nhập kinh tế thế giới và điều kiện đặc thù của các huyện miền
núi vùng cao có sự hỗ trợ đầu tư của Chính phủ và các tổ chức, cá nhân để đề
ra chính sách và nhiệm vụ cho thích hợp.
3



- Về không gian: nghiên cứu vai trò của Nhà nước đối với giảm nghèo
nhanh và bền vững ở các huyện miền núi vùng cao.
- Về thời gian: nghiên cứu từ khi nước ta bắt đầu công cuộc đổi mới, xây
dựng và thực hiện chiến lược toàn diện vê tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo
(năm 2002) đến nay, đặc biệt là từ khi có Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP của
Chính phủ về chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61
huyện nghèo trong cả nước.
5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu:
Đề tài lấy chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử
Mác – Lê nin làm cơ sở phương pháp luận của phương pháp nghiên cứu kinh tế;
đề tài dựa vào các qui luật kinh tế và quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng
và Nhà nước làm cơ sở phân tích, đánh giá và đề xuất giải pháp.
Để giải quyết những nội dung nhiệm vụ đặt ra, đề tài còn sử dụng một số
phương pháp nghiên cứu kinh tế phổ biến sau:
- Phương pháp trừu tượng hoá khoa học và phương pháp phân tích hệ
thống: việc nghiên cứu vai trò Nhà nước được thực hiện một cách đồng bộ, gắn
với từng giai đoạn, từng hoàn cảnh lịch sử cụ thể của đất nước và của các huyện
miền núi vùng cao.
- Phương pháp thống kê, thu thập thông tin định lượng: đề tài đã sử dụng các
số liệu tài liệu thống kê thích hợp để phục vụ cho việc phân tích, đánh giá toàn diện
nội dung nhiệm vụ và kết quả của hoạt động quản lý của Nhà nước trong công tác xoá
đói giảm nghèo trong từng giai đoạn cụ thể.
- Phương pháp quy nạp và diễn dịch: trên cơ sở phân tích những nội dung cơ
bản về vai trò của Nhà nước và thực tế quản lý công tác xoá đói giảm nghèo, đề tài
sử dụng phương pháp quy nạp để đưa ra những đánh giá chung mang tính khái quát
về thực trạng quản lý và thực hiện nhiệm vụ giảm nghèo nhanh và bền vững ở các
huyện miền núi vùng cao. Thực trạng này được đặt trong bối cảnh chung của cả
nước và dưới tác động của cơ chế kinh tế thị trường.

- Phương pháp chuyên khảo, đối chiếu so sánh: Đề tài tiến hành nghiên
cứu một vấn đề về vai trò của Nhà nước đối với XĐGN được xem xét đánh giá
trên cơ sở so sánh đối chiếu nhằm rút ra bài học kinh nghiệm cho công tác giảm
nghèo nhanh và bền vững ở các huyện miền núi vùng cao.
6. Những điểm mới của đề tài
4


Đề tài đã kế thừa, tiếp thu nhiều tài liệu nghiên cứu liên quan đến đề tài,
trên cơ sở đó có bổ sung, phát triển phù hợp với yêu cầu của đối tượng nghiên
cứu. Đề tài có một số điểm mới như sau:
- Khái quát hoá một số vấn đề lý luận về công tác XĐGN, đặc điểm các
huyện miền núi vùng cao trong thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và
gắn chặt với đó là thực hiện nhiệm vụ giảm nghèo nhanh và bền vững trong tình
hình hiện nay.
- Làm rõ sự cần thiết khách quan cần tăng cường vai trò của Nhà nước đối
với công tác XĐGN nói chung, và tăng cường vai trò nhà nước trong thực hiện
giảm nghèo nhanh và bền vững ở các huyện miền núi vùng cao.
- Từ cơ sở lý luận và thực tiễn hoạt động vai trò nhà nước về công tác
giảm nghèo nhanh và bền vững ở các huyện miền núi vùng cao, tổng kết, đánh
giá thực tiễn, rút ra được những vấn đề cấp bách cần được xem xét giải quyết:
đó là làm thế nào để vai trò nhà nước tác động vào công cuộc giảm nghèo nhanh
và bền vững ở các huyện miền núi vùng cao đạt được hiệu quả cao;
- Đề xuất một số định hướng và giải pháp cụ thể nhằm giải quyết những
vấn đề bức xúc trong quản lý nhà nước và nâng cao vai trò nhà nước về giảm
nghèo nhanh và bền vững ở các huyện miền núi vùng cao trong giai đoạn tới.

5



CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VAI TRÒ
NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI GIẢM NGHÈO NHANH VÀ BỀN VỮNG
Ở CÁC HUYỆN MIỀN NÚI VÙNG CAO
1.1- Một số lý luận chung về đói nghèo, giảm nghèo nhanh và bền vững:
1.1.1- Một số vấn đề chung về đói nghèo:
Nghèo diễn tả sự thiếu cơ hội để có thể sống một cuộc sống tương ứng
với các tiêu chuẩn tối thiểu nhất định. Thước đo các tiêu chuẩn này và các
nguyên nhân dẫn đến nghèo nàn thay đổi tùy theo địa phương và theo thời gian.
Tổ chức Y tế Thế giới định nghĩa nghèo theo thu nhập, theo đó một người là nghèo khi
thu nhập hàng năm ít hơn một nửa mức thu nhập bình quân trên đầu người hàng
năm của quốc gia.
Khái niệm đói nghèo, mức quy định chuẩn đói nghèo chỉ mang tính tương
đối qua từng thời kỳ khác nhau, từng quốc gia và vùng lãnh thổ khác nhau, thậm
chí một số nước còn quy định chuẩn nghèo khác nhau cho từng vùng. Đói nghèo
được so sánh theo không gian và thời gian về điều kiện sống và làm việc của
một người hoặc nhóm người, của một cộng đồng người, một quốc gia, một xã
hội trong tiến trình phát triển kinh tế xã hội qua các thời kỳ.
Về nguyên nhân đói nghèo được xác độ ở nhiều mức độ khác nhau. Đói
nghèo được coi là quốc nạn của mỗi Quốc gia và được các Chính phủ đặc biệt
quan tâm tìm các giải pháp để xoá bỏ. Trước tiên là việc phải xác định chính xác
nguyên nhân căn bệnh đói nghèo để có biện pháp “chữa trị” hữu hiệu. Thông
thường vùng nghèo và người nghèo nói chung là các đối tượng gặp nhiều khó
khăn trong sản xuất, sinh hoạt và đời sống do điều kiện tự nhiên khắc nghiệt,
cách trở với cộng đồng, ít được tiếp cận với phát triển chung của xã hội. Nghèo
đói thường diễn ra và khó khắc phục ở những vùng thiên tai địch họa thường
xuyên xẩy ra, chưa kịp khắc phục chu kỳ trước thì lại bị dồn dập tiếp thảm họa ở
chu kỳ sau. Nghèo đói diễn ra ở những vùng thiên tai khắc nghiệt không có điều
kiện để phát triển sản xuất, cây trồng không cho thu hoạch do nắng hạn, đất đai
khô cằn hoặc sình lầy quanh năm, vật nuôi không phát triển được do không có

thức ăn, do thiếu nguồn nước, chỗ chăn thả và thiếu mọi điều kiện để sinh sống
và trưởng thành. Nghèo đói thường diễn ra ở những nơi quá xa xôi cách trở với
6


cộng đồng phát triển, quá xa nơi đô hội để tiêu thụ hàng hóa, nông sản phẩm sản
xuất ra được, trong khi đó đường sá giao thông đi lại khó khăn cách trở, các
phương tiện vận tải không đáp ứng yêu cầu, mọi điều kiện giao lưu kinh tế, văn
hóa, xã hội đều khó thực hiện.
Những nguyên nhân chính dẫn đến nghèo được liệt kê ra là chiến tranh, cơ
cấu chính trị như chế độ độc tài, các quy định thương mại quốc tế không công bằng, cơ cấu
kinh tế phân bố thu nhập không cân bằng, tham nhũng, nợ quá nhiều, nền kinh tế
không có hiệu quả, thiếu những nguồn lực có thể trả tiền được, thất bại Chính
phủ, tụt hậu về công nghệ, giáo dục, thiên tai, dịch bệnh, dân số phát triển quá nhanh và bất bình
đẳng nam nữ. Bên cạnh nguyên nhân chính trị, nghèo đói cũng có một nguyên nhân
lớn của hiện tượng dân di cư từ vùng núi về đồng bằng, từ nông thôn về thành thị, từ các nước
thứ ba về các nước phát triển. Với việc khốn khó trong mọi điều kiện sản xuất và sinh
hoạt tại nơi bản địa làm cho người dân sở tại không thiết tha với ruộng vườn và
nơi sản xuất của mình, kèm theo các lời đồn đại về một cuộc sống khấm khá nơi
đô thị và viễn cảnh một đời sống tươi đẹp thoát khỏi đói nghèo nơi viễn xứ đã
thôi thúc họ ra đi và nhiều lúc tạo thành một làn sóng di dân lớn.
Về tình trạng nghèo trên thế giới, theo số liệu của Ngân hàng Thế giới thì những
người có ít hơn 1 đô la Mỹ tính theo sức mua địa phương và vì thế được xem là
rất nghèo ở năm 1981 có 1,5 tỉ người tương ứng với 40% dân số thế giới, năm 1987
là 1,227 tỉ người tương ứng 30% và năm 1993 là 1,314 tỉ người tương đương với
29% dân số thế giới. Trong năm 2007 trên toàn thế giới có 21% dân số thế giới
tương ứng với 1,1 tỉ người có ít hơn 1 đô la Mỹ tính theo sức mua địa phương.
Phần lớn những người này sống tại châu Á, thế nhưng thành phần những người
nghèo trong dân cư tại châu Phi lại còn cao hơn nữa. Các thành viên của Liên Hiệp Quốc
trong cuộc họp thượng đỉnh thiên niên kỷ năm 2000 đã nhất trí với mục tiêu cho

đến năm 2015 giảm một nửa số những người có ít hơn 1 đô la Mỹ (nguồn: điểm 1
của những mục đích phát triển thiên niên kỷ). Trong khi nhờ vào tăng trưởng
kinh tế tại nhiều vùng của châu Á, tỷ lệ người nghèo giảm xuống rõ rệt từ 58%
xuống còn 16% tại Đông Á thì con số những người nghèo nhất lại tăng lên ở
châu Phi (tăng gần gấp đôi từ 1981 đến 2001 ở Sahara). Tại Đông Âu và Trung Á con
số những người nghèo nhất đã tăng lên đến 6% dân số. Nếu đặt ranh giới nghèo
là 2 đô la Mỹ/ngày thì có tổng cộng là 2,7 tỉ người nghèo, có nghĩa là gần một
nửa dân số thế giới.
7


Đánh giá nhận định và việc đưa ra tiêu chí, tiêu chuẩn cận nghèo ở mỗi
nước cũng khác nhau. Ở Áo ranh giới nguy cơ nghèo là 60% của thu nhập trung
bình và cận nghèo là 1 người có thu nhập ít hơn 785 Euro/tháng. Tại Đức ranh
giới nghèo nằm vào khoảng 730,20 Euro cho phía Tây và 604,80 Euro cho phía
Đông của nước Đức. Ở Mỹ, theo số liệu từ bản báo cáo của Cục điều tra dân số
tháng 8 năm 2007 thì ở Mỹ con số những người có thu nhập dưới ranh giới nghèo
đã liên tiếp tăng đến lần thứ tư. Có 12,7% dân số tương đương với 37 triệu
người nghèo, tăng 0,2% so với năm trước đó. Một gia đình 4 người được coi là
nghèo khi chỉ có thể chi tiêu ít hơn 19.310 đô la Mỹ trong một năm. Đối với những
người độc thân thì ranh giới này ở vào khoảng 9.650 đô la.
1.1.2- Một số vấn đề về giảm nghèo nhanh và bền vững và vai trò của nó đối
với chính trị, kinh tế, xã hội đất nước:
Công cuộc XĐGN đã được Nhà nước Việt Nam đề ra và thực hiện từ nhiều
năm nay. Tuy nhiên vấn đề giảm nghèo nhanh và bền vững lại mới được đặt ra
và nổi lên như một vấn đề cấp thiết hiện nay. Giảm nghèo nhanh là đẩy nhanh
tốc độ để rút ngắn thời gian xoá nghèo cho các hộ nghèo trong lộ trình, phải tập
trung đầu tư cao, huy động đồng bộ mọi nguồn lực và thực hiện có hiệu quả để
thanh toán nhanh đói nghèo. Giảm nghèo bền vững là kiên quyết không để tái
nghèo, là phải duy trì tiếp tục các nguồn đầu tư và các biện pháp chỉ đạo thực

hiện triển khai liên tục có hướng đích để không cho đói nghèo quay lại chính nơi
chúng ta đang tích cực xóa đói, nơi chúng ta đang thực hiện quyết tâm giảm
nghèo. Chúng ta có thể khẳng định giảm nghèo nhanh và bền vững là một trong
những mục tiêu của tăng trưởng cả trên góc độ xã hội và kinh tế, đồng thời cũng
là một điều kiện cho tăng trưởng bền vững. Về ngắn hạn, khi phân phối một
phần đáng kể trong thu nhập xã hội cho chương trình giảm nghèo thì nguồn lực
dành cho tăng trưởng kinh tế có thể bị ảnh hưởng, song xét một cách toàn diện
về dài hạn thì kết quả xóa đói giảm nghèo lại tạo tiền đề cho tăng trưởng nhanh
và bền vững. Điều đó cũng đồng nghĩa như việc thực hiện người cày có ruộng
đã tạo ra sự phát triển vượt bậc của nông nghiệp, nhờ đó mà nhiều nông dân đã
thoát khỏi đói nghèo và có điều kiện tham gia thực hiện cách mạng xanh, tạo sự
phát triển mới cho ngành nông nghiệp.
Giảm nghèo nhanh và bền vững phải là dựa trên cơ sở các nguồn lực đầu tư
được hỗ trợ, được tăng cường, tạo ra những cơ hội thuận lợi để người nghèo và
cộng đồng nghèo tiếp cận được các cơ hội phát triển sản xuất, kinh doanh và
8


hưởng thụ được từ thành quả tăng trưởng một cách nhanh nhất và ổn định lâu
dài. Tăng trưởng chất lượng cao là để giảm nhanh mức nghèo đói. Thực tiễn
những năm vừa qua đã chứng minh rằng, nhờ kinh tế tăng trưởng cao Nhà nước
có sức mạnh vật chất để hình thành và triển khai các chương trình hỗ trợ vật
chất, tài chính và cho các địa phương khó khăn phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế,
xã hội cơ bản. Người nghèo và cộng đồng nghèo nhờ đó có cơ hội vươn lên
thoát khỏi đói nghèo.
Vai trò của giảm nghèo nhanh và bền vững có tác động vô cùng to lớn đối
với chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước. Cái đói, cái nghèo đang hiện hữu sẽ
luôn là nỗi ám ảnh của sự lạc hậu, kém phát triển của mỗi Quốc gia. Thực hiện
chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững thành công là điều kiện tiền đề
quan trọng để cả đất nước tiến lên hội nhập và phát triển cộng đồng.

Tốc độ giảm nghèo nhanh được thực hiện nhờ vào việc tập trung chuyển
dịch cơ cấu và đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp phát triển ngành nghề, tăng thu
nhập cho người nghèo, tạo cơ hội nhiều hơn cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa
phát triển, nhằm tạo ra nhiều việc làm phi nông nghiệp, tạo cho tăng trưởng trên
diện rộng với chất lượng cao và bền vững.Giảm nghèo nhanh và bền vững không
đơn giản là việc phân phối lại thu nhập một cách thụ động mà phải tạo ra động lực
tăng trưởng tại chỗ, chủ động tự vươn lên thoát nghèo. Giảm nghèo không đơn
thuần là sự trợ giúp một chiều của tăng trưởng kinh tế đối với các đối tượng có
nhiều khó khăn mà còn là nhân tố quan trọng tạo ra một mặt bằng tương đối đồng
đều cho phát triển, tạo thêm một lực lượng sản xuất dồi dào và bảo đảm sự ổn định
cho giai đoạn sau tăng trưởng nhanh hơn mạnh hơn (giai đoạn cất cánh).
1.2- Nội dung và sự cần thiết vai trò Nhà nước đối với giảm nghèo nhanh
và bền vững ở các huyện miền núi vùng cao:
1.2.1- Nguyên nhân, đặc điểm, đói nghèo của các huyện miền núi vùng cao:
Các huyện miền núi vùng cao ở vào địa thế địa hình không thuận lợi cho phát
triển kinh tế, xã hội. Địa hình núi non hiểm trở, ở độ cao lớn so với mặt nước biển
và bị chia cắt mạnh nên đi lại thông thương và giao lưu với vùng thấp rất khó
khăn. Khí hậu và điều kiện thời tiết khắc nghiệt làm cho cây trồng vật nuôi không
phát triển, đặc biệt là về mùa đông giá rét. Hầu như tất cả các huyện miền núi
vùng cao cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật cho phát triển kinh tế và phát triển
xã hội đều không đáp ứng, có nhiều xã ô tô chỉ mới đến được trung tâm xã vào
9


mùa khô. Hệ thống điện, đường, trường học, trạm xá, thuỷ lợi, nước sinh hoạt,
khu vực hạ tầng phúc lợi công cộng nhiều nơi chưa được xây dựng kiên cố. Nhân
dân nhiều vùng đang phải dùng nước khe suối không qua xử lý để sinh hoạt và
nhiều khi cũng không cung cấp đủ trong mùa hè do bị khô hạn. Chăm sóc sức
khoẻ, sinh sản không được đảm bảo nên bệnh tật xảy ra nhiều, các hủ tục lạc hậu
chưa được xoá bỏ triệt để. Đời sống nhân dân các huyện miền núi vùng cao còn

gặp rất nhiều khó khăn, do vậy tỷ lệ đói nghèo ở khu vực này là cao nhất nước.
Mặc dù đạt nhiều thành tựu quan trọng, nhưng tình trạng nghèo đói vẫn còn tồn
tại ở diện rộng. Thu nhập của bộ phận lớn dân cư ở khu vực này vẫn nằm giáp
ranh mức nghèo đói và dễ bị tác động bởi các biến động do thiên tai, mất việc
làm, ốm đau và giá nông sản bấp bênh. Vị trí địa lý địa hình hiểm trở, giao thông
cách trở đi lại khó khăn, điều kiện sản xuất và trao đổi thông thương không
thuận lợi cùng với lý do sức khỏe kém, trình độ học vấn thấp, tình trạng vệ sinh
và môi trường xuống cấp làm cho người nghèo khó vươn lên lên thoát nghèo.
Các huyện miền núi vùng cao có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất nước, khả năng
giảm nghèo sẽ rất khó thực hiện nếu không có sự đầu tư lớn của Nhà nước. Thời
gian qua đã có nhiều chương trình dự án thực hiện giảm nghèo nhanh và bền
vững cho các huyện miền núi vùng cao. Kết quả thực hiện XĐGN được đánh giá
là tốt, tỷ lệ hộ nghèo giảm, đời sống nhân dân các dân tộc được nâng lên một
bước. Tuy nhiên so vói tốc độ phát triển chung của cả nước thì tốc độ phát triển,
tỷ lệ giảm nghèo ở các huyện miền núi vùng cao là còn chậm và thiếu vững
chắc. Trong nhiều nguyên nhân tồn tại đã được liệt kê thì có nguyên nhân tồn tại
là vai trò Nhà nước chưa được phát huy cao độ và chưa làm tròn đầy đủ chức
năng và nhiệm vụ của mình. Nguyên nhân của tồn tại đó là do Nhà nước chưa
hoạch định được một chiến lược hoàn chỉnh về xoá đói, giảm nghèo nhanh và
bền vững cho các huyện miền núi vùng cao, tiềm lực đầu tư chưa đủ mạnh để
chiến thắng cái nghèo đói cho toàn vùng. Có nơi có lúc các chương trình đầu tư
hỗ trợ còn chồng chéo và chưa mang lại hiệu quả thiết thực. Một nguyên nhân
quan trọng là Nhà nước chưa chỉ đạo quyết liệt trong tuyên truyền vận động để
khơi dậy sự nỗ lực vươn lên tự thoát nghèo trong cộng đồng. Cán bộ quản lý chỉ
đạo các cấp còn yếu về trình độ chuyên môn, quản lý, chưa tâm huyết và tích
cực với nhiệm vụ được giao trong chỉ đạo thực hiện XĐGN, có nơi có lúc còn
có cán bộ thiếu gương mẫu và nhiều sai phạm chưa được xử lý làm mất niềm tin
trong nhân dân. Tình trạng thất thoát, lãng phí trong đầu tư, xây dựng còn diễn
10



ra nhiều nơi do không được kiểm tra quản lý chặt chẽ theo đúng quy định, do
đội ngũ cán bộ quản lý chưa thực sự trong sạch và có trình độ chuyên môn
nghiệp vụ giỏi.
Do tính đặc thù của các huyện miền núi vùng cao là tỷ lệ hộ đói nghèo còn
cao nhất nước và việc thực hiện XĐGN lại đang gặp nhiều khó khăn do điều
kiện địa lý địa hình và dân trí nên cần có sự lồng ghép, phối hợp nhiều chương
trình với nhau, đặc biệt là sự kết hợp giữa chiến lược tổng thể toàn diện về
XĐGN của Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam với các Nghị quyết, chương
trình cụ thể cho từng thời kỳ và đặc biệt là chú ý đến Nghị quyết số
30a/2008/NQ-CP ngày 27/12/2008 của Chính phủ về chương trình hỗ trợ giảm
nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo.
1.2.2- Nội dung vai trò Nhà nước đối với giảm nghèo nhanh và bền vững ở
các huyện miền núi vùng cao:
1.2.2.1- Xác định quan điểm, mục tiêu tổng quát nhiệm vụ xóa đói, giảm
nghèo nhanh và bền vững:
Mục tiêu tổng quát về Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến 2020 là
đưa Việt Nam ra khỏi tình trạng kém phát triển; nâng cao rõ rệt đời sống vật
chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân; Các nhiệm vụ cụ thể về phát triển kinh tế
- xã hội là phải phấn đấu đạt nhịp độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm
cao hơn 5 năm trước và có bước chuẩn bị cho 5 năm tiếp theo; Tăng nhanh và
nâng cao hiệu quả vốn đầu tư vốn đầu tư phát triển kinh tế xã hội, hỗ trợ đầu tư
nhiều hơn cho các vùng còn khó khăn. Có chính sách đồng bộ, có hướng dẫn cụ
thể phù hợp với từng vùng để bảo đảm cơ bản xóa hộ đói, giảm nhanh hộ nghèo,
giải quyết các tệ nạn xã hội, bảo đảm phát triển bền vững.
Vai trò Nhà nước được xác định trong chương trình giảm nghèo nhanh và
bền vững ở các huyện miền núi vùng cao là phải hoạch định một cách cụ thể
theo lộ trình vạch sẵn kèm theo các chỉ tiêu, tiêu chí phải đạt được cho việc giảm
nghèo thông qua các chương trình, dự án đầu tư cho các huyện nghèo. Xóa đói
giảm nghèo được đặt thành một bộ phận của Chiến lược 10 năm, Kế hoạch 5

năm và hàng năm về phát triển kinh tế - xã hội từ Trung ương đến cơ sở. Công
tác giảm nghèo nhanh và bền vững phải được quan tâm ngay từ khi xây dựng
chủ trương, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội dài hạn, trung hạn và hàng năm,
coi đó là một nhiệm vụ trọng tâm của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của
11


Nhà nước đối với công tác xóa đói giảm nghèo. Nhà nước thông qua kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội để chủ động điều tiết hợp lý các nguồn lực của toàn xã
hội vào mục tiêu và hoạt động xóa đói giảm nghèo quốc gia.
Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP ngày 27/12/2008 của Chính phủ về
chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo đã
bám sát nhiệm vụ Chiến lược toàn diện về XĐGN chung để đề ra nhiệm vụ giảm
nghèo nhanh và bền vững cho các huyện miền núi vùng cao. Cở sở của việc ban
hành Nghị quyết này là do Chính phủ nhận thấy sau nhiều năm thực hiện XĐGN
nhưng tỷ lệ hộ nghèo ở vùng này đang vẫn chiếm cao nhất và vượt xa các vùng
khác, mọi điều kiện cho người nghèo tiếp cận với việc thoát nghèo đang gặp rất
nhiều khó khăn vì điều kiện địa lý, điều kiện dân trí và điều kiện cơ sở vật chất
hiện có. Từ đó Nghị quyết đã nêu các giải pháp, các quyết sách, cơ chế hỗ trợ và
các biện pháp tổ chức chỉ đạo thực hiện chương trình giảm nghèo nhanh và bền
vững cho 61 huyện nghèo nhất trong cả nước mà trong đó đa số là các huyện
miền núi vùng cao. Từ việc thực hiện Nghị quyết này sẽ là cơ sở lan toả ra cho
tất cả các huyện miền núi vùng cao trong cả nước về đường hướng thực hiện, cơ
chế chính sách, phương thức vận động, công tác xã hội hoá đầu tư cho công tác
giảm nghèo, tổ chức huy động các nguồn lực, tổ chức chỉ đạo điều hành thực
hiện chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững cho cả vùng miền núi vùng
cao của nước ta. Đặc biệt vai trò Nhà nước được nhấn mạnh trong tất cả các
khâu từ đề ra cơ chế, chính sách, hỗ trợ đầu tư, vận động tuyên truyền, khâu nối,
tổ chức thực hiện đến chỉ đạo, kiểm tra và uốn nắn lệch lạc để nhằm phát huy
hiệu quả chương trình.

1.2.2.2- Hoạch định chính sách và tạo môi trường, hành lang pháp lý thụân
lợi để thực hiện giảm nghèo nhanh và bền vững:
Chính sách giảm nghèo nhanh và bền vững cho các huyện miền núi vùng
cao về cơ bản đã được đáp ứng theo tinh thần Nghị quyết 30a/2008/NĐ-CP của
Chính phủ và có thể coi đây là chính sách chung cho việc giảm nghèo nhanh và
bền vững cho tất cả các huyện miền núi vùng cao. Nghị quyết đã đưa ra các mục
tiêu cụ thể đến năm 2015 và đến năm 2020 với các chỉ tiêu phải đạt được cho
từng thời kỳ. Đồng thời Nghị quyết đã ban hành một số cơ chế, chính sách, giải
pháp hỗ trợ giảm nghèo. Đây là những cơ chế, chính sách, giải pháp lớn mang
tính đột phá, hỗ trợ đầu tư mạnh mẽ cho sản xuất và xây dựng hạ tầng để giúp
nhân dân 61 huyện nghèo nhất nước cũng như tất cả các huyện miền núi vùng
12


cao nhanh chóng giảm nghèo theo hướng bền vững. Các hộ sản xuất tiểu thủ
công nghiệp được vay vốn sản xuất. Nhà nước có cơ chế cho tạo việc làm, giáo
dục đào tạo, dạy nghề, nâng cao dân trí, có chính sách phù hợp với cán bộ,… Cơ
sở hạ tầng thiết yếu được Nhà nước hỗ trợ đầu tư đồng bộ. Chính phủ giao cho
các Bộ, ngành chỉ đạo hỗ trợ theo lĩnh vực, các Tổng công ty doanh nghiệp lớn
tham gia hỗ trợ giúp đỡ đầu các huyện nghèo.
Nhà nước tạo môi trường pháp lý để kinh doanh bình đẳng, có tính cạnh
tranh; Ban hành cơ chế, chính sách về ưu đãi đối với các ngành, vùng, các sản
phẩm và dịch vụ cần ưu tiên hoặc khuyến khích phát triển, không phân biệt
thành phần kinh tế. Tạo điều kiện về đất đai, hỗ trợ sản xuất kinh doanh và phát
triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, hợp tác xã, các trang trại và các loại hình doanh
nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân và tạo nhiều công ăn việc làm cho người
lao động, thực hiện chiến lược xóa đói giảm nghèo. Nhà nước thiết lập môi
trường thuận lợi để khuyến khích và hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa,
đặc biệt các doanh nghiệp thuộc vùng sâu, vùng xa và nông thôn.
Gắn việc đổi mới đồng bộ với việc thực hiện mạnh mẽ chủ trương xã hội

hóa đối với vùng có điều kiện để tập trung ngân sách cho vùng khó khăn. Động
viên tối đa các nguồn lực tài chính để thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ phát
triển kinh tế xã hội, công bằng xã hội và xóa đói giảm nghèo. Hoàn thiện chính
sách phân phối lần đầu nhằm giải quyết hài hoà lợi ích kinh tế giữa Nhà nước,
doanh nghiệp, người lao động; mở rộng các hình thức phân phối lại thông qua
phát triển hệ thống phúc lợi công cộng, bảo hiểm, an sinh xã hội, các chế độ ưu
đãi về tài chính, các hình thức trợ cấp xã hội để giải quyết các vấn đề xã hội,
giảm chênh lệch giàu nghèo, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Vai trò Nhà nước là phải xây dựng được một nền hành chính Nhà nước
trong sạch, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, có trách nhiệm ở tất cả các cấp, có
khả năng xây dựng các chính sách và cung ứng dịch vụ theo yêu cầu của người
dân, khuyến khích cơ hội cho người nghèo, người thiệt thòi giúp họ phát huy
được tiềm năng của mình. Để đạt được mục đích này phải tạo nên một hệ thống
hành chính với cơ chế, tổ chức bộ máy gọn nhẹ, đội ngũ cán bộ, công chức về
cơ bản có phẩm chất, năng lực và trình độ đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước để đạt được mục tiêu giảm nghèo nhanh và
bền vững. Cải cách hành chính là nhằm đảm bảo cho người nghèo tiếp cận được
13


các dịch vụ y tế, giáo dục, cơ sở hạ tầng, nước, điện... ở các địa phương, đặc biệt
chú trọng các tỉnh miền núi và các huyện miền núi vùng cao. Tăng cường dân chủ
cơ sở, các cuộc đối thoại giữa chính quyền địa phương và cộng đồng người
nghèo. Thúc đẩy sự tham gia của người dân, trong đó có người nghèo vào hoạch
định chính sách và thực hiện chính sách được thể hiện rõ nét qua thực tiễn áp
dụng Quy chế dân chủ cơ sở đến tận xã, bản vùng cao. Chính quyền địa phương
phải thực hiện dân chủ, đưa ra dân bàn, dân góp ý cho các chương trình, dự án,
các khoản giúp đỡ nhân đạo, từ thiện cho người nghèo, các khoản đóng góp xây
dựng nhà tình nghĩa, nhà tình thương... Trong quá trình thực hiện các công trình,
dự án cần ưu tiên sử dụng nguồn lao động tại địa phương để giải quyết việc làm

và tăng thu nhập cho người nghèo. Phân cấp cho các tổ chức, đoàn thể, nhân
dân, cộng đồng trực tiếp quản lý và tham gia quản lý việc xây dựng, vận hành và
sử dụng các chương trình dự án về phát triển kinh tế và xóa đói giảm nghèo trên
địa bàn địa phương.
1.2.2.3- Đầu tư hợp lý cho các huyện miền núi vùng cao:
Nhà nước huy động bằng nhiều chương trình dự án, kêu gọi đầu tư, đóng
góp của các tổ chức, cá nhân để đầu tư, xây dựng các công trình hạ tầng thiết
yếu (giao thông, thuỷ lợi, nước sinh hoạt, trường học, trạm xá, bệnh viện, trụ sở,
nhà cộng đồng, chợ,...) phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt cho các huyện miền
núi vùng cao. Thực hiện các chính sách hỗ trợ lớn về vốn, giống cây trồng, vật
nuôi, vật tư, tư liệu sản xuất, hỗ trợ kỹ thuật,,... để vực dậy và phát triển sản xuất
bền vững đảm bảo cho người dân các huyện miền núi vùng cao có thể từ các
nguồn hỗ trợ này và bằng sức lao động của mình tự sản xuất được các sản phẩm
nuôi sống mình và tiến tới có đóng góp cho xuất khẩu hàng hoá nông sản phẩm
vùng cao. Thực hiện Chương trình phát triển kinh tế xã hội các xã đặc biệt khó
khăn (chương trình 135), chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững
theo Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP bảo đảm về cơ bản các xã có đủ các công
trình thiết yếu. Phát triển cơ sở hạ tầng, phát triển các trung tâm cụm xã, quy
hoạch bố trí lại cụm dân cư, đẩy mạnh phát triển sản xuất nông lâm nghiệp; đào
tạo cán bộ xã, bản, làng, phum sóc. Từng bước thu hẹp khoảng cách về đời sống
vật chất và tinh thần giữa các nhóm dân tộc.
Thực hiện tốt việc giao đất, giao rừng cho hầu hết các cá nhân, hộ gia đình
và tổ chức ở vùng dân tộc và miền núi, nhất là hộ gia đình dân tộc ít người. Đảm
bảo giao quyền sử dụng đất cá nhân và tập thể cho đại bộ phận người dân ở
14


vùng dân tộc ít người và miền núi. Thực hiện tốt công tác định canh định cư,
hạn chế di cư tự do, ổn định sản xuất, nâng cao đời sống của các đồng bào dân
tộc ít người phù hợp với tập quán của người dân trên cơ sở có quy hoạch dân cư

theo hướng hình thành các cụm dân cư tập trung, hình thành các cụm xã, thị tứ,
đồng thời nghiên cứu và xem xét các điều kiện cơ sở hạ tầng như: giao thông,
cung cấp nước, điện, thông tin, chợ... cho các cụm dân cư này. Khai thác tốt các
tiềm năng về đất đai, lao động, đẩy mạnh phát triển lâm nghiệp, cây công
nghiệp, cây ăn quả, ngành nghề thủ công truyền thống ở vùng dân tộc và miền
núi.
Hướng dẫn cách làm ăn, chuyển giao công nghệ và cung cấp thông tin nhằm
phát triển mạnh kinh tế hàng hoá, tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ, tiến
tới xóa bỏ kinh tế tự cung, tự cấp ở vùng dân tộc ít người và miền núi. Phát triển
các trang trại sản xuất nông, lâm nghiệp có quy mô phù hợp với trình độ quản lý
và sức sản xuất của từng địa bàn dân cư. Kết hợp phát triển công nghiệp chế
biến và tiêu thụ sản phẩm ở các khu vực miền núi.
Nâng cao dân trí, bảo tồn và phát huy những giá trị văn hoá truyền thống
của đồng bào các dân tộc ít người. Ưu tiên đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng đội ngũ
cán bộ là con em đồng bào các dân tộc ít người ngay tại địa phương, từng bước
tăng dần tỷ lệ cán bộ dân tộc ít người. Đãi ngộ và sử dụng tốt đội ngũ già làng,
trưởng bản, thực hiện tốt chính sách đại đoàn kết các dân tộc ở vùng dân tộc và
miền núi. Chú trọng củng cố và mở rộng các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá,
thông tin của đồng bào dân tộc. Giữ gìn và phát triển tiếng nói, chữ viết của các
dân tộc. Tăng cường thông tin về các chương trình xóa đói giảm nghèo bằng các
phương pháp, hình thức và tổ chức tại các địa điểm thích hợp làm cho đồng bào
dân tộc ít người có thể tiếp cận được.
1.2.2.4- Nhà nước tạo mọi điều kiện thuận lợi cho người nghèo vươn lên
thoát nghèo nhanh và bền vững :
Từ thập kỷ 80 đến nay và đặc biệt là từ những năm 2000 đã có nhiều chương
trình dự án được phê duyệt và thực hiện cho công tác xoá đói, giảm nghèo nhanh
và bền vững cho các xã miền núi vùng cao đặc biệt khó khăn vùng sâu vùng xa
của cả nước như chương trình 135/CP, chương trình 134/CP, chương trình
138/CP,… Đối tượng người nghèo đã thực sự được Nhà nước và các tổ chức
đoàn thể, chính trị, xã hội quan tâm và tìm nhiều biện pháp tiếp cận, hỗ trợ giúp

đỡ bằng nhiều hình thức để thoát nghèo và giảm nghèo nhanh. Nhà nước xây
15


dựng các biện pháp thiết yếu, như đầu tư hỗ trợ sản xuất, xây dựng cơ sở hạ
tầng, lập các quỹ cứu trợ xã hội,... để giúp đỡ, bảo vệ người nghèo. Nhà nước
duy trì liên tục sự trao đổi, phân phối mang tính thị trường, nhưng không loại
người nghèo ra khỏi những nguồn lực và lợi ích của sự thịnh vượng chung về
kinh tế. Thực tế kinh nghiệm thế giới cho thấy sự thiếu vắng vai trò của Nhà
nước đặc biệt có hại đối với người nghèo, cộng đồng nghèo, vì người nghèo
không tự bảo vệ được các quyền của mình, hơn nữa cũng cần nhấn mạnh trong
thành quả chung của tăng trưởng kinh tế thì Nhà nước có vai trò nòng cốt và có
trách nhiệm thu hút sự tham gia tích cực của cộng đồng, các tổ chức chính trị,
kinh tế, xã hội. Nhà nước tạo điều kiện để người nghèo tham gia đầy đủ vào quá
trình phát triển, có cơ hội bình đẳng như mọi người dân. Xây dựng khuôn khổ
pháp lý cho các tổ chức xã hội, tổ chức cộng đồng ở địa phương nhằm nâng cao
khả năng và sự tham gia của người nghèo vào quá trình phát triển.
Một vấn đề cần đặc biệt lưu ý trong quá trình thực hiện chương trình giảm
nghèo nhanh và bền vững tại các huyện miền núi vùng cao là phải đề cao vai trò
đối tượng được giảm nghèo, đây được coi là động lực chính cho quá trình giảm
nghèo nhanh và bền vững thành công. Đối tượng người nghèo tại các huyện
miền núi vùng cao đã bao năm nay được Nhà nước quan tâm đầu tư, hỗ trợ và
cứu giúp những lúc khốn khó. Nhiều chương trình đầu tư hỗ trợ có lúc mang
tính bao cấp nhiều năm liền đã phần nào làm tăng tính thụ động, chờ đợi, ỷ lại,
trông chờ vào nhà nước trong một bộ phận nhân dân đồng bào các huyện miền
núi vùng cao, đặc biệt là các hộ nghèo. Do vậy vai trò Nhà nước càng cần được
nêu cao trong việc tuyên tryền vận động thuyết phục người dân được hưởng lợi
từ các chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững phải nỗ lực vươn lên. Người
dân cần phải ý thức được rằng sự hỗ trợ của nhà nước, của xã hội chỉ là chất
kích thích, là động lực và là tạo đà cho chính bản thân họ đứng lên hăng hái lao

động sản xuất để chiến thắng đói nghèo. Giảm nghèo không chỉ là nhiệm vụ của
Nhà nước, toàn xã hội mà trước hết là bổn phận của chính người nghèo phải tự
vươn lên để thoát nghèo. Vai trò, trách nhiệm của Chính phủ là giúp gỡ bỏ rào
cản ngăn cách xã hội và kinh tế để xóa đói giảm nghèo; hiệu quả xóa nghèo đạt
thấp, nếu bản thân người nghèo không tích cực và nỗ lực phấn đấu vươn lên với
mức sống cao hơn. Xóa đói giảm nghèo phải được coi là sự nghiệp của bản thân
người nghèo, của chính người được hỗ trợ để xoá đói giảm nghèo, cộng đồng
nghèo, bởi vì sự nỗ lực tự vươn lên để thoát nghèo chính là động lực, là điều
16


kiện cần cho sự thành công của mục tiêu chống đói nghèo ở các nước. Nhà nước
trợ giúp người nghèo biết cách tự thoát nghèo và tránh tái nghèo khi gặp rủi ro.
Bên cạnh sự hỗ trợ về vật chất trực tiếp thì việc Nhà nước tạo việc làm cho
người nghèo bằng cách hướng dẫn người nghèo sản xuất, kinh doanh phát triển
kinh tế theo điều kiện cụ thể của họ chính là điều kiện giảm nghèo thành công
nhanh và bền vững.
1.2.2.5- Nhà nước kiểm tra, giám sát, đánh giá, điều chỉnh thực hiện chương
trình:
Để đánh giá được khách quan, trung thực, có chất lượng chương trình đòi
hỏi các thông tin thu thập phải đảm bảo tính hệ thống; tính toàn diện; sát thực và
phải được cập nhật thường xuyên. Nhà nước thực hiện vai trò kiểm tra, giám sát
đánh giá để đảm bảo chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững được thực
hiện với hiệu quả cao nhất. Qua thực hiện bộc lộ những bất cập sẽ được xử lý
thích hợp, có những điều chỉnh tổng kết kịp thời để bổ sung cho giai đoạn sau
những bài học, kinh nghiệm quý định hướng cho chương trình đi đúng hướng.
Tất cả các chương trình, dự án xóa đói giảm nghèo phải sự chịu sự giám sát và
kiểm tra của nhân dân.
Có thể đánh giá vai trò Nhà nước đối với giảm nghèo nhanh và bền vững
cho các huyện miền núi vùng cao đã được thể hiện rõ trong Nghị

quyết30a/2008/NQ-CP. Nghị quyết ra đời và đi vào thực hiện ở 61 huyện nghèo
nhưng cũng được coi là những chính sách chung áp dụng cho các huyện nghèo
miền núi vùng cao trong cả nước, thực sự là đòn bẩy thúc đẩy kinh tế - xã hội
các huyện miền núi vùng cao phát triển. Đồng thời đây cũng là điểm lan toả ra
cho tất cả các huyện nghèo còn lại với việc vận dụng cơ chế chính sách mà nghị
quyết đã nêu ra để các địa phương chủ động vận dụng vào xoá đói, giảm nghèo
nhanh và bền vững. Các huyện miền núi vùng cao từ việc thực hiện Nghị quyết
này sẽ nhanh chóng tạo lập được thế trận sản xuất và phát triển kinh tế - xã hội
vững chắc nhanh chóng thực hiện chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững
thành công. Vai trò Nhà nước phải theo sát từ hoạch định tổng thể chiến lược
đến điều hành chỉ đạo thực hiện các lĩnh vực, các khâu công việc cụ thể trong
chương trình để thể hiện và phát huy chức năng nhiệm vụ của mình nhằm chèo
lái đưa chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững thành công ở các huyện
miền núi vùng cao.
17


1.1.3- Sự cần thiết về vai trò Nhà nước đối với giảm nghèo nhanh và bền
vững ở các huyện miền núi vùng cao:
Trong công tác giảm nghèo nhanh và bền vững ở nước ta và đặc biệt là ở các
huyện miền núi vùng cao hiện nay, trước hết vai trò Nhà nước rất cần thiết khách
quan vì phải bảo đảm an ninh lương thực cho toàn xã hội; đa dạng hoá sản xuất
nông nghiệp; chú trọng nghiên cứu thị trường, đảm bảo việc cung cấp thông tin
kịp thời; tăng đầu tư cho nông nghiệp; kết hợp giữa sản xuất sản phẩm chất lượng
cao với phát triển cơ sở chế biến và bảo quản; mở rộng các hoạt động nông, lâm,
ngư nghiệp và các hoạt động khuyến nông, lâm và ngư nghiệp phù hợp với điều
kiện sản xuất của các vùng khác nhau, đáp ứng yêu cầu của người nghèo; xây
dựng chiến lược phòng chống thiên tai nhằm giảm thiểu thiệt hại và ổn định sản
xuất cũng như cuộc sống dân cư trong vùng thường xuyên bị thiên tai. Một điều
cần lưu ý là vai trò Nhà nước rất cần thiết trong bảo vệ môi trường và phát triển

bền vững, kết hợp hài hoà giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo vệ và cải thiện
môi trường, bảo đảm cho mọi người dân đều được sống trong một môi trường
trong sạch và lành mạnh.
Chúng ta đều biết rất rõ giảm nghèo đã khó, chống tái nghèo còn khó hơn,
có nghĩa là phải tìm cách giảm nghèo bền vững. Thứ trưởng - Phó chủ nhiệm Uỷ
ban Dân tộc Hà Hùng cho rằng giảm nghèo đã khó nhưng công tác chống tái
nghèo, đảm bảo công cuộc XĐGN bền vững còn gian nan hơn rất nhiều lần.
Đơn cử như ở khu vực miền Trung, Tây Nguyên, các huyện miền núi vùng cao
nơi thường xuyên phải hứng chịu sự tàn phá của thiên tai, nếu không có những
giải pháp hỗ trợ kịp thời và cụ thể thì nguy cơ tái nghèo ở những vùng này luôn
cao.
Để thực hiện tốt chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững, Nhà nước
có vai trò cần thiết khách quan phải chỉ đạo tiếp tục chuyển đổi cơ cấu kinh tế và
cơ cấu lao động theo hướng nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh của nền
kinh tế. Mở rộng và phát triển quan hệ kinh tế quốc tế, tăng cường cơ sở hạ tầng
kinh tế - xã hội, cải tiến hệ thống giáo dục đào tạo để nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực. Muốn giảm nghèo nhanh phải tạo tăng trưởng kinh tế nhanh từ đó sẽ
tạo ra nguồn lực cho xóa đói giảm nghèo, đồng thời phải có các chính sách phân
bổ nguồn lực và biện pháp xã hội nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người nghèo
tiếp cận được các cơ hội cải thiện cuộc sống của mình, tăng thêm nhận thức và
nỗ lực vươn lên tự thoát nghèo. Xóa đói giảm nghèo không đơn giản là việc phân
18


phối lại thu nhập một cách thụ động mà phải tạo ra động lực tăng trưởng tại chỗ,
chủ động tự vươn lên thoát nghèo. Nhà nước phải đáp ứng vai trò huy động
nguồn lực cho tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo.
Vai trò Nhà nước được thể hiện đối với giảm nghèo nhanh và bền vững là
phải dựa trên nhu cầu của người nghèo để xây dựng các chương trình, dự án
khôi phục và làm mới các cơ sở hạ tầng thiết yếu cho nhân dân, đặc biệt là các

vùng khó khăn vùng sâu vùng xa, các huyện miền núi cao. Có chính sách cung
cấp điện, xây dựng công trình thuỷ lợi nhỏ, nước sạch, các công trình vệ sinh,
phát triển và phục hồi hệ thống giao thông, đặc biệt ở các vùng nghèo. Tiếp tục
nâng cao chất lượng giáo dục; duy trì các mục tiêu phổ cập giáo dục tiểu học,
trung học cơ sở; thực hiện miễn, giảm học phí và các đóng góp khác đối với trẻ
em các gia đình nghèo, vùng nghèo, thực hiện từng bước việc kiên cố hoá các
trường học phổ thông và dạy nghề. Tăng cường hệ thống y tế cơ sở, duy trì và
phát triển các dịch vụ y tế cộng đồng, ưu tiên cho việc phòng chống các bệnh
ảnh hưởng tới người nghèo (sức khoẻ sinh sản, các bệnh truyền nhiễm,
HIV/AIDS, các bệnh của trẻ em và các bệnh xã hội khác); nâng cao chất lượng
dịch vụ y tế; đảm bảo người nghèo có thể tiếp cận được dịch vụ chăm sóc sức
khoẻ có chất lượng; hỗ trợ người nghèo trong việc chi trả các dịch vụ y tế. Thu
hẹp khoảng cách chênh lệch về xã hội giữa các vùng và nhóm người, giảm khả
năng dễ bị tổn thương của người nghèo và yếu thế; thực hiện công bằng về giới
và tiến bộ của phụ nữ; ổn định và nâng cao mức sống cho các dân tộc ít người;
mở rộng mạng lưới an sinh xã hội, phát triển hệ thống cứu trợ đột xuất có hiệu
quả; mở rộng sự tham gia và nâng cao vai trò của các tổ chức xã hội trong nước
và các tổ chức phi chính phủ trong quá trình xây dựng và thực hiện mạng lưới an
sinh xã hội.

19


CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG VAI TRÒ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI GIẢM NGHÈO
NHANH VÀ BỀN VỮNG Ở HUYỆN MIỀN NÚI VÙNG CAO QUẾ
PHONG, TỈNH NGHỆ AN THỜI GIAN QUA
I- Thực trạng phát triển kinh tế - xã hội và tình hình đói nghèo ở huyện
Quế Phong, tỉnh Nghệ An:
1- Thực trạng phát triển kinh tế - xã hội ở huyện Quế Phong:

Quế Phong là huyện vùng núi cao, biên giới nằm về phía Tây Bắc của tỉnh
Nghệ An, có đường biên giới với nước bạn Lào dài 73 km, là huyện cuối cùng
nằm trên trục đường Quốc lộ 48, cách thành phố Vinh 180 km. Tọa độ địa lý của
huyện nằm trong khoảng 19o26' đến 20o vĩ độ Bắc, 104o30' đến 105o10' kinh độ
Đông. Phía Đông Bắc giáp huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hoá; Phía Nam
giáp huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An; Phía Tây Nam giáp huyện Tương Dương,
tỉnh Nghệ An; Phía Tây Bắc giáp nước Cộng hoà DCND Lào.
Diện tích tự nhiên của toàn huyện là 189.500 ha. Địa hình bị chia cắt mạnh
bởi các dãy núi cao và hệ thống sông, suối khá dày đặc, điển hình là dãy núi
Trường Sơn có độ cao từ 1.600-1.828m. Do địa hình chủ yếu là núi cao lại bị
chia cắt mạnh, có độ dốc lớn nên diện tích đất để sản xuất cây hàng năm ít, giao
thông đi lại và bố trí dân cư khó khăn. Về đặc điểm khí hậu: Nhiệt độ trung bình
năm từ 22-240C. Nhiệt độ cao nhất trung bình năm là 340C; nhiệt độ thấp nhất
trung bình năm là 90C. Lượng mưa trung bình hàng năm là 1.800mm và phân bố
theo mùa. Mùa mưa từ thàng 5 đến tháng 10, lượng mưa tập trung 80-90%
lượng mưa cả năm thường gây ngập lụt, lũ quét, lũ ống. Mùa khô từ tháng 11
đến tháng 4 năm sau, lượng mưa thấp nên dễ gây thiếu nước, khô hạn, gây thiếu
nước, giảm tốc độ sinh trưởng của cây trồng, phát sinh dịch bệnh gia súc, gia
cầm và ảnh hưởng tới sinh hoạt cũng như sức khỏe của nhân dân.
Các nguồn tài nguyên trên địa bàn huyện tương đối đa dạng: Đất nông
nghiệp 157.399,77 ha, đất phi nông nghiệp 4.196,31 ha, đất chưa sử dụng
27.490,3 ha. Các loại đất thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp là đất phù sa, đất
có tầng sét loang lổ và sau đó tới nhóm đất đồi đỏ vàng. Xu thế biến đổi lý hoá
tính của đất một số nơi đang diễn theo chiều hướng xấu do tập quán sản xuất
canh tác cũ lạc hậu, điều kiện tưới tiêu còn rất hạn chế,... đã làm đất thường có
phản ứng chua, lân và ka li dễ tiêu nghèo. Về tài nguyên nước, huyện Quế
Phong có nhiều sông suối phân bố tương đối đều trên địa bàn huyện, mật độ
20



trung bình từ 0,5 - 0,6 km/km2, có bốn con sông chính chảy qua. Nhờ hệ thống
sông suối khá dày, thảm thực vật rừng được bảo vệ phục hồi nhanh nên nguồn
sinh thuỷ được duy trì, đảm bảo có đủ nước ổn định phục vụ sản xuất và sinh
hoạt cho nhân dân trên địa đàn huyện và có tiềm năng phát triển thuỷ điện. Tuy
nhiên, cũng do những đặc điểm nêu trên nên dễ bị ảnh hưởng của mưa lũ, lũ
ống, lũ quét gây sạt lở đất, ảnh hưởng lớn đến hạ tầng và sản xuất cũng như đời
sống dân sinh. Tài nguyên khoáng sản ở Quế Phong không nhiều về chủng loại,
trữ lượng ít, các loại khoáng sản chính như: thiếc có trữ lượng 6.905 tấn, Vàng
sa khoáng, sắt, đá vôi, cát, đá, sỏi phục vụ sản xuất vật liệu xây dựng. Về tài
nguyên rừng, toàn huyện có 149.509,7 ha đất rừng, trong đó diện tích rừng tự
nhiên có 140.203 ha, ngoài ra có gần 210 ha rừng gỗ Pơ mu là loại gỗ quý hiếm
với có trữ lượng khoảng 6.500 m3. Rừng trồng 8.307 ha, chủ yếu là rừng quế,
cây gỗ nguyên liệu (keo, xoan, bạch đàn). Động vật rừng trước đây khá phong
phú về chủng loại như gấu, voi, lợn rừng, hươu, nai,... tuy nhiên do tình trạng
săn bắn thú rừng vẫn diễn ra nên đến nay số lượng động vật rừng còn rất ít.
Lâm nghiệp là tiềm năng thế mạnh của Quế Phong, diện tích đất có rừng lớn,
nhiều tầng phong phú về chủng loại và trong điều kiện có độ ẩm cao nên cây
rừng phát triển nhanh. Nhưng để phát triển mạnh kinh tế rừng, cần có cơ chế
chính sách về đầu tư thoả đáng và gắn lợi ích kinh tế hộ đồng bào dân tộc với
chương trình phát triển lâm nghiệp để khoanh nuôi, bảo vệ và khai thác lâu dài
có hiệu quả đất rừng.
Dân số trung bình huyện Quế Phong năm 2009 là 63.250 người, số hộ
trung bình là 12.968 hộ, trong đó hộ dân tộc thiểu số 11.474 hộ (chiếm 88,5%);
bao gồm 4 dân tộc chính cùng sinh sống (dân tộc thiểu số chiếm hơn 90% dân
số). Trong đó: Dân tộc Thái chiếm 82,8%, sống chủ yếu ở vùng núi thấp ven
sông suối và chân núi, có truyền thống canh tác lúa nước nhưng thiếu chí hướng
làm giàu; Dân tộc Mông chiếm 4,2%, sống chủ yếu ở các dãy núi cao dọc tuyến
biên giới, siêng năng, chăm chỉ và biết cách làm ăn nhưng do điều kiện sản xuất
quá khó khăn nên hầu hết đói quanh năm và thường di dịch cư tự do; Dân tộc
Khơ mú chiếm 3,0%, sống rải rác ở các dãy núi cao trung bình, thường du canh

du cư, trình độ dân trí thấp, thiếu chịu khó trong lao động sản xuất.
Toàn huyện có 14 đơn vị hành chính (xã, thị trấn), trong đó có 12 xã đặc
biệt khó khăn được hưởng chính sách chế độ theo Quyết định 135/CP (chương
trình hỗ trợ đầu tư xây dựng hạ tầng và phát triển kinh tế xã hội cho 1750 xã đặc
21


biệt khó khăn, vùng sâu vùng xa). Huyện Quế Phong là một trong 61 huyện
nghèo của cả nước được hỗ trợ đầu tư giảm nghèo nhanh và bền vững theo Nghị
quyết 30a/2008/NQ-CP của Chính phủ. Thực trạng điều kiện tự nhiên và tình
hình phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn huyện cũng đan xen những thuận lợi
và thách thức, trong đó những khó khăn về điều kiện tự nhiên và trình độ dân trí
của một huyện miền núi vùng cao vẫn là thách thức lớn. Tỷ lệ hộ đói nghèo toàn
huyện đến đầu 2009 là 50,59%.
Tình hình về cơ sở hạ tầng: Có 61 km đường Quốc lộ 48 qua huyện là
đường nhựa. Đường do huyện quản lý gồm 10 tuyến, tổng chiều dài 121 km,
trong đó có 47 km là đường nhựa cấp VI miền núi, còn lại là đường đất, các
công trình cầu cống vĩnh cửu trên các tuyến còn ít. Đường từ trung tâm xã đi các
thôn bản có tổng chiều dài 221 km, loại đường này đi lại hết sức khó khăn, hầu
hết là đường mòn nền đất nên hư hỏng thường xuyên sau mỗi mùa mưa lũ, hàng
năm huyện phải huy động nhân dân tự tu sửa để đi lại với hàng ngàn ngày công
lao động…
Về thực trạng sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp: Diện tích gieo cấy lúa
nước cả năm giai đoạn 2007-2012 bình quân đạt 4.070 ha/năm, năng suất bình
quân đạt 44 tạ/ha. Bình quân lương thực đầu người tăng từ 310 kg/người năm
2007 lên 316 kg/người năm 2008. Diện tích lúa rẫy giảm dần, năm 2012 huyện
đưa chỉ tiêu làm rẫy chỉ 500 ha/năm. Tuy nhiên, so với tiềm năng và so với các
huyện nghèo của tỉnh Nghệ An thì kết quả đạt được còn hạn chế, tiềm năng về
đất đai còn lãng phí. Từ năm 2007, huyện đã thử nghiệm và khẳng định có thể
sản xuất 3 vụ đối với diện tích đất ruộng trên địa bàn 4 xã vùng thấp nhưng do

sức ỳ ngại khó, ngại vất vả của bà con nông dân dân tộc và không quen với tính
khẩn trương liên tục của việc xoay vòng sản xuất 3 vụ nên kết quả đạt được
không cao. Ngoài ra, một số diện tích còn bị bỏ hoang, đầu tư thâm canh và
chăm sóc kém dẫn tới năng suất tăng chậm. Năng suất lúa nước có những nơi
đạt 9-10 tấn/ha/vụ, nhưng cũng còn nhiều vùng chỉ đạt từ 2-3 tấn/ha/vụ,…Diện
tích cây công nghiệp ngắn ngày trung bình trong 3 năm qua như mía nguyên
liệu, lạc, đậu,... đều tăng song chủ yếu chỉ tập trung ở một số xã nơi có đồng
bào dân tộc Kinh sinh sống. Tỷ trọng chăn nuôi trong ngành nông nghiệp
chuyển dịch tích cực, tăng từ 37% năm 2005 lên 46% vào năm 2008. Tổng đàn
trâu bò tăng từ 31.581 con năm 2005 lên 34.942 con năm 2008 (tăng bình quân
3,42%/năm); Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng đàn chăn nuôi còn thấp (chủ yếu do
22


chăn thả rông tự nhiên không kiểm soát được dịch bệnh và mất trộm), năng suất
chất lượng còn thấp (do chậm lai tạo, chuyển vùng giống chăn nuôi, cung cấp
thức ăn kém, nuôi dưỡng và phát huy sau đầu tư con giống chưa tốt); chất lượng
hoạt động của đội ngũ cán bộ làm công tác khuyến nông, lâm, ngư ở cơ sở còn
yếu kém, các mô hình trình diễn chưa phù hợp với điều kiện thực tế của nhân
dân,…Đại bộ phận đất rừng, đất vườn được giao của các hộ dân chưa có giá trị
kinh tế (hầu hết đang bỏ hoang), thu nhập từ rừng chủ yếu hái lượm và săn bắt,
lấy củi làm chất đốt và khai thác gỗ để làm nhà ở, có rất ít hộ dân biết đầu tư để
trồng rừng nguyên liệu, trồng cây ăn quả,… trên đất được giao.
Về thực trạng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng và hoạt động
dịch vụ của huyện Quế Phong phát triển chậm mặc dù có tiềm năng, điều kiện
để phát triển nhanh hơn và trở thành một ngành kinh tế chính, chiếm tỷ trọng lớn
trong cơ cấu kinh tế, tạo được nhiều việc làm và thu nhập cho nhân dân.
Về đánh giá thực trạng phát triển chung: Tốc độ tăng trưởng kinh tế giai
đoạn 2005-2008 bình quân đạt 13,3%/năm, đạt cao nhất là năm 2008 (16,4%).
Cơ cấu kinh tế ngành chuyển dịch tích cực, đúng định hướng: tỷ trọng ngành

nông lâm ngư nghiệp giảm từ 58,88% năm 2005 xuống còn 48,99% năm 2008;
các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ tăng từ 41,12% năm
2005 lên 51,01% năm 2008. Trong những năm qua, đời sống của nhân dân đã
được cải thiện một bước, các chính sách an sinh xã hội ngày càng được quan
tâm thực hiện tốt, thu nhập bình quân đầu người (theo giá hiện hành) tăng từ 3,9
triệu đồng/người năm 2005 lên 7,24 triệu đồng/người năm 2008, bình quân tăng
22,9%/năm. Tuy nhiên điều kiện mọi mặt cho phát triển kinh tế - xã hội toàn
huyện còn rất khó khăn, tỷ lệ đói nghèo còn rất cao đòi hỏi vai trò Nhà nước
phải có những tác động tích cực mạnh mẽ để chương trình giảm nghèo nhanh và
bền vững đi đúng hướng đích nhanh chóng.
2- Thực trạng đói nghèo ở huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An:
Quế Phong là huyện miền núi cao địa hình phức tạp, cơ sở hạ tầng chưa
được đầu tư đầy đủ, đồng bộ, phong tục tập quán sinh hoạt, sản xuất lạc hậu còn
khá nặng nề, đặc biệt là các xã vùng sâu, vùng xa, xã đặc biệt khó khăn có tỷ lệ
hộ nghèo rất cao.
Về nguyên nhân khách quan dẫn đến đói nghèo cũng do nhiều yếu tố như hệ
thống giao thông, thủy lợi, điện lưới Quốc gia, thông tin tuyên truyền, cơ sở vật
chất ngành giáo dục, y tế,… tuy được đầu tư xây dựng nhưng vẫn chưa đáp ứng
23


với yêu cầu nhiệm vụ và đời sống kinh tế - xã hội của nhân dân. Trình độ dân trí
đang rất thấp, tinh thần ý chí tự chủ, khắc phục khó khăn vươn lên làm giàu còn
hạn chế, chưa tạo được động lực ganh đua trong cộng đồng dân cư. Nhận thức của
nhân dân về việc tổ chức cuộc sống, tổ chức sản xuất còn hạn chế, áp dụng các tiến
bộ KHKT vào sản xuất còn chậm, hầu hết chưa có ý thức về kinh tế hàng hóa và
kinh tế thị trường. Phong tục tập quán sinh hoạt cũ lạc hậu còn nặng nề, tác phong
sinh hoạt theo nếp sống cũ. Phong cách sống giản đơn, tùy tiện đang in sâu trong
nhiều cộng đồng dân cư vùng sâu, vùng xa. Một số tập quán mới nảy sinh trong
kinh tế, đời sống văn hóa hiện nay đang theo chiều hướng có giảm bớt thủ tục

nhưng nặng ăn uống linh đình (đám ma, cưới xin,..,). Tập quán sản xuất cũ chủ yếu
độc canh cây lúa, hình thức canh tác còn lạc hậu chậm đổi mới như: Sản xuất lúa
nước chủ yếu dùng sức trâu, bò và người dẫm thay cho cày, bừa; lượng phân bón
có nhiều từ các nguồn như phân chuồng, phân xanh, phân lèn nhưng không có ý
thức đầu tư mà chủ yếu cấy chay. Chăn nuôi gia súc thì chủ yếu thả rông nên dễ
mất trộm, khó kiểm soát dịch bệnh và phá hoại cây trồng. Trong những năm vừa
qua có nhiều hộ dân vay vốn ngân hàng CSXH để đầu tư phát triển chăn nuôi
nhưng bị chết do dịch bệnh, do rét,.. dẫn đến không phát huy được đồng vốn,
không thoát nghèo được, thậm chí nghèo thêm. Tiềm năng đất đai, lao động dồi
dào nhưng phát triển đa sản phẩm còn hạn chế, các loại cây màu phát triển chậm,
điều kiện sản xuất 3 vụ trên 1 đơn vị diện tích lớn và nhiều vùng thuận lợi nhưng
không thực hiện được, dẫn đến lãng phí tiềm năng, lợi nhuận trên đơn vị diện tích
thấp; mặt khác người dân chưa có ý thức hạch toán và tính hiệu quả trong sản xuất.
Thực trạng công tác định canh, định cư và bố trí sắp xếp dân cư là nhân tố
quan trọng ảnh hưởng đến công tác XĐGN. Các dân tộc khác nhau có phong tục
định cư và sinh hoạt khác nhau. Đối với người Thái có thói quen làm nhà ở sát
nhau dễ xảy ra hoả hoạn, không có đất sản xuất màu, không có đất để làm công
trình vệ sinh và chuồng trại chăn nuôi, nhà ở sát chân núi hoặc gần sông suối dễ bị
sạt lở, lũ quét. Người Mông làm nhà và sinh sống ở trên các đỉnh núi cao, thường
di dịch cư tự do, không có điều kiện sản xuất do vậy rất khó xây dựng hạ tầng và
làng bản nông thôn mới. Đối với người Kh’mú thường du canh du cư do không có
điều kiện sản xuất và do tập quán sản xuất, không chí thú làm ăn, tư tưởng được
chăng hay chớ nên rất khó vận động nhân dân tự vươn lên thoát nghèo. Cộng đồng
này cơ bản quanh năm nghèo đói, tỷ lệ hộ khá, giàu rất thấp. Quá trình thực hiện
công tác di dân tái định cư, bố trí sắp xếp dân cư trong những năm qua vẫn còn
24


×