Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

Nghiên cứu về các loại hình kinh tế được phân loại theo bộ máy tổ chức. Kiểm toán Nhà nước, Kiểm toán độc lập, Kiểm toán nội bộ.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (263.97 KB, 42 trang )

Đề án môn học Kiểm toán Khoa kế toán
LỜI MỞ ĐẦU
Kiểm toán là một lĩnh vực còn hết sức mới mẻ ở Việt Nam. Lịch sử hình
thành và phát triển của kiểm toán Việt Nam mới chỉ bắt đầu từ những năm đầu
của thập niên 90, xuất phát từ nhu cầu tất yếu khách quan của nền kinh tế thị
trường: đòi hỏi các hoạt động kinh tế - tài chính diễn ra một cách bình đẳng,
minh bạch, công khai. Điều này thực sự cần thiết đối với các nhà đầu tư, các
doanh nhân, thương nhân và cả Nhà Nước. Những người quan tâm rất cần độ tin
cậy cao của những thông tin kinh tế - tài chính để sử dụng, xem xét cân nhắc khi
đưa ra quyết định đầu tư, kinh doanh, hoặc quyết định những vấn đề về kinh tế,
tài chính, ngân sách của địa phương, Nhà Nước. Và họ chỉ có thể yên tâm, mạnh
dạn đưa ra các quyết định kinh tế tài chính khi các thông tin do các nhà kế toán
cung cấp được đánh giá và xác nhận một cách khách quan, trung thực bởi một tổ
chức hoặc các chuyên gia hành nghề độc lập. Đó chính là các hoạt động kiểm
toán do các kiểm toán viên thực hiện. Vì thế hiện nay kiểm toán đang phát triển
rất mạnh mẽ với nhiều loại hình kiểm toán và được phân loại theo nhiều tiêu thức
khác nhau. Vì lí do này nên em đã lựa chọn đề tài: “Nghiên cứu về các loại hình
kiểm toán được phân loại theo bộ máy tổ chức: Kiểm toán Nhà nước, Kiểm
toán độc lập, Kiểm toán nội bộ”.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề án bao gồm ba phần như sau:
Phần một: Những cơ sở lý luận chung về các loại hình kiểm toán.
Phần hai: Thực trạng tình hình hoạt động của ba loại hình kiểm toán:
Kiểm toán Nhà nước, Kiểm toán độc lập và Kiểm toán nội bộ tại Việt Nam.
Nguyễn Tiến Phong 1 Kiểm toán 46B
Đề án môn học Kiểm toán Khoa kế toán
Phần ba: So sánh với kiểm toán của một số nước khác và các biện pháp
hoàn thiện các bộ máy kiểm toán ở Việt Nam.
Vì thời gian và trình độ có hạn nên trong quá trình viết đề án của em
không tránh khỏi những thiếu sót, em mong thầy cô góp ý để đề án của em được
hoàn thiện hơn.
Để hoàn thiện đề án này em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình


của TS. Nguyễn Phương Hoa và các thầy cô trong khoa Kế toán.
Nguyễn Tiến Phong 2 Kiểm toán 46B
Đề án môn học Kiểm toán Khoa kế toán
Phần I
NHỮNG CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÁC LOẠI
HÌNH KIỂM TOÁN
1.1. Sự hình thành và phát triển của kiểm toán
Kiểm toán được bắt nguồn từ hoạt động kiểm tra, kiểm soát. Đây là yêu
cầu tất yếu của quản lý và có thể thực hiện ngay trong các hoạt động quản lý
hoặc tách thành hoạt động độc lập. Lịch sử phát triển của kiểm toán có thể chia
thành ba thời kỳ sau:
Thời kỳ cổ đại: Trong giai đoạn đầu của thời kỳ cổ đại, xã hội còn chưa có
của cải thừa, kế toán được thực hiện chủ yếu bằng những dấu hiệu riêng trên sợi
dây, thân cây, lá cây… Do đó, nhu cầu kiểm tra trong quản lý còn ít và ở mức độ
đơn giản. Vào cuối thời kỳ này, sản xuất đã phát triển, của cải thừa ngày càng
nhiều, người sở hữu tìa sản và người quản lý, cất trữ tài sản đã tách rời nhau.
Thời kỳ trung đại: Trong thời kỳ này, do có sự hoàn thiện và phát triển dần
của kế toán, đặc biệt sự xuất hiện của kế toán kép nên người kế toán có thể tự đối
chiếu việc ghi chép của mình đúng hay sai. Do đó, hoạt động kiểm tra độc lập
không còn tồn tại.
Những năm 30 của thế kỷ XX, hàng loạt tổ chức tài chính trên thế giới lâm
vào tình trạng phá sản và khủng hoảng kinh tế, suy thoái về tài chính diển ra.
Người ta nhận thấy việc tự kiểm tra của kế toán không còn đáp ứng được yêu cầu
của sự phát triển. Vì vậy, hoạt động kiểm tra độc lập xuất hiện trở lại, các quy
Nguyễn Tiến Phong 3 Kiểm toán 46B
Đề án môn học Kiểm toán Khoa kế toán
chế về kiểm toán viên bên ngoài được thành lập, việc kiểm tra của các kiểm toán
viên nội bộ cũng bắt đầu phát triển. Năm 1941, Trường đào tạo Kiểm toán viên
nội bộ (IIA) được thành lập cũng công bố việc xác định chính thức về chức năng
của kiểm toán nội bộ.

Ở Việt Nam, kiểm toán bắt đầu xuất hiện từ trước những năm 75: Các văn
phòng kế toán với giám định viên kế toán và cả văn phòng kiểm toán quốc tế như
SGV, Arthur Andersen… đã thực sự là những trung tâm thực hành kế toán, kiểm
toán. Sau ngày giải phóng, với cơ chế kế hoạch hoá tập trung, kiểm toán độc lập
cũng không tồn tại. Từ những năm 90, sau khi chuyển đổi cơ chế kinh tế, kiểm
toán độc lập trở thành một đòi hỏi cấp thiết. Trước đòi hỏi đó, ngày 13 tháng 05
năm 1991, Bộ Tài chính đã ký hai quyết định thành lập hai công ty: Công ty
Kiểm toán Việt Nam (VACO) và Công ty Dịch vụ Tư vấn Tài Chính, Kế toán và
Kiểm toán (AASC). Tiếp theo đó là sự xuất hiện của các công ty kiểm toán Ernst
and Young, KPMG, PWC, A&C, DAC…
Năm 1994, cơ quan kiểm toán Nhà nước đầu tiên của Việt Nam được
thành lập. Ban đầu nó là cơ quan trực thuộc của chính phủ. Đến ngày 01 tháng 01
năm 2006, cơ quan này chuyển từ trực thuộc chính phủ sang trực thuộc Quốc hội
và Luật kiểm toán Nhà nước bắt đầu có hiệu lực.
Năm 1997, cùng với việc ban hành quyết định số 832/TC/QĐ/CĐKT ngày
28 tháng 10 của Bộ Tài chính về Quy chế kiểm toán nội bộ, Kiểm toán nội bộ
chính thức xuất hiện. Tuy nhiên, kiểm toán nội bộ ở nước ta cho đến nay chưa
thực sự phát triển mà mới chỉ đang trong giai đoạn hình thành và hoàn thiện dần.
Nguyễn Tiến Phong 4 Kiểm toán 46B
Đề án môn học Kiểm toán Khoa kế toán
1.2. Khái niệm kiểm toán
Kiểm toán là một lĩnh vực còn khá mới mẻ ở Việt Nam, nó thực sự mới
xuất hiện và du nhập vào nước ta từ hơn một chục năm cuối thế kỷ XX. Do đó
hiện nay trong quá trình áp dụng và phát triển kiểm toán, chúng ta vẫn chưa có
sự thống nhất chung trong việc hiểu và dùng các khái niệm chuyên ngành đặc
biệt đối với thuật ngữ “ Kiểm toán”. Tuy nhiên có thể khái quát khái niệm kiểm
toán theo ba loại quan điểm chính như sau:
- Quan điểm truyền thống về kiểm toán: Theo quan điểm này, kiểm toán
được đồng nghĩa với kiểm tra kế toán, một chức năng của bản thân kế
toán, một thuộc tính cố hữu của kế toán. Nội dung của hoạt động này là

rà soát các thong tin từ kế toán đến tổng hợp cân đối kế toán. Quan
điểm này chỉ phù hợp trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Trong điều
kiện kiểm tra chưa phát triển, nhà nước vừa là chủ sở hữu, vừa là người
lãnh đạo trực tiếp nền kinh tế. Tuy nhiên, trong cơ chế thị trường hiện
nay, những đối tượng quan tâm đến thông tin kế toán không chỉ có Nhà
nước mà còn có các nhà đầu tư, nhà quản lý, khách hang, người lao
động… Do đó, công tác kiểm tra cần phải được thực hiện rộng rãi, đa
dạng song thật khoa học, khách quan, trung thực, đủ sức thuyết phục và
tạo niềm tin cho những người quan tâm. Trong điều kiện đó, tách kiểm
toán thành một môn khoa học độc lập ra khỏi hoạt động kế toán là một
xu hướng phát triển tất yếu của lịch sử.
- Quan điểm về kiểm toán theo thời điểm phát triển: phát sinh cùng thời
với cơ chế thị trường. Theo quan điểm đó, “Kiểm toán là hoạt động xác
minh và bày tỏ ý kiến về các bảng khai tài chính của các thực thể kinh
Nguyễn Tiến Phong 5 Kiểm toán 46B
Đề án môn học Kiểm toán Khoa kế toán
tế do các kiểm toán viên độc lập thực hiện trên cơ sở hệ thống pháp lý
có hiệu lực.
- Quan điểm hiện đại về kiểm toán. Theo quan điểm này, kiểm toán bao
gồm 4 lĩnh vực:
1. Kiểm toán về thông tin hướng vào việc đánh giá tính trung thực và
hợp pháp của các tài liệu (thông tin) làm cơ sở pháp lý cho việc giải
quyết các mối quan hệ về kinh tế và tạo niềm tin cho những người quan
tâm đến tài liệu kế toán.
2. Kiểm toán tính quy tắc hướng vào việc đánh giá tình hình thực hiện
các chế độ, thể lệ, luật pháp của đơn vị kiểm tra trong quá trình hoạt
động.
3. Kiểm toán hiệu quả có đối tượng trực tiếp là các yếu tố, các nguồn
lực trong từng loại nghiệp vụ kinh doanh: mua bán, sản xuất hay dịch
vụ… Kiểm toán loại này giúp ích trực tiếp cho việc hoạch định chính

sách và phương hướng, giải pháp cho việc hoàn thiện hoặc cải tổ hoạt
động kinh doanh của đơn vị được kiểm toán.
4. Kiểm toán hiệu năng được đặc biệt quan tâm ở khu vực công cộng
(kể cả các xí nghiệp công và các chương trình đầu tư từ ngân sách Nhà
nước) nơi mà lợi ích và hiệu quả không còn giữ nguyên vẹn ý nghĩa
của nó như trong nghiệp, nơi mà năng lực quản lý cần được đánh giá
toàn diện và bồi bổ thường xuyên nhằm không ngừng nâng cao hiệu
năng quản lý của đơn vị kiểm toán. Tất nhiên loại kiểm toán này cũng
cần và có thể ứng dụng đối với quản lý toàn bộ doanh nghiệp hoặc với
từng bộ phận quản lý của mọi đơn vị kiểm toán.
Nguyễn Tiến Phong 6 Kiểm toán 46B
Đề án môn học Kiểm toán Khoa kế toán
Các quan điểm nêu trên đều có mặt đúng xét trên khía cạnh nó phù hợp
với điều kiện phát triển kinh tế của từng giai đoạn. Tuy nhiên để đảm bảo tính
thống nhất trong việc sử dụng thuật ngữ và sự đầy đủ, chính xác về mặt ý nghĩa
chúng ta có thể đi đến một kết luận như sau:
“Kiểm toán là xác minh và bày tỏ ý kiến về thực trạng hoạt động cần được
kiểm toán bằng hệ thống phương pháp kỹ thuật của kiểm toán chứng từ và ngoài
chứng từ do các kiểm toán viên có trình độ nghiệp vụ tương xứng thực hiện trên
cở sở hệ thống pháp lý có hiệu lực”. (Giáo trình Lý thuyết kiểm toán)
1.3. Khái quát các cách phân loại kiểm toán.
Để tìm hiểu về một sự việc hay một hiện tượng nào đó ta cần xem xét nó
trên các góc độ khác nhau và với mỗi góc độ đó ta có thể phân loại được sự vật,
hiện tượng ấy. Do vậy khi tìm hiểu về kiểm toán chúng ta có thể phân loại theo
một số tiêu thức sau:
- Theo đối tượng cụ thể, kiểm toán có thể phân thành kiểm toán (báo
cáo) tài chính, kiểm toán nghiệp vụ (hoạt động) và kiểm toán liên kết.
- Theo lĩnh vực cụ thể của kiểm toán, có thể phân kiểm toán thành kiểm
toán thông tin, kiểm toán quy tắc (tuân thủ), kiểm toán hiệu năng và
kiểm toán hiệu quả.

- Theo phương pháp áp dụng trong kiểm toán, có thể phân kiểm toán
thành kiểm toán chứng từ và kiểm toán ngoài chứng từ.
- Theo quan hệ giữa chủ thể và khách thể kiểm toán có thể phân kiểm
toán thành nội kiểm và ngoại kiểm.
Nguyễn Tiến Phong 7 Kiểm toán 46B
Đề án môn học Kiểm toán Khoa kế toán
- Theo phạm vi tiến hành kiểm toán có thể phân kiểm toán thành kiểm
toán toàn diện và kiểm toán chọn điểm (điển hình).
- Theo tính chu kỳ của kiểm toán có thể phân kiểm toán thành kiểm toán
thường kỳ, kiểm toán định kỳ, kiểm toán bất thường (đột xuất).
- Theo quan hệ về thời điểm kiểm toán với thời điểm thực hiện nghiệp
vụ, kiểm toán bao gồm kiểm toán trước, kiểm toán hiện hành, kiểm
toán sau.
- Theo quan hệ pháp lý của kiểm toán có thể có kiểm toán bắt buộc và
kiểm toán tự nguyện.
- Theo tổ chức bộ máy kiểm toán, có thể phân kiểm toán thành kiểm toán
nhà nước, kiểm toán độc lập và kiểm toán nội bộ.
- Theo tính chất và phạm vi của kiểm toán có thể phân kiểm toán thành
kiểm toán ngân sách và tài sản công, kiểm toán dự án và các công trình,
kiểm toán các đơn vị dự toán…
- V.v…
1.4. Phân loại kiểm toán theo hệ thống bộ máy tổ chức
1.4.1. Kiểm toán Nhà nước
1.4.1.1. Khái niệm
Sự hình thành, ra đời và phát triển của kiểm toán Nhà nước gắn liền với sự
hình thành, ra đời và phát triển của tài chính công mà chủ yếu là ngân sách nhà
nước, xuất phát từ yêu cầu đòi hỏi của việc kiểm tra, kiểm soát việc chi tiêu ngân
sách và công quỹ quốc gia từ phía Nhà nước.
Do vậy có thể hiểu: “Kiểm toán Nhà nước là hệ thống bộ máy chuyên môn
của Nhà nước thực hiện các chức năng kiểm toán tài sản công”.

Nguyễn Tiến Phong 8 Kiểm toán 46B
Đề án môn học Kiểm toán Khoa kế toán
1.4.1.2. Đặc trưng của kiểm toán Nhà nước
- Chủ thể kiểm toán: Kiểm toán nhà nước được thực hiện bởi các kiểm
toán viên nhà nước. Họ là những công chức, viên chức nhà nước làm nghề kiểm
toán nên được tuyển chọn và hoạt động do tổ chức kiểm toán nhà nước phân
công. Đồng thời, họ được xếp vào các ngành bậc chung của công chức (theo tiêu
chuẩn cụ thể của từng nước trong từng thời kỳ):
• Kiểm toán viên.
• Kiểm toán viên chính.
• Kiểm toán viênc cao cấp.
Chức năng và quyền hạn cụ thể của từng ngành bậc cũng được quy định cụ
thể tuỳ theo từng nước song noi chung cũng có sự gần gũi giữa các quốc gia và
có mối quan hệ tương ứng với cá chức danh của kiểm toán viên. Riêng kiểm toán
viên cao cấp thường giữ cương vị lãnh đạo cơ quan kiểm toán nhà nước hoặc là
những chuyên gia cao cấp có chức năng và quyền hạn trong kiểm toán, trong tư
vấn (kể cả soạn thảo luật pháp) thậm chí trong phán xử (như một quan toà)… tuỳ
quy định cụ thể của từng nước.
- Hiệp hội của các tổ chức kiểm toán viên nhà nước: Đây là hiệp hội do các
kiểm toán viên nhà nước tập hợp lại; là tổ chức quốc tế (hoặc khu vực) của tất cả
các tổ chức kiểm toán nhà nước khác nhau.
- Khách thể kiểm toán:
Khách thể của kiểm toán nhà nước thường bao gồm tất cả các đơn vị, cá
nhân có sử dụng Ngân sách nhà nước (NSNN) như:
• Các dự án, công trình do Ngân sách đầu tư.
• Các doanh nghiệp nhà nước: 100% vốn NSNN.
Nguyễn Tiến Phong 9 Kiểm toán 46B
Đề án môn học Kiểm toán Khoa kế toán
• Các xí nghiệp công cộng thuộc sở hữu nhà nước (100% vốn
NSNN).

• Các cá nhân có nguồn từ NSNN…
- Lĩnh vực kiểm toán: Lĩnh vực kiểm toán của kiểm toán nhà nước là kiểm
toán tài chính và kiểm toán tuân thủ. Ngoài ra, kiểm toán nhà nước còn tiến hành
các cuộc kiểm toán nghiệp vụ nhằm đánh giá và góp phần nâng cao tính kinh tế,
tính hiệu lực, tính hiệu quả trong quá trình quản lý, sử dụng NSNN
1.4.1.3. Mô hình của kiểm toán Nhà nước
Bộ máy kiểm toán nhà nước là hệ thống tập hợp những viên chức nhà
nước để thực hiện chức năng kiểm toán ngân sách và tài sản công.
Như vậy, trong quan hệ với hệ thống bộ máy nhà nước, kiểm toán nhà
nước là một phân hệ thực hiện chức năng kiểm toán. Xét trong hệ thống kiểm
toán nói chung, kiểm toán nhà nước lại là phân hệ thực hiện chức năng này với
một đối tượng cụ thể là tài sản nhà nước trong đó có ngân sách Nhà nước. Xét
trong quan hệ với kiểm toán viên nhà nước, kiểm toán nhà nước là một hệ thống
tập hợp các kiểm toán viên này theo một trật tự xác định… Trong hàng loạt mối
liên hệ phức tạp đó đã hình thành những mô hình tổ chức khác nhau tuỳ theo
phạm vi các mối liên hệ.
Trước hết khi xem xét trong quan hệ với bộ máy nhà nước, kiểm toán nhà
nước có thể độc lập với hệ thống lập pháp và hệ thống hành pháp hoặc trực thuộc
một phía hành pháp hoặc lập pháp.
Mô hình tổ chức độc lập giữa cơ quan kiểm toán nhà nước với các cơ quan
lập pháp và hành pháp (sơ đồ 1.1) được ứng dụng ở hầu hết các nước có nền
Nguyễn Tiến Phong 10 Kiểm toán 46B
Đề án môn học Kiểm toán Khoa kế toán
kiểm toán phát triển, có nhà nước pháp quyền được xây dựng có nền nếp… Nhờ
đó kiểm toán phát huy được đầy đủ tính độc lập trong việc thực hiện các chức
năng của mình
Sơ đồ 1.1 Kiểm toán nhà nước tổ chức độc lập với các cơ quan lập pháp
và hành pháp
Ban hành luật
Duyệt Ngân sách

Bổ nhiệm Giám sát
Ghi chú:
: Liên hệ trong tổ chức.
: Quan hệ chỉ đạo.
: Quan hệ đặt hang kiểm toán.
: Quan hệ kiểm toán
Mô hình tổ chức cơ quan kiểm toán trực thuộc cơ quan hành pháp được áp
dụng không giống nhau giữa các nước: ở một số nước, kiểm toán nhà nước được
Nguyễn Tiến Phong 11 Kiểm toán 46B
BỘ MÁY NHÀ NƯỚC
KIỂM TOÁN
NHÀ NƯỚC
QUỐC
HỘI
CHÍNH
PHỦ
TOÀ
ÁN
CÁC BAN CỦA QUỐC HỘI
CÁC BỘ CỦA
CHÍNH PHỦ
Đề án môn học Kiểm toán Khoa kế toán
tổ chức thành cơ quan hành chính như một bộ song có quyền kiểm toán các bộ
khác của Chính phủ (kể cả Bộ Tài chính); ở một số nước khác, kiểm toán nhà
nước được tổ chức như một cơ quan chuyên môn bên cạnh nội các hoặc Thủ
tướng Chính phủ. Mô hình này giúp chính phủ điều hành nhanh nhạy quá trình
thực hiện ngân sách và các hoạt động khác.
Mô hình tổ chức cơ quan kiểm toán trực thuộc cơ quan lập pháp (Quốc hôi)
được ứng dụng ở một số nước như Mỹ, Nga, Anh… Với mô hình này, kiểm toán
nhà nước trợ giúp đắc lực cho Nhà nước không chỉ ở kiểm tra thực hiện pháp luật

mà cả trong việc soạn thảo và xây dựng các sắc luật cụ thể.
Xét về liên hệ nội bộ, cơ quan kiểm toán nhà nước lại có thể liên hệ theo
chiều dọc (liên hệ dọc) và theo chiều ngang (liên hệ ngang).
Liên hệ dọc của tổ chức kiểm toán nhà nước có thể khái quát trong hai mô
hình chủ yếu:
- Mô hình I: Cơ quan kiểm toán nhà nước trung ương có mạng lưới ở tất
cả các địa phương. Mô hình này thích hợp với các nước có quy mô lớn,
các địa phương phân bố rộng và phân tán, khối lượng tài sản công ở
mỗi địa phương lớn và quan hệ phức tạp. Đồng thời mỗi địa phương
cũng có khối lượng công sản, tài sản tương đối đồng đều… Tình hình
đó đòi hỏi phải có tổ chức kiểm toán nhà nước ngay tại địa phương.
- Mô hình II: Cơ quan kiểm toán nhà nước trung ương có mạng lưới
kiểm toán ở từng khu vực. Những khu vực này trước hết có khối lượng
công sản đủ lớn và thường ở xa trung tâm nên đòi hỏi có tổ chức kiểm
toán nhà nước tại thực địa để thực hiện chức năng của kiểm toán nhà
nước. Mô hình này thích ứng với những nước có quy mô nhỏ song địa
Nguyễn Tiến Phong 12 Kiểm toán 46B
Đề án môn học Kiểm toán Khoa kế toán
bàn tương đối phân tán. Ở một số nước nhỏ và tương đối tập trung có
thể không có liên hệ dọc; cũng có trường hợp liên hệ dọc này thực hiện
ngay trong liên hệ ngang bằng cách bố trí kiểm toán một vài khu vực
nào đó thành một bộ phận trong bộ phận chuyên môn.
Liên hệ ngang là mối liên hệ nội bộ trong cơ quan kiểm toán cùng cấp
(trung ương hay khu vực hoặc địa phương). Liên hệ này có thể trực tuyến hoặc
chức năng.
Trong liên hệ trực tuyến tổng kiểm toán trưởng (hoặc phó tổng kiểm toán
được uỷ nhiệm) trực tiếp chỉ huy các hoạt động của kiểm toán nhà nước. Liên hệ
trực tuyến có ưu điểm bảo đảm lệnh của Tổng kiểm toán trưởng được chuyển
trực tiếp đến các kiểm toán viên, bảo đảm điều hành nhanh nhạy và thông tin
ngược xuôi kịp thời. Tuy nhiên, mô hình này chỉ thích hợp trong điều kiện quy

mô kiểm toán và số lượng nhân viên kiểm toán không quá lớn.
Trong liên hệ chức năng quyền điều hành công việc được phân thành
nhiều khối, mỗi khối lại chia thành nhiều cấp khác nhau. Mô hình này thích hợp
với bộ máy kiểm toán có quy mô lớn.
Ngoài mối liên hệ trong bộ máy, liên hệ giữa việc thực hiện các chức năng
kiểm toán với bộ máy kiểm toán cũng hình thành những mô hình tổ chức kiểm
toán nhà nước khác nhau. Trong việc thực hiện chức năng xác minh, thông
thường kiểm toán nhà nước chỉ thực hiện xác minh bảng khai tài chính và nghiệp
vụ của các đơn vị thuộc khu vực công cộng. Công việc xác minh các vụ việc cụ
thể do khiếu tố hoặc phát giác bất thường, thông thường do các tổ chức thanh tra
đảm nhận. Tuy nhiên, ở một số nước cả những công việc thanh tra này cũng
được thống nhất trong tổ chức kiểm toán nhà nước. Trong việc bày tỏ ý kiến,
Nguyễn Tiến Phong 13 Kiểm toán 46B
Đề án môn học Kiểm toán Khoa kế toán
thông lệ phổ biến là các cơ quan kiểm toán nhà nước chỉ thực hiện chức năng tư
vấn kể cả kiến nghị giải quyết thực trạng tài chính, pháp lý, thậm chí cả khởi thảo
và tham gia xây dựng luật pháp.
Như vậy, cơ quan kiểm toán nhà nước chứa đựng rất nhiều mối liên hệ về
tổ chức phụ thuộc và đặc điểm của đối tượng, của phạm vi, của khác thể kiểm
toán, tuỳ thuộc vào đặc điểm tổ chức bộ máy nhà nước và hàng loạt quan hệ khác
bên trong và bên ngoài hệ thống kiểm toán.
1.4.2. Kiểm toán độc lập
1.4.2.1. Khái niệm
Kiểm toán độc lập là một hoạt động đặc trung của kinh tế thị trường. Đây
là các tổ chức kinh doanh dịch vụ kiểm toán và tư vấn theo yêu cầu của khách
hang. Ở các nước sớm phát triển theo cơ chế thị trường, kiểm toán độc lập đã
hành nghề trước khi có những chuẩn mực chung (về kiểm toán viên) và chuẩn
mực chuyên ngành (về công tác kiểm toán). Cho đến nay trên thế giới đã có hàng
trăm ngàn tổ chức kiểm toán độc lập hoạt động trong lĩnh vực kiểm toán và tư
vấn tài chính.

1.4.2.2. Những đặc trưng của kiểm toán độc lập.
- Chủ thể kiểm toán: Người thực hiện kiểm toán độc lập là các kiểm toán
viên độc lập. Kiểm toán viên độc lập thường có hai chức danh:
• Kiểm toán viên: Thường đã tốt nghiệp đại học và sau bốn năm làm
thư ký (hoặc trợ lý) kiểm toán và tốt nghiệp thi tuyển kiểm toán viên
(quốc gia hoặc quốc tế) để lấy bằng (chứng chỉ) kiểm toán viên.
Nguyễn Tiến Phong 14 Kiểm toán 46B
Đề án môn học Kiểm toán Khoa kế toán
Trên thực tế, phải có khả năng độc lập thực hiện công việc kiểm
toán cụ thể.
• Kiểm toán viên chính: là người đã từng qua kiểm toán viên và qua
kỳ thi nâng bậc. Về chuyên môn họ phải có khả năng tổ chức một
nhóm kiểm toán viên tiến hành những công việc kiểm toán có quy
mô lớn.
Những kiểm toán viên độc lập được hành nghề trong một tổ chức hoặc với
văn phòng tư tuỳ thuộc điều kiện cụ thể do pháp luật quy định.
- Hiệp hội kiểm toán viên độc lập: Hiệp hội kiểm toán viên độc lập tập hợp
các kiểm toán viên độc lập nhằm tăng cường quan hệ hợp tác, hướng dẫn và bồi
dưỡng nghiệp vụ kể cả về nhận thức cũng như kinh nghiệm thực tế của họ. Đây
là hình thức phát triển không chỉ trong phạm vi quốc gia mà cả quốc tế.
- Khách thể kiểm toán:
Khách thể của kiểm toán độc lập thường bao gồm:
• Các doanh nghiệp và xí nghiệp tư (kể cả cá công ty trách nhiệm hữu
hạn).
• Các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài.
• Các liên doanh giữa cá tổ chức trong và ngoài nước.
• Các hợp tác xã và doanh nghiệp cổ phần.
• Các chương trình, dự án nguồn kinh phí từ bên ngoài Ngân sách nhà
nước…
- Lĩnh vực kiểm toán: Kiểm toán độc lập chủ yếu tiến hành cá cuộc kiểm

toán tài chính. Ngoài ra, tuỳ theo yêu cầu của khách hang, kiểm toán độc lập có
thể tiến hành các cuộc kiểm toán nghiệp vụ, tiến hành các dịch vụ tư vấn…
Nguyễn Tiến Phong 15 Kiểm toán 46B
Đề án môn học Kiểm toán Khoa kế toán
1.4.2.3. Mô hình của kiểm toán độc lập
Mô hình kiểm toán độc lập là tổ chức của các kiểm toán viên chuyên
nghiệp kinh doanh dịch vụ kiểm toán và các dịch vụ khác có liên quan. Là tổ
chức kinh doanh, một đơn vị kiểm toán độc lập phải thực hiện các nghĩa vụ và có
quyền lợi như các tổ chức kinh doanh khác. Hơn nữa, kinh doanh dịch vụ kiểm
toán là kinh doanh một nghề chuyên sâu nên phải có kiểm toán viên đủ điều kiện
hành nghề. Do đó chỉ có những người có chững chỉ kiểm toán viên và đủ điều
kiện hành nghề khác nhau mới được phép tổ chức các đơn vị kinh doanh dịch vụ
này. Thông thường với dịch vụ kiểm toán, bộ máy này có thể thực hiện các dịch
vụ khác có liên quan như kế toán, thuế, tư vấn, tài chính, tin học… Để thực hiện
các loại dịch vụ này, các tổ chức kiểm toán độc lập có quan hệ với khách hang tự
nguyện hoặc bắt buộc theo quy định của pháp luật.
Bộ máy kiểm toán độc lập có hai mô hình cơ bản là văn phòng kiểm toán
tư và công ty kiểm toán.
Văn phòng kiểm toán tư được hình thành bởi một hoặc vài kiểm toán viên
độc lập để kinh doanh dịch vụ kiểm toán và các dịch vụ khác liên quan. Đồng
thời, người lập văn phòng phải có bằng (chứng chỉ) kiểm toán viên độc lập và có
đủ điều kiện hành nghề khác. Các văn phòng tư (kể cả các công ty kiểm toán có
quy mô nhỏ) được tổ chức theo phương thức trực tuyến và loại hình tập trung.
Ưu điểm của loại hình này là phát huy tính năng động cao của bộ máy
kiểm toán, rất thích ứng với nhu cầu kiểm toán và tư vấn của các doanh nghiệp
vừa và nhỏ cũng như nhu cầu đại lý thuế (thu nhập) cho nhà nước.
Tuy nhiên, ở mô hình này, các văn phòng chỉ thực hiện giới hạn các dịch
vụ và sức cạnh tranh của mỗi tổ chức kiểm toán cũng hạn chế. Bên cạnh đó, sự
Nguyễn Tiến Phong 16 Kiểm toán 46B

×