Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

TÁC ĐỘNG CỦA CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NGÀNH Ở HẢI DƯƠNG HIỆN NAY ĐẾN XÂY DỰNG KHU VỰC PHÒNG THỦ TỈNH VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰN GẮN KẾT HAI QUÁ TRÌNH ĐÓ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.07 KB, 34 trang )

TÁC ĐỘNG CỦA CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NGÀNH Ở HẢI
DƯƠNG HIỆN NAY ĐẾN XÂY DỰNG KHU VỰC PHÒNG THỦ TỈNH VÀ
NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰN GẮN KẾT HAI QUÁ TRÌNH ĐÓ
2.1. Những tác động cơ bản của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh
tế ngành theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Hải Dương đến xây
dựng khu vực phòng thủ tỉnh
2.1.1. Nội dung xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh
KVPT tỉnh là đơn vị tổ chức về QP - AN, theo địa bàn hành chính của
tỉnh ở Việt Nam; tạo thành thế trận QP - AN cả nước. KVPT tỉnh được xây
dựng vững mạnh về mọi mặt: Chính trị, kinh tế - xã hội; quân sự, an ninh,
dưới sự lãnh đạo, chỉ huy của cấp tỉnh tạo thành sức mạmh tổng hợp, tập
trung chủ yếu vào những KVPT then chốt để phòng thủ địa phương, chống
mọi âm mưu hành động phá hoại và xâm lược của kẻ thủ.
Xây dựng tỉnh (thành phố) thành KVPT vững chắc là một chủ trương
có tính chiến lược của Đảng và nhà nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Việc xây dựng tỉnh Hải Dương trở thành KVPT
vững chắc cũng gần như nước nói trên nhằm thực hiện được phương châm:
"Tỉnh giữa tỉnh, huyện giữa huyện, xã giữa xã" tạo nên KVPT lien hoàn góp
phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn quân khu
Ba, đồng thời cùng các địa phương khác của cả nước giữa vững độc lập chủ
quần và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ Đảng, bảo vệ nhân
dân. Nội dung xây dựng KVPT tỉnh Hải Dương bao gồm:
Xây dựng KVPT về chính trị
Cũng như cả nước, ở Hải Dương mặt trận chính trị, tư tưởng đang diễn
ra hết sức nóng bỏng, mà Hải Dương lại là tỉnh cửa ngõ vùng Đông Bắc, có
đường số 5 là con đường chiến lược nối với Hà Nội và Hải Phòng, là hậu cứ
bảo vệ thành phố Hà Nội. Mọi sự biến động về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã
2
hội ở thủ đô Hà Nội đều có ảnh hưởng trực tiếp, nhanh chóng đến Hải Dương
và ngược lại. Do đó thế trận lòng dân vững chắc ở Hải Dương không chỉ tác
động trực tiếp đến thế trận vững chắc của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ


quốc ở Hải Dương mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến thành phố Hà Nội quân
khu Ba và cả nước.
Vì vậy, nghiên cứu quan trọng hàng đầu của xây dựng KVPT tỉnh,
huyện là xây dựng về chính trị, trước hết cần phải có nội dung, hình thức,
phương pháp giáo dục phù hợp cho quần chúng nhân dân về lòng dân yêu quê
hương đất nước, miền tự hào dân tộc, ý thức cảnh giác cách mạng, làm cho
dân tin Đảng, tin vào chế độ XHCN, sẵn sàng chiến đấu, vượt qua mọi khó
khăn gian khổ để xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước; đồng thời phải
chăm lo đến đời sống vật chất và văn hoá, tinh thần của nhân dân; thực hiện
tốt vấn đề dân chủ, công bằng, văn hoá. Mặt khác, cần phải tăng cường củng
cố và nâng cao năng lực lãnh đạo của các tổ chức Đảng, năng lực quản lý, tổ
chức thực hiện của các cấp chính quyền và khả năng hoạt động của các tổ
chức quần chúng; nâng cao chất lượng chính trị, tư tưởng, phẩm chất đạo đức
cách mạng, trình độ hiểu biết về kinh tế, văn hoá xã hội và kiến thức quân sự
thông thường cho cán bộ, đảng viên. Xây dượng khối đại đoàn kết các dân
tộc, các tầng lớp xã hội... nhằm tạo ra môi trường chính trị, xã hội ổn định
trên địa bàn tỉnh. Do vậy, xây dựng về chính trị là nội dung có tác động trực
tiếp để tạo ra sức mạnh tổng hợp của KVPT tỉnh, huyện mà gốc là xây dựng
cơ sở xã, phường vững mạnh toạn diện, tạo ra sự vững chắc của chiến tranh
nhân dân và nền quốc phòng toàn dân.
Xây dựng KVPT về mặt kinh tế.
Đây là vấn đề có tính chất quyết định việc xây dựng các nội dung khác
để tạo nền sức mạnh tổng hợp của KVPT tỉnh. Hiện nay xây dựng về kinh tế
là đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH hình thành một CCKT hợp lý có khả năng
2
3
khai thác tối đa có hiệu quả mọi tiền năng để kinh tế của tỉnh không ngừng
tăng trưởng và phát triển, Trên cơ sở đó sẽ có điều kiện để xây dựng nền văn
hoá mới, con người mới, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo ra

môi trường chính trị, xã hội ổn định... Đồng thời cũng có điều kiện để xây
dựng hệ thống làng, xã chiến đấu, các KVPT then chốt, các căn cứ chiến đấu,
xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật tại chỗ, thực hiện điều chỉnh phân phối dân
cư, lao động trên địa bàn tỉnh phù hợp sự phát triển kinh tế và việc làm, xây
dựng lực lượng của KVPT góp phần xây dựng thế trận phòng thủ của quân
khu Ba cũng như cả nước.
Xây dựng KVPT về văn hoá, xã hội
Đây là vấn đề có nội dung rộng lớn, quan hệ trực tiếp đến đời sống vật
chất, tinh thần của nhân dân, có ảnh hưởng lớn đến sức mạnh tổng hợp của
KVPT tỉnh. Xây dựng về xã hội, là phải chăm lo giáo dục nâng cao trình độ
văn hoá, trình độ dân trí cho mọi cán bộ, đảng viên và toàn thể nhân dân trong
tỉnh, nhằm xây dựng con người mới XHCN. Đồng thời cùng với phát triển,
kinh tế phải giải quyết tốt các vấn đề xã hội, giữ vững ổn định chính trị, bảo
đảm trật tự an toàn xã hội, đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực và các tệ nạn xã hội
trên địa bàn tỉnh.
Xây dựng KVPT về mặt quân sự
Đây là nội dung trọng tâm, có ý nghĩa trực tiếp quyết định tới nhiệm vụ
giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn; là cơ sở tạo
nên sức mạnh tổng hợp và sự vững chắc của KVPT các cấp để có khả năng
ngăn ngừa và làm thất bại âm mưu "Diễn biến hoà bình" của địch, sẵn sàng
đối phó thắng lợi với mọi tình huống khác xảy ra.
Xây dựng về quân sự là nhằm tạo ra sức mạnh QP - AN của KVPT
tỉnh, bao gồm xây dựng về LLVT nhân dân, xây dựng thế trận chiến tranh
3
4
nhân dân và xây dựng cơ sở hậu cần kỹ thuật tại chỗ.
Xây dựng LLVT nhân dân trong KVPT tỉnh Hải Dương bao gồm; bộ
đội địa phương, lực lượng dân quân tự vệ, dự bị động viên, lực lượng an ninh,
đồng thời kết hợp chặt chẽ với lực lượng chủ lực chủ lực cấp trên bố trí sẵn
hoặc sẽ cơ động đến trong quá trình chiến tranh, và các cơ quan, xí nghiệp

quốc phòng, nhà trường quân sự trên địa bàn.
Hướng xây dựng lực lượng bộ đội địa phương phải có số lượng quân
thường trực hợp lý với chất lượng chính trị cao, trình độ chuyên môn nghiệp
vụ, chiến đấu giỏi. Lực lượng dự bị đông viên và dân quân tự vệ phải được
quản lý chặt chẽ, được huấn luyện sát với yêu cầu chiến đấu, được luân phiên
tham gia diễn tập và được phát triển rộng rãi ở tất cả các làng, xã phường, xí
nghiệp, nông trường huyện thị trong tỉnh, LLVT trong địa phương phải đặt
trong mối liên hệ mật thiết với quần chúng nhân dân, hiệp đồng chặt chẽ với
lực lượng an ninh, lực lượng chủ lực cấp trên, với các cơ quan, xí nghiệp quốc
phòng, nhà trường quân sự trên địa bàn với LLVT các địa phương lân cận, tạo
điều kiện chi viện cho nhau hoàn thành nhiệm vụ, hình thành thế trận chiến
tranh nhân dân.
Xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân trong KVPT tỉnh là xây dựng
hệ thống làng, xã chiến đấu, nông, lâm trường chiến đấu, các cụm chiến đấu
liên hoàn, các KVPT huyện, các khu vực phòng thủ then chốt của tỉnh, các
căn cứ chiến đấu và căn cứ hậu phương của tỉnh tạo thành thế trận quốc
phòng toàn dân kết hợp chặt chẽ với thế trận an ninh nhân dân, lấy thế trận
lòng dân làm cơ sở để xây dựng thế trận phòng thủ tích cực, vững chắc, cùng
với quân khu ba và cả nước thực hiện thắng lợi chiến lược: Xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Xây dựng cơ sở hậu cần kỹ thuật tại chỗ trong KVPT tỉnh được thể
hiện ngay trong kế hoạch phát triển kinh tế gắn với củng cố QP-AN của địa
4
5
phương. Do đó quá trình chuẩn bị các cơ sở hậu cần - kỹ thuật để đảm bảo
lương thực, thực phẩm, các trang thiết bị, phương tiện hoạt động quân sự...
đáp ứng nhu cầu hoạt động thường xuyên của LLVT địa phương và có lượng
dự trữ cần thiết khi có chiến tranh xảy ra có khả năng đáp ứng một phần cho
các lực lượng chủ lực hoạt động tác chiến trên địa bàn. Như vậy, nội dung xây
dựng KVPT tỉnh rất toàn diện, đồng bộ, bao hàm cả những yếu tố về kinh tế,

chính trị, quân sự... Trong đó chính trị ổn định vững chắc là điều kiện tiên
quyết để xây dựng các mặt khác. Nhưng suy đến cùng, yếu tố kinh tế giữ vai
trò quyết định việc xây dựng KVPT các cấp. Kinh tế càng phát triển, càng có
điều kiện để xây dựng KVPT các cấp vững mạnh. Việc chuyển dịch cơ cấu
kinh tế ngành ở Hải Dương như phương hướng đã nêu ở mục 1.2.2 có tác
động rất tích cực đến xây dựng KVPT tỉnh.
2.1.2. Những tác động cơ bản của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh
tế ngành ở Hải Dương hiện nay đến xây dựng KVPT tỉnh
2.1.2.1. Những tác động thuận chiều của chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành đến xây dựng KVPT tỉnh.
Một là, giải phóng lực lượng sản xuất, phân công lại lao động, tăng
năng suất lao động, thúc đẩy tăng trưởng. Trên cơ sở đó, nguồn kinh phí cho
hoạt động xây dựng KVPT được tăng lên.
Hiện nay, mọi nhu cầu về lương thực, thực phẩm, vũ khí đạn dược,
quân trang, quân dụng cho hoạt động của lực lượng vũ trang và nhu cầu về
vật chất, kỹ thuật để xây dựng các KVPT tỉnh... phải dựa vào nguồn lực trong
nước, không còn có sự viện trợ từ bên ngoài. Vì thế, một nguồn rất cơ bản của
nguồn kinh phí xây dựng KVPT tỉnh phải dựa vào nguồn thu từ sự phát triển
kinh tế trong nội tỉnh.
Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hương CNH, HĐH trên địa bàn sẽ
thúc đẩy lực lượng sản xuất, phân công lại lao động phát triển, thúc đẩy tăng
5
6
trưởng và phát triển kinh tế, khắc phục tình trạng tự cấp, tự túc khép kín, làm
biến đổi cơ cấu kinh tế cũ, lạc hậu, kém hiệu quả, thành cơ cấu kinh tế hợp lý,
có hiệu quả hơn, có phép khai thác tốt hơn các tiềm năng, lợi thế của tỉnh, tạo
ra khả năng tích luỹ ngày càng lớn từ nội bộ nền kinh tế của địa phương.
Thực tế, trước những năm 1996 (chưa tái lập tỉnh), khi cơ cấu kinh tế
của Hải Dương còn lạc hậu, kinh tế chậm phát triển, tốc độ tăng trưởng hàng
năm mới đạt 7 đến 8%, do đó nguồn thu ngân sách bảo đảm do quốc phòng -

an ninh mới đạt khoảng 1,5% tổng chi ngân sách địa phương. Từ năm 1996
đến nay, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Hải Dương đã đạt được kết quả
đáng kể, làm cho các ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ phát triển
mạnh chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong GDP của tỉnh và đóng góp vào ngân
sách địa phương ngày càng cao. Bằng những cơ chế, chính sách ưu đãi
khuyến khích đầu tư hợp lý. Hải Dương đã đạt được những thành tích đáng
khích lệ trong việc thu hút các nguồn vốn đầu tư. Tổng nguồn vốn thu hút
được trong giai đoạn 2001 - 2005 khoảng 8.316 tỷ đồng trong đó vốn dân
doanh 3.861 tỷ đồng; vốn đầu tư nước ngoài (FDI, ODA, vốn viện trợ từ
NGO
3
) 4.455 tỷ đồng. Chỉ tính riêng nguồn FDI với 63 dự án mới trong lĩnh
vực công nghiệp, thu hút khoảng 4.080 tỷ đồng, chiếm tới 91,6% tổng vốn
đầu tư nước ngoài. Các doanh nghiệp FDI đã đóng góp một vai trò quan trọng
và tăng trưởng kinh tế và tạo công ăn việc làm cho người lao động. Trong 5
năm 2001 - 2005 đầu tư nước ngoài chiếm 23,4% tổng giá trị sản xuất công
nghiệp tại địa bàn, thu hút trên 13.200 lao động, đóng góp trên 30% tổng thu
ngân sách của tỉnh vùng năm 2005. Nguồn thu ngân sách trên địa bàn tăng
khá, bình quân đạt 26,6%/ năm, trong đó thu nội địa tăng 21,5%/ năm chiếm
61,9% tổng thu. Năm 2003 đánh dấu mốc thời gian Hải Dương nhập "Câu lạc
bộ một nghìn tỷ đồng". Năm 2005, thu ngân sách đạt 2000 tỷ đồng tăng gấp
3,8 lần so với năm 2000. Nhờ đó nguồn kinh phí bảo đảm cho quốc phòng an
6
7
ninh của KVPT luôn giữ ở mức khoảng 2% tổng chi ngân sách địa phương.
Từ năm 2000 đến năm 2004 nguồn ngân sách bảo đảm chi cho quốc phòng -
an ninh đạt 10-15 tỷ đồng/ năm. Ngoài ra các huyện, thị, cơ sở đã bảo đảm
hàng tỷ đồng cho công tác quốc phòng và huy động nhân dân đóng góp xây
dựng quỹ quốc phòng an ninh bằng hàng vạn ngày công nghĩa vụ công ích
mỗi năm.

Trong thời gian tới, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở Hải Dương
theo đúng phương hướng đã xác định sẽ tiếp tục thúc đẩy lực lượng sản xuất
phát triển, phân công lại lao động trên địa bàn. Trên cơ sở đó nguồn kinh phí
cho hoạt động xây dựng KVPT vững mạnh sẽ tiếp tục được tăng lên.
Hai là, đẩy mạnh công cuộc xoá đói giảm nghèo, ổn định xã hội, làm
tăng lòng tin của nhân dân đối với công cuộc xây dựng đời sống mới, thực
hiện tốt chính sách hậu phuơng quân đội.
Hiện tượng đói, nghèo ở Hải Dương nói riêng cũng như trên phạm vi cả
nước nói chung có một nguyên nhân rất cơ bản đó là kinh tế chưa phát triển,
mà trực tiếp là cơ cấu kinh tế của địa phương còn bất hợp lý, không cho phép
khai thác thế mạnh và lợi thế so sánh của địa phương. Trong số hộ đói nghèo,
một bộ phận khá lớn là gia đình chính sách, gia đình thương bình, liệt sĩ có
công với cách mạng. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngnàh của Hải Dương
theo hướng CNH, HĐH là một nhân tố tích cực để khai thác có hiệu quả tiềm
năng, thế mạnh, tăng tích lũy từ nội bộ kinh tế của tỉnh. Từ đó, từng bước cải
thiện và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, tăng thu nhập cho
dân cư, tạo điều kiện thuận lợi để mọi lực lượng tham gia giải quyết ngày càng
tốt hơn vấn đề xoá đói, giảm nghèo và thực hiện tốt chính sách hậu phương quân
đội.
Công cuộc xoá đói giảm nghèo và chính sách hậu phương quân đội
được thực hiện tốt sẽ có tác động tích cực đến trạng thái chính trị, tinh thần
7
8
của nhân dân trong KVPT các cấp, tạo ra môi trường chính trị, xã hội ổn định,
làm tăng niềmtin của nhân dân đối với công cuộc xây dựng đời sống mới theo
định hướng XHCN. Nhờ đó thế trận lòng dân sẽ được xây dựng vững chắc tạo
thành sức mạnh của KVPT tỉnh, có khả năng đối phó thắng lợi với mọi âm
mưu, thủ đoạn của các lực lượng thù địch muốn chia rẽ, xa rời niềm tin giữa
dân với Đảng, với chính quyền các cấp với lực lượng vũ trang nhân dân. Khi
công cuộc xoá đói, giảm nghèo và chính sách hậu phương quân đội thực hiện

tốt, sẽ củng cố thêm trạng thái tinh thần vững mạnh, sẵn sàng chiến đấu, hy
sinh của các lực lượng tham gia hoạt động quốc phòng an ninh trong KVPT
tỉnh, vì mục tiêu lý tưởng CNXH, vì lợi ích của nhân dân.
Những năm qua (2001 - 2005) Hải Dương đã kết hợp tốt giữa chuyển
dịch cơ cấu. Phát triển kinh tế với xoá đói, giảm nghèo và thực hiện tốt chính
sách hậu phương quân đội. Qua việc thực hiện các dự án chuyển dịch cơ cấu
ngành, nghề, cây trồng, vật nuôi... bố trí lại lao động mà kinh tế của tỉnh phát
triển; chương trình xoá đói, giảm nghèo được các cấp, các ngành tập trung chỉ
đạo thực hiện, đạt kết quả tích cực; đời sống của các tầng lớp nhân dân được
cải thiện thu nhập dân cư tăng 10,7% năm, tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống còn
4,2% theo chuẩn hiện nay (cả nước 7%) tương ứng chuẩn mới 21,5% (cả
nước 26%). Cơ bản xoá xong hộ nghèo diện chính sách. Hoàn thành việc xác
nhận người có công trong 3 thời kỳ và trợ cấp một lần cho người hoạt động
kháng chiến. Làm tốt việc chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ, người có
công với nước: phong trào toàn dân xây dựng quỹ đền ơn đáp nghĩa... Trích
gần 10 tỷ đồng từ ngân sách tặng quà cho các đối tượng chính sách. Hoàn
thành chương trình xoá nhà tranh tre cho 3.722 hộ nghèo với tổng kinh phí
gần 28 tỷ đồng. Thực hiện nhiều giải pháp huy động các cấp, các nành. Các
doanh nghiệp và cả xã hội tham gia giải quyết việc làm. Mỗi năm giải quyết
việc làm mới cho 24.765 lao động. Trong đó đi làm việc ở nước ngoài 4.118
8
9
lao động/ năm.
Ba là, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực do cơ cấu lao động thay đổi
tạo điều kiện đáp ứng tốt hơn về nguồn nhân lực dự trữ thường xuyên cho xây
dựng KVPT
Nguồn nhân lực đáp ứng cho yêu cầu xây dựng lực lượng vũ trang
không chỉ đòi hỏi về mặt số lượng mà quan trọng ở mặt chất lượng, trong đó
việc nâng cao chất lượng chính trị nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng hàng
đầu. Nó là cơ sở cho việc nâng cao chất lượng toàn diện. Cùng với chất lượng

chính trị, phải nâng cao về mặt thể chất, về trình độ chuyên môn kỹ thuật của
nguồn nhân lực, để có khả năng đáp ứng nhu cầu thường xuyên về nguồn
nhân lực cho xây dựng KVPT của tỉnh và nhu cầu xây dựng lực lượng thường
trực của quân khu, cả bộ; đồng thời chuẩn bị được nguồn nhân lực dự trữ, sẵn
sàng đáp ứng nhu cầu cao khi chiến tranh xảy ra.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở Hải Dương theo hướng CNH,
HĐH, sẽ dần làm cho công nghiệp, dịch vụ phát triển và chiếm tỷ trọng cao
trong GDP của tỉnh, còn tỷ trọng nông - lâm nghiệp và thủy sản trong GDT sẽ
giảm tới mức cần thiết. Cùng với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế là sự chuyển
dịch cơ cấu lao động theo hướng: Tỷ lệ lao động công nghiệp, dịch vụ tăng
lên, còn tỷ lệ lao đọng nông nghiệp giảm xuống; tỷ lệ lao động kỹ thuật, trí
tuệ tăng, tỷ lệ lao động thủ công giảm xuống. Sự chuyển dịch cơ cấu lao động
như trên sẽ tạo ra mọt đội ngũ lao động đông đảo, có trình độ chuyên môn kỹ
thuật, có kỷ luật, tác phong lao động công nghiệp... Đặc biệt số người lao
động có trình độ chuyên môn gắn với các chuyên nghiệp quân sự ngày càng
tăng. Như: lao động trong các ngành cơ khí, lắp ráp điện tử, ô tô, xe máy...
Đây là nguồn nhân lực cơ bản góp phần thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế ngành của tỉnh. Mặt khác tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây
dựng lực lượng vũ trang địa phương cũng như xây dựng lực lượng thường
9
10
trực của quân khu và của Bộ quốc phòng. Vì những người lao động có trình
độ chuyên môn kỹ thuật gắn với chuyên môn quân sự khi được tham gia lực
lượng vũ trang các cấp, họ sẽ mất ít thời gian so với người khác trong nắm bắt
kiến thức khoa học kỹ thuật quân sự và làm chủ vũ khí, khí tài, trang bị kỹ
thuật.
Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở Hải Dương theo hướng
CNH, HĐH làm cho kinh tế của tỉnh tăng trưởng, phát triển. Nhờ đó nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần của nguồn nhân lực. Cũng chính quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế đòi hỏi người lao động phải tự rèn luyện về mọi

mặt để đáp ứng nhu cầu của sản xuất công nghiệp. Điều đó sẽ thuận lợi cho
việc xây dựng nguồn nhân lực có chất lượng cao về chính trị, tư tưởng, thể
chất và chuyên môn, kỹ thuật đáp ứng cho xây dựng lực lượng KVPT tỉnh.
Bốn là, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngnàh theo hướng CNH, HĐH góp phần
xây dựng, phát triển các ngành công nghiệp hướng dụng, vừa phục vụ cho quá trình
phát triển kinh tế, vừa đáp ứng nhu cầu xây dựng KVPT tỉnh vững mạnh.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở Hải Dương theo hướng CNH,
HĐH sẽ làm cho các ngành, các lĩnh vực, các thành phần kinh tế trên địa bàn
tỉnh phát triển, trong đó sự phát triển của các ngành thuộc kết cấu hạ tầng vật
chất và xã hội, nhất là những ngành thuộc kết cấu hạ tầng vật chất như giao
thông, bưu điện, cảng sông, kho tàng... Vừa phục vụ cho sự phát triển kinh tế,
vừa phục vụ cho việc xây dựng KVPT tỉnh. Sự phát triển của kết cấu hạ tầng
sẽ trực tiếp bảo đảm những điều kiện chung cho quá trình tái sản xuất (máy
móc, thiết bị kỹ thuật, nguyên nhiên liệu, năng lược, sức lao động...) và thực
hiện vận chuyển, bảo đảm lưu thông các loại sản phẩm đầu ra của quá trình
sản xuất, làm cho quá trình tái sản xuất diễn ra suôn sẻ; bảo đảm thông tin
liên lạc thông suốt phục vụ cho phát triển kinh tế và các nhu cầu sinh hoạt của
dân sự. Kết cấu ha tầng phát triển còn là yếu tố đáp ứng được yêu cầu xây
10
11
dựng KVPT liên hoàn vững chắc từ các cơ sở làng, xã, phố phường, các cụm
chiến đấu, các khu phòng thủ then chốt của tỉnh và các huyện, bảo đảm sự vận
chuyển vũ khí, khí tài, trang bị kỹ thuật, lương thực thực phẩm phục vụ chiến
đấu và sự cơ động tác chiến, hiệp đồng của lực lượng vũ trang địa phương với
địa phương bạn của quân khu và bộ, tạo nên thế trận chung của chiến tranh
nhân dân bảo vệ Tổ quốc.
Thời gian qua (2001 - 2005) hệ thống giao thông của Hải Dương bao
gồm cả đường thuỷ, đường bộ, đường sắt. Nhất là các trục đường chính cấp
quốc giá: Đường 5A, đường 18, đường 183.. đoạn thuộc địa phận Hải Dương
đã được Trung ương đầu tư xây dựng, mở rộng, tu sửa. Trong 4 năm, tỉnh đã

đầu tư nâng cao 101km đường tỉnh, 171 km đường huyện và đường đô thị,
5705 km đường giao thông nông thôn các loại; kiên cố hóa 707 km kênh
mương các loại... bảo đảm chịu tải cho các phương tiện kỹ thuật có trọng tải
lớn, sức cơ động cao. Đây là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế địa
phương và xây dựng thế trận phòng thủ liên đoàn, bảo đảm cơ động lực lượng
triển khai các hoạt động của các lực lượng phòng không, thực hiện vòng
tránh, đánh trả lực lượng hoả lực của địch khi chiến tranh có thể xảy ra để bảo
vệ địa phương và thủ đô Hà Nội.
Cùng với sự phát triển của hệ thống giao thông là việc xây dựng các
cung trạm, kho tàng, bến bãi một cách hợp lý, vừa phục vụ cho phát triển kinh
tế, vừa đáp ứng được yêu cầu xây dựng hệ thống hậu cần - kỹ thuật tại chỗ,
bảo đảm tính liên hoàn của KVPT khi chiến tranh xảy ra.
Hệ thống bưu chính viễn thông trong tỉnh được phát triển mạnh mẽ, có
tác dụng to lớn đến sự phát triển kinh tế của tỉnh, đáp ứng nhu cầu hoạt động
kinh tế, văn hoá, xã hội của nhân dân; nhu cầu hoạt động sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp trên địa bàn; tạo điều kiện cho các nhà quản lý, các nhà
kinh doanh tiếp cận với khoa học - công nghệ hiện đại, thực hiện liên doanh,
11
12
liên kết với cá doanh nghiệp trong nước và thế giới. Đồng thời sự phát triển
của hệ thống bưu chính viễn thông sẽ cùng với hệ thống thông tin quân sự của
KVPT bảo đảm cho các hoạt động lãnh đạo, chỉ huy các cấp thông suốt trong
mọi tình huống của chiến tranh.
Như vậy, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở Hải Dương theo hướng
CNH, HĐH sẽ làm cho tất cả các ngành, các lĩnh vực... mà trong đó các
ngành thuộc kết cấu hạ tầng ngày càng được phát triển theo hướng hiện đại.
Sự phát triển của các ngành thuộc kết cấu hạ tầng (nhất là giao thông vận tải,
bưu điện, kho tàng, bến cảng...) sẽ vừa thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
vừa phát triển kinh tế địa phương, đồng thời với tính lưỡng dụng sẵn có chúng
sẽ đáp ứng nhu cầu xây dựng KVPT tỉnh vững mạnh.

Năm là, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH cho
phép khai thác tiềm năng tại chỗ phát triển kinh tế, tăng thêm việc làm cho
người lao động, từ đó sẽ tạo điều kiện thuận lợi để tổ chức lực lượng dự bị
động viên và dân quân tự vệ rộng khắp.
Lực lượng vũ trang của KVPT tỉnh là lực lượng nòng cốt cho toàn dân
trên địa bàn chủ động ngăn ngừa, tiến công làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn
của địch, giữ vững ổn định chính trị, giữ gìn an ninh trật tự và an ninh xã hội trên
địa bàn, góp phần cùng quân khu và cả nước thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến
lược là xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. Lực lượng đó
bao gồm cả lực lượng thường trực, lực lượng dự bị động viên và dân quân tự vệ.
Trong thời bình, việc xây dựng lực lượng thường trực phải theo xu
hướng tinh giảm với số quân thích hợp, nhưng chất lượng cao. Vì vậy xây
dựng lực lượng dự bị động viên mạnh và dân quân tự vệ rộng khắp, có ý
nghĩa rất quan trọng trong xây dựng lực lượng của KVPT các cấp để khi có
tình huống xảy ra có thể nhanh chóng mở rộng lực lượng thực hiện các
phương án tác chiến theo tình huống đã xác định.
12
13
Tổ chức lực lượng dự bị động viên, dân quân tự vệ phải theo đúng pháp
lệnh dân quân tự vệ. Thời bình, lực lượng dân quân tự vệ xây dựng khoảng
2% đến 2,25% dân số và bảo đảm đủ các thành phần, lực lượng (chiến đấu,
phục vụ chiến dấu, cơ động, tại chỗ) sẵn sàng mở rộng lực lượng từ 8% đến
10% cho thời chiến. Công tác đăng ký, quản lý, huấn luyện lực lượng dự bị
động viên phải đúng pháp luật. Kể cả quân dự bị hạng I, hạng II và Sĩ quan dự
bị.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, việc tổ chức quản lý, huấn luyện
dân quân tư vệ và dự bị động viên đang là một vấn đề khó khăn chung của
mọi địa phương trong cả nước cũng như ở Hải Dương. Ở Hải Dương phần lớn
dân số, lao động sinh sống ở lĩnh vực nông ngiệp, nông thôn, thu nhập còn
thấp, nên thời gian nông nhàn người lao động nông nghiệp thường đi tìm việc

làm ở khắp nơi, làm cho quân dự bị và dân quân tản mạn lớn.
Chính sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành theo hướng CNH, HĐH ở
Hải Dương sẽ cho phép khai thác có hiệu quả các tiềm năng tại chỗ, làm cho
các ngành phát triển, hình thành các tiểu vùng chuyên sản xuất lượng thực và
sản xuất hàng hoá, các tiểu vùng chăn nuôi tập trung, các trung tâm công
nghiệp, thương mại, du lịch, dịch vụ... Đặc biệt là sự hình thành một số tiểu
vùng mới chuyên trồng cây ăn quả và trồng cây hoa màu chất lượng cao ở các
huyện: Gia Lộc, Thanh Hà, Cẩm Giàng... Trên cơ sở các vùng chuyên sản
xuất hàng hoá và các trung tâm: công nghiệp, thương mại, du lịch, dịch vụ
được hình thành sẽ tạo điều kiện phân bố lại dân cư và lao động trên địa bàn
tỉnh một cách hợp lý để phát triển kinh tế, giảm bớt sự tản mạn tự phát nguồn
nhân lực sang các tỉnh bạn, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức lực lượng
dự bị động viên, dân quân tự vệ rộng khắp và hợp lý hơn.
Cùng với các vùng chuyên sản xuất hàng hoá, các trung tâm công
nghiệp, du lịch, dịch vụ thương mại là sự phát triển các làng nghề công nghiệp,
13

×