Tải bản đầy đủ (.docx) (61 trang)

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (299.44 KB, 61 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Quan điểm của các nhà kinh điển Mác – Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh và
Đảng cộng sản Việt Nam về tự học và kỹ năng tự học.
Tiếp thu có phê phán các quan điểm trước đó về sự phát triển của con người,
C.Mác và Ph.Ăngghen, với thế giới quan và phương pháp tư duy biện chứng duy vật
khoa học, nghiên cứu sự hình thành phẩm chất, năng lực của con người trong những điều
kiện cụ thể, các ông đánh giá cao quá trình tự học tập, tự tìm kiếm hệ thống tri thức, kỹ
năng, kỹ xảo hoạt động của bản thân con người. Vai trị tích cực, sáng tạo của con người
phát triển hoàn thiện nhân cách cũng được Lênin thường xuyên quan tâm. Người chỉ rõ:
Khái niệm con người, với tư cách là cái chủ quan, là khuynh hướng tự mình thực hiện
mình, tự cho mình qua bản thân mình, một tính khách quan trong thế giới khách quan và
tự hồn thành (tự thực hiện) mình. Bàn về việc học, V.I.Lênin đã chỉ rõ: “Học, học nữa,
học mãi”. Đây là một tư tưởng lớn về việc học tập suốt đời. Kế thừa và phát triển những
tinh hoa tư tưởng về học tập của nhân loại đặc biệt là tư tưởng của các nhà kinh điển chủ
nghĩa Mác- Lênin. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có tư tưởng rất lớn và hiện đại về cách học
(Người thường dùng thuật ngữ “kiểu học”) nói chung và đặc biệt là vấn đề mà người gọi
là “tự động học tập”. Đây là cống hiến to lớn và quý báu của Người vào lý luận dạy học:
“Phải tự nguyện tự giác xem công việc tự học là nhiệm vụ của người cách mạng, phải cố
gắng hồn thành cho được, do đó phải tích cực, tự động hoàn thành kế hoạch học tập”
[41]. Người chỉ rõ: “Về cách học phải lấy tự học làm cốt” [41, tr.18]. Tư tưởng này đã chỉ
ra rằng: Tự học có vai trò quan trọng, là động lực để thúc đẩy quá trình học tập, phát triển
nhân cách và là nền tảng quyết định của quá trình dạy học. Tư tưởng của Chủ Tịch Hồ
Chí Minh về tự học có thể quy thành các vấn đề:
- Trong việc tự học, điều quan trọng hàng đầu là xác định rõ mục đích học tập và xây
dựng động cơ học tập đúng đắn.


- Phải tự mình lao động để tạo điều kiện cho việc tự học suốt đời.
- Muốn tự học thành cơng, phải có kế hoạch sắp xếp thời gian học tập, phải bền
bỉ kiên trì thực hiện kế hoạch đến cùng, không lùi bước trước mọi trở ngại.


- Phải triệt để tận dụng mọi hoàn cảnh, mọi phương tiện, mọi hình thức tự học.
- Học đến đâu, ra sức luyện tập thực hành đến đó. Trong lời khuyên đối với
một người tự học, việc xác định đúng đắn mục đích tự học được Người nhắc đến
đầu tiên: “Phải nâng cao và hướng dẫn việc tự học. Phải biết tự động học tập.
Muốn vậy phải hiểu rõ mấy điều: Học để làm gì? Học để sửa chữa tư tưởng; Học
để tu dưỡng đạo đức cách mạng; Học để tin tưởng; Học để hành. Suốt quá trình tự
học, dù là tiếng nước ngồi, học tri thức cách mạng, học văn hố, học làm
báo,v.v... Người ln ln tự xác định cho mình mục đích học tập đúng đắn, với
động cơ trong sáng. Người tự động học với ý nguyện cao cả là tìm ra con đường
cứu nước, cứu dân. Mục đích này ln trở thành động cơ thường xuyên thôi thúc
Người một cách mạnh mẽ trong việc tự học. Người chỉ rõ vai trò của học tập đối
với người cách mạng: “Chúng ta phải học và hoạt động cách mạng suốt đời. Còn
sống thì cịn phải học, cịn phải hoạt động cách mạng”[32, tr. 42]. Người cho đây là
yêu cầu bắt buộc đối với người cán bộ. Theo Người, muốn “học suốt đời” được thì
phải tự học.
Tư tưởng giáo dục của Hồ Chí Minh được Đảng ta vận dụng trong đường lối
Giáo dục - Đào tạo. Nghị quyết TW 4(khoá VIII) chỉ rõ: phải “khuyến khích tự
học” phải “áp dụng những phương pháp giáo dục hiện đại để bồi dưỡng cho học
sinh năng lực tư duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề”. Nghị quyết Hội nghị
lần thứ 2 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII, đã nhấn mạnh: “...Nâng cao
khả năng tự học, tự nghiên cứu của người học” [70, tr.110], “... Đảm bảo điều kiện
và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh, sinh viên Đại học, phát triển mạnh
mẽ phong trào tự học, tự đào tạo thường xuyên và rộng khắp trong toàn dân, nhất
là thanh niên, tạo ra năng lực tự học sáng tạo của mỗi học sinh” [70, tr. 41]. Quan


điểm này được tiếp tục khẳng định ở văn kiện Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam
lần thứ IX “Phát huy tinh thần độc lập suy nghĩ và sáng tạo của học sinh, sinh viên,
đề cao khả năng tự học, tự hoàn thiện học vấn tay nghề” [69, tr.109].
Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng cộng

sản Việt Nam là cơ sở phương pháp luận quan trọng giúp cho các nhà tâm lý học đi
sâu nghiên cứu làm rõ vấn đề tự học và hình thành phát triển KNTH cho người học
trong quá trình học tập. Thấm nhuần tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quán
triệt đường lối của Đảng về Giáo dục trong gần hai thập kỷ qua đã có nhiều nhà
nghiên cứu trên bình diện Tâm lý học, Giáo dục học nhằm làm rõ vai trò của tự
học, các điều kiện tác động nâng cao kết quả tự học. Mối quan hệ giữa người dạy
và người học, giữa cách dạy và cách học được tập trung làm rõ: người học phải
biết tự chiếm lĩnh tri thức thông qua hoạt động tự giác, tích cực... Thầy giáo khi đó
chỉ đóng vai trị là người khơi gợi sự chú ý, kích thích, thúc đẩy cho học sinh hoạt
động và như vậy “Thầy giáo trở thành người trọng tài, đạo diễn, thiết kế, tổ chức
việc làm, giúp đỡ học sinh biết cách làm, biết cách học” [29, tr.12].
1.1.2. Quan điểm của các nhà tâm lý học về tự học và kỹ năng tự học
* Quan điểm của các nhà tâm lý học phương Tây
+ Nghiên cứu về tự học
Ở phương tây các nhà khoa học cũng rất quan tâm nghiên cứu về tự học.
Dựa trên những thành tựu lý luận cơ bản của Tâm lý học hành vi và tâm lý học trí
tuệ, xem xét con người với tư cách là “con người cá thể”, mà sự phát triển tâm lý
của nó trước hết phải tuân theo các quy luật đặc biệt từng cá thể. Dựa trên cơ sở
tâm lý đó, các nhà khoa học tiêu biểu như: E.Mayo, F.Rextơlixbecgiê ...đã tìm ra
phương pháp dạy học nhằm khai thác và phát huy tốt nhất “cái cá thể” trong người
học. Có thể khái lược một số nét nội và kết quả theo các hướng sau:
- Hướng nghiên cứu đề cao vai trò của trẻ em trong q trình học tập, tiêu
biểu như Vưgơtxki, Leonchiev, Ganperin ... Theo họ, giáo dục phải tạo điều kiện để


người học tự lựa chọn vấn đề, tự chiếm lĩnh tri thức. Một số tác giả lại quá đề cao
vai trị của người học và cho rằng ơng thầy cứ để cho trị đi lên phía trước và nhận
xét bước đi của họ. Như vậy các tác giả đã đề cao vị thế của người học như một chủ
thể trong lĩnh hội tri thức, trong khi đó lại khơng chỉ ra người dạy phải làm như thế
nào để nâng cao chất lượng tự học cho học sinh.

- Hướng nghiên cứu khác như: P.V.Exipov, Primanov, A.VPetrovxki ...
cũng đi đến việc khẳng định vị thế của người dạy và người học, trong đó vai trị tự
học của người học được đề cao. Trong q trình học tập người học phải tự giác,
tích cực thực hiện chương trình đào tạo của nhà trường.
- Vào đầu thế kỷ XX ở Pháp đã có các nghiên cứu và khẳng định vai trò của
tự học trong quá trình dạy học, như: F.M.Voltaire, D.Dierot... Theo họ, trung tâm
của nhà trường không phải là người thầy mà là học trị, khơng phải chỉ có thầy
giảng dạy mà trị phải tự học, tự nâng cao tri thức cho bản thân với sự giúp đỡ của
thầy giáo.
- Ở Mỹ ngay từ năm 1920 các nghiên cứu đã đưa ra phương pháp giáo dục
dựa trên việc phát huy vai trò tự học của học sinh, nổi bật: J.Wthibaut,
G.Kelli...Theo quan niệm này toàn bộ hoạt động học của người học là do họ tự thực
hiện theo những công việc mà giáo viên giao. Với cách dạy như vậy người học được
chủ động bộc lộ khả năng hoạt động của bản thân. Tuy nhiên quan niệm này cũng bị
phê phán là làm cho người học chỉ quan tâm cố gắng hồn thành cơng việc được
giao mà hạn chế tính sáng tạo, khơng tạo được sự phát triển nhân cách người học.
- Sau chiến tranh thế giới lần thứ 2, khoa học giáo dục có những tiến bộ đáng
kể, nghiên cứu về tự học tiếp tục được thực hiện ở mức độ cao hơn. Quá trình dạy
người học tự học được đề cao, bên cạnh đó vai trị của người thầy và các điều kiện
bảo đảm cho người học một môi trường sư phạm tối ưu cũng được khẳng định. Tư
tưởng này đã kích thích sự nỗ lực, tạo nên một loạt phương pháp dạy học mới, làm
phong phú lý luận thực tiễn của khoa học giáo dục nhiều nước trên thế giới.


Có thể nói ở phương Tây, dựa trên thành tựu nghiên cứu cá thể trong hoạt
động của các dòng Tâm lý học hành vi và Tâm lý học trí tuệ, một số nhà khoa học
đã đi đến khẳng định vai trò của tự học trong học tập của mỗi cá nhân ở các mức
độ khác nhau.
+ Nghiên cứu về kỹ năng:
Các nhà TLH phương tây nghiên cứu rất kỹ về kỹ năng, kỹ xảo. Họ rất coi

trọng mặt kỹ thuật của hoạt động và chỉ nghiên cứu cấp độ hành động, vì thế họ
quan tâm nhiều đến việc nghiên cứu kỹ năng, kỹ xảo. Họ cho rằng, các thao tác,
nghề nghiệp đạt tới mức độ thành thạo cao là kết quả của sự rèn luyện cơng phu và
có phương pháp.
+ Một số nhà TLH quan tâm nghiên cứu sự hình thành kỹ năng trong dạy
học như: Anderson, Shuell, Brow, Weinert, Helmke.
ANDERSON (1982), dựa theo Fitts và Posner (1967), đã phân biệt ba giai
đoạn hình thành kỹ năng là: Nhận thức, liên tưởng và tự lập. Các tác giả cho rằng:
ở giai đoạn nhận thức, con người phải “hiểu thật rõ nhiệm vụ” xác định được nội
dung cần đạt được làm cơ sở để thu nhận và sử lý thông tin; ở giai đoạn liên tưởng
diễn ra sự hình thành các “thành phần kỹ năng riêng lẻ”; ở giai đoạn tự lập, kỹ
năng ngày càng được tự động hoá nhiều hơn [dẫn theo 24, tr.18].
Shull (1990) thì đưa ra kết luận là việc học tập, nhận thức của con người là
một q trình chủ động, tạo lập và tích luỹ. Ơng cho rằng “ngay ở giai đoạn đầu của
việc học tập, người học đã phải đối mặt với một số lớn các sự kiện và thông tin riêng
lẻ quan trọng” [Dẫn theo 24, tr.19]. Do vậy, ngay từ đầu, người học đã phải chủ
động cố gắng làm những gì có thể làm được: Học, giải thích thơng tin mới, khảo sát
và “có những sai lầm bổ ích”. Shull xác định: ở giai đoạn trung gian, người học có
thể “sử dụng những thông tin mới tiếp nhận để tự giải quyết những vấn đề đơn giản”
[dẫn theo 24, tr.22]. Nghĩa là, người học có thể “học qua làm”. ở giai đoạn cuối,
Shull cho đó là giai đoạn học tập tích luỹ. Giai đoạn này kiến thức thu nhận được


của người học đã có tính chất hệ thống. Do đó, “ các kỹ năng thu được qua tự động
hố và luyện tập thay đổi đã nâng cao khả năng hoạt động, còn các thành phần siêu
nhận thức tới lúc đó khơng chỉ tồn tại mà cịn có thể sử dụng được”. [dẫn theo 24,
tr.30].
Các tác giả Brow (1994), Weinet và Helmke (1995) cho rằng: “Tính hiệu quả
(của việc học tập) hầu như phụ thuộc vào người học và sự khác biệt cá nhân của họ”.
[73, tr.132]. Theo họ, việc học tập rèn luyện của người học bị phụ thuộc vào những

điều kiện như: Nguồn tri thức vốn có; tạo tình huống học tập, rèn luyện; làm xuất
hiện, phát huy yếu tố chủ động, tự giác, tích cực trong học tập, rèn luyện.
* Quan điểm của các nhà Tâm lý học Mác-xit.
+ Nghiên cứu về tự học:
Hoạt động học là phương thức để con người tiếp thu tri thức, hành vi trong
cuộc sống. Việc học giúp cá nhân lĩnh hội tri thức đã được tích luỹ trong q trình
lao động sản xuất và sinh hoạt cộng đồng. Việc lĩnh hội tri thức của mỗi người chỉ
đạt được kết quả cao khi họ tự học. Do vậy, nghiên cứu về tự học có giá trị nhất
định trong việc thúc đẩy con người tích luỹ kinh nghiệm, tri thức khoa học để nâng
cao năng lực nhận thức thế giới khách quan. Vấn đề tự học đã được nhiều tác giả
nghiên cứu.
- N.A.Rubakin trong tác phẩm: “Tự học như thế nào” đã nhấn mạnh vai trị
của thái độ tích cực tự học trong việc chiếm lĩnh tri thức của học sinh. Theo ông để
tự học đạt kết quả thì: “việc giáo dục động cơ đúng đắn là điều kiện cơ bản để học
sinh tích cực, chủ động trong tự học”[53, tr.36]. Điều này chứng tỏ N.A.Rubakin
đã thấy rõ vai trò của yếu tố động cơ trong hoạt động tự học của học sinh. Như
vậy, muốn học tập có kết quả địi hỏi phải giáo dục cho người học động cơ đúng
trong tự học. Song thực tế có động cơ đúng nhưng người học thiếu kỹ năng thực
hiện thì hoạt động thì tự học vẫn không đạt kết quả.


- I.F.Khalamơv trong cuốn “Phát huy tính tích cực của học sinh như thế
nào”? [32, tr. 64] đã khẳng định: Tự học đóng vai trị quan trọng trong việc nâng
cao tính tích cực nhận thức và hiệu quả hoạt động trí tuệ của học sinh.
N.Đ.Lêvitơv đã chỉ ra một số thành phần tâm lý cơ bản của sự lĩnh hội, các
thành phần này có mối quan hệ qua lại với nhau trong tâm lý của người học, nếu
thiếu sự tự giác, tích cực thì học tập của học sinh sẽ không đạt yêu cầu đào tạo. Tức
là trong học tập người học phải tự học, tự giác, tích cực chiếm lĩnh tri thức cho bản
thân. Những thành phần tâm lý của sự lĩnh hội bao gồm: Thái độ tích cực của học
sinh đối với công việc tự học; các quá trình tìm hiểu tài liệu một cách trực tiếp và

cảm tính; q trình tư duy với tư cách là q trình cải biến tài liệu; quá trình ghi
nhớ, bảo tồn thông tin...
- A.V.Petrôvxki trong cuốn “Tâm lý học lứa tuổi và sư phạm” [48, tr.55] đã
nghiên cứu những mức độ của hoạt động học như: mức độ nhận thức của việc học,
mức độ trí tuệ của việc học, tính chất nhiều mức độ của việc học... Từ những mức
độ của việc học cho thấy hoạt động học đòi hỏi phải có tính tự giác độc lập cao, để
hoạt động học đạt kết quả thì học sinh phải tự học.
- Hai tác giả: A.A Gorxevxki và M.I.Lubixnưna (thuộc trường Đại học tổng
hợp Lêningrat) trong cuốn “Tổ chức của học sinh đại học” đã nghiên cứu vấn đề tự
học của sinh viên và nêu lên một số phương pháp tự học của sinh viên như (tự nêu
vấn đề và tìm cách giải quyết vấn đề tự nghiên cứu).
- Vấn đề tự học còn được R.Retxke - người Đức bàn đến trong cuốn “Học tập
hợp lý”. Tác giả cho rằng: Học tập ở đại học là một quá trình phát triển của con
người, quá trình này phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Trong các yếu tố đó thì yếu tố bên
trong đóng vai trị quyết định đến kết quả tự học. Việc hồn thành có kết quả những
nhiệm vụ tự học đặt ra đòi hỏi người học phải đấu tranh với bản thân một cách có
phê phán và phải sáng tạo trong quá trình tự học.


- L.P.Đơblaev trong cuốn “Những khía cạnh tâm lý của việc đọc sách” [16,
tr.11] và A.P.Primacecovxki trong cuốn “Phương pháp đọc sách” đã phân tích
những cơ sở khoa học tâm lý, những điều kiện ảnh hưởng tối ưu đến quá trình đọc
sách. Các tác giả đã phân tích được một số yếu tố tâm lý cơ bản đảm bảo cho quá
trình đọc sách đạt kết quả cao. Theo họ phương pháp đọc sách là một trong những
yếu tố quan trọng của tự học ở người học.
- P.V.Êxipôv [51] nghiên cứu cơng tác tự học của học sinh ngồi giờ lên lớp
cho rằng: Tự học là việc học của học sinh tiến hành khi khơng có sự tham gia hướng
dẫn trực tiếp của GV. Trong đó người học phải vươn tới mục đích đã đề ra. Trong
nghiên cứu của mình tác giả cũng đưa ra phương hướng để kích thích hoạt động tự
học cho học sinh đó là: Trong q trình dạy học GV có thể nêu lên hàng loạt vấn đề

và yêu cầu học sinh hoàn thành trong một thời gian xác định. Nhưng cách thức hướng
dẫn người học tự học thì tác giả chưa đề cập tới.
Kết quả nghiên cứu của các tác giả trên cho thấy các nhà khoa học Đông Âu
và Xô Viết (trước đây) đã xem xét tự học một cách tồn diện như: vai trị của tự học,
KNTH, những biện pháp tổ chức hoạt động dạy học nhằm nâng cao hiệu quả tự học
của người học. Việc tự học được các tác giả xem xét trong mối quan hệ với hoạt
động dạy của quá trình dạy học. Việc tự học của học sinh được tổ chức dưới sự điều
khiển của GV thông qua hệ thống các bài tập nhận thức nhằm thực hiện các nhiệm
vụ học tập. Tuy nhiên, nhìn chung các tác giả cịn chưa nghiên cứu một cách hệ
thống và chỉ ra mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến HTKNTH, các giải pháp
HTKNTH cho người học...
+ Nghiên cứu về kỹ năng.
- Các nhà Tâm lý học Xô Viết: B.F.Lômov, E.N.Kabannova, V.I.Đưcovai
nghiên cứu kỹ năng và kỹ xảo, làm rõ sự khác nhau của hai khái niệm này cũng
như con đường hình thành chúng. Các tác giả nhấn mạnh điều kiện hình thành kỹ
năng là những tri thức và kinh nghiệm trước đó[35].


- E.A.milerian đưa ra khái niệm kỹ năng, xem kỹ năng là một thành phần,
một mức độ năng lực của con người. Tác giả chủ yếu đề cập đến kỹ năng bậc cao
mà cơ sở của nó là tri thức và các kỹ xảo. Người có kỹ năng địi hỏi phải có hành
động có kết quả bằng cách vận dụng các phương pháp và phương thức thực hiện
một cách đúng đắn khi thực hiện hành động, người ta sử dụng các tri thức về hành
động và các kỹ xảo của các thao tác trong hành động đó. Tác giả phân biệt kỹ năng
và năng lực[ dẫn theo 24, tr.29].
- P.A.Ruđich chỉ bàn đến kỹ năng bậc thấp, kỹ năng đầu tiên của hành động.
Điều này cũng có nghĩa là kỹ năng bậc thấp là cơ sở của kỹ xảo trong những điều
kiện ổn định. Tuy nhiên, trong tình huống phức tạp, những điều kiện khơng ổn
định thì khó trở thành kỹ xảo[dẫn theo 25].
- Cùng ý kiến với E.A.Milerian, quan niệm của A.V.Petrovxki, V.A.Krutetxki

cũng coi kỹ xảo là một thành phần của kỹ năng. các tác giả xem kỹ năng ở đây là kỹ
năng bậc cao của những hành động phức tạp điều kiện hành động không ổn định [48].
- Ngồi các cơng trình chun nghiên cứu về kỹ năng, có rất nhiều giáo trình
tài liệu khác đề cập đến như:
Ở mức độ khái quát nhất nghiên cứu về kỹ năng các tác giả K.K.Platonov,
G.G.Golubep cho rằng kỹ năng là một mức độ của năng lực, điều kiện hình thành
và biểu hiện tâm lý của sự hình thành kỹ năng. A.V.Petropxki, V.A.Krutetxki,
V.X.Kudin xem kỹ năng là cách thức thực hiện phù hợp với mục đích và điều kiện
cho phép. Cơ sở của kỹ năng là các tri thức và kinh nghiệm đã có. A.V.Petropxki,
V.A.Korutetxki cho kỹ xảo là một thành phần của kỹ năng.
Nghiên cứu kỹ năng cụ thể các chuyên ngành tâm lý học khác nhau. Các tác
giả: N.Đ.Levitov nêu khái niệm và sự hình thành kỹ năng. A.V.Petrovxki chỉ rõ
cách dạy để hình thành kỹ năng; Tsebưseva kết luận là khi huấn luyện kỹ năng nếu
rút dần vai trò của nhà giáo dục để người học tự làm lấy thì kỹ năng sẽ hình thành
nhanh chóng và ổn định hơn.


+ Nghiên cứu về kỹ năng tự học.
Trên cơ sở nghiên cứu vấn đề tự học và kỹ năng nói chung, các nhà tâm lý
học Mác-xít đã đi vào lý giải một hiện tượng tâm lý mới đó là KNTH. Tiêu biểu
cho hướng này có một số nhà tâm lý học sau:
- A.N.Lêônchiev [34] đã nghiên cứu và chỉ ra các KNTH cần thiết để bảo
đảm cho người học đạt kết quả cao. Trong các KNTH tác giả nhấn mạnh đặc biệt
đến kỹ năng đọc sách. Theo ông kỹ năng đọc sách là kỹ năng cơ bản, quyết định
đến kết quả hoạt động tự học của người học.
- Một số hướng nghiên cứu khác lại tập trung nghiên cứu các KNTH. Kết
quả nghiên cứu của M.U.Piskunôv đã chỉ ra các kỹ năng cơ bản của tự học để bảo
đảm cho người học đạt kết quả. Trong các KNTH đó thì kỹ năng đọc sách được
nhiều tác giả coi là kỹ năng quan trong nhất trong hoạt động tự học. Trong đó
V.ƠKơn lại khẳng định rằng: để tự học có hiệu quả thì người học phải biết kế

hoạch hố hoạt động tự học, tức là phải có kế hoạch tự học. Theo ơng có kế hoạch
tự học sẽ giúp người học chủ động trong hoạt động và thể hiện tác phong khoa học
của bản thân [47].
- Trong các cơng trình nghiên cứu của A.V.Petrôvxki [48], .M.Machiuskin
[40]... đã nghiên cứu khẳng định trong quá trình dạy học GV phải tổ chức bồi dưỡng,
HTKNTH cho sinh viên. Các tác giả đã khẳng định việc GV giao bài tập nhận thức
cho sinh viên trong thời gian tự học là một biện pháp quan trọng nhằm nâng cao tính
tích cực, độc lập sáng tạo của sinh viên trong học tập.
- P.A.Kortremnưi (1986) xác định: điều kiện để hình thành hiệu quả kỹ năng
tự học là tạo ra những khái niệm cụ thể về mơ hình luyện tập (HV hình dung thực
chất hoạt động và thể hiện nó). Bàn về phương pháp huấn luyện HTKNTH cho
HV, P.A.Kortremnưi chỉ rõ: “Cần tổ chức huấn luyện theo các giai đoạn hình
thành kỹ xảo, kỹ năng” [dẫn theo 24, tr.26-27].


- V.V.Tsebưseva nghiên cứu và chỉ ra những điều kiện tâm lý sư phạm của
việc HTKNTH cho HV bao gồm: 1- Tính chất xác định của nhiệm vụ, hiểu mục
đích và phương thức đạt kết quả; 2- Học sinh có những tri thức cần thiết; 3- Sự phù
hợp giữa các phương thức dạy học với những đặc điểm của các loại kỹ xảo; 4Tính hiệu quả của việc huấn luyện; 5- Một số lượng bài tập đủ mức; 6- Đánh giá
hoạt động của học sinh kịp thời, công khai; 7- Tính chất tích cực hoạt động của học
sinh [67, tr.79].
- Ngồi ra cịn có một số nghiên cứu của các tác giả như: V.G.Look,
E.A.Milerian, G.X.Kochiuc, N.A.Mentrinxcaia nghiên cứu về kỹ năng học tập.
Ở Việt Nam, vấn đề tự học, kỹ năng và KNTH cũng được nhiều nhà khoa
học quan tâm nghiên cứu:
- Từ thời Phong kiến do ảnh hưởng của nền văn hoá Trung Hoa, việc học
của người học được hiểu và thực hiện một cách máy móc. Trong tự học kỹ năng
chủ yếu nhất là ghi nhớ bài học theo kiểu “Thầy bảo thế”. RogerGal đã khái quát
nền giáo dục Việt Nam thời bấy giờ “Người ta tìm thấy sự bắt chước đúng mà
không cần độc đáo, người ta học thuộc lòng, làm theo và bắt chước thầy như một

cái máy” [54, tr.44].
- Sau năm 1954, miền Bắc hoàn tồn giải phóng, miền Nam dưới thời
kỳ Mỹ - Ngụy, việc tự học của người học đã được đề cập nghiên cứu. Một số
nhà giáo dục như Nguyễn Hiến Lê [36], Nguyễn Huy Cầu [6]... đã nêu vai trò
của tự học và đưa ra lời khuyên tự học cho mọi người. Tuy vậy các tác giả
cũng chỉ nêu lên một số kinh nghiệm tự học của bản thân để mọi người tham
khảo chứ chưa nêu được cơ sở lý luận, phương pháp luận và nghiên cứu quy
trình khoa học về tự học của người học. Theo tác giả Nguyễn Kỳ [57], quá
trình dạy học được tiến hành theo trình tự: Người học tự tìm hiểu đối tượng
nhận thức, sau đó trao đổi thống nhất trong tập thể, nhóm, lớp, cuối cùng GV
kết luận về kết quả nhận thức của người học, điều chỉnh những thiếu sót và đi


đến khẳng định chân lý. Để học theo phương pháp này có hiệu quả, học sinh
phải phát huy cao độ năng lực tự học tự nghiên cứu. Cũng theo hướng này,
một số nhà sư phạm như Nguyễn Cảnh Toàn [56], Lê Khánh Bằng [3], Hà Thị
Đức [13], Mai Văn Hoá [20], Trần Thị Minh Hằng [24], Trịnh Quang Từ
[66]... đã nghiên cứu các vấn đề liên quan đến tự học, từ đó khẳng định: Tự
học có vai trị rất quan trọng trong q trình đào tạo, đó là phương pháp cơ
bản giúp người học phát huy tính độc lập, sáng tạo để chiếm lĩnh tri thức
khoa học. Vì vậy muốn nâng cao chất lượng đào tạo ở các trường đại học thì
phải đổi mới mục tiêu, nội dung, phương pháp dạy theo hướng phát huy năng
lực tự học cho sinh viên. Trong những nghiên cứu về tâm lý học phát triển,
Tiến sĩ tâm lý học Vũ Thị Nho đã chỉ ra điều kiện cho sự phát triển tâm lý
(trong đó có kỹ năng) [44]. Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm (1998)
nghiên cứu mối quan hệ giữa kiến thức và đối tượng đối với sự hình thành kỹ
năng; nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành kỹ năng cho HV
[61]. Các tác giả: PGS, Ts Lê Minh Vụ, PGS, TS Hồng Đình Châu và TS
Ngô Minh Tuấn khi nghiên cứu đề tài “Các giải pháp nâng cao chất lượng tự
học của học viên sĩ quan trong các nhà trường quân đội”[71], đã tập trung

làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của các giải pháp nâng cao chất lượng tự học
của HV. Đặc biệt, các tác giả đã chỉ rõ các loại KNTH cần hình thành cho
học viên sĩ quan trong nhà trường quân đội. Tâm lý học quân sự và tâm lý
học chỉ huy bộ đội nghiên cứu đến điều kiện tâm lý của việc hình thành kỹ
năng cho quân nhân; kỹ năng nhận thức tình huống chiến đấu; kỹ năng lập kế
hoạch tác chiến; kỹ năng dự báo, dự đoán kết cục trận đánh; kỹ năng hạ quyết
tâm chiến đấu; kỹ năng huấn luyện và giáo dục bộ đội...
Nhìn chung các cơng trình nghiên cứu trong nước đã tập trung nghiên cứu
tự học của học sinh, sinh viên ở những khía cạnh như: Các yếu tố ảnh hưởng tới
chất lượng tự học, việc phân phối thời gian tự học, các phương pháp tổ chức hoạt


động tự học, việc sử dụng thời gian tự học của sinh viên, các hình thức và điều
kiện phục vụ ảnh hưởng đến tự học của sinh viên, phương pháp tự học của HV. Dù
đứng dưới góc độ Tâm lý học hay Giáo dục học để nghiên cứu thì các tác giả đều
rút ra một số kết luận:
Về lý luận: Các tác giả khẳng định được tầm quan trọng của tự học, cho rằng
tự học là yếu tố bên trong quyết định chất lượng học tập của người học. Bản chất
của tự học là quá trình tự tổ chức, tự điều khiển, tự điều chỉnh để chiếm lĩnh tri
thức và rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo, trên cơ sở đó nhân cách của người học được
hoàn thiện và phát triển. Cốt lõi của tự học là cần hình thành ở người học các
KNTH.
Về thực tiễn: Các cơng trình nghiên cứu tập trung phân tích thực trạng hoạt
động tự học của người học, đưa ra một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động tự học. Song vấn đề HTKNTH chưa được nghiên cứu một cách có hệ thống,
nên cần được đặt ra và tiếp tục nghiên cứu sâu hơn, đầy đủ hơn.
1.2. Các khái niệm cơ bản.
1.2.1. Kỹ năng:
Có nhiều cách hiểu khác nhau về kỹ năng.
- Trong tâm lý học đại cương, viện đại học mở(1995): Kỹ năng là hệ thống

các hành động thể lực và trí tuệ, các biện pháp và cách thức mà nhờ đó một dạng
hoạt động nào đó được thực hiện và đạt tới mục đích đề ra[60,tr 105].
- Các tác giả V.A.Krutetxki, A.G.Koralov, Tsebưseva, Trần Trọng Thuỷ...
xem xét kỹ năng nghiêng về mặt kỹ thuật của hành động. Kỹ năng là những phương
thức thực hiện hành động phù hợp với mục đích và điều kiện hành động mà con
người đã nắm vững. Tức là: muốn hành động, phải có tri thức về hành động gồm
mục đích hành động, cách thức và điều kiện hành động. Nắm được các tri thức về
hành động, thực hiện hành động đúng yêu cầu của nó là đã có kỹ năng. Có kỹ năng


phải có q trình học tập và củng cố bằng luyện tập. Tuy vậy các tác giả chưa đề cập
đến kết quả hành động như thế nào.
- Một số tác giả nghiên cứu kỹ năng theo hướng thiên về góc độ năng lực
của con người:
E.A.Melenrian, A.V.Petrovxki, N.Đ.Levitov, X.I.Kixegop,
K.K.Platonov, G.G.Gobulep, Nguyễn Ánh Tuyết, Ngơ Cơng Hồn, Nguyễn Quang
Uẩn ... Tác giả N.Đ.Levitov chú ý tới kết quả hành động, có kỹ năng là phải thực
hiện hành động có kết quả. Muốn hành động có kết quả phải có các tri thức về
hành động, nắm vững chúng và vận dụng được vào thực tiễn. Cũng vậy
K.K.Platonov, G.G.Golubep cho rằng người có kỹ năng khơng chỉ hành động có
kết quả trong một hồn cảnh cụ thể mà còn phải đạt kết quả tương tự trong những
điều kiện khác. Như vậy, đòi hỏi kỹ năng vừa có tính ổn định lại vừa mềm dẻo. Có
được kỹ năng bằng cách luyện tập nhiều.
Theo Tâm lý học quân sự: Kỹ năng là trình độ vận dụng đúng đắn các kiến
thức và kỹ xảo đã có một cách sáng tạo để giải quyết nhiệm vụ trong mọi tình
huống[62].
Theo từ điển tâm lý học: Kỹ năng là năng lực vận dụng có hiệu quả những
tri thức về phương thức hoạt động đã được chủ thể lĩnh hội để thực hiện những
nhiệm vụ tương ứng[11].
Từ những quan niệm trên về kỹ năng, có thể rút ra nhận xét chung về kỹ năng

gồm: Có tri thức về hành động (mục đích, cách thức thực hiện hành động, các điều
kiện phương tiện thực hiện mục đích); có sự tiến hành hành động đúng với yêu cầu
của nó; đạt được kết quả phù hợp với mục đích đã đặt ra; có thể hành động có kết quả
với những hành động tương tự trong những điều kiện khác.
Điều đó cũng có nghĩa là kỹ năng như sự thực hiện có kết quả một hành động
nào đó bằng cách vận dụng những tri thức, kinh nghiệm đã có để hành động phù hợp
với những điều kiện cho phép.


Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích các khái niệm, chúng tơi cho rằng:
Kỹ năng là trình độ vận dụng có hiệu quả các kiến thức, kỹ xảo, kinh
nghiệm để giải quyết các nhiệm vụ trong các tình huống nhất định.
Kỹ năng có 2 đặc trưng cơ bản
Một là, kỹ năng biểu hiện trình độ nắm vững phương thức khái quát của một
hành động. Đặc trưng này phản ánh tính vững chắc của kiến thức và sự thuần thục của
kỹ xảo với tư cách là công cụ phương tiện của hoạt động tương ứng.
Hai là, kỹ năng phản ánh khả năng vận dụng tri thức, kinh nghiệm để giải
quyết nhiệm vụ trong các tình huống khác nhau để đạt kết quả cao nhất. Đặc trưng
này phản ánh tính năng động, sáng tạo tiềm ẩn của con người và sẵn sàng hiện hữu
trong suốt quá trình hoạt động.
1.2.2. Kỹ năng tự học của học viên
Để hiểu rõ khái niệm KNTH rất cần thiết phải làm rõ các khái niệm có liên
quan đó là: Tự học và tự học của học viên.
*Tự học
Đã có nhiều nghiên cứu về tự học theo các góc độ khác nhau. Có thể khái
lược một số vấn đề như sau:
- Quan điểm của các nhà Giáo dục học về tự học
. Theo tác giả Lê Khánh Bằng: “Tự học là tự mình suy nghĩ, sử dụng các năng lực
trí tuệ và phẩm chất tâm lý để chiếm lĩnh một khoa học nhất định” [5, tr. 43].
. Theo tác giả Nguyễn Cảnh Tồn: “Tự học là tự mình động não, suy nghĩ, sử

dụng các năng lực trí tuệ (so sánh, quan sát, phân tích tổng hợp vv...) và có khi cả cơ
bắp (khi phải sử dụng cơng cụ) cùng các phẩm chất của mình, cả động cơ, tình cảm,
nhân sinh quan, thế giới quan (như trung thực, khách quan, có chí tiến thủ, khơng ngại
khó…) để chiếm lĩnh một lĩnh vực hiểu biết nào đó của nhân loại, biến lĩnh vực đó
thành sở hữu của mình”. [56, tr. 80].


Quan điểm trên đã đề cập đến các thao tác và những phẩm chất cần thiết của
hoạt động tự học, chúng được đặt trong mối quan hệ với tổng thể các yếu tố cấu thành
hoạt động tự học của người học.
. Theo tác giả Nguyễn Quang Đạo: “Tự học là công việc tự giác của mỗi người
do nhận thức đúng vai trị quyết định của nó đến sự tích luỹ kiến thức cho bản thân, cho
chất lượng công việc của mình đảm nhiệm, cho sự tiến bộ xã hội”.[15, tr. 3]
Những quan điểm trên cho thấy các tác giả quan niệm tự học là một hình thức
học có tính chất cá nhân do bản thân người học nỗ lực thực hiện. Để tiến hành được
công việc này cá nhân phải tự giác, huy động năng lực trí tuệ, phẩm chất tâm lý
trong quá trình chiếm lĩnh tri thức khoa học. Dạy học phải kích thích được năng lực
tự học của người học. Việc tổ chức tự học như thế nào phụ thuộc vào đặc điểm tâm
sinh lý, năng lực trí tuệ, đặc điểm tình cảm, thái độ tuỳ thuộc theo khuynh hướng,
khả năng trình độ nhận thức của bản thân.
- Theo các nhà tâm lý học
Trong cuộc sống mỗi người đều phải tự học, tự mình chiếm lĩnh một vấn đề
nào đó để làm giàu vốn kinh nghiệm sống của cá nhân. Những tri thức mà họ tích
luỹ được hồn tồn mang tính kinh nghiệm của bản thân. Tự học theo cách này
diễn ra ở mọi lúc, mọi nơi và mang ý nghĩa tự học suốt đời.
. M.A.Rubakin: “Tự học là quá trình lĩnh hội tri thức, kinh nghiệm xã hội
lịch sử trong thực tiễn hoạt động cá nhân bằng cách thiết lập các mối quan hệ cải
tiến kinh nghiệm ban đầu, đối chiếu với các mơ hình phản ánh hoàn cảnh thực tại,
biến tri thức loài người thành vốn tri thức kinh nghiệm, kỹ năng kỹ xảo của bản
thân chủ thể” [53, tr. 35].

Theo quan điểm trên, tự học là quá trình người học huy động nhân cách của
mình để chiếm lĩnh kho tàng tri thức nhân loại. Vì vậy hoạt đơng tự học là một
cơng việc khó khăn, mệt nhọc đòi hỏi tiêu tốn một năng lượng thần kinh và cơ bắp
tương đối lớn.


Tự học là quá trình cá nhân độc lập, tìm tịi kiến thức...tính độc lập trong
việc lựa chọn mục đích, lựa chọn những con đường và phương tiện giải quyết
những vấn đề đặt ra. Những tri thức là đối tượng tìm tịi trong tự học của HV có
liên quan đến nội dung kiến thức có ở bài đã học, đang học hoặc sắp được học. Tri
thức HV tìm kiếm, phát hiện có thể là do yêu cầu của GV, song cũng có thể do nhu
cầu hứng thú của người học.
. Theo N.Đ.Levitov: Tự học là hoạt động tích cực của cá nhân với các thành
phần tâm lý của sự lĩnh hội, đó là thái độ tích cực của người học trong tự học, các
quá trình tư duy, các quá trình ghi nhớ... các q trình tâm lý có liên quan mật thiết
với nhau để hoạt động tự học đạt kết quả [33, tr.40].
. Một số quan niệm khác cho rằng: Tự học là hình thức học có tính chất cá nhân
do bản thân người học nỗ lực thực hiện. Bản chất tự học là hoạt động nhận thức độc
lập của HV. Hoạt động tự học mang tính chất cá nhân một cách rõ rệt.
Từ những quan niệm nêu trên có thể coi tự học là quá trình cá nhân tự giác,
tự lực, tích cực lĩnh hội những vấn đề được đặt ra trong cuộc sống bằng hành
động của chính mình để đạt được những mục đích nhất định.
* Tự học của học viên
. Tự học về bản chất là hoạt động nhận thức tích cực, độc lập của người học,
tự học luôn luôn được xác định và diễn ra bởi chủ thể - người học và đối tượng là
tri thức, kỹ xảo, kỹ năng, nghề nghiệp. Vì vậy, tự học như thế nào, hiệu quả ra sao
là do nhân tố bên trong của chủ thể quyết định. Tự học của học viên là một loại
hình hoạt động diễn ra trong một môi trường đặc thù: Đối tượng của hoạt động tự
học là hệ thống các tri thức và các kỹ xảo, kỹ năng tương ứng với nó đã được chọn
lọc, tinh chế, mang tính khái qt. Q trình tự học có sự định hướng điều khiển

của GV, sự tạo điều kiện của cán bộ quản lý và có các điều kiện phương tiện bảo
đảm khác. Từ cách hiểu về tự học như vậy, chúng tôi đưa ra khái niệm về tự học
của HV như sau:


Tự học của HV- là quá trình tổ chức hoạt động học tập của HV, trong đó
họ tự thiết kế kế hoạch, thực hiện kế hoạch học tập và tự kiểm tra đánh giá kết
quả học tập, nghiên cứu của mình nhằm củng cố, mở rộng và phát triển tri thức,
kỹ xảo, kỹ năng nghề nghiệp.
* Kỹ năng tự học của học viên
Trong hoạt động tự học, KNTH là yếu tố cần thiết giúp người học hoàn
thành được nhiệm vụ học tập. Hoạt động tự học khi hướng vào những mục đích
nhất định sẽ bao gồm nhiều hành động liên tục kế tiếp nhau. Những thao tác trí tuệ
sẽ diễn ra tuỳ thuộc vào mục đích, nhiệm vụ học tập và tuỳ thuộc vào những kỹ
năng đã có.
Trên cơ sở nghiên cứu các khái niệm cơ bản: kỹ năng, tự học và tự học của
học viên, chúng ta có thể hiểu KNTH được biểu hiện ở mặt kỹ thuật của hành động
tự học và năng lực tự học của mỗi cá nhân. Hay nói cách khác, năng lực tự học
được biểu hiện ra ở KNTH. Để tự học có kết quả, HV phải có những KNTH tương
ứng. KNTH được bộc lộ ra bên ngoài là biểu hiện của nhận thức tự học và thái độ
tự học.
* Từ những vấn đề trên chúng tôi cho rằng kỹ năng tự học của học viên là
những phương thức hoạt động trên cơ sở lựa chọn và vận dụng những tri thức,
kỹ xảo, kinh nghiệm để thực hiện có kết quả mục tiêu học tập đã đặt ra phù hợp
với điều kiện cho phép.
1.2.3. Hình thành kỹ năng tự học cho học viên
. Theo Đại từ điển tiếng Việt do Nguyễn Như ý chủ biên: “”Hình thành là
tồn tại với tư cách là một thực thể, hình thành một số tổ chức mới, hình thành tư
tưởng mới” [65, tr. 809].
. Từ điển tâm lý học quân sự (Đỗ Mạnh Tôn chủ biên) cho rằng: “Hình thành

kỹ năng cho quân nhân là quá trình hình thành ở quân nhân khả năng nắm vững hệ


thống các thao tác nhằm biến đổi và sáng tỏ những thông tin chứa đựng trong nhiệm
vụ và đối chiếu chúng với những hành động cụ thể” [72].
Như vậy, HTKNTH là tạo ra cái mới. Có hai trường hợp: tạo ra khái niệm
mới trước khi tác động, loại kỹ năng này chưa có ở người học, sau khi tác động ở
người học xuất hiện KNTH là một kiểu hình thành. Mặt khác cái mới ở đây có thể
hiểu là một cấu trúc mới, khi đo khởi điểm loại kỹ năng này ở bậc thấp trong hệ
thống kỹ năng của người học, sau khi tham gia hoạt động, bản thân người học có sự
thay đổi thể hiện trong các phép đo, KNTH chiếm vị trí cao hơn vị trí ban đầu. Trên
cơ sở kế thừa các thành tựu nghiên cứu đã có, kết hợp với đặc điểm hoạt động học
tập của HVDTTS ở HVCTQS, chúng tôi cho rằng:
HTKNTH cho HV là quá trình hình thành ở học viên khả năng nắm vững hệ
thống các thao tác nhằm làm biến đổi và sáng tỏ những thông tin chứa đựng trong
nhiệm vụ học tập và đối chiếu chúng với những hành động cụ thể.
HTKNTH cho HV cần phải bảo đảm các yêu cầu sau:
- Tạo điều kiện cho HV nắm vững phương thức khái quát của hành động.
- Hình thành ở HV một mơ hình khái qt để giải quyết các nhiệm vụ cùng
loại đồng thời giúp họ xác lập được mối liên hệ giữa bài tập mơ hình khái qt và
các kiến thức, kỹ năng tương ứng.
- Trên cơ sở nắm vững phương thức khái quát của hành động, tạo điều kiện
cho HV vận dụng vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể
1.3. Các loại kỹ năng tự học cần hình thành cho học viên dân tộc thiểu số ở Học
viện chính trị quân sự
1.3.1. Đặc điểm hoạt động tự học của học viên dân tộc thiểu số ở học viện chính
trị quân sự.
1.3.1.1.Đặc thù về môi trường xuất thân
Hiểu một cách rộng rãi thì tự học là một hoạt động độc lập của HV nhằm
lĩnh hội tri thức khoa học, kỹ năng, kỹ xảo. Nó bao gồm: từ tự học trên lớp có sự tổ



chức, điều khiển trực tiếp của GV đến tự học hồn tồn độc lập khơng có sự tổ
chức, điều khiển của GV và tiến hành tự học một cách tự giác theo hứng thú sở
thích của bản thân nhằm thoả mãn nhu cầu hiểu biết bổ xung và mở rộng kiến thức.
Trong phạm vi luận văn nghiên cứu tự học với tư cách là một khâu của hoạt động
học, diễn ra ngoài giờ trên lớp, HV tự học để hoàn thành những nhiệm vụ mà GV
giao cho. Vì vậy, hoạt động tự học của HVDTTS cũng mang đầy đủ những đặc
điểm chung của hoạt động học tập, song ở HVDTTS tự học có những nét cụ thể
nhất định đó là đặc thù về môi trường xuất thân.
HVDTTS là con em các đồng bào dân tộc vùng sâu, vùng xa. Đến nay đã có
49/53 dân tộc thuộc 33 tỉnh trên cả nước có HV dân tộc về HVCTQS đào tạo. Hiện
nay, đang quản lý 4 khoá đào tạo khác nhau với tổng số 196 HV bậc đại học thuộc
34 dân tộc được ưu tiên, phân bố ở địa bàn khu vực khác nhau, như: Hà Giang;
Lạng Sơn; Lào cai; Tuyên Quang; Lai Châu; Thái Nguyên; Nghệ An; Hà Tĩnh;
Quảng Bình; Gia Lai... Đây là những địa bàn thuộc vị trí chiến lược quan trọng về
quốc phòng an ninh, là những vùng có truyền thống cách mạng, họ có tình cảm đặc
biệt với Bác Hồ, với Đảng, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng. Hình ảnh
“Bộ đội cụ Hồ” luôn là điều thiêng liêng trong trái tim đồng bào, nhất là lớp thanh
thiếu niên. Vì vậy học viên cử tuyển về học đều thiết tha được tu dưỡng rèn luyện
để trở thành người cán bộ. Đa số HV đều ở những vùng sâu, vùng xa do đặc điểm
sống phân tán, kinh tế vẫn mang tính tự cấp, tự túc, dựa vào thiên nhiên, nên mức
sống của đồng bào còn thấp, trình độ dân trí chưa cao. Đây là những điều kiện tồn
tại dai dẳng những tập quán thói quen, nếp sống lạc hậu. Trong quá trình ở địa
phương, điều kiện học tập ít được tiếp cận với các phương pháp dạy học hiện đại,
nhiều HV phải đi bộ mấy ngày mới đến trường, nhiều gia đình ở địa phương vẫn
chưa có điện, thiếu phương tiện thơng tin đại chúng. Xuất phát từ địa bàn vùng sâu,
vùng xa nên HVDTTS khơng có điều kiện tiếp cận nguồn thơng tin. Chính từ đặc
điểm này khi về trường học tập họ gặp rất nhiều khó khăn khi tiếp cận với phương



pháp học tập mới. Do thay đổi môi trường nên sự biến đổi về các thuộc tính, phẩm
chất, các nhân tố chủ quan người HV. Đặc điểm nổi bật là thay đổi cách thức học
tập và tự học tập, bỡ ngỡ với cách dạy và học trong môi trường quân sự địi hỏi họ
phải có tính độc lập cao, tinh thần nỗ lực, thái độ cần cù chăm chỉ và khả năng tư
duy sáng tạo với các kỹ năng như: tổng hợp, khái qt hố, trừu tượng hố...
Chính vì vậy HVDTTS gặp rất nhiều khó khăn trong q trình học tập. Phải qua
một thời gian nhất định HV người dân tộc mới nhận thức rõ ràng hơn về yêu cầu
học tập, mới lựa chọn cho mình phương pháp học tập, tiếp thu kiến thức một cách
thích hợp. Do đó trong thời gian này, dưới sự tác động định hướng của GV, cán bộ
quản lý và tập thể đơn vị. HV người dân tộc thiểu số mới tự làm quen và từng bước
hồ nhập với mơi trường chính quy, trong khn khổ điều lệnh điều lệ quân đội.
Nhưng nhìn chung, HV sĩ quan chính trị người dân tộc thiểu số đều có thể
lực khá tốt và có ý thức vươn lên học hỏi, tiếp thu tri thức để khẳng định mình
trong tập thể và đối với đồng bào dân tộc quê hương. Đó là những đặc điểm thuận
lợi giúp cho họ hoàn thành nhiệm vụ học tập tại trường, từng bước hoàn thiện phẩm
chất, năng lực toàn diện theo mục tiêu yêu cầu đào tạo.
1.3.1.2. Đặc điểm về tâm lý
Xuất phát từ đặc thù về môi trường xuất thân, nên về tâm lý HVDTTS là
những người cần cù, chịu khó, yêu lao động, sống trung thực, chân thành; tính cách
thẳng thắn, cương trực, coi trọng tình nghĩa và giàu tính cộng đồng rất chuộng tình
cảm, coi đó là vấn đề rất thiêng liêng, họ định kiến về cái xấu, cái tốt rất lâu, khi đã
có lịng tin thì tin đến cùng, nhưng khi đã mất lịng tin thì ln hồi nghi, rất khó
khơi phục. Do đó địi hỏi người cán bộ “phải bắc cầu vào tim, trước khi bắc thang
lên óc”. Vì vậy, trong quá trình học tập, người dạy phải tạo niềm tin cho họ vào tri
thức, vào khả năng học tập hướng dẫn phương pháp học tập phù hợp.
HVDTTS thường hoạt động theo thói quen nên thường máy móc trong nhận
thức, ngại tham gia hoạt động tập thể nên trong sinh hoạt thường rụt rè, ngại phát biểu



ý kiến, ít bày tỏ chính kiến, dễ làm theo ý thích, xơ cứng vụng về trong ứng xử , ngại
giao tiếp xã hội; quan hệ bó hẹp trong gia đình, dịng họ, làng bản, ngại tiếp xúc
với người lạ, nhất là với GV, cấp trên, thiên về tư duy trực quan cụ thể... điều này
dẫn đến một hạn chế trong học tập như: dễ bi quan chán nản khi gặp vấn đề khó
hiểu, thiếu cố gắng vươn lên khi bị điểm thấp; cứng nhắc khi xử lý tình huống có
vấn đề” [25, tr.4]. Nghĩ sao nói vậy, có lúc không phân biệt giữa đùa và thật, dễ nổi
khùng khi bị kích động. Vì vậy, địi hỏi cơng tác quản lý phải kiên trì, cụ thể tỉ mỉ, lâu
dài trong quản lý tự học và hướng dẫn tự học.
Việc tiến hành hoạt động tự học, KNTH của HV người dân tộc có khác biệt
và có khó khăn hơn nhiều so với HV người Kinh được đào tạo tại HVCTQS. Biểu
hiện khác biệt của HVDTTS khá rõ ràng về KNTH:
- Dễ nản chí, thiếu hứng thú trong tham gia các hoạt động tập thể để tiếp thu
tri thức kỹ năng.
- Chậm tiến bộ trong thực hiện kỹ năng, kỹ xảo tự học; gặp khó khăn và
khơng dễ dàng thực hiện hoạt động tự học; ghi chép chậm, ít đọc tài liệu, khả năng
khái quát, tổng hợp hạn chế.
- Chất lượng thực hiện KNTH chưa tốt, kết quả tiếp thu tri thức, kỹ năng
chun mơn thấp .
- Chưa thể hiện rõ tính độc lập sáng tạo, cơ bản dừng lại ở khả năng tái tạo máy
móc.
Từ đặc điểm tâm lý trên, khi HV người dân tộc thiểu số bước vào môi
trường HVCTQS, bản thân họ có sự biến đổi. Ở giai đoạn đầu do thay đổi mơi
trường, nên HVDTTS có sự biến đổi lớn những thuộc tính, phẩm chất, các nhân tố
chủ quan, do vậy phải có thời gian nhất định, HVDTTS mới lựa chọn được phương
pháp học tập phù hợp.
1.3.1.3. Đặc điểm về trình độ đầu vào


Từ năm 1991 đến nay đã có 14 khố HV đào tạo (682 HV). Đã có 10 khố tốt
nghiệp ra trường (486 HV). Trong đó 7 khố đào tạo ở trình độ cao đẳng (315 HV)

và 3 khố đào tạo ở trình độ đại học (171 HV). Quá trình tự học của HVDTTS ở
HVCTQS giống với quá trình tự học nói chung, đồng thời cũng giống với q trình
tự học của HV đào tạo đại học ở bất cứ cơ sở đào tạo đại học nào của quân đội và
quốc gia. Mặt khác q trình tự học của HVDTTS cịn chịu ảnh hưởng của một số
đặc điểm đặc thù riêng như: mục tiêu yêu cầu, nhiệm vụ đào tạo, đối tượng đào tạo.
Xuất phát từ sự phát triển kinh tế văn hố giữa các dân tộc khơng đều, sự ưu tiên của
Đảng nhà nước về chính sách dân tộc, HVDTTS về HVCTQS học tập khơng phải
qua thi tuyển, trình độ nhận thức thấp, tiếp thu chậm nên chất lượng đầu vào hạn chế
hơn so với đối tượng khác, cụ thể như: năng lực tư duy hạn chế, thiếu linh hoạt, chủ
yếu tư duy trực quan máy móc, làm việc theo kinh nghiệm ít áp dụng khoa học trong
giải quyết các vấn đề, kém hiệu quả trong nhận thức tiếp thu những vấn đề lý luận
phức tạp, chưa biết cách khai thác vận dụng nội dung môn học. Các kỹ năng, kỹ xảo
thao tác thực hiện hoạt động học như ghi chép, đọc bút ký, tài liệu khi nghe, ghi nhớ,
tái hiện, bổ xung tri thức và tự kiểm tra đánh giá kết quả tự học chưa tốt, chủ yếu
học tập theo thói quen, tự do học theo ý thích làm cho HVDTTS gặp khó khăn nhiều
khơng dễ dàng triển khai hoạt động tự học một cách nhanh chóng và hợp lý dẫn đến
tâm trạng bi quan chán nản, tạo nên sức ì thiếu cố gắng vươn lên, học viên yếu kém
thường chuyển biến chậm, từ đó hạn chế đến việc phát huy những đức tính cần thiết
trong q trình học tập như: kiên trì, liên tục tập trung, tích cực chủ động... trong
thực hiện hoạt động tự học ở HVDTTS. Ở những khố đầu có đồng chí chỉ học hết
cấp hai phổ thơng; cá biệt có đồng chí nói tiếng Việt chưa thạo; một số khơng ít HV
đến trường vẫn mang theo thói quen và tập quán lạc hậu. Đó là những khó khăn
khơng nhỏ và là lực cản q trình tiếp thu lĩnh hội kiến thức ở bậc, đại học khó khăn
cho HTKNTH. Từ những khác biệt về trình độ, quá trình HTKNTH của HVDTTS ở
HVCTQS cũng bộc lộ những hạn chế hơn so với HV người Kinh.


Cùng chiều hướng phát triển đi lên nhưng HTKNTH ở HVDTTS thể hiện
tốc độ chậm chạp. Khả năng giải quyết mâu thuẫn cơ bản trong quá trình tự học:
mâu thuẫn giữa yêu cầu ngày càng cao của tri thức, kỹ năng, kỹ xảo với khả năng

chủ quan còn hạn chế của HV diễn ra khó khăn hơn và dài hơn. Mối quan hệ giữa
các thành tố của KNTH: nghe, ghi nhớ, chú ý, khái quát, tổng hợp, cảm xúc tình
cảm với hoạt động tự học thể hiện không rõ nét, cịn có tính bột phát và máy móc.
Dù đã có sự quan tâm, tác động tích cực của các lực lượng, các nhân tố khác
trong quá trình dạy học nhưng KNTH của HVDTTS chưa thực sự tương xứng với
yêu cầu phát triển ngày càng cao của quá trình dạy học ở HVCTQS. Điều đó đặt ra
những u cầu địi hỏi cả về phía HV và các lực lượng đào tạo phải nghiên cứu
một cách sâu sắc hơn về quá trình HTKNTH của HV người DTTS, phát huy cao
độ tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của người HV với những nội dung biện
pháp hợp lý nhằm HTKNTH của đối tượng này. Trên cơ sở đó nâng cao chất lượng
tự học, tự đào tạo của người HV trong quá trình giáo dục đào tạo ở HVCTQS.
1.3.2. Các kiểu(loại) kỹ năng tự học cần hình thành cho học viên dân tộc thiểu số
ở Học viện chính trị quân sự.
KNTH của HV nói chung của HVDTTS nói riêng rất đa dạng. Dựa vào đặc
điểm hoạt động tự học của HV và các giai đoạn để giải quyết một vấn đề đặt ra,
người ta có thể xét KNTH theo trình tự một cơng việc hoặc theo loại hình cơng
việc. Nếu xét theo loại hình cơng việc thì KNTH của HV bao gồm: kỹ năng lập kế
hoạch, kỹ năng đọc sách, kỹ năng giải quyết nhiệm vụ học tập, kỹ năng tự kiểm tra
và tự đánh giá. Nếu xét theo các khâu của một hoạt động thì KNTH bao gồm 3
nhóm: nhóm kỹ năng định hướng, nhóm kỹ năng thực hiện hoạt động tự học và
nhóm kỹ năng tự kiểm tra, tự đánh giá hoạt động tự học. Các kỹ năng tự học đan
xen lẫn nhau, vì vậy sự phân định trong nghiên cứu chỉ là tương đối. Với đề tài
nghiên cứu HTKNTH theo trình tự cơng việc tự học được HV tiến hành ngồi giờ
học chính khố cụ thể bao gồm các nhóm kỹ năng sau:


* Kỹ năng định hướng bao gồm:
+ Kỹ năng tiếp nhận và phát hiện vấn đề tự học: hệ thống những tri thức, kỹ
năng, kỹ xảo mà HV tiếp nhận là vô cùng phong phú, HV phải biết lựa chọn những
vấn đề để tự học. Đó là những vấn đề cần phải được làm rõ, cần mở rộng khắc sâu

trong từng đơn vị tri thức. Muốn phát hiện được “vấn đề” thì HV cần phải xác lập
được mối liên hệ giữa vốn tri thức đã có với tri thức mới, giữa những tri thức HV đã
nắm được với những tri thức HV cần tìm hiểu, giữa kiến thức trọng tâm cơ bản với
kiến thức nâng cao.v.v... Điều này có nghĩa là người học phải đặt ra và trả lời được
các câu hỏi “Vấn đề cần học là gì? Nó liên quan đến những tri thức nào đã
học?” ...Vấn đề có thể là một câu hỏi, một bài tập đặt ra mà HV phải giải quyết và
khi được giải quyết sẽ giúp họ mở rộng và hiểu sâu một đơn vị kiến thức nào đó.
Trong nhà trường việc tự học của HV luôn chịu sự tổ chức, điều khiển gián tiếp
của GV. Trong quá trình học tập ở trường, HV đã được GV giúp đỡ một số công việc
như: xác định nội dung tự học, hướng dẫn kiểm tra và giám sát thường xuyên để thúc
đẩy tự học của HV. Điều đó chứng tỏ yếu tố bên trong được sự hỗ trợ rất lớn từ yếu tố
bên ngồi từ phía GV trong quá trình dạy học.
Khi xác định được “vấn đề” để tự học, tức là HV đã biết lựa chọn nội dung
tự học. Như vậy, HV phải biết coi việc giải quyết các vấn đề đặt ra là một nhu cầu
của bản thân. Những tình huống do GV đưa ra chỉ trở thành “tình huống có vấn
đề” khi HV có nhu cầu tiếp nhận và biết cách giải quyết có hiệu quả những vấn đề
đặt ra. Trên cơ sở đó, HV từng bước phân tích vấn đề nhận thức theo đơn vị kiến
thức để có phương án giải quyết.
+ Kỹ năng lập kế hoạch tự học: khi phát hiện được vấn đề, muốn giải quyết
được nó trước hết HV phải có kỹ năng lập kế hoạch để thực hiện hoạt động. Hơn
nữa trong quá trình học tập HV đứng trước hàng loạt vấn đề cần giải quyết, từ những
vấn đề đặt ra và được tiếp nhận, từ thực tiễn hoạt động của cá nhân, HV kế hoạch
hoá hoạt động của mình thể hiện qua bản kế hoạch tự học. “Trong tự học phải rèn


×