Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Tiểu luận cao học, môn triết, tư tưởng nhập thế của nho gia tiền tần ảnh hưởng đối với đời sống việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (283.69 KB, 22 trang )

Lời mở ñầu

Triết học là bộ môn chung nhất, nghiên cứu về các sự vật và hiện tượng của
tự nhiên và xã hội, nhằm tìm ra các quy luật của các ñối tượng nghiên cứu.
Triết học ñã trải qua một quá trình phát triển lâu dài, ñặt nền móng từ cách
ñây hơn 2500 năm ở phương Đông và phương Tây tại một số trung tâm lớn như Hy
Lạp – La Mã cổ ñại, Ấn Độ cổ ñại, Trung Quốc cổ ñại.
Có thể nói triết học Trung quốc là nền triết học có truyền thống lịch sử lâu
ñời nhất, có ảnh hưởng sâu rộng ñến nền văn minh Châu Á cũng như toàn thế giới.
Thời kỳ cổ ñại Trung
Quốc có một nền văn hóa phát triển rực rỡ, ñặc biệt thời Đông Chu (hay còn
gọi là thời Xuân thu – Chiến quốc) là thời kỳ hình thành, phát triển các trường phái
triết học và ñược coi là thời kỳ “Bách gia chư tử”, “Bách gia minh tranh”. Thời kỳ
này nổi lên khoảng chín trường phái triết học chính, trong ñó Nho gia là một trường
phái triết học lớn, có nội dung phong phú, ñược hoàn thiện liên tục và là hệ tư tưởng
chính thống của giai cấp thống trị Trung Hoa suốt hơn hai ngàn năm của xã hội
phong kiến.
Nho gia ñược Khổng tử sáng lập bằng sự tài trí hơn người cùng khả năng
nhận thức sâu sắc. Sau ñó ñược Mạnh Tử phát triển. Với nhiều giá trị nhân bản sâu
sắc, ñến tận ngày nay, tư tưởng triết học Nho gia vẫn còn giá trị ảnh hưởng sâu rộng
ñến nền văn hóa tinh thần của Trung Quốc nói riêng và của nhiều quốc gia phương
Đông nói chung.
Chính vì thế, nhóm 8 ñã thực hiện ñề tài: “Tư tưởng nhập thế của Nho gia
tiền tần. Ảnh hưởng đối với đời sống Việt Nam” nhằm giới thiệu về nho gia cũng
như ñánh giá phân tích ảnh hưởng của nó ñến ñời sống Việt Nam
Trong quá trình thực hiện, do giới hạn về thời gian, nhóm không tránh khỏi
nhiều thiếu sót, rất mong nhận ñược góp ý của thầy cô và các bạn


.



Phần 1: Giới thiệu tổng quan về Nho gia
1.1.

Lịch sử hình thành và phát triển Nho gia

1.1.1. Sự ra ñời của Nho gia
Văn minh Trung Hoa với hơn 4000 năm phát triển, là một trong những cái
nôi của văn minh nhân loại. Bên cạnh những phát minh, phát kiến về khoa
học, văn minh Trung Hoa còn là nơi sản sinh ra nhiều học thuyết triết học
lớn có ảnh hưởng ñến nền văn minh Châu Á cũng như toàn thế giới.
Trong số các học thuyết triết học lớn ñó phải kể ñến trường phái triết học
Nho giáo. Có thể nói ñược rằng Nho giáo là một ñạo giáo có nhiều bộ mặt
nhất. Nho giaó ñã ñược khai thác về nhiều lãnh vực như: Luân lý, tín
ngưỡng, chính trị, gia ñình, xã hội, từ chương, khoa cử,
thuật số, tu dưỡng, ñạo ñức v.v...
Linh hồn của nho giáo là Nho gia. Sự ra ñời của Nho gia ñược hình thành
bắt ñầu từ thời Tây Chu. Chu Công Đán tên thực Chu Cơ Đán (ñược kính
trọng gọi là Chu Công) thực sự là người ñặt nền móng ñầu tiên cho Nho
học sau khi nhà Chu thống nhất ñất nước. Ông có
nhiều cống hiến trong việc ñịnh ra lễ nghi và nhạc trong triều ñình. Chế
ñộ lễ nhạc mà Chu Công soạn ra tương ñối hoàn chỉnh, giúp cho xã hội
ổn ñịnh trật tự và phát triển, và có ảnh hưởng sâu sắc ñến các triều ñại
sau này.
Sinh năm 551 TCN, lớn lên vào cuối thời Xuân thu (778 – 455 tr CN),
Khổng Tử chứng kiến cảnh xã hội suy ñồi, loạn lạc, chư hầu xâu xé nhau,
mưu bá ñồ vương. Ông cho rằng tình trạng rối ren ấy là do lễ nhạc nhà
Chu bị coi rẻ. Muốn duy trì ổn ñịnh xã hội thì phải duy trì ñược lễ nhạc.
Từ ñó, ông phát triển tư tưởng của Chu Công, hệ thống hóa và tích cực
truyền bá các tư tưởng ñó. Chính vì thế mà người ñời sau coi ông là người

sáng lập ra Nho gia.
Cũng giống như nhiều nhà tư tưởng khác trên thế giới như Thích Ca Mầu Ni,
Giê-xu... người
ñời sau không thể nắm bắt các tư tưởng của Khổng tử một cách trực tiếp
mà chỉ ñược biết các tư tưởng của ông bằng các ghi chép do các học trò
của ông ñể lại. Khó khăn nữa là thời kỳ "ñốt sách, chôn Nho" của nhà Tần
hai trăm năm sau khi Khổng Tử qua ñời khiến việc tìm hiểu tư tưởng gốc
của Khổng Tử càng khó khăn. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu ñời sau vẫn
cố gắng tìm hiểu và hệ thống các tư tưởng này. Xét cho cùng, Nho học là
công trình tập thể chứ không phải của riêng cá nhân nào, nhưng chắc chắn
không sai khi nói rằng Khổng tử là trung tâm của Nho học.


1.1.2. Phân kỳ lịch sử Nho gia
Nho giáo trải qua suốt 2500 năm hình thành và phát triển, có thể chia thành 3 giai
ñoạn:
Nho giáo nguyên thủy
Thời Xuân Thu, Khổng Tử ñã san ñịnh, hiệu ñính và giải thích bộ Lục
kinh gồm có Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu
và Kinh Nhạc. Về sau Kinh Nhạc bị thất lạc nên chỉ còn năm bộ kinh
thường ñược gọi là Ngũ kinh. Sau khi Khổng Tử mất, học trò của ông
tập hợp các lời dạy ñể soạn ra cuốn Luận ngữ. Học trò xuất sắc nhất của
Khổng
Tử là Tăng Sâm, còn gọi là Tăng Tử, dựa vào lời thầy mà soạn ra sách Đại học.
Sau ñó,
cháu
nội của Khổng Tử là Khổng Cấp, còn gọi là Tử Tư viết ra cuốn Trung
Dung. Đến thời Chiến Quốc, Mạnh Tử ñưa ra các tư tưởng mà sau này
học trò của ông chép thành sách Mạnh Tử. Từ Khổng Tử ñến Mạnh Tử
hình thành nên Nho gia nguyên thủy, còn gọi là Nho gia tiền Tần, Khổng

giáo hay "tư tưởng Khổng-Mạnh".
Hán Nho
Đến ñời Hán, Hán Vũ Đế ñưa Nho giáo lên hàng quốc giáo và dùng nó
làm công cụ thống nhất ñất nước về tư tưởng. Và từ ñây, Nho gia trở
thành hệ tư tưởng chính thống bảo vệ chế ñộ phong kiến Trung Hoa
trong suốt hai ngàn năm. Nho gia thời kỳ này ñược gọi là Hán Nho.
Điểm khác biệt so với Nho gia nguyên thủy là Hán Nho ñề cao quyền
lực của giai cấp thống trị, Thiên Tử là con trời, dùng "lễ trị" ñể che ñậy
"pháp trị".
Tống Nho
Đến ñời Tống, Đại Học, Trung Dung ñược tách ra khỏi Lễ Ký và cùng với
Luận ngữ và Mạnh Tử tạo nên bộ Tứ Thư. Lúc ñó, Tứ Thư và Ngũ Kinh là
sách gối ñầu giường của các nhà Nho. Nho gia thời kỳ nay ñược gọi là
Tống nho, Phương Tây gọi là "Tân Khổng giáo”. Điểm khác biệt của
Tống nho với Nho gia trước ñó là việc bổ sung các yếu tố "tâm linh" (lấy
từ Phật giáo) và các yếu tố "siêu hình" (lấy từ Đạo giáo) phục vụ cho việc
ñào tạo quan lại và cai trị.
Trong giới hạn của phạm vi ñề tài này, nhóm thuyết trình chỉ nghiên cứu
về nho gia tiền Tần, nghĩa là Nho gia nguyên thủy.
1.1.3. Nguồn gốc ảnh hưởng ñến tư tưởng của Nho gia
Nho gia nói chung và Nho gia nguyên thủy nói riêng chứa ñựng rất nhiều
ñiểm mâu thuẫn về nguyên tắc. Việc tìm ra các ñặc ñiểm của Nho gia ñể


giải thích các mâu thuẫn ñó yêu cầu phải nghiên cứu về quá trình hình
thành Nho gia, tức là tìm về nguồn gốc ảnh hưởng ñến sự hình thành của
Nho gia. Nho gia là sản phẩm của hai nền văn hóa: văn hóa du mục
phương Bắc và văn hóa nông nghiệp phương Nam. Chính vì thế nó mang
ñặc ñiểm của hai loại hình văn hóa này.
Tính du mục phương Bắc

• Tính "quốc tế" là một trong những ñặc tính khác biệt của văn hóa du
mục so với văn hóa nông nghiệp. Tính quốc tế trong Nho gia thể hiện ở
mục tiêu cao nhất của người quân tử là "bình thiên hạ".
• Tính "phi dân chủ" và hệ quả của nó là tư tưởng "bá quyền", coi
khinh các dân tộc khác. Tính phi dân chủ còn ñược thể hiện ở chỗ coi
thường người dân, ñặc biệt là phụ nữ.
• Tính "trọng sức mạnh" ñược thể hiện ở chữ "Dũng", một trong ba ñức
mà người quân tử phải có (Nhân - Trí - Dũng). Tuy nhiên ông cũng nhận
ra ñiều nguy hiểm: "Kẻ nào có dũng mà ghét cảnh bần hàn tất làm loạn".
• Tính "nguyên tắc" ñược thể hiện ở học thuyết "chính danh". Tất cả phải
có tôn ti, tất cả phải làm việc theo ñúng bổn phận của mình.

4
|
P
ag
e


Tính nông nghiệp phương Nam
• Tính "hài hòa" là một ñặc tính của văn hóa nông nghiệp, trái ngược với tính trọng sức mạnh
của văn hóa du mục. Biểu hiện cho tính hài hòa là việc ñề cao chữ "Nhân" và nguyên lý
"Nhân trị". • Tính "dân chủ" là ñặc tính khác biệt với văn hóa du mục. Khổng Tử nói: "Dân
là chủ của thần, vì thế thánh nhân xưa lo cho việc dân rồi mới lo việc thần". Tính dân chủ còn
ñược thể hiện ở cách cư xử "trung dung" trong "ngũ luân". Trong các quan hệ ñó, ñều thể
hiện tính hai chiều, bình ñẳng: Vua sáng, tôi trung; cha hiền, con hiếu; anh tốt, em nhường;
bạn bè tin cậy.
• Tính”trọng văn”, coi trọng văn hóa tinh thần (thi, thư, lễ, nhạc) thể hiện nhiều trong Kinh
Thi. Tính "trọng văn" cũng ngược lại với tính "trọng võ" của văn hóa du mục.
1.2.


Nội dung của Nho gia

1.2.1. Tư tưởng cơ bản của Nho gia
Nội dung cơ bản của Nho gia thể ñược tóm tắt như sau :
a - Về luân lý:
Nho gia ñưa ra những nguyên tắc căn bản giúp cho cá nhân, gia ñình, xã hội, quốc gia và cả
nhân loại sống trong vòng trật tự và lẽ phải.
Luân có 5 ñiều gọi là Ngũ luân ñó là mối quan hệ xã hội, gia ñình: Vua- Tôi, Cha- Con,
Chồng- Vợ).Thường có 5 ñiều, ñó là : Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.
b - Về hành ñộng
Nho gia chủ trương “ Nhập thế hành ñạo” nghĩa là phải giúp ñời, giúp nước( trái với “ vô tri”
của Lão giáo)
c - Về tín ngưỡng
Nho gia tin mệnh trời “ Ngũ thập tri thiên mệnh” (50 tuổi biết ñược mệnh trời), trời có quyền
ñịnh ñoạt số phận con người. Nho gia tin vào lẽ biến dịch tuần hoàn của trời ñất trong vũ trụ
như hết ngày lại ñến ñêm, hết nắng lại mưa, thu mãn, ñông sang ñể rồi suy luận rằng cuộc
ñời có lúc hưng, phế, có lúc thịnh suy, có bi cực có thái lai.
1.2.2. Các bộ sách kinh ñiển
Các sách kinh ñiển của Nho gia ñều hình thành từ thời kỳ Nho gia nguyên thủy. Sách kinh
ñiển gồm hai bộ: Ngũ Kinh và Tứ Thư. Hệ thống kinh ñiển ñó hầu hết viết về xã hội, về
những kinh nghiệm lịch sử Trung Hoa, ít viết về tự nhiên. Điều này cho thấy rõ xu hướng
biện luận về xã hội, về chính trị, về ñạo ñức là những tư tưởng cốt lõi của Nho gia.
Ngũ kinh
Kinh Thi: Sưu tập các bài thơ dân gian có từ trước Khổng Tử, nói nhiều về tình yêu nam nữ, 5
|
nhằm giáo dục mọi người tình cảm trong sáng lành mạnh
P
ag
e



Kinh Thư: Ghi lại các truyền thuyết, biến cố về các ñời vua cổ có trước Khổng Tử. Khổng
Tử san ñịnh lại ñể các ông vua ñời sau nên theo gương các minh quân như Nghiêu, Thuấn
chứ ñừng tàn bạo như Kiệt, Trụ.
Kinh Lễ: Ghi chép các lễ nghi thời trước, dùng làm phương tiện ñể duy trì và ổn ñịnh trật tự.
Kinh Dịch: Nói về các tư tưởng triết học của người Trung Hoa cổ ñại dựa trên các khái niệm
âm dương, bát quái...
Kinh Xuân Thu: Ghi lại các biến cố xảy ra ở nước Lỗ, quê của Khổng Tử. Khổng Tử không
chỉ ghi chép như một sử gia mà theo ñuổi mục ñích trị nước nên ông chọn lọc các sự kiện,
ghi kèm các lời bình, sáng tác thêm lời thoại ñể giáo dục các bậc vua chúa.
Kinh Nhạc: Do Khổng tử hiệu ñính nhưng về sau bị thất lạc, chỉ còn lại một ít làm thành một
thiên trong Kinh Lễ gọi là Nhạc ký. Như vậy lục kinh chỉ còn lại ngũ kinh.
Tứ thư
Luận Ngữ: Ghi lại lời dạy của Khổng Tử do học trò của ông ghi chép lại sau khi ông mất
Đại Học: Dạy phép làm người ñể trở thành bậc quân tử. Sách này do Tăng Sâm, còn gọi là
Tăng Tử, học trò xuất sắc nhất của Khổng Tử, dựa trên lời dạy của ông soạn ra.
Trung Dung: Dạy người ta cách sống dung hòa, không thiên lệch. Sách này do người cháu
nội của Khổng Tử là Khổng Cấp, học trò của Tăng Tử, còn gọi là Tử Tư soạn ra.
Mạnh Tử: Ghi lại lời dạy của Mạnh Tử. Mạnh Tử tên thật là Mạnh Kha, là người tiêu biểu
nhất sau Khổng Tử, thuộc dòng Tử Tư, phát triển tư tưởng của Khổng Tử ở thời Chiến Quốc
(390-305 trước công nguyên).
1.2.3. Thành công – hạn chế của Nho gia tiền Tần
Việc ñồng thời dựa vào hai nền văn hóa ñối lập nhau, ñó là văn hóa du mục và văn hóa nông
nghiệp trong một hoàn cảnh xã hội ñầy biến ñộng như thời Xuân Thu khiến cho tư tưởng của
Nho gia không tránh khỏi các giằng co dẫn ñến sự mâu thuẫn trong nội tại:
• Mâu thuẫn ñầu tiên là mâu thuẫn về thái ñộ ñối với người dân. Văn hóa du mục trọng sức
mạnh, trọng người quân tử, lấy người quân tử ñể ñối lập với kẻ tiểu nhân - người dân thường.
Trong khi văn hóa nông nghiệp lại coi trọng dân, lấy dân làm chủ, "dân là chủ của thần".
• Mâu thuẫn tiếp theo là mâu thuẫn giữa "lễ trị" (pháp trị) của văn hóa du mục với "nhân trị"

của văn hóa nông nghiệp. Khổng Tử nói nhiều ñến "lễ trị", ông vận ñộng các nước chư hầu
duy trì cái "lễ" của nhà Tây Chu. Nhưng dần dần, Khổng Tử chuyển từ "lễ" sang "nhân",
nhập "nhân" vào với "lễ" và còn ñi xa hơn, coi "nhân" làm gốc của lễ nhạc.
Chính sự mâu thuẫn nội tại trong Nho gia nguyên thủy là nguyên nhân gây ra "tấn bi kịch"
lớn nhất của Nho gia: Nho gia mà Khổng Tử tốn bao công xây dựng vừa có thể nói là thất
bại, lại vừa có thể nói là thành công.
Thất bại: trong khi các bậc ñế vương phương Bắc với truyền thống "trọng võ", quen "pháp
trị" và chuyên chế bằng vũ lực thì Khổng Tử lại nên cao "trọng văn", dùng "nhân trị", thu

6
|
P
ag
e


phục bằng nhân tâm. Nên khi sinh thời, Khổng Tử muốn làm quan nhưng hầu như không
ñược ai dùng. Sau khi Khổng Tử chết, Tần Thủy Hoàng áp dụng chính sách cai trị bằng pháp
luật, ñộc ñoán hoàn toàn trái ngược với các chủ trương của Nho gia và dẫn ñến hành ñộng
"ñốt sách, chôn Nho" nổi tiếng.
Thành công : ñến thời Hán Vũ Đế, Nho giáo ñược ñưa lên ñịa vị quốc giáo. Nho gia trở
thành hệ tư tưởng chính thống bảo vệ chế ñộ phong kiến Trung Hoa trong suốt hai ngàn năm.
Không những thế, nó còn ñược truyền bá khắp phương Đông. Khổng Tử ñược tôn lên bậc
thánh, trên thế giới tên tuổi của ông ñược lưu truyền hậu thế.
Tuy nhiên sự thành công ñó không phải là ñiều mà Khổng Tử trông ñợi bởi vì thực chất Nho
gia mà Khổng Tử tạo ra hoàn toàn thất bại mà thay vào ñó, cũng cái tên Nho gia ñó nhưng
với nội dung khác hẳn ñã ñược ñề cao. Nói chính xác hơn, hầu hết các ñặc ñiểm nông nghiệp
trong Nho gia nguyên thủy bị loại bỏ và bị thay thể bằng các ñặc ñiểm du mục trong Hán nho và Tống
nho.


7
|
P
ag
e


Phần 2: Tư tưởng nhập thế trong Nho gia tiền Tần:
Tư tưởng nhập thế của Nho gia tiền Tần ñược khái quát về ñạo làm người quân tử, cách thức
trở thành người quân tử,cách cai trị ñất nước bằng ñức trị và thực hành chính danh ñể xây
dựng một xã hội ñại ñồng. Tập trung vào con người, xây dựng con người và ñường lối trị
nước -> học thuyết chính trị -xã hội, ñạo ñức
Quan ñiểm nhập thế của Nho gia có thể tóm lược là xây dựng mẫu người quân tử. muốn trở
thành người quân tử. muốn trở thành người quân tử thì sau khi tu thân phải biết tề gia trị
quốc bình thiên hạ. muốn hành ñộng hiệu quả người quân tử phải thực hành ñường lối nhân
trị và chính danh. Có như vậy thì người quân tử tức giai cấp cai trị mới xây dựng ñược một
xã hội ñại ñồng.
Để hiểu về tư tưởng nhập thế chúng ta phải hiểu các nội dung và ñặc ñiểm của Nho gia về
các thuyết và quan ñiểm chính: thuyết chính danh, thuyết thiên mệnh,ngũ luân, ngũ
thường.
Thuyết chính danh: Chính danh là mỗi sự vật phải ñược gọi ñúng tên của nó, mỗi người
phải làm ñúng chức phận của mình. "Danh không chính thì lời không thuận, lời không thuận
tất việc không thành" (sách Luận ngữ)
Ngũ luân: Nho gia nguyên thuỷ cho rằng nền tảng xã hội, cơ sở gia ñình không phải là
những quan hệ kinh tế xã hội mà là những quan hệ ñạo ñức chính trị. Trong tư tưởng ngũ
luân của Đức Khổng Tử thì có năm mối quan hệ ñó là vua- tôi, cha-con, vợ-chồng,anhem,bạn –bè. Trong 5 quan hệ ñó thì có 3 quan hệ quan trọng nhất là vua-tôi, cha-con, chồngvợ thì trong tư tưởng tam cương cho rằng bề trên của các quan hệ này là vua, cha, chồng
(phản ảnh quan hệ tôn ti, trên dưới) và bề trên là giường cột, chỗ dựa trong quan hệ ñó do
vậy tôi phải phục tùng vua, con phục tùng cha, vợ phục tùng chồng. do vậy sau này ñến thời
nhà Hán Đổng Trọng Thư mới ñưa ra thuyết tam cương cực kì hà khắc (quân xử thần tử,
thần bất tử bất trung.phụ xử tử vong,tử bất vong bất hiếu) rất dễ dẫn tới ngu trung, ngu

hiếu.chúng ta ñang nghiên cứu về Nho gia nguyên thuỷ do ñó những tư tưởng phản ñộng này
là ở ñời sau nên cần lưu ý kẻo nhầm lẫn. Như vậy chúng ta xét thấy rằng tinh thần về các
quan hệ ñạo ñức chính trị Nho gia tiền Tần mang tính nhân văn hơn nhiều so với ñời sau này.
Xã hội thời Xuân thu-chiến quốc loạn lạc, luân thường ñạo lí suy ñồi,kỉ cương phép nước
lỏng lẻo là do ba quan hệ này rối loạn, do danh-thực oán trách nhau nghĩa là vua chẳng ra
vua tôi chẳng ra tôi con chẳng ra con….Vì vậy muốn cải loạn thành trị, muốn thực hiện xã
hội ñại ñồng thì phải chấn chính lại 3 quan hệ ñó, Nho gia nguyên thuỷ lấy giáo dục ñạo ñức
làm cứu cánh.
Thuyết thiên mệnh: Khổng Tử cho rằng vạn vật không ngừng biến hoá theo một trật tự
không gì cưỡng lại ñược. Mà nền tảng cuối cùng của trật tự ñó là thiên mệnh. Còn sự hiểu
biết ñược thiên mệnh là ñiều kiện tiên quyết ñể trở thành con người hoàn thiện. vì thế Khổng
Tử chủ trương tìm kiếm sự thống nhất giữa trời,ñất và con người trên bình diện ñạo ñức
chính trị- xã hội (chủ trương nhập thế)

8
|
P
ag
e


Dựa trên thuyết thiên mệnh: Khổng Tử cho rằng: Thiên mệnh chi vị tính, suất chi vị ñạo,
tu ñạo chi vị giáo và tính tương cận, tập tương viễn. có nghĩa là: con người có tính người,
tính người do trời phú, sự phú cái tính ấy là ñồng ñều ở mỗi con người (ñây là một nhược
ñiểm chúng ta sẽ khai thác ở phần 3 khi bàn về ảnh hưởng tiêu cực). Nhưng trong cuộc sống,
do ñiều kiện hoàn cảnh môi trường khác nhau, và do những tập quán tập tục không giống
nhau mà người này khác xa người kia. Như vậy nó làm biến tính ở mỗi con người, làm cho
con người không giữ ñược tính trời cho và trở nên vô ñạo. Rồi cả nước cả thiên hạ vô ñạo.
Vì vậy, muốn giữ ñược tính cho con người phải lập ñạo, nghĩa là phải làm(giáo dục ) cho cả
nước cả thiên hạ hữu ñạo( tư tưởng nhập thế ñề cao giáo dục con người)

Đạo phải có giáo mới sâu sắc, vững chắc và rộng khắp. còn mục ñích của giáo là làm cho
mọi người mọi nhà và thiên hạ hữu ñạo, hữu ñạo là thể hiện ñược mối quan hệ giữa người
với người, người với trời ñất một cách ñúng ñắn phù hợp với thiên mệnh. Khổng Tử cho rằng
nếu lập ñạo của trời nói về âm và dương, ñạo của ñất nói về cương và nhu thì ñạo về người
phải nói về nhân nghĩa chúng ta ñề cập ñến nhân, nghĩa, lễ, trí trong phần tiếp theo.
Ngũ thường (nhân, lễ, nghĩa, trí, tín) thực ra Nho gia tiền Tần, Khổng Tử chú trọng ñến
Tam ñức (Nhân, trí, dũng) thì Mạnh Tử bỏ dũng và thay vào ñó lễ và nghĩa. Còn tín sau này
Đổng Trọng Thư mới thêm vào
Nhân: Nhân ñược coi là nguyên lí ñạo ñức cơ bản quy ñịnh bản tính của con người, chi phối
mọi quan hệ giữa người trong xã hội, nó ñược hiểu rất rộng. Khổng Tử cho rằng nhân là lòng
thương người, còn Mạnh Tử cho rằng nhân là lòng trắc ẩn. Nói chung, nhân là cách ñối xử
của con người với con người. Muốn thực hiện ñạo làm người, tức muốn thực hiện ñức nhân
cần phải: Điều gì mình không muốn thĩ cũng ñừng áp dụng cho người khác, mình muốn lập
thân cũng phải giúp người khác lập thân.. Người có ñức nhân thì bên ngoài xã hội luôn khoan
hoà,cung kính,tín nhiệm, nhạy bén, rộng rãi bên trong gia ñình thì luôn hiếu thảo, nhường
nhịn.
Quan niệm về nhân của Khổng Tử có nội dung giai cấp rõ rang, ông cho rằng chỉ có người
quân tử, tức kẻ cai trị mới có ñược ñức nhân, còn người tiểu nhân, tức nhân dân lao ñộng thì
không có ñược ñức nhân. Nghĩa là ñạo nhân chỉ là ñạo của người quân tử , của giai cấp thống
trị.
Nghĩa:theo Nho gia nếu nhân là lòng thương người, ñức nhân dung ñể ñối xử giữa người với
người và tạo ra người thì nghĩa là dạ thuỷ chung,nghĩa dùng ñể ñối xử với chính mình và tạo
ra ta. Đức nhân thể hiện trong quan hệ với người khác còn ñức nghĩa thể hiện trong quan hệ
vói chính mình, khi tự vấn lương tâm mình về những ñiều mình nên nói mình nên làm. Khi
nói một ñiều gí ñó hay làm một việc gì ñó ta cảm thấy thoải mái thảnh thơi hứng thú trong
lương tâm thì ta nói là ñiều nghĩa làm việc nghĩa. Vậy nghĩa ñược hiểu là những gì hợp ñạo lí
mà con người phải làm, bất kể ñiều ñó có ñem lại cho người thực hiện nó lợi ích gì hay
không. Khổng Tử cho rằng, con người muốn sống tốt phải biết lấy nghĩa ñể ñáp lại lợi chứ 9
|
không nên lấy lợi ñáp lại lợi, vì lấy lợi ñáp lại lợi sẽ sinh ra oán trách.

P
ag
e


Song, do hạn chế bởi lập trường giai cấp mà Khổng Tử cho rằng bậc quân tử tinh tường về
việc nghĩa, tiểu nhân rành rẽ về việc lợi. như vậy tiểu nhân và quân tử là hai loại người ñối
lập nhau không phải chủ yếu về ñịa vị xã hội mà chủ yếu về phẩm chất ñạo ñức.
Lễ: ñể ñược nhân, ñể lập lại trật tự, khôi phục lại kỉ cương cho xã hội, Khổng Tử chủ trương
phải dùng lễ, ñặc biệt lễ của nhà Chu. Vì lễ có thể: xác ñịnh ñược vị trí vai trò của từng
người, phân ñịnh trật tự kỉ cương trong gia ñình và bên ngoài xã hội, loại trừ những tật xấu
và tạo ra những phẩm chất mà xã hội ñòi hỏi. Do nhận thấy tác dụng của lễ mà Khổng Tử ñã
ra sức san ñịnh lại lễ, ở Khổng Tử trước hết lễ là lễ giáo phong kiến như những phong tục tạp
quán những quy tắc, quy ñịnh về trật tự xã hội, thể chế trật tự xã hội. sau ñó lễ ñược hiểu như
là luân lí ñạo ñức như ý thức thái ñọ hành vi ứng xử, nếp sống của con người trong xã hội
trước lễ nghi, trật tự kỉ cương phong kiến. Nhân và lễ có quan hệ rất mật thiết, nhân là nội
dung bên trong còn lễ là hình thức biểu hiện nhân ra bên ngoài. Vì vậy ông khuyên chớ xem
ñiều trái lề, chớ nghe ñiều trái lễ, chớ nói, chớ làm…
Trí: tức là sự sáng suốt nhận ñịnh thấu ñáo mọi vấn ñề, hiểu ñạo trời ñạo người biết sống hoà
hợp với nhau. Tín tức là lòng dạ ngay thẳng, lời nói và việ làm nhất trí với nhau. Do vậy do
có trí mà người quân tử không nhầm lẫn, do có nhân mà người quân tử không buồn phiền, do
có dũng nên người quân tử không kinh sợ.
Kết luận:Như vậy Nho gia tiền Tần coi chuẩn mực ñạo ñức là tiêu chuẩn của người quân tử
và muốn trở thành người quân tử cần phải tu thân, ñể tu thân cần phải ñạt ñạo, con ñường
phải theo, quan hệ mà con người phải biết ứng xử trong cuộc sống mà trước hết là ñạo quânthần,phụ-tử,phu-phụ cần phải ñạt ñức-phẩm chất tốt ñẹp của con người cần phải thể hiện
trong cuộc sống và phải biết thi,thư, lễ,nhạc
Nho gia nguyên thuỷ khao khát cải biến xã hội thời Xuân thu-Chiến quóc từ loạn thành trị là
khao khát thầm kín của cả thiên hạ thời bấy giờ. Tinh thần nhập thế mang tính nhân văn sâu
sắc. ñòi hỏi của Nho gia tiền Tần về người cai trị- người quân tử không thể thiếu là một
người phải có vốn văn hoá toàn diện là một ñòi hỏi chính ñáng. Nhưng chủ trương xây dựng

xã hội ñại ñồng dựa trên quan ñiểm của Nho gia không dựa trên quan hệ kinh tế xã hội,
không xuất phát từ việc xây dựng nền sản xuất vật chất, không dựa vào quần chúng nhân dân
bị trị, tức bọn tiểu nhân mà chỉ dụa trên các quan hệ ñạo ñức chính trị xã hôi,xuất phát từ việc
giáo dục,rèn luyện nhân cách cá nhân cho giai cấp thống trị và chỉ dựa vào tầng lớp thống trị
và chỉ duy nhất dựa vào tầng lớp thống trị là một chủ trương ảo tưởng, duy tâm xa rời thực
tế cuộc sống thời bấy giờ.

1
0
|
P
ag
e


Phần 3: ẢNH HƯỞNG CỦA TRIẾT HỌC NHO GIA VÀO XÃ HỘI VIỆT NAM
3.1.

Quá trình du nhập của Triết học Nho gia vào Việt Nam:

- Tiếp thu một học thuyết từ bên ngoài ñể làm lý luận hướng dẫn tư duy và hành ñộng
cho dân tộc mình là một chân lý khá phổ biến, là một sự thực khách quan của các thời
ñại, của các dân tộc.
- Trong ý thức hệ phong kiến người Hán ñưa vào nước ta từ thời kì Bắc thuộc, Nho gia
là lâu bền nhất và có ảnh hưởng sâu săc nhất. Phật giáo dần rút lui vào chùa chiền. Tư
tưởng trị trong lĩnh vực chính trị và học thuật suốt 2000 năm là tư tưởng Nho gia. Có
nhiều nguyên nhân, trong ñó có 1 nguyên nhân vô cùng quan trọng là sức sống của
dân tộc. Trong hoàn cảnh thời trước, nhất là từ khi giành ñược nền tự chủ dân tộc,
Việt Nam muốn tồn tại thì phải chọn lấy một ý thức hệ tích cực, quan tâm ñến con
người ñến cuộc ñời, ñến xã hội, ñến vận mệnh dân tộc. Nho gia có nhiều hạn chế

nhưng trong 3 ý thức hệ phong kiến thì phải nói Nho gia có nhiều nhân tố tischc ực
nhất. Do ñó ông cha ta ñã chọn lấy Nho gia.
- Chúng ta ñã biết, lúc ñầu Nho gia ñược ñưa vào Việt Nam trong trường hợp là nước
ta bị xâm lược. Nho gia bị bọn xâm lược ñặt lên nhân dân ta với ý ñịnh gây cảnh
“ñồng văn” ñể “ñồng hóa”. Nhưng khi ñã làm quen với ñạo Nho, chắc rằng nhân dân
ta thời ñó thấy nó ñáp ứng ñược nhiều vấn ñề mà ñời sông ñặt ra, nên khi giành ñược
ñộc lập, nhân dân ta lấy nó làm nền tảng lý luận ñể chỉ ñạo tư duy và hành ñộng của
mình. Thé là từ chỗ bị ép học nó, nhân dân ta ñã tự nguyện học nó và ngày một phổ
biến nó một cách rộng rãi. Nho gia vào Việt Nam từ thế kỷ I TCN; khi ở Trung Quốc nhà
Tây Hán ñã ñánh bại tập ñoàn phong kiến họ Triệu và giành lấy quyền thống trị ñất Giao
Châu. Nhưng, trong suốt một ngàn năm Bắc thuộc, ảnh hưởng của Nho gia ở Việt Nam còn
rất hạn chế. Đa phần sự ảnh hưởng ñó chỉ có ở các ñô thị, gắn liền với sinh hoạt của những
viên quan cai trị và một bộ phận những người bản xứ giúp việc cho những quan cai trị ñó. Có
thể nói, ở Việt Nam lúc bấy giờ, Nho gia là công cụ thống trị của chính quyền ñô hộ và phục
vụ cho chính quyền ñô hộ. Mặt khác, sự truyền bá Nho gia cùng với việc phổ biến chữ Hán
ñã ñưa tới Việt Nam một kho tàng tri thức về xã hội và tự nhiên, ñó là nền văn học, sử học,
triết học, thiên văn học và y học của người Trung Hoa cổ ñại. Lúc ñó, ảnh hưởng của Nho gia
chưa vượt khỏi phạm vi của các thị trấn ñể ñến với các vùng dân cư rộng lớn của ñồng bằng
và trung du Bắc bộ và Bắc Trung bộ. Nhân dân ở các làng xã chưa thực sự tiếp thu những
nguyên tắc của Nho gia.

- Có thể chia quá trình du nhập ñó thành 3 giai ñoạn:
+ Giai ñoạn thứ nhất: khoảng thế kỷ II TCN ñến thế kỷ I SCN
+ Giai ñoạn thứ hai, khoảng từ thế kỷ II ñến thế kỷ V

1
1
|
P
ag

e


+ Giai ñoạn thứ ba, từ thế kỷ VI ñến thế kỷ IX
Ví dụ:

Giai ñoạn 1: ở thế kỷ I có Trương Trọng (người Giao Chỉ) cử làm Thái thú quận
Kim Thành (Trung Quốc). Ở thế kỷ II có Lý Tiến (người Giao Chỉ),Thái thú
quận Linh Lăng (Trung Quốc) và ñến khoảng năm 184-189 ñược cử giữ chức
Thứ sử Giao Châu.
Giai ñoạn 2: Sĩ Nhiếp ñược cử làm Thái thú Giao Chỉ. Sĩ Nhiếp ñã cho mở
trường dạy chữ Hán và Triết học Nho gia Kể từ giai ñoạn này, việc học Nho ở
nước ta mới tương ñối phổ biến. Sĩ Nhiếp vì thế ñược người Giao Châu tôn là
“Nam Giao học tổ”. Sự truyền bá Triết học Nho gia thời kỳ này chủ yếu ở mặt
lễ nghĩa và giáo dục
Giai ñoạn 3: Nhà Đường mở khoa thi Nho học và cho phép sĩ tử người Việt
tham gia dự thi, Thế kỷ VII có hai anh em Khương Công Phụ và Khương Công
Phục, người quận Cửu Chân ñều ñỗ Tiến sĩ, và ñược bổ làm quan to ở Trung
Quốc.
3.2.

Quá trình phát triển Triết học Nho gia ở Việt Nam:

- Sau chiến thắng Bạch Đằng vĩ ñại của Ngô Quyền, khi dân tộc Việt Nam bước sang kỷ
nguyên ñộc lập, tự chủ và thực sự bắt tay vào xây dựng nền văn minh Đại Việt trong khuôn
khổ của một nhà nước phong kiến quân chủ tập quyền, thì xã hội Việt Nam lúc này mới ñặt
ra những yêu cầu ñối với sự tồn tại và phát triển của Nho gia ở Việt Nam.
Trước hết là về yêu cầu xây dựng và tổ chức bộ máy nhà nước phong kiến trung ương tập
quyền lớn mạnh, yêu cầu củng cố trật tự ñã bước ñầu ổn ñịnh của một xã hội phong kiến và
thực hiện thống nhất ñất nước. Bởi vì, xã hội có ổn ñịnh, ñất nước có thống nhất thì mới có

ñiều kiện phát triển kinh tế và văn hóa. Trong hoàn cảnh vừa giành ñược ñộc lập và muốn
giữ vững nền ñộc lập ấy, Việt Nam lúc ñó rất cần phải có một nhà nước phong kiến tập
quyền lớn mạnh ñể thực hiện sự thống nhất quốc gia, tiến hành xây ñắp các công trình thủy
lợi và nhất là, ñể ñộng viên, tổ chức và chỉ ñạo những cuộc chiến tranh giữ nước khi có nạn
ngoại xâm. Vì quyền lực của nhà nước ñó nằm trong tay nhà vua, nên chữ “trung” của Nho
gia cần ñược tiếp thu ñể củng cố quyền lực của nhà vua. Ngay từ thời Lý – Trần, trung với
vua không tách rời trung với nước, vì ñó là những ông vua thực sự ñiều hành cuộc chiến
tranh giữ nước của dân tộc Việt Nam ñi ñến thắng lợi. Ở Việt Nam, “trung” thường gắn với
“nghĩa” nhằm ñề cao trách nhiệm của con người ñối với Tổ quốc, quê hương, làng xóm.
Cũng chính vì thế, trong Hịch tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn thường gắn “trung” với “nghĩa”.
Hơn nữa, nếu nhà nước phong kiến tập quyền muốn trở nên hùng mạnh thì phải quan tâm
ñến con người, ñến nhân dân và do ñó, “nghĩa” không tách rời “nhân”. Ngọn cờ nhân nghĩa
là ñể “yên dân”, ñể giải phóng nhân dân khỏi áp bức của quân xâm lược.

1
2
|
P
ag
e


Năm 1070, dưới thời Lý Thánh Tông (1054-1072), triều ñình cho xây miếu thờ
Khổng Tử, tức Văn miếu, bên cạnh ñó là Quốc tử giám, nơi các hoàng thái tử
ñến học tập.
Năm 1075, dưới thời vua Lý Nhân Tông (1072-1128) triều ñình cho mở khoa
thi Minh kinh bác sĩ và thi Nho học tam trường. Tuy nhiên, bộ mặt văn hóa Việt
Nam thời Lý - Trần là văn hóa Phật giáo.
Sang thời Lê Thánh Tông (1460-1497) Triết học Nho gia ñược phát triển và
cũng từ ñó về sau, Triết học Nho gia thâm nhập vào xã hội Việt Nam ngày càng

sâu ñậm trên nhiều lĩnh vực tư tưởng, thơ văn, phong tục, tập quán… qua hệ
thống giáo dục, pháp luật, chính quyền, trong ñó mọi phép tắc ñạo ñức buộc con
người phải tuân theo là ñạo ñức Nho gia, mà cái xương sống của nó là thuyết
"Tam cương" vua tôi, cha con, chồng vợ, cùng các tín ñiều trung hiếu... Nhưng
về ñời sống tín ngưỡng tôn giáo của quần chúng nhân dân thì ñạo Phật vẫn ñóng
vai trò chính yếu dẫn dắt ñức tin cho mọi người
Cho ñến ñầu thế kỷ 20 này, năm 1919 khoa cử Nho học bị bãi bỏ, nhưng giáo dục Nho
học ở làng quê xứ Bắc và Trung còn kéo dài ñến ñầu thập kỷ 40. Như vậy, trong thời
Lê Nguyễn liên tục gần 600 năm Nho học - Triết học Nho gia ñược thường xuyên tái
lập và trở thành một trong những yếu tố văn hóa truyền thống Việt Nam khá sâu ñậm.
3.3.

Ảnh hưởng của Tư tưởng nhập thế Nho gia ñến ñời sống xã hội VN

3.3.1. Giai ñoạn trước CMT8 (phong kiến):
3.3.1.1.

Về Chính trị:

Mặt tích cực:
Nho giáo vào Việt Nam từ thế kỷ I TCN; khi ở Trung Quốc nhà Tây Hán ñã ñánh bại tập
ñoàn phong kiến họ Triệu và giành lấy quyền thống trị ñất Giao Châu.Nhưng, trong suốt một
ngàn năm Bắc thuộc, ảnh hưởng của Nho giáo ở Việt Nam còn rất hạn chế. Đa phần sự ảnh
hưởng ñó chỉ có ở các ñô thị, gắn liền với sinh hoạt của những viên quan cai trị và một bộ
phận những người bản xứ giúp việc cho những quan cai trị ñó. Có thể nói, ở Việt Nam lúc
bấy giờ, Nho giáo là công cụ thống trị của chính quyền ñô hộ và phục vụ cho chính quyền ñô
hộ. Mặt khác, sự truyền bá Nho giáo cùng với việc phổ biến chữ Hán ñã ñưa tới Việt Nam
một kho tàng tri thức về xã hội và tự nhiên, ñó là nền văn học, sử học, triết học, thiên văn học
và y học của người Trung Hoa cổ ñại. Lúc ñó, ảnh hưởng của Nho giáo chưa vượt khỏi phạm
vi của các thị trấn ñể ñến với các vùng dân cư rộng lớn của ñồng bằng và trung du Bắc bộ và

Bắc Trung bộ. Nhân dân ở các làng xã chưa thực sự tiếp thu những nguyên tắc của Nho giáo.
Phải ñến thế kỷ X, sau chiến thắng Bạch Đằng vĩ ñại của Ngô Quyền, khi dân tộc Việt Nam
bước sang kỷ nguyên ñộc lập, tự chủ và thực sự bắt tay vào xây dựng nền văn minh Đại Việt
trong khuôn khổ của một nhà nước phong kiến quân chủ tập quyền, thì xã hội Việt Nam lúc
này mới ñặt ra những yêu cầu ñối với sự tồn tại và phát triển của Nho giáo ở Việt Nam.

1
3
|
P
ag
e


Trước hết là về yêu cầu xây dựng và tổ chức bộ máy nhà nước phong kiến trung ương tập
quyền lớn mạnh, yêu cầu củng cố trật tự ñã bước ñầu ổn ñịnh của một xã hội phong kiến và
thực hiện thống nhất ñất nước.Bởi vì, xã hội có ổn ñịnh, ñất nước có thống nhất thì mới có
ñiều kiện phát triển kinh tế và văn hóa. Trong hoàn cảnh vừa giành ñược ñộc lập và muốn
giữ vững nền ñộc lập ấy, Việt Nam lúc ñó rất cần phải có một nhà nước phong kiến tập
quyền lớn mạnh ñể thực hiện sự thống nhất quốc gia, tiến hành xây ñắp các công trình thủy
lợi và nhất là, ñể ñộng viên, tổ chức và chỉ ñạo những cuộc chiến tranh giữ nước khi có nạn
ngoại xâm. Vì quyền lực của nhà nước ñó nằm trong tay nhà vua, nên chữ “trung” của Nho
gia cần ñược tiếp thu ñể củng cố quyền lực của nhà vua. Ngay từ thời Lý – Trần, trung với
vua không tách rời trung với nước, vì ñó là những ông vua thực sự ñiều hành cuộc chiến
tranh giữ nước của dân tộc Việt Nam ñi ñến thắng lợi.Ở Việt Nam, “trung” thường gắn với
“nghĩa” nhằm ñề cao trách nhiệm của con người ñối với Tổ quốc, quê hương, làng xóm.
Cũng chính vì thế, trong Hịch tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn thường gắn “trung” với “nghĩa”.
Hơn nữa, nếu nhà nước phong kiến tập quyền muốn trở nên hùng mạnh thì phải quan tâm
ñến con người, ñến nhân dân và do ñó, “nghĩa” không tách rời “nhân”. Ngọn cờ nhân nghĩa
là ñể “yên dân”, ñể giải phóng nhân dân khỏi áp bức của quân xâm lược.

Từ quá trinh phát triển của Nho gia ta có thể thấy ñược sự ảnh hưởng của nó lên ñời sống của
Việt Nam. Về măt chính trị thì dân ta ñã vận dụng nền tảng tư tưởng cua Nho Gia ñể xây
dựng bộ máy phong kiến tập quyền lớn mạnh ñể thực hiện công cuộc xây dựng và bảo vệ ñộc
lập dân tộc. Chính những tư tưởng nho gia ñã hình thành nên hệ tư tưởng “trung”, “nghĩa”,
nhân” trong nhân dân và các tầng lớp nhà văn như Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi….
Mặt tiêu cực:
Phong kiến dựa vào nho giáo ñể cai trị với những thủ tục hà khắc trong quan hệ tam cương
ngũ thường.Theo nho giáo mọi người trong xã hội ñều bị trói buộc bởi năm mối quan hệ tự
nhiên.ñó là quan hệ cha con, vua tôi, vợ chồng, anh em, bạn bè. Năm mồi quan hệ này phản
ảnh hai mặt của cuộc sống hịên thực là quan hệ gia ñình và quan hệ xãhội.trong xã hội phong
kiến mỗi gia ñình ñược củng cố bằng chế ñộ tông pháp và chế ñộ gia trưởng, còn cácquan hệ
xã hội thì ñược duy trì bởi chế ñộ chính trị ñẳng cấp. ñi cầu với những mối quan hệ ñó là
những yêu cầu giao tiếp bắt buộc mà mỗi thành viên trong xã hội phải thực hiện. Tương ửng
với mối quan hệ ñó nho giáo ñặt ra những yêu cầu mang tính quy phạm ñạo ñức và ñượcpháp
luật ngầm bảo trợ.chính vì thê mà có những mối quan hệ trên nho giáo trở thành quá
cứng nhắc khô khan, khuân mẫu. Trong xã hội không có sự bình ñẳng với phụ nữ, có sự
phân bịêt giai cấp. Người phụ nữ trong xã hội phong kiến bị trói buộc vì tam tòng tứ ñức họ
không có quyền tự do quyết ñịnh cuộc sống của mình. Khi lớn lên lầy chồng thì cha mẹ ñặt
ñâu con ngồi ñấy. Khi lấy chồng thì phải nghe lời chông, phải làm tròn bổn phận của mình.
Thái ñộ chuộng ñức và ñề cao tu dưỡng của nho giáo một mặt làm cho con người ngoan
ngoãn chấp nhận quân quyền, phụ quyền,và nam quyền có tính áp bức.
1
4
Nho gia thể hiện tính nguyên tắc.Theo nho gíáo mỗi người phải có vị trí , nhiệm vụ của mình |
trong xã hội. nho giáo chiếm vị trí ñộctôn thì lễ chế của nó bất ñầu phát triển mạnh. Khi ñó
P
nó bắt ñầu ñè nặng lên con người và bóp nghẹt nếp sống giản dị, những quan hệ xã hội trong a g
e



sáng, những tình cảm tự nhiên và chân thực của con người bị xã hội phong kiến làm nó trở
nên phản ñộng, cổ hủ lạc hâu.
Do gắn liền với giai cấp phong kiến ñịa chủ trong nước, Triết học Nho gia lại trở thành công
cụ thống trị tư tưởng của giai cấp bóc lột ñối với nhân dân. Bởi vậy, ở Việt Nam, Triết
học Nho gia ñược ñộc tôn chưa ñầy một thế kỷ, xã hội ñã loạn lạc, các tập ñoàn phong kiến
nổi lên tranh quyền, ñoạt vị suốt ba thế kỷ tiếp ñó. Xung ñột Lê - Mạc chưa chấm dứt thì mâu
thuẫn Trịnh -Nguyễn ñã nảy sinh, vua quan tranh quyền ñoạt lợi, khiến người dân lâm vào bể
khổ lầm than. Niềm tin vào Triết học Nho gia, nhất là vào ñức trung quân của Triết
học Nho gia, ñã giảm dần. Nhưng trong thời gian này, các tập ñoàn phong kiến vẫn dùng
Triết học Nho gia làm vũ khí tư tưởng ñể trị nước.
3.3.1.2.

Về Kinh tế:

Mặt tích cực:
Trong thời kỳ phong kiến, Nho giáo ở Việt Nam ñã ñáp ứng ñược yêu cầu phát triển của
nền kinh tế tiểu nông gia trưởng. Dù là ruộng ñiền trang thái ấp của quý tộc, ruộng của ñịa
chủ, ruộng công của làng xã hay ruộng tư của người nông dân, tất cả ñều ñược canh tác trong
khuôn khổ của một nền sản xuất nhỏ, lấy gia ñình làm ñơn vị. Nhưng, gia ñình Việt Nam phổ
biến là những gia ñình nhỏ từ hai ñến ba thế hệ, rất ít khi có gia ñình lớn bốn, năm thế hệ như
ở Trung Quốc.Trong gia ñình nhỏ, quan hệ vợ chồng là cái trục chính. Người chồng, hay
người cha ở cương vị gia trưởng, ñiều hành mọi công việc trong gia ñình, trước hết là việc
lao ñộng kiếm sống của gia ñình. Do ñó, khái niệm “nghĩa” cũng ñược ñề cao như khái niệm
“hiếu”.
Mặt tiêu cực:
Các nhà nho chỉ chăm lo vào học hành thi cử mà không chăm lo phát triển kinh tế, xa rời
thực tế dẫn ñến nền sản xuất kèm phát triển. Chính sách kinh tế của nhà nước là trọng nông,
ức thương. nhiều chính sách xã hội và văn hóa cũng nhằm ngăn cản cải cáchlàm ăn. nho giáo
coi thường những người chạy theo lợi nhuận, làm giàu là “ vi phú bất nhân, vi nhân bất phú”,
coi thương nhân là hạng bét. Trong danh vi, chuộng sự thanh nhàn, coi việc hưởng dụng của

cải do thương nghiệp làm ra là một việc bẩn thỉu. Chính vì thế các giai cấp phong kiến
thường sử dụng biện pháp bế quan toả cảng không buôn bán giao lưu với nước ngoài,làm
kinh tế kèm phát triển
3.3.1.3.

Về Xã hội:

Mặt tích cực:
Khác với sự ảnh hưởng mạnh mẽ của Triết học Nho gia ñến nhà nước phong kiến, ảnh hưởng
của Triết học Nho gia ñối với ñời sống xã hội diễn ra chậm hơn.Trong thời Lý - Trần, ảnh
hưởng ñó còn mờ nhạt.Các thành viên của gia ñình, dòng họ và làng xã còn chịu ảnh hưởng
nặng của những giá trị ñạo ñức truyền thống và một phần của những giá trị ñạo ñức Phật
giáo. Phải ñến thế kỷ XV, khi Triết học Nho gia ñược ñộc tôn, thì nhà nước phong kiến và
các Nho sĩ mới áp ñặt ñược những quy phạm ñạo ñức của Triết học Nho gia xuống các gia

1
5
|
P
ag
e


ñình, dòng họ và làng xã thông qua các ñiều luật, các chỉ dụ, các huấn ñiều và những quy ước
về nghi lễ, như tang lễ, hôn lễ.
Trong ñời sống gia ñình, quan hệ vợ chồng là cái trục chính. Người chồng, hay người cha ở
cương vị gia trưởng, ñiều hành mọi công việc trong gia ñình, trước hết là việc lao ñộng kiếm
sống của gia ñình. Mọi người tỏng gia ñình ñề cao hiếu nghĩa, lễ phép kính trên nhường
dưới “kính lão ñắc thọ” và tu dưỡng ñạo ñức của người con. Trong khi Triết học Nho gia
coi trọng sự phát triển của gia tộc, thì khi du nhập vào Việt Nam, tinh thần cộng ñồng làng xã

ñã ñược phát huy nhiều hơn thông qua việc tiếp thu, thấm nhuần các giáo lý ñạo ñức của
Triết học Nho gia.
Trong tín ngưỡng sùng bái con người, phổ biến nhất là tục thờ cúng tổ tiên, gần như trở thành
một thứ tôn giáo của người Việt Nam (trong Nam bộ gọi là Đạo Ông Bà). Tuy nhiên Triết
học Nho gia coi trọng việc thờ cúng tổ tiên nhưng là ñể tỏ lòng biết ơn tiên tổ chứ không
phải là ñể cầu phúc.Cho nên ñể tổ tiên không có người hương khói là tội lớn nhất. Ngoài
linh hồn tổ tiên của từng gia tộc còn có những thần linh chung mà Triết học Nho gia khuyên
tỏ lòng kính trọng chứ không nên mê muội cúng bái, ñó là các vị như Thổ Công - vị thần
trông coi gia cư, giữ gìn hoạ phúc cho gia ñình, là Thành hoàng - vị thần cai quản che chở
cho cả làng (thường tôn vinh những ngươì có công khai phá lập nghiệp cho dân làng, hoặc
các anh hùng dân tộc ñã sinh hay mất ở làng).
Mặt tiêu cực:
Nho gia mang tính hai mặt ñan xen giữa các yếu tố vô thần duy tâm tôn giáo. Học thuyết của
nho giáo còn mang tính cải lương duy tâm.Trong học thuyết của nho gia, trời có nghĩa là bậc
nhất. Khổng Tử thường nói ñến trời, ñạo trời,mệnh trời. Nho gia gộp trời ñất muôn vật vào
một thể. Quan niệm về thiên mệnh Khổng Tử tin vào vũ trụ quan dịch, ông coi trời có ý chí
làm chủ tể cả vũ trụ.Tin vào thiên mệnh, Khổng Tử coi việc hiểu biết mệnh trởi là một
ñiều kiện ñể trở thành người hoànthiện.ñó chính là một hạn chế của nho gia. ông tin là
có quỷ thần, nhưng quan niệm quỷ thần của ông có tính chất lễ giáo hơn tôn giáo. ông cho
rằng, quỷ thần là do khí thiêng trong trời ñất tạo thành. Như vậy theo ông vẫn tồn tai mâu
thuẫn ñối lập nhau giũa cái thừa nhận có thiên mệnh nhưng ñối với quỷ thần lại xa lánh.
Quan niệm thiên mệnh của Khổng Tử ñược Mạnh tử hệ thốnghoá, xây dựng thành nội dung
triết học duy tâm trong hệ thống tư tưởng triêt học của nho giáo.
Trong ñời sống gia ñình biểu hiện rõ lối sống gia trưởng, tư tưởng trọng nam khinh nữ:
người cha, người chồng, người anh cả là người có quyền lực cao nhất, người phụ nữ trong
gia ñình bị phụ thuộc hoàn toàn vào chồng, không có quyền tham gia vào những việc ñại sự
trong gia ñình. Đặc biệt ñạo “tam tòng” ñã trói buộc người phụ nữ họ không có quyền tự
chủ quyết ñịnh cuộc ñời và tương lai của mình.
3.3.1.4.


Về Văn hóa - Giáo dục:

Mặt tích cực:

1
6
|
P
ag
e


Nho gia ñáp ứng nhu cầu phát triển văn hoá và giáo dục của nước Việt Nam dưới chế ñộ
phong kiến.Nó thoả mãn yêu cầu tuyển dụng nhân viên cho bộ máy quan liêu của nhà nước
phong kiến bằng việc ñào tạo ra hàng loạt những Nho sĩ có bằng cấp. Những Nho sĩ này
không những phục vụ trong bộ máy nhà nước, mà còn tham gia thúc ñẩy các hoạt ñộng tư
tưởng, văn hoá của ñất nước, như sáng tác văn học nghệ thuật, biên soạn quốc sử, phát triển y
học và bàn luận về các vấn ñề chính trị, pháp luật. Trong khi ñó, Phật giáo với cơ chế hoạt
ñộng và tổ chức ñào tạo của nó ñã không ñáp ứng ñược những yêu cầu nói trên của xã hội
phong kiến Việt Nam.
Bên cạnh ñó, văn học thành văn văn cũng ra ñời sớm. Kể ñến thành tích rực rỡ của triết học
Nho gia trong nền văn học thời bấy giờ phải kể ñến Nguyễn Trãi với những tác phẩm văn
học cổ ñiển như Bình Ngô Đại Cáo. Ngoài ra cũng phải kể ñến những bộ sử thư như Đại Việt
sử ký của Lê Văn Hưu ñời Trần, Ngô Sĩ Liên ñời Lê.
Vào các thế kỷ XVII và XVIII, việc học hành và thi cử của Nho học tuy có những nét tiêu
cực, nhưng cũng chính nền giáo dục Nho học lúc bấy giờ ñã sản sinh ra những nhà thơ, nhà
văn, nhà khoa học và y học kiệt xuất, như Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Lê Quý Đôn, Lê
Hữu Trác, Ngô Thì Nhậm, v.v..
Mặt tiêu cực:
Bệnh giáo ñiều và khuôn sáo này ñã ăn sâu vào trong lĩnh vực khoa học và nghệ thuật nhất

là trong văn học và sử học khiến cho sự sáng tạo trong các lĩnh vực này bị dập vào những cái
khuôn sẵn có. Đó là một tật bệnh ñã ñược rèn ñúc ngay từ khi người nho sĩ phải mài dũa văn
chương ñể tiến vào con ñường cử nghiệp.
Sự thịnh trị của Nho giáo còn khuyến khích mọi người nhất là các phần tử tri thức ñi sâu vào
cải tạo “tu tề trị bình” vào việc học hành, thi ñỗ, dương danh thiên hạ. Vì vậy mà trong thực
tế, Nho giáo ñã làm cho những người gia nhập tầng lớp Nho sĩ này xa rời sinh hoạt kinh tế
và lĩnh vực sản xuất xã hội, nó chỉ biết ñề cao ñạo tư thân và ñạo tự nước chứ không hề
ñếm xỉa ñến các tri thức vè khoa học tự nhiên cũng như về các ngành sản xuất và lưu
thông.
3.3.2. Giai ñoạn sau CMT8:
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ñã làm cho Triết học Nho gia ở Việt Nam suy sụp hoàn
toàn cùng với sự sụp ñổ của chế ñộ phong kiến nửa thuộc ñịa. Từ ñây, có thể nói, trên bình
diện là một vũ khí tư tưởng của giai cấp thống trị và trên bình diện là một tôn giáo với những
nghi lễ cung ñình phức tạp, Triết học Nho gia không còn tồn tại nữa. Nhưng, trong xã hội
Việt Nam kể từ sau Cách mạng Tháng Tám, tàn dư và “âm hồn” của Triết học Nho gia vẫn
còn sống một cách dai dẳng trong các quan hệ xã hội. Chính vì thế, trong Đề cương văn hoá
của Đảng Cộng sản Đông Dương do ñồng chí Trường Chinh khởi thảo năm 1943 ñã nhấn
mạnh việc cần phải ñấu tranh về học thuyết tư tưởng nhằm ñánh tan những quan ñiểm sai
lầm của triết học Khổng - Mạnh. Tư tưởng Triết học Nho gia cũng ñược Bác Hồ vận dụng
trong tư tưởng Hồ Chí Minh áp dụng cho ñường lối cách mạng của Đảng và Nhà nước.

1
7
|
P
ag
e


Nho gia ñược Việt Nam hóa, trí thức Nho gia ñã có những ñóng góp ñáng kể vào việc củng

cố những truyền thống tốt ñẹp của dân tộc, nâng nó lên thành những tư tưởng ổn ñịnh thúc
ñẩy sự phát triển của ñất nước, tạo nên một sức mạnh to lớn ñể suốt một ngàn năm giữ vững
ñộc lập và chiến thắng mọi kẻ xâm lược. Bước sang thế kỷ thứ 19, Việt Nam và các nước
phương Đông phải ñối ñầu với sự xâm lược của chủ nghĩa ñế quốc có trình ñộ kỷ thuật, tiềm
năng kinh tế, tổ chức quân ñội và chất lượng vũ khí. Nho gia lúc bấy giờ tỏ ra bất lực cả về tư
tưởng và hành ñộng. NTrên con ñường cách mạng của dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh ñã
sáng suốt không thể không gạt ñi cái cốt lõi lạc hậu của Nho gia và giữ gìn, phát huy những
nhân tố hợp lý của nó nhằm phục vụ cho sự nghiệp cách mạng.
Nhà Nho tôn thờ nhất chính là cái mà cách mạng lên án và ñánh ñổ. Hồ Chí Minh không thể
chấp nhận cái chữ Trung của Nho gia, không thể chấp nhận lòng trung thành tuyệt ñối của
nhân dân bị áp bức ñối với chính kẻ áp bức mình. Chữ Trung ở Nho gia là trung thành tuyệt
ñối với nhà vua và chế ñộ phong kiến, còn ở Hồ Chí Minh, Trung là trung thành với sự
nghiệp cách mạng của nhân dân, lên án chế ñộ phong kiến và lật ñổ nhà vua. Nho gia vốn coi
nhân dân là những người nghèo hèn cần ñược bề trên chăn dắt và sai khiến, Hồ Chí Minh ñòi
hỏi người cán bộ phải là “ñày tớ của dân”, phải học hỏi nhân dân, và yêu quý nhân dân. Với
tinh thần ấy, cách mạng ñã xây dựng ñược khối ñại ñoàn kết toàn dân, biến nhân dân thành
sức mạnh vô ñịch ñể giành ñộc lập và xây dựng tổ quốc.
Nho giáo ñã nuôi dưỡng hàng ngàn năm tinh thần “trọng nam khinh nữ”, từ chổ khinh rẽ phụ
nữ ñến chổ áp bức họ, trói buộc họ trong bếp núc gia ñình. Cách mạng Việt Nam ñã sớm xóa
bỏ những tử tưởng lạc hậu ấy ñể cho phụ nữ cùng bình ñẳng với nam giới trên mọi lĩnh vực
chiến ñấu, sản xuất và quản lý ñất ñai.
Nho giáo luôn quay về với quá khứ, ñời này không bằng ñời xưa, người ít tuổi không bằng
người nhiều tuổi. Cách mạng luôn nhìn về phía trước, ñặt niền tin vào thanh niên và tiền ñồ
dân tộc.
Đảo ngược lại học thuyết của Nho giáo, nhằm mục tiêu trái hẳn với mục tiêu của Nho gia,
Hồ Chí Minh không xóa bỏ toàn bộ nội dung của Nho gia mà giữ lại những nhân tố hợp lý
vốn phục vụ cho chế ñộ cũ thành những công cụ chống lại chế ñộ cũ và xây dựng chế ñộ
mới. Với tinh thần nói trên mà trong quá trình lãnh ñạo Cách mạng tháng tám, Hồ Chí Minh
ñã sử dụng rất nhiều câu chữ của Nho gia, nhiều kinh nghiệm giáo dục và tu dưỡng của Nho
gia, nhiều biện pháp ñộng viên tinh thần và ý chí của Nho gia ñể cổ vũ nhân dân ñứng lên

chiến ñấu giành lại ñộc lập tự do với một khí phách kiên cường, tinh thần mưu trí và sáng
tạo.
Nghiên cứu về Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh ñối với Triết học Nho gia ta thấy ba cái mốc
thời gian ñáng chú ý:
Một là ở tuổi 30, không lâu sau bước ngoặt lịch sử tư tưởng của Người, khi người thanh niên
sôi sục bầu nhiệt huyết yêu nước thương nòi vừa tiếp thu ñược ánh sáng tư tưởng Lênin và
trở thành người cộng sản Việt Nam ñầu tiên, trong bài L’Indochine ñăng trên tạp chí La

1
8
|
P
ag
e


Revue Communiste, Nguyễn Ái Quốc ñã nhắc ñến tư tưởng của Khổng Khâu về “thế giới ñại
ñồng” và gọi nhà tư tưởng ấy là “ông Khổng Tử vĩ ñại” (Le grand Confucius).
Hai là trong thập kỷ 40, khi ñược hỏi về chính kiến của mình, Nguyễn Ái Quốc ñã làm một
sự so sánh vắn tắt: “Học thuyết của Khổng Tử có ưu ñiểm của nó là sự tu dưỡng ñạo ñức cá
nhân. Tôn giáo Jésus có ưu ñiểm của nó là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Marx có ưu ñiểm
của nó là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu ñiểm của nó là
chính sách của nó thích hợp với ñiều kiện nước ta” và kết luận: “Khổng Tử, Jésus, Marx, Tôn
Dật Tiên chẳng có những ñiểm chung ñó sao? Họ ñều muốn mưu hạnh phúc cho loài người,
mưu phúc lợi cho xã hội. Nếu hôm nay họ còn sống trên ñời này, nếu họ họp lại một chỗ, tôi
tin rằng họ nhất ñịnh chung sống với nhau rất hoàn mỹ như những người bạn thân thiết. Tôi
cố gắng làm người học trò nhỏ của các vị ấy”.
Ba là ngày 19-5-1965, trên cương vị Chủ tịch Đảng và Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh trong
cuộc thăm chính thức nước CHND Trung Hoa (bấy giờ ñang rục rịch “phê Lâm phê Khổng”
và “ñại cách mạng văn hóa” ñã yêu cầu bố trí cho Người ñi thăm Khổng Miếu và ñã ñể lại

một bài thơ tứ tuyệt rất hay, bài Phỏng Khúc Phụ.
Những ñiều nói trên ñều thể hiện một thái ñộ nhất quán của Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh
ñối với Khổng Tử và Triết học Nho gia, thái ñộ ấy ñã ñược Người nêu rõ trong bài nói tại
Hội nghị huấn luyện toàn quốc lần thứ nhất 1950: “Tuy Khổng Tử là phong kiến và tuy trong
học thuyết của Khổng Tử có nhiều ñiều không ñúng song những ñiều hay trong ñó thì chúng
ta nên học”. Trong các trước tác suốt 60 năm hoạt ñộng cách mạng phong phú và sôi nổi của
mình, Hồ Chí Minh ñã hàng trăm lần vận dụng các mệnh ñề tư tưởng Nho gia và ñặc biệt
trong lời kết thúc buổi ra mắt của Đảng Lao Động Việt Nam năm 1951, Người ñã dùng ba
mệnh ñề bất hủ của Triết học Nho gia nói về tiêu chuẩn của người quân tử là “Giàu sang
không thể quyến rũ, Nghèo khó không thể chuyển lay, Uy lực không thể khuất phục” ñể khái
quát phẩm chất của người cộng sản Việt Nam (Chính Người là kết tinh ñẹp ñẽ nhất, trong
sáng nhất của phẩm chất ấy).
3.3.3. Việc vận dụng, tiếp thu tư tưởng Triết học Nho gia có thể kể ñến như sau:
Bàn về vai trò của Đạo Đức, Hồ Chi Minh nhấn mạnh sự tu dưỡng ñạo ñức của người quân
tử xưa và của người cán bộ cách mạng ngày nay. Tiếp thu ở Khổng Tử: “Bậc quân tử như
người thợ làm ñồ ngà, cần phải cắt, phải cứa; như người thợ chuốt ngọc, cần phải dùi, phải
mài” (Luận ngữ). Hồ Chí Minh viết: “Đạo ñức cách mạng không phải trên trời sa xuống...
Cũng như ngọc càng mài, càng sáng, vàng càng luyện, càng trong”. Khổng Tử và Hồ Chí
Minh ñều có nếp sống mẫu mực. Khổng Tử nói: “Nếu tự mình giữ theo chính ñạo, thì chẳng
ñợi ra lệnh dân cũng ăn ở theo chính pháp. Còn nếu như tự mình chẳng giữ theo chính ñạo thì
dẫu ra lệnh buộc dân theo, dân cũng không theo” (Luận ngữ). Hồ Chí Minh viết: “Tự mình
phải chính trước mới giúp người khác chính. Mình không chính mà muốn người khác chính
là vô lý”. “Mình trước hết phải siêng năng trong sạch mới bảo người ta trong sạch siêng năng
ñược”… Với tư tưởng “Nhân là thật thà thương yêu, hết lòng giúp ñỡ ñồng chí, ñồng bào. Vì

1
9
|
P
ag

e


thế mà kiên quyết chống lại những người, những việc có hại ñến Đảng, ñến nhân dân. Vì thế
mà sẵn lòng chịu cực khổ trước mọi người, hưởng hạnh phúc sau thiên hạ. Vì thế mà không
ham giàu sang, không e cực khổ, không sợ oai quyền”, Hồ Chí Minh ñịnh hướng ñường lối
lãnh ñạo ñúng ñắn của Đảng và sự trung thành ñối với ñất nước của nhân dân.
Trong văn hóa, Người tiếp tục ñề cao lối sống cộng ñồng, “ñời sống mới của một người, một
nhà, một làng và khắp cả nước”, “lá lành ñùm lá rách”, “ñói cho sạch rách cho thơm”.. Trong
ñời sống xã hội, Hồ Chí Minh ñề cao thuần phong mỹ tục, không có cờ bạc, hút xách, bợm
bài, trộm cắp. Mặt khác, Người cũng phê phán, bài trừ ñồi phong, bại tục. Người ñã nói ñến
việc “khôi phục vốn cũ” với một tinh thần trân trọng các giá trị của người xưa ñể lại như:
tương thân tương ái, tận trung với nước, tận hiếu với dân…Song, Người yêu cầu xóa bỏ cái
xấu (tính lười biếng, tham lam…), sửa ñổi các phiền phức (cúng bái, cưới hỏi quá xa xỉ…).
Hơn ai hết, Hồ Chí Minh hiểu rõ những mặt bất cập, hạn chế của Triết học Nho gia. Đó là trong Triết
học Nho gia có những yếu tố duy tâm, lạc hậu, phản ñộng như tư tưởng ñẳng cấp, khinh lao ñộng chân
tay, khinh phụ nữ, khinh thường thực nghiệm, bệnh danh lợi ñịa vị. Tuy nhiên, Hồ Chí Minh cũng
thấy ñược những mặt tích cực của nó và khuyên chúng ta “nên học”. Theo Người, mặt tích cực của
Triết học Nho gia là nó ñề cao văn hóa, lễ giáo, tạo ra truyền thống hiếu học với châm ngôn “Học
không biết chán, dạy không biết mỏi”. Về ñiểm này, Triết học Nho gia hơn hẳn các học thuyết cổ ñại,
bởi vì nhiều học thuyết cổ ñại chủ trương ngu dân ñể dễ cai trị.

2
0
|
P
ag
e



Kết luận
Qua nội dung trình bày, nhóm ñã giới thiệu cũng như phân tích ảnh hưởng của tư tưởng Nho
gia ñến ñời sống Việt Nam. Có thể tóm gọn, tư tưởng Nho gia ñã ñể lại cho ñời những tư
tưởng triết học về luân lý, ñạo ñức chính trị – xã hội rất sâu sắc và vô cùng quý giá. Nhất là
trong giai ñoạn hiện nay nước ta ñang chuyển sang nền kinh tế thị trường.
Việc vận dụng cũng như những chỉnh sửa qua các giai ñoạn khác nhau, ñặc biệt là của
Nguyễn Ái Quốc không chỉ làm phong phú thêm mà còn thể hiện sự hoàn thiện những triết lý
của tư tưởng này.
Khi thực hiện ñề tài này, nhóm thực sự mong muốn có thể ñóng góp 1 phần vào sự lý luận
ñối với tư tưởng này, ñể có thể hoàn thiện cũng như ap dụng những tư tưởng này vào cuộc
sống, xây dựng ñất nước, làm giàu ñất nước.
+++ Hết +++

2
1
|
P
ag
e



×