Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

LUẬT HÀNH CHÍNH VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.62 KB, 31 trang )

LUẬT HÀNH CHÍNH VIỆT NAM
5.1. Khái quát chung về luật hành chính
5.1.1 Khái niệm Luật hành chính
Để thực hiện vai trò quản lý của mình đối với xã hội, Nhà nước có thể sử
dụng nhiều biện pháp, công cụ khác nhau, nhưng công cụ có hiệu lực và đặc trưng
nhất là pháp luật. Nhà nước quản lý xã hội (còn gọi là quản lý Nhà nước) là sự tác
động của các chủ thể mang quyền lực nhà nước, chủ yếu bằng pháp luật tới các đối
tượng quản lý nhằm thực hiện các chức năng của nhà nước. Hoạt động quản lý nhà
nước được thực hiện trên cả ba lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp. Quản lý nhà
nước trong lĩnh vực hành pháp là quản lý hành chính nhà nước.
Quản lý hành chính nhà nước là một hình thức hoạt động của nhà nước có nội
dung là bảo đảm sự chấp hành pháp luật, pháp lệnh, nghị quyết của các cơ quan quyền
lực nhà nước, nhằm tổ chức và chỉ đạo một cách trực tiếp và thường xuyên công cuộc
xây dựng kinh tế, văn hoá – xã hội và hành chính – chính trị. Nói cách khác, quản lý
hành chính nhà
nước là hoạt động chấp hành - điều hành nhà nước.
Tính chất chấp hành thể hiện ở mục đích của quản lý hành chính nhà nước là
nhằm đảm bảo thực hiện thực tế các văn bản pháp luật của các cơ quan quyền lực
nhà nước.
Tính chất điều hành thể hiện ở chỗ để đảm bảo cho các văn bản pháp luật của
các cơ quan quyền lực nhà nước được thực hiện thực tế, các chủ thể của quản lý
hành chính nhà nước phải tiến hành hoạt động tổ chức và chỉ đạo trực tiếp đối với
các đối tượng quản lý thuộc quyền. Trong quá trình điều hành cơ quan quản lý hành
chính nhà nước có quyền nhân danh nhà nước ban hành các văn bản pháp luật để
đặt ra các quy phạm pháp luật hay các mệnh lệnh cụ thể bắt buộc các đối tượng
quản lý có liên quan phải thực hiện.
Ngành luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động quản lý
hành chính nhà nước là Luật hành chính.
Luật hành chính là ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật Việt Nam bao
gồm các quy phạm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức
và thực hiện hoạt động chấp hành - điều hành của các cơ quan nhà nước.


5.1.2. Đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh.
5.1.2.1. Đối tượng điều chỉnh
Luật hành chính điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong hoạt động quản lý
hành chính nhà nước, những quan hệ này được gọi là những quan hệ chấp hành -
điều hành hay những quan hệ quản lý hành chính nhà nước. Các quan hệ xã hội
thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật hành chính có thể được chia thành ba nhóm:
- Một là: Những quan hệ xã hội mang tính chất chấp hành và điều hành phát
sinh trong hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước trên các lĩnh vực khác nhau
của đời sống xã hội. Đây là nhóm lớn nhất, cơ bản nhất, chủ yếu là những quan hệ:
+ Giữa cơ quan hành chính nhà nước cấp trên đối với cơ quan hành chính
nhà nước cấp dưới theo hệ thống dọc hoặc với cơ quan chuyên môn.
+ Giữa cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chung với cơ quan nhà
nước có thẩm quyền chuyên môn cùng cấp hoặc với cơ quan chuyên môn trực
thuộc nó.
+ Giữa cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chuyên môn ở trung
ương với cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chung ở địa phương.
+ Giữa những cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chuyên môn ở
trung ương. Giữa những cơ quan này không có sự lệ thuộc về mặt tổ chức song cơ
quan này có một số quyền hạn đối với cơ quan kia trong lĩnh vực quản lý chức
năng nhất định.
+ Giữa cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương với các đơn vị trực thuộc
trung ương đóng tại địa phương đó.
+ Giữa cơ quan hành chính nhà nước với các đơn vị kinh tế thuộc các thành
phần kinh tế ngoài quốc doanh.
+ Giữa cơ quan hành chính nhà nước với các đơn vị trực thuộc.
+ Giữa cơ quan hành chính nhà nước với các tổ chức xã hội.
+ Giữa cơ quan hành chính nhà nước với công dân, người nước ngoài, người
không quốc tịch.
- Hai là: Những quan hệ quản lý phát sinh trong hoạt động xây dựng, tổ chức
và củng cố công tác nội bộ của các cơ quan nhà nước nhằm ổn định về tổ chức để

hoàn thành chức năng, nhiệm vụ của mình. Việc tiến hành những hoạt động quản lý
này được trao cho những người lãnh đạo và một bộ phận cán bộ, công chức trong
cơ quan. Hoạt động này được gọi là hoạt động tổ chức nội bộ, khác với hoạt động
hướng ra bên ngoài. Đó là những hoạt động như kiểm tra nội bộ, nâng cao trình độ
nghiệp vụ của cán bộ, phối hợp hoạt động giữa các bộ phận của cơ quan, công việc
văn phòng đảm bảo những điều kiện vật chất cần thiết...
- Ba là: Những quan hệ quản lý phát sinh trong quá trình các cá nhân và tổ
chức được nhà nước trao quyền thực hiện hoạt động quản lý hành chính nhà nước
trong một số trường hợp cụ thể do pháp luật quy định.
Trong thực tiễn quản lý hành chính nhà nước, trong một số trường hợp cụ
thể, vì những lý do như chính trị, tổ chức, đảm bảo hiệu quả, v.v, pháp luật có thể
trao quyền thực hiện hoạt động chấp hành - điều hành cho các cơ quan nhà nước
khác ( không phải là cơ quan hành chính nhà nước ), các tổ chức, cá nhân. Hoạt
động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân được trao quyền có tất cả những hậu quả
pháp lý như hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước nhưng chỉ trong khi thực
hiện hoạt động chấp hành - điều hành cụ thể được pháp luật trao quyền.
5.1.2.1. Phương pháp điều chỉnh.
Phương pháp điều chỉnh của Luật hành chính là phương pháp mệnh lệnh
được hình thành từ quan hệ quyền lực - phục tùng giữa một bên có quyền nhân
danh nhà nước ra những mệnh lệnh bắt buộc đối với bên kia là những cơ quan, tổ
chức, cá nhân có nghĩa vụ thực hiện các mệnh lệnh đó. Mối quan hệ quyền lực -
phục tùng thể hiện sự không bình đẳng giữa các bên tham gia quan hệ quản lý hành
chính nhà nước thể hiện qua những điểm sau:
Chủ thể quản lý có quyền nhân danh nhà nước để áp đặt ý chí của mình lên
đối tượng quản lý.
+ Hoặc một bên có quyền ra các mệnh lệnh cụ thể hay đặt ra các quy định
bắt buộc đối với bên kia và kiểm tra việc thực hiện chúng. Phía bên kia có nghĩa vụ
thực hiện các quy định, mệnh lệnh đó ( chẳng hạn mối quan hệ giữa cấp trên - cấp
dưới, thủ trưởng – nhân viên ).
+ Hoặc một bên có quyền đưa ra các yêu cầu, kiến nghị. Phía bên kia có

quyền xem xét, giải quyết và có thể đáp ứng hay bác bỏ yêu cầu, kiến nghị đó
( chẳng hạn trong quan hệ giữa công dân với cơ quan nhà nước có thẩm quyền ).
+ Hoặc cả hai bên đền có những quyền hạn nhất định nhưng bên này quyết
định điều gì phải được bên kia cho phép hay phê chuẩn hoặc cùng phối hợp quyết
định ( chẳng hạn quan hệ giữa Bộ tài chính và các bộ khác về việc quyết định các
khoản chỉ thuộc ngân sách nhà nước, các Bộ khác quyết định các khoản chỉ thuộc
ngân sách nhà nước phải được Bộ Tài chính cho phép hoặc phê chuẩn ).
Một bên có thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhằm buộc đối tượng quản
lý phải thực hiện mệnh lệnh của mình.
Các trường hợp này được pháp luật quy định rõ ràng và cụ thể cả về nội
dung và giới hạn mà không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của các bên tham gia
quan hệ đó. Sự bất bình đẳng giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước bắt nguồn từ
quan hệ tổ chức trong bộ máy nhà nước. Sự bất bình đẳng giữa các cơ quan hành
chính nhà nước với các tổ chức, cá nhân khác bắt nguồn từ quan hệ quyền lực -
phục tùng.
Các quyết định hành chính luôn thể hiện tính chất đơn phương và bắt buộc.
Những quyết định của các cơ quan nhà hành chính và các chủ thể quản lý
hành chính khác có tính chất đơn phương vì chúng thể hiện ý chí của chủ thể quản
lý, nhân danh nhà nước, trên cơ sở quyền lực đã được pháp luật quy định.
Những quyết định này đều mang tính chất bắt buộc đối với các đối tượng
quản lý và được bảo đảm thi hành bằng các biện pháp cưỡng chế nhà nước. Tuy
nhiên các quyết định hành chính đơn phương không phải bao giờ cũng được thực
hiện trên cơ sở cưỡng chế nhà nước mà được thực hiện chủ yếu thông qua phương
pháp thuyết phục.
Như vậy, chính mối quan hệ thể hiện sự không bình đẳng giữa các bên tham
gia quan hệ pháp luật hành chính đã quyết định phương pháp điều chỉnh đặc trưng
của pháp luật hành chính tất yếu là phương pháp mệnh lệnh đơn phương. Phương
pháp này được xây dựng trên 3 nguyên tắc:
- Xác nhận sự không bình đẳng giữa các bên tham gia quan hệ quản lý hành
chính nhà nước: một bên được nhân danh nhà nước, sử dụng quyền lực nhà nước để

đưa ra các quyết định hành chính, còn bên kia phải phục tùng những quyết định ấy.
Ví dụ, cấp trên có quyền đưa ra những mệnh lệnh cụ thể hay những quy định bắt
buộc đối với cấp dưới. Chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có quyền ra quyết định
đưa người có hành vi xâm phạm sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của công dân có
tính chất thường xuyên nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự vào cơ
sở giáo dục.
- Bên nhân danh nhà nước, sử dụng quyền lực nhà nước có quyền đơn
phương ra quyết định trong phạm vi thẩm quyền của mình vì lợi ích của xã hội, của
nhà nước.
- Quyết định đơn phương của bên có quyền sử dụng quyền lực nhà nước có
hiệu lực bắt buộc thi hành đối với các bên hữu quan và được đảm bảo thi hành bằng
cưỡng chế nhà nước.
5.1.3 Quan hệ pháp luật Hành chính
5.1.3.1. Khái niệm và đặc điểm của Quan hệ pháp luật hành chính
Quan hệ pháp luật hành chính là những quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh
vực chấp hành và điều hành của nhà nước, được điều chỉnh bởi các quy phạm pháp
luật hành chính giữa những chủ thể mang quyền và nghĩa vụ đối với nhau theo quy
định của pháp luật hành chính.
Quan hệ pháp luật hành chính là một dạng cụ thể của quan hệ pháp luật nên
bên cạnh những đặc điểm của quan hệ pháp luật chúng còn có những đặc trưng
riêng. Căn cứ vào những đặc trưng này, ta có thể dễ dàng phân biệt pháp luật hành
chính với các loại quan hệ pháp luật khác. Những đặc trưng đó là:
- Quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ pháp luật hành chính luôn
gắn với hoạt động chất hành và điều hành của các cơ quan quản lý nhà nước, một
mặt chúng thể hiện lợi ích của các bên tham gia quan hệ, mặt khác chúng thể hiện
các yêu cầu và mục đích của việc thực hiện hoạt động chấp hành - điều hành của
nhà nước. Nói cách khác, quan hệ pháp luật hành chính chỉ phát sinh trong quá
trình quản lý hành chính nhà nước trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.
Việc thực hiện tốt các quyền và nghĩa vụ này sẽ góp phần tích cực vào việc thực
hiện quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong một số quan hệ pháp luật tài chính –

ngân hàng, quan hệ pháp luật lao động.
- Quan hệ pháp luật hành chính có thể phát sinh do yêu cầu hợp pháp của bất
kỳ bên nào, sự thoả thuận của bên kia không phải là điều kiện bắt buộc phải có cho
sự hình thành quan hệ. Khi thấy cần thiết phải thiết lập với một chủ thể khác có liên
quan để thực hiện quyền và nghĩa vụ trong lĩnh vực chấp hành - điều hành, bất kỳ
bên nào đều có quyền đề nghị bên kia tham gia vào quan hệ pháp luật hành chính
cụ thể. Quan hệ pháp luật hành chính giữa bên yêu cầu và bên được yêu cầu sẽ phát
sinh trên cơ sở pháp luật mà không cần có sự đồng ý của bên được yêu cầu.
- Một bên trong quan hệ pháp luật hành chính phải là chủ thể được sử dụng
quyền lực nhà nước. Chủ thể này là chủ thể bắt buộc, đó chính là cơ quan, tổ chức,
cá nhân được nhân danh và sử dụng quyền lực nhà nước có quyền áp đặt ý chí của
mình lên đối tượng bị quản lý ( hay là chủ thể bên kia của quan hệ ). Thiếu sự tham
gia của chủ thể bắt buộc thì không hình thành quan hệ pháp luật hành chính. Do
vậy, giữa hai công dân, hai tổ chức xã hội hoặc giữa hội công dân với một tổ chức
xã hội không thể hình thành quan hệ pháp luật hành chính ( trừ trường hợp cá nhân
hay tổ chức được trao quyền thực hiện hoạt động chấp hành - điều hành )
- Phần lớn các tranh chấp phát sinh trong quan hệ pháp luật hành chính được
giải quyết theo một trình tự hành chính và thuộc thẩm quyền của các cơ quan hành
chính nhà nước hoặc toà án hành chính. Ngay cả trong những trường hợp cơ quan
nhà nước, tổ chức hoặc cá nhân có quyền khởi kiện để yêu cầu Toà án bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của mình thì trước khi khởi kiện họ phải khiếu nại với cơ quan
nhà nước, người đã ra quyết định hành chính mà họ cho là trái pháp luật.
- Bên vi phạm trong quan hệ pháp luật hành chính phải chịu trách nhiệm
pháp lý trước nhà nước. Đối với cơ quan, tổ chức và cá nhân được giao quyền quản
lý hành chính khi tham gia vào quan hệ pháp luật hành chính phải chịu trách nhiệm
trước nhà nước về việc sử dụng quyền lực đó. Đối với chủ thể bị quản lý khi thực
hiện các quyền và nghĩa vụ của mình trước bên đại diện cho nhà nước, do đó phải
chịu trách nhiệm trước nhà nước về tính hợp pháp của hành vi do mình thực hiện.
Nếu bên nào vi phạm, xâm hại đến trật tự quản lý hành chính nhà nước thì phải
chịu trách nhiệm pháp lý trước nhà nước về hành vi vi phạm của mình.

5.1.3.2. Phân loại Quan hệ pháp luật hành chính
Các quan hệ hành chính có thể được phân loại dựa trên những căn cứ nhất
định, điển hình là các cách phân loại sau đây:
- Căn cứ vào tính chất của mối liên hệ giữa các chủ thể, các quan hệ hành
chính được phân thành những quan hệ dọc và những quan hệ ngang
- Quan hệ hành chính dọc hình thành giữa các bên có sự lệ thuộc về mặt tổ
chức ( giữa một cơ quan cấp trên và một cơ quan cấp dưới, giữa cơ quan hành
chính nhà nước và đơn vị cơ sở trực thuộc, giữa thủ trưởng và cán bộ nhân viên
thuộc quyền ).
- Những quan hệ hành chính ngang hình thành giữa các bên không có sự lệ
thuộc về mặt tổ chức ( giữa cơ quan hành chính nhà nước với công dân; giữa cơ
quan hành chính nhà nước ở địa phương với đơn vị cơ sở trực thuộc trung ương
đóng tại địa phương; giữa hai cơ quan có thêm quyền chuyên môn cùng cấp ).
- Căn cứ vào tính chất của quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ pháp
luật hành chính, chúng được phân thành những quan hệ nội dung và những quan hệ
thủ tục
Những quan hệ nội dung là những quan hệ pháp luật hành chính được thiết
lập để thực hiện quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong những quan hệ đó.
Những quan hệ thủ tục là những quan hệ pháp luật hành chính hình thành
trong quá trình các chủ thể tiến hành những thủ tục do pháp luật quy định, giúp cho
việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của họ trong các quan hệ nội dung được nhanh
chóng và đúng đắn. Hay nói cách khác, những quan hệ thủ tục là hình thức thực
hiện những quan hệ nội dung, chúng đảm bảo thiết lập những quan hệ nội dung
theo đúng những yêu cầu mà pháp luật đề ra.
5.2. Cơ quan hành chính nhà nước.
5.2.1. Khái niệm và đặc điểm của cơ quan hành chính nhà nước
Cơ quan hành chính nhà nước là một cơ quan trong bộ máy nhà nước hoạt
động thường xuyên, liên tục, có vị trí tương đối ổn định; là cầu nối trực tiếp đưa
đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước vào cuộc sống, được thành
lập để thực hiện chức năng quản lý nhà nước ( hoạt động chấp hành và hành chính -

hoạt động hành pháp ).
Cơ quan hành chính nhà nước có hệ thống thống nhất từ trung ương đến địa
phương, đứng đầu hệ thống đó là Chính phủ - cơ quan chấp hành của quốc hội và là
cơ quan hành chính cao nhất nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Cơ quan hành chính nhà nước là một cơ quan nhà nước, một bộ phận cấu
thành bộ máy nhà nước của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, do vậy bên
cạnh những đặc điểm chung của các cơ quan nhà nước, cơ quan hành chính nhà
nước có những đặc điểm riêng sau:
- Chức năng của cơ quan hành chính nhà nước là quản lý hành chính nhà
nước, thực hiện hoạt động chấp hành - điều hành trên mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội. Cơ quan hành chính nhà nước là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực nhà
nước. Hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước phải chịu sự giám sát của cơ
quan quyền lực nhà nước và phải chấp hành pháp luật, nghị quyết của các cơ quan
quyền lực nhà nước. Các cơ quan hành chính ở địa phương phải chấp hành các nghị
quyết của cơ quan quyền lực cùng cấp đồng thời phải chấp hành các văn bản của cơ
quan hành chính nhà nước cấp trên.
- Mỗi cơ quan hành chính nhà nước có một phạm vi thẩm quyền nhất định
được giới hạn trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước do pháp luật quy định và
trong phạm vi và thẩm quyền của mình cơ quan độc lập hành động. Chẳng hạn, có
cơ quan hành chính quản lý nhà nước về lĩnh vực giáo dục, có cơ quan chuyên về
lĩnh vực văn hoá, có cơ quan chuyên về lĩnh vực du lịch...
- Hệ thống tổ chức các cơ quan hành chính nhà nước hình thành từ những
mối quan hệ qua lại chặt chẽ. Giữa các cơ quan, các bộ phận tạo thành có quan hệ
trực thuộc với nhau. Đó có thể là quan hệ trực thuộc dọc, quan hệ trực thuộc ngang
hoặc quan hệ trực thuộc hai chiều.
5.2.2 Phân loại cơ quan hành chính Nhà nước.
* Theo cơ sở pháp lý của việc thành lập: cơ quan hành chính nhà nước được
phân thành hai loại:
- Loại thứ nhất là các cơ quan hành chính hiến định, tức là việc thành lập hay
bãi bỏ nó cho Hiến pháp quy định. Bao gồm: Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang

Bộ, Uỷ ban nhân dân các cấp.
- Loại thứ hai là các cơ quan thuộc chính phủ có chức năng quản lý nhà nước
về ngành hay lĩnh vực công tác trong phạm vi cả nước. Việc thành lập hay bãi bỏ
các cơ quan này do luật hoặc văn bản dưới luật định. Bao gồm: các Tổng cục, cục,
vụ, sở, ban thuộc các cơ quan hiến định nói trên, các đơn vị hành chính sự nghiệp,
cơ sở trong các lĩnh vực văn hoá, y tế, giáo dục, quốc phòng...
* Căn cứ theo phạm vi lãnh thổ hoạt động: cơ quan hành chính có thể phân
chia thành:
- Các cơ quan hành chính nhà nước ở trung ương gồm Chính phủ, các bộ,
các cơ quan ngang bộ, các cơ quan thuộc chính phủ có chức năng quản lý Nhà
nước về ngành hay lĩnh vực công tác. Những cơ quan này hoạt động trên phạm vi
toàn quốc.
Các văn bản do các cơ quan này ban hành về nguyên tắc có hiệu lực trên
phạm vi cả nước.
- Các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương là uỷ ban nhân dân các cấp.
Đây là những cơ quan hành chính nhà nước được thành lập và hoạt động trong
phạm vi lãnh thổ nhất định. Các văn bản do các cơ quan này ban hành chỉ có hiệu
lực pháp lý trong phạm vi lãnh thổ hoạt động của cơ quan đó, đối với các cơ quan,
tổ chức và công dân tại địa phương đó. Trong một số trường hợp các văn bản do
các cơ quan hành chính ở địa phương ban hành có hiệu lực đối với các cơ quan,
đơn vị của trung ương đóng tại địa phương.
* Căn cứ theo phạm vi thẩm quyền: cơ quan hành chính nhà nước được
phân thành:
- Cơ quan hành chính có thẩm quyền chung bao gồm Chính phủ, Uỷ ban
nhân dân các cấp. Các cơ quan này có thẩm quyền giải quyết mọi vấn đề trong các
lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, trên toàn quốc hoặc trên từng địa phương.
- Các cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền riêng, còn gọi là thẩm
quyền chuyên môn bao gồm các Bộ, các cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính
phủ có chức năng quản lý nhà nước về ngành hay lĩnh vực công tác trong phạm vi
cả nước.

* Căn cứ theo nguyên tắc tổ chức và giải quyết công việc, cơ quan hành chính nhà
nước được phân thành hai loại:
- Các cơ quan hành chính theo chế độ tập thể lãnh đạo là các cơ quan hành
chính nhà nước có thẩm quyền chung. Các cơ quan này thường giải quyết các công
việc và quyết định các vấn đề liên quan đến nhiều lĩnh vực nên cần có sự đóng góp
trí tuệ tập thể.
- Các cơ quan hành chính nhà nước tổ chức và hoạt động theo chế độ thủ
trưởng một người. Đó là các cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chuyên
môn. Đứng đầu mỗi cơ quan đó là thủ trưởng cơ quan như Bộ trưởng, thủ trưởng
cơ quan ngang bộ…Họ là người đại diện cho cơ quan, thay mặt cơ quan ra những
quyết định nhằm thực hiện công việc nhiệm vụ mà pháp luật quy định và chịu trách
nhiêm trước pháp luật.
5.3. Vi phạm hành chính và xử lý vi phạm hành chính
5.3.1. Vi phạm hành chính
5.3.1.1. Khái niệm vi phạm hành chính
Vi phạm hành chính là loại vi phạm pháp luật trong lĩnh vực quản lý hành
chính nhà nước tuy không nghiêm trọng như tội phạm hình sự song chúng có diễn
biến phức tạp và xảy ra trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, gây tác hại đến trật
tự quản lý hành chính, ảnh hưởng xấu đến quá trình xây dựng xã hội công bằng văn
minh. Để xác định rõ tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của loại vi phạm
này đặc biệt là việc xác định ranh giới giữa vi phạm hành chính và tội phạm, tạo cơ
sở cần thiết để quy định, xử lý cũng như đấu tranh phòng và chống một cách có
hiệu quả đối với những vi phạm hành chính cần thiết phải đưa ra một khái niệm về
vi phạm hành chính.
Khái niệm vi phạm hành chính lần đàu tiên được nêu ra trong Pháp lệnh xử
lý vi phạm hành chính 1989. Điều 1 pháp lệnh này quy định: “ Vi phạm hành chính
là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm các
quy tắc quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm hình sự và theo quy định của
pháp luật phải bị xử phạt hành chính”.
Trong Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 không đưa ra một khái

niệm thế nào là phạm vi hành chính mà chỉ định nghĩa vi phạm hành chính một
cách gián tiếp. Tại khoản 2, Điều 1 pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002
quy định “Xử phạt vi phạm hành chính được áp dụng đối với cá nhân, cơ quan, tổ
chức có hành vi cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy định của pháp luật phải bị xử phạt
hành chính”. Như vậy, tuy có những sự khác biệt về cách diễn đạt song định nghĩa
vi phạm hành chính trong các văn bản trên đều có sự thống nhất về bản chất, nội

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×